Khóa luận tốt nghiệp Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính
lượt xem 20
download
Khóa luận nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính như thẩm quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như các phương thức đảm bảo thực thi những vai trò này của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính. Đồng thời phân tích, làm rõ những thực trạng, những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH Người thực hiện: Nguyễn Hà Trang Khóa: QH2015-L Lớp: K60CLC Giảng viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Anh Đức Bộ môn: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Hà Nội, ngày tháng năm 2019
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................. 6 2. Tình hình nghiên cứu ...................................................................... 6 3. Mục đích của Khóa luận ................................................................. 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận .......................... 7 4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................ 7 4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7 5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu.................................. 7 5.1. Về cơ sở khoa học: .................................................................... 7 5.2. Về phương pháp nghiên cứu: .................................................... 7 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Khóa luận.................................... 8 7. Kết cấu của Khóa luận .................................................................... 8 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............................................................................................................................... 9 1.1. Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân ................ 9 1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ................................. 10 1.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 ................................. 13 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ................................. 14 1.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001 ................................. 15 1.1.5. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013 ................................. 17 1.1.6. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay............................................ 18 2
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang 1.2. Vị trí và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân ....................... 19 1.3. Nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính ............................................................................................... 25 1.4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân . 28 1.4.1. Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành. ..... 28 1.4.2. Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương 30 CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM.......................... 33 2.1. Những thay đổi trong quan điểm về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong pháp luật tố tụng hành chính .................................................. 33 2.2. Những điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát trong luật tố tụng hành chính 2015 .............................................................................................. 41 2.2.1. Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính ............................................................................. 41 2.2.2. Phát biểu của Kiểm sát viên tại các phiên tòa, phiên họp trong tố tụng hành chính ............................................................................. 44 2.2.3. Kiểm sát hoạt động thu thập chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hành chính ....................................................................................... 46 2.2.4. Kiểm sát thi hành án hành chính .......................................... 48 2.3. Điểm mới về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 ................................................................. 50 CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN.................................................................................... 53 3.1. Kiến nghị chung về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính 54 3
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang 3.2. Kiến nghị về trách nhiệm của Kiểm sát viên trong tố tụng hành chính 55 3.3. Kiến nghị về cải cách hành chính trong tổ chức và hoạt động của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân .................................................................... 56 KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 4
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và rèn luyện tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội và hơn hai tháng làm khóa luận tốt nghiệp nghiên cứu về đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính”, em đã nhận được sự nhiệt tình giúp đỡ của các thầy, cô giảng viên, cán bộ ban, phòng chức năng của Khoa Luật. Bằng lòng biết ơn chân thành nhất, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả các thầy, cô trong Khoa, cũng như các thầy cô của Bộ môn Luật Hiến pháp và Luật Hành chính đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập và hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp. Đặc biệt, em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo – ThS. Nguyễn Anh Đức đã quan tâm sát sao, giúp đỡ và chỉ bảo, hướng dẫn em có thể hoàn thiện Khóa luận tốt nghiệp một cách tốt nhất trong thời gian qua. Em cũng xin chân thành cảm ơn bạn bè và gia đình đã luôn động viên, khích lệ và tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện để em có thể hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 26 tháng 04 năm 2019 Người viết Nguyễn Hà Trang 5
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự ra đời của Viện kiểm sát nhân dân là một bước ngoặt đánh dấu cho vấn đề kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sựra đời của ngành kiểm sát nhân dân nhằm góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm. Do đó, việc xác định rõ vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt đống tố tụng nói chung là vô cùng cần thiết, để từ đó có thể có cái nhìn cũng như phát huy khả năng hoạt động của bộ máy Viện kiểm sát một cách triệt để. Đặc biệt là trong tố tụng hành chính, vai trò của Viện kiểm sát càng cần được khẳng định và làm rõ, để hoạt động xét xử hành chính được phát huy một cách hiệu quả nhất cũng như giám sát quá trình thực thi pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu Liên quan đến vấn đề này đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu, cũng như có nhiều bài viết liên quan đến vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng nói chung và trong lĩnh vực tố tụng hành chính nói riêng. Tuy nhiên, vẫn còn ít những nghiên cứu tổng thể về vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hành chính. 3. Mục đích của Khóa luận Khóa luận nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính như thẩm quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như các phương thức đảm bảo thực thi những vai trò này của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính. Đồng thời phân tích, làm rõ những thực trạng, những ưu điểm và hạn chế của hệ thống pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính. Trên cơ sở đó, Khóa luận cũng đưa ra một số đề xuất và giải pháp chung, cụ thể nhằm nâng cao vai trò 6
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử hành chính nói riêng và trong tiến trình cải cách tư pháp nói chung ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Khóa luận 4.1. Đối tượng nghiên cứu Khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Khóa luận chỉ dừng lại ở việc phân tích, đánh giá những vấn đề lý luận về pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật có liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động tố tụng hành chính. Trong đó, trọng tâm là xem xét, đánh giá Luật tố tụng hành chính và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân. 5. Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu 5.1. Về cơ sở khoa học: Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đồng thời sử dụng nền tảng là các học thuyết, quan điểm khoa học pháp lí về vai trò của cơ quan Viện kiểm sát. 5.2. Về phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác – Lenin, phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, Khóa luận cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phương pháp lôgic, các phương pháp so sánh, đối chiếu, … 7
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Khóa luận - Góp phần làm sáng tỏ về lý luận cũng như thực tiễn quá trình tiếp tục đổi mới vị trí pháp lí, vai trò và việc hoàn thiện mô hình hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính. - Góp phần nâng cao chất lượng công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính. Đảm bảo cho việc giải quyết các vụ án hành chính tại Tòa án được khách quan, đúng pháp luật. - Khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo cho các nhà khoa học, những người làm công tác thực tiễn, đồng thời có thể được sử dụng cho việc nghiên cứu, giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý. - Đề tài là nguồn tài liệu để phản ánh một số vấn đề từ thực tế giúp cho liên ngành Viện kiểm sát - Tòa án nghiên cứu khi ban hành các thông tư, hướng dẫn các vấn đề còn bất cập trong việc áp dụng, thực hiện Bộ luật tố tụng hành chính trong thời gian tới. Đồng thời, đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp tục chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung, tiếp tục hoàn thiện Bộ luật tố tụng hành chính, nhằm đảm bảo cho pháp luật tố tụng hành chính được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất trong toàn quốc. 7. Kết cấu của Khóa luận Ngoài phần Lời nói đầu, mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tham khảo, Khóa luận gồm 3 chương. Chương I: Khái quát chung về Viện kiểm sát nhân dân Chương II: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính theo pháp luật Việt Nam Chương III: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân 8
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Việt Nam là một nước theo hệ thống Xã hội chủ nghĩa. Bộ máy nhà nước được xây dựng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện là Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, mọi quyền lực đều tập trung ở Quốc hội. Tuy nhiên, Quốc hội lại không trực tiếp thực thi quyền lực mà giao cho các cơ quan nhà nước các quyền lực riêng biệt để thực hiện những nhiệm vụ của mình, trong đó Viện kiểm sát nhân dân được giao chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp nói chung và thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Như vậy có thể nói, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1. Sơ lược về sự hình thành của Viện kiểm sát nhân dân Năm 1945, cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ, nước ta giành lấy được chính quyền, độc lập và tự do. Chính quyền của ta bấy giờ vẫn còn non trẻ, chưa thể hoàn toàn gánh vác cũng như giải quyết được những vấn đề sau cuộc Tổng khởi nghĩa và một Nhà nước mới cần phải đối mặt. Dưới tình hình rối ren trong nước lúc bấy giờ, cần có một cơ quan công tố được thành lập để giải quyết những vấn đề tồn đọng cũng như kiểm soát các hành vi của người dân. Trên thế giới, cơ quan công tố đã xuất hiện từ rất sớm, vào khoảng đầu thế kỉ 13 tại Pháp với tư cách là cơ quan đại diện của nhà Vua, có nhiệm vụ phát hiện và đưa các vụ việc vi phạm pháp luật của nhà Vua đến Toà án để xử lý và tác động sao cho quyết định của Toà án có lợi cho Nhà nước. Căn cứ vào vị trí của cơ quan công tố trong bộ máy Nhà nước, chúng ta có thể thấy mô hình Viện công tố được chia làm ba nhóm: nhóm các nước mà Viện kiểm sát hay cơ quan công tố nằm trong cơ cấu của Bộ tư pháp (điển hình như Mỹ, Pháp, Nhật, Hà Lan…); nhóm các nước mà cơ quan công tố nằm hoàn toàn trong thành phần của hệ thống tư pháp được đặt tại các Tòa án, nhưng độc lập 9
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang với Tòa án về mặt chức năng (ví dụ như Tây Ban Nha, Bungaria…) và cuối cùng là nhóm gồm các nước có Viện kiểm sát hay cơ quan công tố là một hệ thống riêng biệt, trực thuộc Quốc hội hoặc trực thuộc Nguyên thủ quốc gia (điển hình như Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và một số nước châu Mỹ - Latin...). Vào thời Pháp thuộc, Viện công tố đã được thành lập ở nước ta và vẫn tiếp tục duy trì sau cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, và vẫn chịu sự ảnh hưởng của Pháp. Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến Viện công tố nhưng trong cơ cấu của Toà án có các Công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh Nhà nước trước phiên toà trong các vụ án hình sự. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, từ năm 1958, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án nhưng trực thuộc Chính phủ và hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương và hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động công tố trước Toà án. Sau này, do yêu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nên theo quy định của Hiến pháp năm 1959 một loại hình cơ quan Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước được hình thành. Có thể nói, tổ chức cơ quan viện kiểm sát nhân dân của nước ta đã trải qua những bước phát triển khác nhau phù hợp với nhận thức, mức độ phát triển của xã hội và đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối với từng giai đoạn lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển của Viện kiểm sát nhân dân có thể được phân theo các giai đoạn lịch sử khác nhau như sau: 1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành nhiều Sắc lệnh về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Một trong số các Sắc lệnh đầu tiên là Sắc lệnh số 33A ngày 14/09/1945, có quy định mỗi khi bắt người phải thông báo ngay cho ông Biện lý biết (tức Thẩm phán làm nhiệm vụ công tố). [35] 10
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1959, Nhà nước ta không thành lập cơ quan thực hành quyền công tố riêng. Hoạt động điều tra không chỉ nằm trong một Cơ quan điều tra mà còn ở nhiều bộ phận khác: Kiểm soát viên Kiểm lâm, Hoả xa, Thương chính và tất cả các viên chức mà pháp luật giao phó nhiệm vụ cho tư pháp công an đối với những việc phạm pháp riêng cho từng ngành (Điều 3 sắc lệnh số 131). Trong cơ cấu Toà án, các Thẩm phán được chia làm hai loại: - Các Thẩm phán xét xử do Chánh án Toà thượng thẩm đứng đầu. - Các Thẩm phán công tố viên (Thẩm phán buộc tội) hợp thành một đoàn thể độc lập (công tố viện) với các Thẩm phán xét xử do Chưởng lý đứng đầu. [29] Vào cuối những năm 50, tổ chức của Viện công tố lại được kiện toàn và tăng cường một bước quan trọng. Viện công tố đã được tổ chức thành hệ thống gồm: - Viện công tố Trung ương - Viện công tố thành phố, tỉnh - Viện công tố huyện và các đơn vị hành chính tương đương; - Viện công tố quân sự các cấp. [35] Đây là bước phát triển quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Viện công tố, tiến tới việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân vào giữa năm 1960. Toàn bộ hoạt động điều tra trong giai đoạn này đều thuộc quyền kiểm soát, điều hành của Công tố Viện, mà trực tiếp là Biện lý, Phó Biện lý và trên hết là Chưởng lý ở Toà thượng thẩm. Quy định này của pháp luật cho thấy hoạt động điều tra thực chất là hoạt động công tố (nhưng ở giai đoạn tiền công tố), giúp cơ quan công tố thay mặt Nhà nước buộc tội người phạm tội trước Toà án. Các nhân viên và cơ quan có thẩm quyền điều tra không theo sự chỉ đạo của cơ quan chủ quản hành chính mà đều dưới sự chỉ đạo của Công tố Viện; đồng thời, pháp luật cũng có quy định bảo đảm để các cơ quan này phải tuân theo sự chi đạo đó, 11
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang như Điều 13 sắc lệnh số 131 đã ghi nhận: “Việc bổ sung, thăng thưởng và trừng phạt hành chính những uỷ viên Tư pháp công an không phải là Thẩm phán viên đều làm sau khi hỏi ý kiến của Biện lý và Chưởng lý”. [14] Hoạt động điều tra ở giai đoạn đầu (từ 1945 – 1950) có hình thức là điều tra ban đầu và điều tra thẩm cứu. Thẩm quyền điều tra của các nhân viên và cơ quan có trách nhiệm điều tra ngày càng được hình thành rõ nét hơn. Tuy nhiên, việc điều tra đối với một số đối tượng có đặc quyền miễn trừ tư pháp như Thẩm phán, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Đại biểu Quốc hội... thì thẩm quyền điều tra thuộc về Công tố Viện; đồng thời, pháp luật cũng giành quyền chủ động cho Chưởng lý Toà thượng thẩm trong việc điều tra của Công tố Viện. Về tổ chức, thời kỳ đầu, Công tố Viện được tổ chức trong hệ thống Toà án. Những năm 50, theo sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950, Thông tư số 21/TTg ngày 07/6/1950, cơ quan công tố chịu sự điều khiển, chi phối của ủy ban kháng chiến hành chính trên cùng địa hạt về đường lối công tố chung và mệnh lệnh riêng về từng vụ việc. Đến kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá I (họp từ ngày 16/4/1958 đến ngày 29/4/1958) đã quyết định hệ thống Toà án và hệ thống Công tố trực thuộc Hội đồng Chính phủ và có trách nhiệm, quyền hạn ngang với một Bộ. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959 quy định nhiệm vụ và tổ chức của Viện Công tố. Ngày 6/8/1959, Viện trưởng Viện công tố Trung ương ban hành Thông tư số 601/TCCB giải thích và hướng dẫn thi hành văn bản trên, quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện công tố. Theo quy định của các văn bản này, hệ thống các cơ quan công tố được thành lập từ trung ương đến cấp huyện và trở thành hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập, không còn trực thuộc Bộ Tư pháp, không còn chịu sự chỉ đạo cụ thể và trực tiếp của Ủy ban hành chính cùng cấp ở địa phương. Nhiệm vụ cụ thể của Viện công tố theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 256/TTg là có nhiệm vụ điều tra và truy tố trước Toà án những kẻ phạm pháp về hình sự. [14] 12
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang 1.1.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội thông qua ngày 31/12/1959 đã có những sửa đổi căn bản về tổ chức bộ máy nhà nước so với Hiến pháp 1946. Tên Viện công tố được thay thế bằng Viện kiểm soát nhân dân, lần đầu tiên quy định về chế định Viện kiểm sát nhân dân, trong đó xác định vị trí, chức năng, nhiệm vụ và các nguyên tắc cơ bản cho việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân. Viện kiểm soát nhân dân cùng với Toà án nhân dân là các cơ quan tư pháp, độc lập trong tổ chức quyền lực nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp năm 1959 thì Viện kiểm sát nhân dân các cấp được tổ chức thành một hệ thống nhất, độc lập với cơ quan xét xử và cơ quan hành chính, chỉ chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Những quy định của Hiến pháp năm 1959 về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã được cụ thể hoá bằng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà khoá II, kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 15/7/1960 và được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 20-L/CTN ngày 26/7/1960 công bố đã đánh dấu sự ra đời của hệ thống Viện kiểm sát nhân dân trong hệ thống bộ máy Nhà nước ta. Theo quy định tại Điều 4 của Luật này thì các Viện kiểm sát nhân dân gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương gồm có : Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc đơn vị hành chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương, Viện kiểm sát nhân dân ở các khu vực tự trị. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ và quyền hạn: - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư, chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội 13
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước địa phương, kiểm sát việc tuân theo những luật của nhân viên cơ quan nhà nước và công dân; - Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà án nhân dân những người phạm pháp về hình sự; - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và của cơ quan Điều tra khác; - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, trong việc xét xử của Toà án nhân dân và trong việc chấp hành các bản án; - Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam; - Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. [21, điều 3] 1.1.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 Sau khi đất nước được hoàn toàn thống nhất, Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980, so với Hiến pháp năm 1959 thì vai trò vị trí của Viện kiểm sát nhân dân đã được khẳng định rõ hơn và có những điểm bổ sung mới, đặc biệt trong Hiến pháp năm 1980 đã nhấn mạnh đến chức năng “thực hành quyền công tố” của Viện kiểm sát, cụ thể ở điều 138 lần đầu tiên quy định về việc thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát. Để cụ thể hoá những quy định trên đây về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp năm 1980, Quốc hội khoá VII đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và được sửa đổi bổ sung vào năm 1989, so với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, thì Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được sửa đổi bổ sung vào năm 1989 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn rất nhiều về nhiệm vụ, quyền hạn 14
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và thực hiện công tác kiểm sát chung. Hoạt động điều tra của Viện kiểm sát có tính độc lập tương đối so với công tác kiểm sát, nhưng thực chất cũng là nhằm tăng cường hiệu quả công tác kiểm sát, đồng thời, tạo thế chủ động cho ngành Kiểm sát trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; tránh làm oan cho người vô tội… Với quy định “Viện trưởng Viện kiểm sát thấy cần thiết phải trực tiếp điều tra”, hoạt động điều tra thẩm cứu (với ý nghĩa đi sâu nghiên cứu, điều tra; xét kỹ một vụ án) trong thời kỳ này đã chú trọng đến công tác điều tra, xác minh những vụ án “mang tính chất minh oan” cho người đã bị kết án. Pháp luật tố tụng hình sự giai đoạn này đã giành quyền chủ động cho Viện trường Viện kiểm sát các cấp trong việc điều tra vụ án. [14] 1.1.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001 Sau một thời gian có hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước lúc bấy giờ. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đường lối đổi mới mọi mặt về đời sống xã hội do Đại hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng đã tạo tiền đề cho việc nghiên cứu, xây dựng Hiến pháp năm 1992, một Hiến pháp của thời kỳ đổi mới đất nước. Việc cải cách bộ máy Nhà nước cũng được ưu tiên đặt lên hàng đầu, được xác định bằng phương hướng cơ bản: quán triệt yêu cầu dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tìm tòi những thiết chế mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc "quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân". Phương hướng này đòi hỏi phải thể chế hóa đầy đủ các quyền tự do dân chủ, cũng như xây dựng được mối quan hệ đúng đắn giữa các ba nhánh quyền lực nhà nước là lập pháp, hành pháp và tư pháp. 15
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang Trên mục tiêu đó, về mặt cơ cấu tổ chức, sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992, cơ bản Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã kiện toàn và đổi mới một bước quan trọng. Với cơ cấu tổ chức như vậy, trong hoạt động Viện kiểm sát nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định, tạo nên một số chuyển biến tích cực trong hoạt động tư pháp của nước ta cùng với các cơ quan nhà nước khác thực hiện một cách có hiệu quả đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. Cụ thể là: Điều 137 Hiến pháp 1992 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định.” Hiến pháp 1992 từ điều 137 đến 140 quy định tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn Viện kiểm sát nhân dân không có gì thay đổi so với hai bản hiến pháp trước, tuy nhiên lại có sự thay đổi nhất định về tổ chức và trách nhiệm. Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ban hành năm 1992 cụ thể hoá quy định của Hiến pháp thì Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Uỷ ban kiểm sát. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Viện trưởng cử và trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn. Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số kiểm sát viên Viện kiểm sát 16
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng cử và trình Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn. Một số vấn đề quan trọng trước đây do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định được chuyển cho Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các quy định trên về Viện kiểm sát nhân dân cho chúng ta thấy rằng: Hiến pháp 1992 một mặt vẫn đề cao chế độ làm việc theo nguyên tắc thủ trưởng và trực thuộc một chiều để đề cao tính độc lập của Viện kiểm sát, mặt khác phải kết hợp nguyên tắc này với chế độ bàn bạc tập thể khi Viện kiểm sát quyết định những vấn đề quan trọng (điều 138 Hiến pháp 1992). Đồng thời Hiến pháp 1992 cũng xác định tính chất giám sát của Quốc hội cũng như Hội đồng nhân dân các cấp đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. [15] 1.1.5. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013 Qua gần 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã trải qua nhiều sự thay đổi lớn và đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn. Trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi sâu sắc và phức tạp, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là yêu cầu khách quan và cần thiết vì Hiến pháp 1992 đã không thể đáp ứng được những yêu cầu của đất nước thời kì này. Ngày 25/12/2001, Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Hiến pháp 1992 (sửa đổi), tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm 1992. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Năm 2002 đánh dấu bước điều chỉnh quan trọng về chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo yêu cầu của công cuộc cải cách 17
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang tư pháp và những quy định mới của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). [3] Theo đó, nội dung điều 137 về Viện kiểm sát nhân dân không còn quy định chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội mà chỉ còn “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trước đây, theo quy định của Hiến pháp năm 1992, chức năng kiểm sát chung được giao cho Viện Kiểm sát. Theo đó, Viện Kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan từ cấp Bộ trở xuống, kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang và công dân. Tuy nhiên đến Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì Viện kiểm sát không còn thực hiện chức năng kiểm sát chung nữa và chỉ còn tập trung vào thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, có rất nhiều người không đồng ý quan điểm bỏ đi chức năng kiểm sát chung của Viện kiểm sát, cho rằng Viện kiểm sát thực hiện rất tốt chức năng này, kịp thời phát hiện tội phạm và giải quyết được nhiều sai phạm trong thời gian giữ chức năng kiểm sát chung [30]. Bên cạnh đó, không thiếu ý kiến của các luật sư rằng cần bỏ đi chức năng này của Viện kiểm sát. Bởi nếu để Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát chung này thì lại quá bao trùm và gây sự chồng chéo với chức năng kiểm tra của các cơ quan khác, nhất là với hệ thống thanh tra nhà nước. Từ đó, có khả năng cao sẽ dẫn đến những tiêu cực trong công tác kiểm sát, ảnh hưởng đến sự nghiêm minh và công bằng của Viện kiểm sát. [2] 1.1.6. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay Năm 2013, đất nước ta tiến hành sửa đổi Hiến pháp lần thứ sáu, được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào sáng ngày 28 tháng 11 năm 2013, có hiệu lực pháp lý đến bây giờ. Trên cơ sở bản Hiến pháp 2013 này, Nhà nước cũng tiến hành sửa đổi Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Quốc hội ban hành văn bản Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014. Văn 18
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang bản luật này đã đạt bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp, đã quy định một cách hoàn thiện hơn các vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở pháp điển hoá các văn bản Luật, Pháp lệnh hiện hành và nhiều quy định của các văn bản dưới luật, khắc phục tình trạng nhiều văn bản tản mạn, chồng chéo, trùng lặp với các luật về tố tụng, bảo đảm tính thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật; nâng cao hiệu lực pháp lý các quy định của pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân. 1.2. Vị trí và chức năng của Viện kiểm sát nhân dân Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, được quy định tại khoản 3 Điều 2: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Mục đích thực hiện quyền tư pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm minh. Theo quy định hiện nay, Viện kiểm sát được coi là một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với các cơ quan hành pháp, tư pháp. Tư pháp là một dạng quyền lực nhà nước mang tính xét xử. Quyền tư pháp là quyền xét xử và việc xét xử là Tòa án, nhân danh nhà nước giải quyết tranh chấp, giải quyết xung đột xã hội bằng việc xét xử, thông qua thủ tục xét xử do luật định. Chỉ có Tòa án cơ quan xét xử, nên việc coi Viện kiểm sát là một cơ quan thuộc nhánh tư pháp có không thỏa đáng. Viện kiểm sát các cấp chịu sự lãnh đạo chỉ đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao, nên có khả năng rất cao trong việc loại trừ sự lạm dụng quyền hạn hành chính, kép kín, cục bộ địa phương … Tuy nhiên, Viện kiểm sát lại được Nhà nước trao cho quyền lực công, đại diện 19
- Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hành chính | Nguyễn Hà Trang cho Nhà nước thực hành quyền công tố,nhưng lại không phải quyền phân định đúng sai phải trái như Tòa án, do đó, không có lý do nào lại xếp Viện kiểm sát vào nhánh tư pháp. Bản thân việc phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh là để có thể phân định được quyền lực một cách rõ ràng nhất, nên việc độc lập với các nhánh quyền lực còn lại dẫn đến một sự mâu thuẫn. Việc Viện kiểm sát được nhà nước trao quyền lực công, đại diện cho nhà nước thì đã không thể có được sự độc lập cần có như mục tiêu ban đầu khi lập ra Viện kiểm sát. Mà bản chất của quyền lực công kia lại là quyền thực hành, sử dụng quyền lực để thực hiện nhiệm vụ của mình, nên ta có thể xem xét việc xếp Viện kiểm sát vào nhánh quyền lực hành pháp. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân được xác lập rõ ràng trong Hiến pháp 2013 (được quy định tại Điều 107) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Nghị quyết số 82/2014/QH13 ngày 24/11/2014 của Quốc hội và Nghị quyết số 953/NQ-UBTVQH13 ngày 28/5/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thể hiện thông qua các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, cũng như nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. “Điều 107. 1. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. 2. Viện kiểm sát nhân dân gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định. 3. Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.” 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về giao kết hợp đồng lao động – Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần du lịch Nam Định
58 p | 106 | 42
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao động - Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Nhựa Quỳnh Hằng SP
58 p | 84 | 34
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn thực hiện tại Công ty cổ phần Chuỗi thực phẩm TH
53 p | 58 | 29
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH một thành viên Diesel Sông Công
57 p | 47 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh doanh: Quy định về sa thải người lao động trái pháp luật và thực trạng áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng
65 p | 72 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật Hiến pháp và Luật Hành chính: Cải cách thủ tục hành chính trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0
86 p | 75 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp Luật kinh tế: Pháp luật về hợp đồng cung ứng dịch vụ thi công công trình xây dựng - Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần tập đoàn Bách Việt
45 p | 50 | 21
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về dịch vụ môi giới kinh doanh bất động sản – Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần Khảo sát Dịch vụ Thương mại Thiên Bảo
60 p | 39 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa - Thực tiễn tại Công ty Cổ phần Dược liệu và Thực phẩm Việt Nam
54 p | 23 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Thực tiễn thực hiện tại Công ty Cổ phần bánh kẹo Hải Hà
57 p | 24 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về xử lí nợ xấu trong Ngân hàng thương mại - Thực tiễn thực hiện tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank) - Chi nhánh Tân Yên, Bắc Giang
52 p | 20 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp: Chế độ tài sản của vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
80 p | 11 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về công ty TNHH hai thành viên trở lên và thực tiễn thực hiện pháp luật tại Công ty TNHH Vạn Hương
86 p | 16 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Đơn phương chấm dứt hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam – Lý luận và thực tiễn
77 p | 15 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về hợp đồng chiết khấu giấy tờ có giá trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng theo pháp luật Việt Nam
87 p | 13 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng theo pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành
71 p | 8 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quyền xác định lại giới tính theo pháp luật Việt Nam hiện nay
77 p | 3 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn