intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Chia sẻ: Cxzvscv Cxzvscv | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

119
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp: Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam nhằm nghiên cứu các kinh nghiệm và chính sách mở cửa thị trường bảo hiểm của các nước trong khu vực bao gồm những nước điển hình như Trung Quốc, Thái Lan và Singapore, từ đó, dựa trên những chính sách và chủ trương của Nhà nước xuất phát từ nội tại nền kinh tế, khoá luận đưa ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt Nam.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ------***------- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM Họ và tên sinh viên : Đặng Thanh Phong Lớp : Anh 13 Khóa : 41D - KTNT Giáo viên hướng dẫn : ThS. Nguyễn Xuân Nữ Hà Nội, 11/2006
  2. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Bộ Thương mại và trường ĐH Ngoại thương (2003), Kỷ yếu hội thảo khoa học Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội. 2. Bộ tài chính (2005), Nhìn lại một năm thực hiện chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam, NXB Tài chính, Hà Nội. 3. Hồ Sĩ Sà (2000), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội. 4. Hoàng Văn Châu (2006), Giáo trình bảo hiểm trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB Thống kê, Hà Nội. 5. Nguyễn Văn Định (2003), Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội. 6. Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình bảo hiểm, NXB Thống kê, Hà Nội. 7. Tập đoàn tài chính Bảo Việt (2005 – 2006), Tạp chí Bảo hiểm, Hà Nội. 8. Trung tâm Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (2006), Tạp chí Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, Hà Nội. 9. Trường ĐH Ngoại thương (2004), Kỷ yếu hội thảo khoa học Thương mại quốc tế và vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội. 10. Viện khoa học xã hội Việt Nam (06/2006), Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Hà Nội. 11. Viện khoa học xã hội Việt Nam (08/2006), Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, Hà Nội. 12. Viện khoa học tài chính (04/2005), Đánh giá tác động của việc mở cửa thị trường đối với ngành bảo hiểm Việt Nam và giải pháp phát triển thị trường bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Tài chính, Hà Nội.
  3. II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH 1. Asian Insurance Review (06/2005), Bancassurance – Making it work. But for whom? 2. Jerome Yeatman (1999), International textbook on insurance, Paris National Insurance University, France. 3. Sivam Subamaniam (2004), Challenges facing regulators, insurers and banks in the bancassurance arena, Hongkong. 4. Jorn F. Kristensen and Ang Yew-Lee (2006), The Singapore insurance market, Singapore. III. CÁC TRANG WEB 1. HTTP://WWW.AAR.COM.AU/ 2. http://baohiem.pro.vn 3. www.celent.com/.../20030731/ITSpendingIns.htm 4. http://ec.europa.eu/internal_market/insurance/ecommerce_en.htm 5. http://www.internationalinsurance.org/international/overview/ 6. http://pjico.com.vn 7. http://www.irmi.com/ 8. http://www.mas.gov.sg/masmcm/bin/pt1Insurance 9. www.taiwanratings.com/.../sld013.htm 10. http://vnn.vn
  4. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Kể từ những năm 90 của thế kỷ trước, khái niệm hội nhập và mở cửa đã trở thành một khái niệm quen thuộc, phổ biến trong mọi ngành nghề cũng như mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Thế nhưng bài toán hội nhập và mở cửa như thế nào, ở mức độ ra sao vẫn chưa bao giờ có một lời giải xác đáng. Khi Việt Nam đang nỗ lực đàm phán để kết thúc quá trình gia nhập WTO thì cũng là lúc chúng ta phải tính đến một kịch bản mới cho nền kinh tế – kịch bản hậu WTO. Giờ đây, thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới đã được xác định, hiện thực hoá quá trình hội nhập không còn là điều trong tưởng tượng nữa. Dù muốn hay không chúng ta cũng phải tiến hành mở cửa sâu sắc hơn nền kinh tế của mình. Lĩnh vực bảo hiểm là một lĩnh vực nhạy cảm của nền kinh tế. Bảo hiểm không chỉ có tác dụng hạn chế hậu quả gây ra bởi rủi ro đối với cá nhân hay tổ chức, nó còn đóng vai trò đảm bảo cho sự phát triển ổn định của cả một ngành nghề, một lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Với chính sách mở cửa được đánh giá là thông thoáng hơn các nước láng giềng, trong gần 10 năm qua thị trường bảo hiểm Việt Nam đã chứng kiến sự tham gia của rất nhiều các nhà bảo hiểm tên tuổi trên thế giới như Prudential, Manulife, Great Eastern, ACE, Préveire…; phí bảo hiểm liên tục tăng cùng với con số hợp đồng được ký mới cũng gia tăng nhanh chóng qua các năm. Tuy nhiên, song song với những thành tựu đạt được từ quá trình mở cửa, thị trường bảo hiểm Việt Nam cũng còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập: bất cập về quy mô thị trường, về năng lực hoạt động, khả năng tài chính… Tham gia vào một sân chơi lớn, bình đẳng hơn nhưng cũng khó khăn hơn, điều thiết yếu đặt ra đối với chúng ta là phải trang bị cho mình những bài học kinh nghiệm quý báu đồng thời xây dựng những định hướng rõ ràng để có thể hội nhập và mở cửa một cách thành công. Đặng Thanh Phong 1 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  5. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Việc tìm hiểu và học hỏi những kinh nghiệm, chính sách cũng như đường lối của các nước trong khu vực, những nước có những đặc điểm kinh tế xã hội tương đồng với chúng ta là một việc làm vô cùng quan trọng. Đó cũng chính là việc làm nhằm tìm hiểu rõ hơn về thị trường bảo hiểm các nước đồng thời cũng là quá trình đi tìm lời giải cho bài toán hội nhập của thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Từ những yêu cầu thiết thực đó em đã lựa chọn đề tài “Mở cửa thị trường bảo hiểm ở một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam”. Đề tài nêu lên những kinh nghiệm và bài học quý báu của các nước có thể áp dụng trong điều kiện của Việt Nam hiện nay và trong những năm tới khi thị trường bảo hiểm Việt Nam đã hội nhập đầy đủ. 2. Mục đích nghiên cứu Khoá luận đi sâu nghiên cứu các kinh nghiệm và chính sách mở cửa thị trường bảo hiểm của các nước trong khu vực bao gồm những nước điển hình như Trung Quốc, Thái Lan và Singapore. Từ đó, dựa trên những chính sách và chủ trương của Nhà nước xuất phát từ nội tại nền kinh tế, khoá luận đưa ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình mở cửa của thị trường bảo hiểm Việt Nam. 3. Nội dung nghiên cứu Với mục đích như vậy, khoá luận tập trung nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển thị trường bảo hiểm tại các nước, thực trạng thị trường bảo hiểm hiện nay và chính sách mở cửa của những nước này trên cơ sở nghiên cứu và chọn lọc những đặc điểm sáng tạo nổi bật của các nước có thể áp dụng với tình hình cụ thể của Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là bảo hiểm và thị trường bảo hiểm. Đi vào chi tiết, khoá luận tìm hiểu những đặc điểm và hội nhập Đặng Thanh Phong 2 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  6. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam của thị trường bảo hiểm các nước trong khu vực, bao gồm Trung Quốc, Thái Lan và Singapore. - Về phạm vi nghiên cứu: Khoá luận giới hạn trong phạm vi thị trường bảo hiểm một số nước trong khu vực, những kinh nghiệm và bài học trong quá trình mở cửa của những nước này. Tuy nhiên để có được cái nhìn toàn cảnh và nhằm đưa ra những bài học có ý nghĩa thực tiễn đối với thị trường bảo hiểm trong nước, khoá luận cũng xem xét vấn đề trên bình diện thị trường bảo hiểm thế giới và thực trạng của thị trường bảo hiểm Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Khoá luận áp dụng những phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp chuyên gia, - Phương pháp nghiên cứu tại bàn bao gồm tập hợp số liệu và phân tích, thu thập tài liệu, quan sát và đánh giá. - Phương pháp tư duy lô-gic Trong quá trình nghiên cứu, với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo, Thạc sỹ Nguyễn Xuân Nữ, người đã tận tâm giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Đặng Thanh Phong 3 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  7. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam CHƢƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM VÀ THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM 1. Định nghĩa bảo hiểm Bảo hiểm là một lĩnh vực ra đời sau của thị trường tài chính nhưng nó đã phát triển với tốc độ rất nhanh chóng. Có nhiều nghiên cứu về bảo hiểm và do đó các định nghĩa về bảo hiểm cũng rất đa dạng, tập trung xem xét trên những khía cạnh khác nhau. Có một số định nghĩa về bảo hiểm như: “Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người có cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên”. Định nghĩa này mới chỉ đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, mà chưa rõ phương thức sử dụng nó. Một định nghĩa khác đơn giản hơn xét trên khía cạnh tổn thất và bồi thường tổn thất: “Bảo hiểm là việc cam kết hoàn trả tiền trong trường hợp tổn thất xảy ra cho một cá nhân hay tổ chức đã dự phòng thảm hoạ xảy ra và trả tiền trước đó cho công ty bảo hiểm” Theo khía cạnh luật pháp và kinh tế học, bảo hiểm là một dạng kiểm soát rủi ro trước hết được dùng để bảo đảm đối với những nguy cơ rủi ro có thể xảy ra gây thiệt hại về tài chính. Một cách chính xác, bảo hiểm được định nghĩa là việc chuyển nguy cơ rủi ro từ một chủ thể sang một chủ thể khác tương ứng theo mức phí xác định hợp lý. Và, một cách chung nhất và mang tính bản chất nhất, có thể định nghĩa bảo hiểm như sau: “Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Điều này có Đặng Thanh Phong 4 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  8. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dự trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm. 2. Những nguyên tắc của bảo hiểm 2.1 Nguyên tắc số đông bù số ít Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu được trong bất kỳ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, theo đó hậu quả rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo hiểm tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường, một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được triển khai khi có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm nào đó. 2.2 Rủi ro có thể được bảo hiểm Nguyên tắc này đảm bảo cho các công ty bảo hiểm những điều kiện cần thiết để không bị bồi thường những rủi ro không phải do hành động bất ngờ không lường trước được xảy ra. Chẳng hạn, những rủi ro do cố ý của người được bảo hiểm hoặc những rủi ro gần như chắc chắn xảy ra, ví dụ như một chiếc thuyền đi biển đã cũ, tuổi tàu già và không đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết. Như vậy, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm. Thêm vào đó, nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm phải là nguyên nhân khách quan, không cố ý. Để đảm bảo nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm luôn có các rủi ro loại trừ tuỳ thuộc vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được Đặng Thanh Phong 5 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  9. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam nhận bảo hiểm lại có thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau nếu cần thiết và áp dụng mức phí thích hợp. 2.3 Phân tán rủi ro Khi nhận bảo hiểm từ người tham gia bảo hiểm nghĩa là công ty bảo hiểm đã tự mình ràng buộc trách nhiệm đối với những tổn thất và hư hại xảy ra đối với đối tượng được bảo hiểm. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, các công ty bảo hiểm với tiềm lực tài chính chưa mạnh, quỹ bảo hiểm chưa nhiều trong khi giá trị bảo hiểm lại lớn mà trong điều kiện kinh tế thị trường, các công ty không thể từ chối khách hàng của mình. Điều này dẫn đến việc họ phải phân tán rủi ro để tự bảo hiểm cho hoạt động của chính mình. Phân tán rủi ro có thể thực hiện qua hai hình thức: đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Về mục đích, hai phương thức này đều giống nhau song về hình thức lại khác nhau. Đồng bảo hiểm là hình thức nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo hiểm cho một rủi ro có giá trị lớn. Trong khi đó, tái bảo hiểm là hình thức một công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm cho một loại rủi ro nhất định sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác. 2.4 Trung thực tuyệt đối Nguyên tắc trung thực tuyệt đối áp dụng cho cả hai bên tham gia trong hợp đồng bảo hiểm, đó là người mua – bên tham gia bảo hiểm và người bán – công ty nhận bảo hiểm. Đối với công ty bảo hiểm, họ phải đảm bảo đưa ra những điều kiện hợp đồng phù hợp, minh bạch, đảm bảo quyền lợi của tất cả các bên. Khi xảy ra tổn thất, quyền lợi của người được bảo hiểm, việc thanh toán số tiền bảo hiểm, các thủ tục giải quyết có nhanh chóng và thuận lợi hay không là tuỳ thuộc vào tính “trung thực tuyệt đối” của người bán sản phẩm bảo hiểm. Ngược lại, đối với người tham gia bảo hiểm, anh ta phải tạo điều kiện thuận lợi cho công ty bảo hiểm trong việc xác minh đối tượng bảo hiểm để Đặng Thanh Phong 6 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  10. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam làm điều kiện cần thiết cho việc xây dựng hợp đồng bảo hiểm. Trung thực tuyệt đối trong khai báo và giám định khi tổn thất xảy ra. Nói tóm lại, trung thực tuyệt đối là điều kiện bắt buộc của cả người bán và người mua trong hợp đồng bảo hiểm, không những thế nó còn thể hiện thiện chí của các bên tham gia – một điều hết sức cần thiết trong kinh doanh. 2.5 Quyền lợi có thể được bảo hiểm Nhằm tránh việc trục lợi từ các hợp đồng bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm, trong bất kỳ mọi trường hợp người tham gia bảo hiểm phải có mối quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ này có thể thể hiện bằng quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền tài sản hay nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. 3. Tác dụng của bảo hiểm Là đứa con sinh sau đẻ muộn trong thị trường tài chính nhưng thị trường bảo hiểm đã có tốc độ phát triển nhanh chóng trong những thập niên qua. Trên thế giới, doanh thu từ bảo hiểm ngày càng chiếm thị phần lớn hơn trong GDP của các nước. Không phải ngẫu nhiên bảo hiểm lại có thể được ưu ái như vậy, nó có một chỗ đứng thiết thực không chỉ trong nền kinh tế mà cả trong đời sống chính trị, xã hội của một quốc gia. - Trước hết, bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham gia trước những tổn thất xảy ra. Rủi ro do thiên tai hay tai nạn bất ngờ đều gây thiệt hại về kinh tế, ảnh hưởng đến đời sống, thu nhập, sản xuất kinh doanh của các cá nhân và đơn vị. Tổn thất đó được bảo hiểm trợ cấp hoặc bồi thường về tài chính để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả, ổn định đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh. Tác dụng này phù hợp với mục tiêu kinh tế nên thu hút được số đông tham gia. - Bảo hiểm góp phần đề phòng và hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho các cá nhân, doanh nghiệp. Đặng Thanh Phong 7 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  11. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam - Bảo hiểm góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước. Với quỹ huy động từ sự tham gia của các thành viên, công ty bảo hiểm sẽ trợ cấp hoặc bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia để họ khôi phục đời sống, nhà nước do đó giảm được một phần ngân sách trợ giúp. Mặt khác, hoạt động bảo hiểm nhất là bảo hiểm thương mại có trách nhiệm đóng góp vào ngân sách thông qua thuế và các khoản đóng góp khác. - Bảo hiểm là một phương thức huy động vốn, là một công cụ trên thị trường tài chính. Bảo hiểm thu hút nguồn vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội. - Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo hiểm. - Bảo hiểm thu hút một số lượng lao động nhất định của xã hội, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội. - Cuối cùng, bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức kinh tế xã hội, giúp họ yên tâm và ổn định trong cuộc sống, sinh hoạt và trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói một cách hình ảnh, bảo hiểm chính là cánh tay vịn cho nền kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. II. THỊ TRƢỜNG BẢO HIỂM 1. Khái niệm thị trƣờng bảo hiểm Thị trường là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Nền sản xuất hàng hoá tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường và ngược lại, thị trường thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển. Quan niệm chung nhất về thị trường là “thị trường bao gồm toàn bộ các hoạt động trao đổi hàng hoá được diễn ra trong sự thống nhất hữu cơ với các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn liền với một không gian nhất định” [5]. Đặng Thanh Phong 8 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  12. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Trong thị trường diễn ra hành vi cơ bản là mua và bán. Thông qua mua và bán các sản phẩm hoặc dịch vụ, người mua tìm được cái mình cần và người bán bán được cái mình có với giá cả được thoả thuận một cách tự do. Như vậy, thị trường bảo hiểm có thể hiểu đơn giản là nơi mua và bán các sản phẩm bảo hiểm. Sản phẩm bảo hiểm là loại sản phẩm dịch vụ đặc biệt; là loại sản phẩm vô hình không thể cảm nhận được hình dáng, màu sắc, kích thước, quy mô… Sản phẩm bảo hiểm còn đặc biệt ở chỗ nó không được bảo hộ bản quyền, do vậy một sản phẩm bảo hiểm của công ty này cũng giống như một loại hình bảo hiểm ở công ty khác, sản phẩm bảo hiểm ở nước này cũng tương tự như sản phẩm bảo hiểm ở một nước khác. Trên thị trường bảo hiểm, người ta bỏ tiền mua cái mà người ta không mong đợi sự kiện bảo hiểm đó sẽ đến với mình để được bồi thường hay trả tiền bảo hiểm. Tham gia thị trường bảo hiểm có người mua, tức khách hàng, người bán và các tổ chức trung gian – những người môi giới bảo hiểm. Người mua có thể là cá nhân hay tổ chức sở hữu tài sản hay có trách nhiệm dân sự trước pháp luật, tính mạng hoặc thân thể có thể gặp rủi ro không lường trước được. Việc chống lại rủi ro là không thể do vậy người ta tìm cách hạn chế hậu quả của rủi ro đó bằng cách mua bảo hiểm cho những rủi ro có thể xảy ra. Khách hàng gồm có khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng – khách hàng tương lai. Khách hàng hiện tại là khách hàng đang tham gia quá trình mua và sử dụng một dịch vụ bảo hiểm nào đó. Khách hàng tiềm năng là khách hàng có thể sẽ mua và sử dụng sản phẩm đó trong tương lai. Người bán là các doanh nghiệp bảo hiểm. Theo tính chất sở hữu, doanh nghiệp bảo hiểm có thể chia thành nhiều loại như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp liên doanh…; theo quy mô tổ chức có thể chia thành tổng công ty, công ty…; hoặc theo loại hình kinh doanh có thể chia doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm dầu khí… Các tổ chức trung gian đóng vai trò là cầu nối giữa người mua với người bán. Tổ Đặng Thanh Phong 9 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  13. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam chức trung gian gồm các công ty môi giới hoặc các đại lý bảo hiểm. Hình thức tổ chức và đặc trưng của các công ty này có thể khác nhau. 2. Những đặc trƣng cơ bản của thị trƣờng bảo hiểm 2.1 Những đặc trưng chung Cũng giống như các thị trường khác, thị trường bảo hiểm có những đặc trưng chung của các thị trường thông thường đó là: 2.1.1 Vận động của thị trường bảo hiểm tuân theo quy luật giá trị Theo quy luật giá trị, sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì giá cả của nó sẽ cao và ngược lại. Giá bảo hiểm thực chất là phí bảo hiểm. Đó chính là số tiền mà người mua phải trả cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm về một dịch vụ bảo hiểm nào đó trên cơ sở thoả thuận giữa hai bên. Việc thoả thuận phí bảo hiểm trên cơ sở bình đẳng và tự do giữa hai bên nên có thể coi đó là giá chấp nhận của thị trường. Phí bảo hiểm bao gồm phí thuần và phụ phí (hay phí hoạt động trong bảo hiểm nhân thọ). Phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở số tiền bảo hiểm (số tiền người mua chấp nhận với người bán đưa ra) nhân với tỷ lệ phí bảo hiểm (r). Trong thị trường bảo hiểm, đối tượng được bảo hiểm có giá trị càng lớn chẳng hạn một toà nhà, một con tàu chuyên chở hàng hoá có giá trị cao thì phí bảo hiểm sẽ càng lớn. Ngược lại, một đối tượng bảo hiểm có giá trị thấp hơn thì phí bảo hiểm tương ứng sẽ nhỏ. 2.1.2 Thị trường bảo hiểm biến động theo quy luật cung cầu Cung về bảo hiểm do các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm thực hiện. Các doanh nghiệp bảo hiểm xuất hiện ngày càng nhiều, trong khi các sản Đặng Thanh Phong 10 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  14. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam phẩm bảo hiểm cũng luôn đa dạng theo nhu cầu của xã hội. Cung các sản phẩm bảo hiểm luôn phát triển phụ thuộc vào quá trình phát triển của xã hội, quá trình này ngày càng phụ thuộc mạnh mẽ vào sự phát triển của khoa học công nghệ, của quá trình hội nhập và toàn cầu hoá. Cầu về bảo hiểm của dân cư, của các tổ chức kinh tế, xã hội cũng không ngừng tăng lên. Đối với các tổ chức và các doanh nghiệp, việc đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh là vô cùng quan trọng. Nó ngày càng trở nên thiết yếu và có ý nghĩa sống còn với các doanh nghiệp nhất là khi cạnh tranh và xu hướng hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. Đối với các cá nhân, khi đời sống ngày càng được nâng cao thì nhu cầu đảm bảo an toàn càng trở nên quan trọng. Chính vì thế, nhu cầu về các sản phẩm bảo hiểm cũng không ngừng gia tăng. Sự biến động của cung và cầu làm cho thị trường bảo hiểm luôn biến động. Gia tăng của cầu dẫn đến gia tăng của cung, và dẫn đến giá cả giảm xuống điều chỉnh ngược lại lượng cung. 2.1.3 Thị trường bảo hiểm tuân theo quy luật cạnh tranh Khái niệm thị trường gắn liền với khái niệm cạnh tranh và đào thải. Cũng giống như các thị trường khác, cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm diễn ra gay gắt. Đặc biệt, khi mà các sản phẩm bảo hiểm không được bảo hộ bản quyền, các sản phẩm bảo hiểm tương đối giống nhau thì cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm lại càng khó khăn hơn. Việc cá biệt hóa sản phẩm, việc chiếm lĩnh thị phần trong phân đoạn khách hàng mục tiêu chỉ còn có thể thực hiện được thông qua giảm giá, quảng cáo, các hình thức khuyến mãi… Cạnh tranh tất yếu sẽ dẫn đến phá sản hoặc liên kết. Liên kết thường diễn ra giữa các doanh nghiệp có tiềm lực yếu do quy mô nhỏ hoặc mới xuất hiện trên thị trường. Xu hướng sáp nhập và mua lại cũng là hệ quả của quá trình cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm. Đặng Thanh Phong 11 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  15. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Tuy nhiên, liên kết hay sáp nhập không chỉ là tất yếu mà còn là nhu cầu của thị trường bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm cần có lượng vốn đủ lớn để có thể đáp ứng các nhu cầu bảo hiểm gia tăng cả về số lượng cũng như quy mô của thị trường. Các hoạt động tài chính do các công ty bảo hiểm tiến hành cũng cần một khối lượng vốn lớn để chuyên nghiệp hoá nghiệp vụ này tại các công ty bảo hiểm. 2.2 Những đặc trưng riêng Ngoài các đặc trưng chung cơ bản trên, thị trường bảo hiểm còn có những đặc điểm rất riêng so với các thị trường khác. 2.2.1 Thị trường bảo hiểm là nơi trao đổi một loại hàng hoá đặc biệt Những người mua và người bán tham gia mua và bán thứ hàng hoá mà người ta không hề mong đợi nó xảy ra, đó là rủi ro. Người mua không mong nó xảy ra vì nó làm gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Anh ta trả tiền cho công ty kinh doanh bảo hiểm để đổi lấy sự an tâm và mong muốn được đảm bảo trước một rủi ro không lường trước được trong tương lai. Cũng như vậy, người bán không mong muốn rủi ro xảy ra vì anh ta phải trả tiền bồi thường, phải tiến hành các hoạt động xác minh, giám định. Tuy nhiên, chính những rủi ro, những sự bấp bênh, tai nạn và thảm họa ấy lại chính là cơ sở để hình thành thị trường bảo hiểm, là cơ sở cho hoạt động của hàng nghìn hãng kinh doanh bảo hiểm lớn nhỏ hiện nay. Ngoài ra, hàng hoá mua bán trên thị trường bảo hiểm là loại hàng hoá không có bản quyền và không được bảo hộ bản quyền. Chính vì thế, các sản phẩm bảo hiểm của các công ty khác nhau thường giống nhau về các điều khoản, chế độ bồi thường, trách nhiệm và nghĩa vụ… Tóm lại, hàng hoá lưu thông trên thị trường này có những đặc điểm rất khác biệt so với những hàng hoá thông thường khác. Việc xác định tính chất và đặc điểm của sản phẩm giúp xác định đối tượng khách hàng mục tiêu, các Đặng Thanh Phong 12 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  16. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam phương thức tiếp cận khách hàng, đồng thời có các chiến lược về giá cả, về sản phẩm cho phù hợp. 2.2.2 Thị trường bảo hiểm là thị trường dịch vụ tài chính và có liên quan mật thiết với nguồn vốn xã hội Mặc dù kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là rủi ro, song thị trường bảo hiểm lại là một thị trường dịch vụ tài chính. Các hoạt động mua bán bảo hiểm, những thăng trầm của thị trường luôn đồng nghĩa với việc nguồn cung cầu vốn trên thị trường nhiều hay ít, mức đầu tư của xã hội lớn hay nhỏ. Hoạt động kinh doanh của những người bán – các hãng bảo hiểm là thu phí từ một số lượng lớn người tham gia bảo hiểm, việc kinh doanh và thu phí này dẫn đến tập trung một số lượng vốn lớn trong tay các hãng bảo hiểm, nhàn rỗi trong một khoảng thời gian nhất định. Từ đó, các hãng bảo hiểm dùng nguồn vốn này tiến hành đầu tư trở lại nền kinh tế chẳng hạn như mua cổ phiếu, trái phiếu, đầu tư vào các dự án để thu lợi nhuận. Tại Việt Nam, các hoạt động này ngày càng được các doanh nghiệp bảo hiểm chú trọng, cải thiện và đang nhận được sự quan tâm đúng mức. Thông qua hoạt động đa dạng hoá đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm đã thu được nhiều kết quả quan trọng từ đầu tư tài chính; hoạt động đầu tư tài chính từ đó tạo nên phần lớn lợi nhuận cho các doanh nghiệp bảo hiểm và trở thành xương sống nâng đỡ cho các doanh nghiệp bảo hiểm, nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Đồng thời, hoạt động này cũng là một trong những nguồn cung vốn quan trọng cho nền kinh tế. Hình 1: Cơ cấu đầu tƣ của các doanh nghiệp bảo hiểm theo danh mục đầu tƣ 2003 – 2004 (đơn vị: tỷ đồng) Đặng Thanh Phong 13 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  17. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 25000 Bất động sản, 2.140 cho vay, uỷ thác đầu tư 20000 832 Cổ phiếu, trái 15000 1.183 phiếu doanh 439 nghiệp 20.030 10000 12.980 Gửi tiền tại các tổ chức tín 5000 dụng, trái phiếu chính phủ 0 2003 2004 Nguồn: Tổng quan thị trường Bảo hiểm Việt Nam năm 2004 – Bộ tài chính Chính vì có đặc điểm này, một số loại hình bảo hiểm như bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm an sinh giáo dục… vừa mang tính chất là một sản phẩm bảo hiểm vừa mang tính chất là một hình thức tiết kiệm và huy động tiết kiệm trong dân chúng. Tỷ lệ phí bảo hiểm do đó cũng thường gắn bó trực tiếp với tỷ lệ lãi suất ngân hàng và mức lạm phát của nền kinh tế. Một hệ quả quan trọng nữa, chính vì thị trường bảo hiểm là thị trường dịch vụ tài chính và có ảnh hưởng quan trọng đối với nền kinh tế xã hội nên cho dù ở bất cứ đâu, nó cũng chịu sự kiểm tra, kiểm soát rất chặt chẽ của Nhà nước. Nhà nước thường can thiệp khá sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các cơ quan chuyên trách trong chính phủ xét duyệt biểu phí, xác định giới hạn trách nhiệm bảo hiểm phải bồi thường trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự, quyết định hình thức tham gia – bắt buộc hay tự nguyện. Chỉ có ở thị trường bảo hiểm, người mua mới bị bắt buộc mua – tham gia bảo hiểm. Cũng chính vì lẽ này, các nước thường rất thận trọng và tính toán kỹ trong quá trình hội nhập thị trường bảo hiểm của mình. 3. Phân loại thị trƣờng bảo hiểm Đặng Thanh Phong 14 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  18. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Cách thức và tiêu chí phân loại luôn luôn gắn liền với mục đích nghiên cứu; phân loại thị trường bảo hiểm cũng vậy. Trong mỗi một thị trường chung lại có những thị trường riêng. Chẳng hạn, khi chúng ta nói đến thị trường bảo hiểm Bắc Mỹ, thì Bắc Mỹ là một thị trường bảo hiểm so với thị trường bảo hiểm Tây Âu, Đông Bắc Á… Tuy nhiên, trong thị trường bảo hiểm Bắc Mỹ lại bao gồm nhiều thị trường nhỏ như thị trường bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm thương mại… 3.1 Phân loại theo tiêu chí địa lý Cách phân loại thị trường Bắc Mỹ, thị trường Tây Âu, Đông Bắc Á như trên là phân loại theo khu vực địa lý. Tại mỗi khu vực có thể phân loại ở cấp nhỏ hơn nữa như thị trường bảo hiểm Hoa Kỳ, thị trường bảo hiểm Canada, thị trường bảo hiểm Đức, Nhật… Bằng cách phân loại này, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể xác định các đơn vị thị trường mục tiêu cho mình vì suy cho cùng, mỗi khu vực thị trường phân chia theo khu vực địa lý đều có những đặc điểm tương đồng nhất định về tâm lý, nhân khẩu, về thói quen tiêu dùng hay về thu nhập. 3.2 Phân loại theo đặc điểm sản phẩm Các sản phẩm bảo hiểm vô cùng phong phú và đa dạng, các sản phẩm này phát triển từng ngày theo yêu cầu cũng như trình độ phát triển của đời sống xã hội. Theo đó, chúng ta có thể phân loại thành thị trường bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, bảo hiểm thương mại, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế… Việc phân loại này nhằm mục đích xem xét sâu hơn các khía cạnh của từng thị trường trên cơ sở phân tích kỹ hơn đặc điểm của sản phẩm, thói quen tiêu dùng, và các biện pháp thúc đẩy cầu của thị trường, giúp các hãng kinh doanh bảo hiểm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Đặng Thanh Phong 15 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  19. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Trong khuôn khổ của khóa luận này, chỉ xin tập trung nghiên cứu thị trường bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm thương mại – hai loại hình sản phẩm có ảnh hưởng lớn và sâu sắc nhất tới nền kinh tế và có liên quan chặt chẽ với khái niệm thị trường và mở cửa thị trường như được đề cập trong tên đề tài. 3.2 Phân loại theo nhân khẩu học Phân chia thị trường theo nhân khẩu học là phương pháp tiên tiến và tổng hợp. Nó dựa trên một loạt các yếu tố về giới, tuổi, quy mô gia đình, chu kỳ sống, thu nhập, trình độ văn hóa, tôn giáo, dân tộc… Những tiêu chí này có liên quan trực tiếp tới việc xác định các đối tượng khách hàng tham gia thị trường bảo hiểm, có thể là khách hàng tiềm năng, khách hàng hiện tại hay khách hàng tương lai… Thông qua phương pháp phân loại theo nhân khẩu học, các hãng bảo hiểm có thể đề ra những chính sách nhất định nhằm lôi kéo họ tham gia vào thị trường của mình. Ngoài các tiêu chí trên, thị trường bảo hiểm cũng có thể phân loại theo tâm lý, theo hành vi người tiêu dùng… III. XU HƢỚNG HỘI NHẬP CỦA NGÀNH BẢO HIỂM TRONG NỀN KINH TẾ TOÀN CẦU HOÁ CỦA THẾ GIỚI 1. Tính tất yếu của hội nhập ngành bảo hiểm Trước hết, xu thế hoà bình, hội nhập, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi thiết yếu, các nước đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế và thực hiện chính sách mở cửa. Các nền kinh tế ngày càng gắn bó và phụ thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Các thể chế đa phương thế giới và khu vực có vai trò ngày càng tăng. Toàn cầu hóa chính là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Trong hoàn cảnh đó, lĩnh vực dịch vụ tài chính đóng vai trò quan trọng, đòi hỏi mỗi quốc Đặng Thanh Phong 16 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
  20. Mở cửa thị trường bảo hiểm của một số nước trong khu vực và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam gia, chính phủ và mỗi ngành của nền kinh tế quốc dân phải có những điều chỉnh thích hợp, theo hướng từng bước hoà nhập vào khuôn khổ pháp lý, cơ cấu tổ chức, trình độ phát triển của thế giới và khu vực. Chính vì thế, các nước đang phải xây dựng cho mình những chính sách kinh tế, tài chính phù hợp và hợp lý, cho phép thúc đẩy sự tự do hoá dịch vụ tài chính để sao cho theo kịp với nhịp độ hợp tác và hội nhập của khu vực cũng như thế giới. Thứ hai, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin ở thế kỷ trước và công nghệ sinh học dự kiến sẽ xảy ra trong thế kỷ này là hai động lực chính dẫn đến những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế chính trị loài người. Các nước gắn kết lại gần nhau hơn dẫn tới hình thành các mạng liên kết toàn cầu. Những thành tựu do những tiến bộ khoa học đó mang lại đã thúc đẩy hơn nữa quá trình hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế. Ngành bảo hiểm với những đặc trưng của mình cũng không thể đứng ngoài xu thế này. Thứ ba, trong bối cảnh các nước đều ưu tiên cho phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, xuất phát từ đòi hỏi khách quan trong nội tại nền kinh tế của mình, hội nhập trong ngành bảo hiểm rất đáng được quan tâm chú ý trong hội nhập dịch vụ tài chính nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư, tranh thủ công nghệ và kinh nghiệm của nước ngoài tạo bước đột phá phát triển cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ tư, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là ngành dịch vụ mang tính quốc tế sâu sắc. Điều đó xuất phát từ bản chất bảo hiểm theo nguyên tắc phân bổ rủi ro trong số đông, không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà có thể di chuyển giữa nhiều nước với nhau, có liên quan đến quyền lợi của các tổ chức và cá nhân thuộc nhiều quốc gia khác nhau, điển hình như trong bảo hiểm xuất nhập khẩu, tái bảo hiểm. Thứ năm, thế giới ngày nay đang đứng trước những nguy cơ lớn mang tính toàn cầu như khủng bố, thiên tai, bệnh dịch… Hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức, cá nhân cũng như tính mạng của con người luôn luôn Đặng Thanh Phong 17 Lớp: Anh 13 – K41D - KTNT
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2