Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ
lượt xem 39
download
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ khái quát thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt nam. Thực trạng các công cụ quản lý nhà nước đối với thị trường dịch vụ bán lẻ. Đồng thời làm rõ cam kết của Việt nam trong WTO về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp bán lẻ nhằm phù hợp với tình hình phát triển thị trường và tuân thủ các cam kết WTO.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH QUỐC TẾ -------***------- KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP Đề tài: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ TRÊN THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ BÁN LẺ Sinh viên thực hiện : Phạm Thị Kim Ngân Lớp : Anh 2 Khóa : 44 Giáo viên hướng dẫn : TS. Lê Thị Thu Thủy Hà Nội, tháng 05/2009
- Lời nói đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại thế giới WTO, thể hiện sự hội nhập mạnh mẽ và toàn diện với thế giới thông qua các cam kết cụ thể cả trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Trong đó, các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối của Việt Nam được đánh giá là khá mạnh mẽ. Vì vậy ngành dịch vụ bán lẻ của Việt Nam sẽ chịu nhiều tác động từ quá trình mở cửa thị trường trong lộ trình thực hiện các cam kết này. Ở thời điểm hiện tại, theo như lộ trình cam kết, Việt Nam đã chính thức mở cửa thị trường bán lẻ bằng việc cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực phân phối kể từ ngày 1/1/2009. Một số tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã có những bước đi đầu tiên khá vững chắc tại thị trường Việt Nam; một số khác đang chuẩn bị cho những kế hoạch lớn, dài hơi với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường bán lẻ hấp dẫn số một này – như họ đã làm và từng thành công tại nhiều quốc gia khác. Đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các “người khổng lồ” trên thị trường bán lẻ thế giới, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam rất dễ bị tổn thương trong điều kiện còn yếu kém về nhiều mặt. Để trụ vững trên chính sân nhà, dù năng lực cạnh tranh còn yếu, nhưng nếu có sự hỗ trợ thích hợp từ Nhà nước thông qua các công cụ quản lý Nhà nước hợp lý, hiệu quả, chắc chắn các doanh nghiệp sẽ thêm lớn mạnh. Trong điều kiện hiện nay, các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam có nhiều ý kiến lo ngại rằng vẫn còn nhiều vướng mắc trong công tác quản lý Nhà nước như hệ thống các định chế pháp lý chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu các cơ chế chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phát triển…Vì vậy việc nghiên cứu tìm hiểu tác động của các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với thị trường dịch vụ bán lẻ và tìm kiếm giải pháp để một mặt nâng cao hiệu quả quản lý nhằm phát triển thị trường đang phát triển sôi động này, một mặt tuân thủ các cam kết của WTO là cần thiết. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề trên, người viết xin lựa chọn nghiên cứu 1
- đề tài khóa luận tốt nghiệp “Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam sau khi Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ bán lẻ”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: - Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích khái quát thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam, thực trạng các công cụ quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ bán lẻ, đồng thời làm rõ các cam kết của Việt Nam trong WTO về mở cửa thị trường dịch vụ phân phối, khóa luận đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ nhằm phù hợp với tình hình phát triển thị trường và tuân thủ các cam kết WTO. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, khóa luận có nhiệm vụ sau: + Làm rõ một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ, quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp bán lẻ. + Tìm hiểu kinh nghiệm thành công của một số quốc gia trong công tác quản lý Nhà nước với thị trường dịch vụ bán lẻ + Phân tích, đánh giá thực trạng các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam và tác động của các cam kết WTO đối với thị trường bán lẻ. + Phân tích các công cụ quản lý Nhà nước hiện nay đối với các doanh nghiệp trên thị trường bán lẻ Việt Nam. + Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp bán lẻ. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích các công cụ quản lý Nhà nước, trong đó tập trung vào công cụ hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam. 2
- 4. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để hoàn thiện khóa luận, người viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp: hệ thống hóa, thống kê, phân tích, lý luận logic, so sánh. 5. Kết cấu khóa luận: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung khóa luận chia làm 3 chương: Chương I: Quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ Chương II: Thực trạng quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường Việt Nam Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam Người viết xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Lê Thị Thu Thủy, khoa Quản trị kinh doanh, cùng các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại thương đã cho em những kinh nghiệm bổ ích trong nghiên cứu khoa học cũng như đã dành thời gian quý báu, chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp này. Trong quá trình nghiên cứu do còn hạn chế về trình độ nghiên cứu, thông tin, tài liệu tham khảo nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Người viết mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và bạn đọc. Hà Nội, tháng 5 năm 2009. Sinh viên Phạm Thị Kim Ngân 3
- CHƢƠNG I: QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP BÁN LẺ 1.1 Những vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ 1.1.1 Khái niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ Có nhiều định nghĩa khác nhau về bán lẻ, trong đó có một số định nghĩa tiêu biểu sau đây: Theo định nghĩa của Philip Kotler: Bán lẻ là mọi hoạt động nhằm bán hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng cho cá nhân, không mang tính thương mại1 Bất kỳ một tổ chức nào làm công việc này cũng là một tổ chức bán lẻ, bất kể hàng hóa hay dịch vụ đó được bán như thế nào (bán trực tiếp, qua bưu điện, qua điện thoại, hay qua máy bán hàng tự động) và ở đâu (trong cửa hàng, trên đường phố hay tại nhà người tiêu dùng). Theo khoản 8, điều 3, Nghị định 23/2007/NĐ-CP ban hành ngày 12/2/2007 của Chính phủ Quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: Bán lẻ là hoạt động bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Trong văn bản giải thích của mình đối với Danh sách phân loại sản phẩm trung tâm CPC, Ban Thống kê của Liên Hợp Quốc đưa ra định nghĩa các dịch vụ bán lẻ là “bán hàng hóa cho người tiêu dùng cá nhân hay hộ gia đình bao gồm các dịch vụ kèm theo việc bán các hàng hóa đó (các dịch vụ bán lẻ)”2 Từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra định nghĩa: Bán lẻ bao gồm việc bán hàng hóa cho cá nhân hoặc hộ gia đình để họ tiêu dùng, tại một địa điểm cố định, hoặc không tại một địa điểm cố định mà qua các dịch vụ liên quan3. 1 Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 314 2 http://unstats.un.org/unsd/cr/registry/regcs.asp?Cl=9&Lg=1&Co=6 3 http://en.wikipedia.org/wiki/Retail 4
- Để hiểu được thế nào là doanh nghiêp bán lẻ, trước tiên ta phải hiểu thế nào là doanh nghiệp. Khoản 1, điều 4, Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Như vậy bất kỳ doanh nghiệp nào thực hiện hoạt động kinh doanh bán lẻ thì cũng được gọi là doanh nghiệp bán lẻ. Các doanh nghiệp bán lẻ hay các nhà bán lẻ có đủ loại quy mô và hình thức, và luôn luôn xuất hiện thêm những kiểu bán lẻ mới. Dù bán hàng cho một trong những giai tầng xã hội hay cho thị trường đại chúng, qua năm tháng những người bán lẻ đều có chung một ý nghĩ là họ phải làm việc trong những điều kiện của một môi trường biến đổi cực kỳ nhanh. Những công thức bán lẻ của ngày hôm qua có thể không còn phù hợp trong ngày hôm nay và chắc chắn không phù hợp cho ngày mai nữa. Các chức năng phân phối do các nhà bán lẻ thực hiện có thể phối hợp theo nhiều cách khác nhau để tạo ra các dạng mới của bán lẻ. Có thể phân loại những nhà bán lẻ theo một số các tiêu thức sau đây4: A. Theo quyền sở hữu: 1. Cửa hàng độc lập 2. Các tổ chức bán lẻ nhiều cửa hàng (cửa hàng chuỗi, chi nhánh) 3. Các cửa hàng bán lẻ của nhà sản xuất 4. Các cửa hàng bán lẻ của người tiêu dùng 5. Các cửa hàng bán lẻ của nông dân 6. Các cửa hàng bán lẻ do Nhà nước quản lý 7. Cửa hàng của các công ty phúc lợi công cộng B. Theo loại hình kinh doanh 1. Cửa hàng bách hóa tổng hợp 2. Cửa hàng kinh doanh theo nhóm hàng 3. Cửa hàng chuyên doanh 4 Trương Đình Chiến – GS.PTS Nguyễn Văn Thường (1999), Quản trị hệ thống phân phối sản phẩm, NXB Thống kê, Trang 50-52. 5
- C. Theo mức độ liên kết dọc 1. Không có quan hệ liên kết (Chỉ có chức năng bán lẻ) 2. Liên kết với chức năng bán buôn 3. Liên kết với chức năng sản xuất D. Theo hình thức pháp lý của tổ chức 1. Cùng một chủ sở hữu 2. Quan hệ thành viên 3. Quan hệ hợp tác E. Theo phương thức tiếp xúc với khách hàng 1. Cửa hàng bình thường 2. Bán hàng qua thư 3. Bán hàng trực tiếp tại nhà F. Theo địa điểm 1. Cửa hàng ở thành phố lớn - Cửa hàng ở trung tâm - Cửa hàng ở ngoại ô 2. Cửa hàng ở thành phố nhỏ 3. Cửa hàng ở vùng nông thôn 4. Điểm bán hàng cạnh đường H. Theo mức độ cung cấp dịch vụ cho khách hàng 1. Bán lẻ dịch vụ đầy đủ 2. Bán lẻ dịch vụ hạn chế 3. Tự phục vụ Ngoài ra, trong khu vực bán lẻ còn có nhiều cửa hàng “gia đình” rất nhỏ: Những doanh nghiệp của người bán lẻ nhỏ giữ một vai trò quan trọng vì một số nguyên nhân sau: - Ở đó thường xuất hiện những hình thức bán lẻ mới mà sau đó được các cửa hàng lớn áp dụng. 6
- - Các cửa hàng này rất thuận tiện cho người tiêu dùng vì nó có mặt ở khắp mọi nơi - Thường nó có đặc điểm là có khả năng thích ứng cao và dành cho người tiêu dùng những dịch vụ rất đặc biệt - Họ tạo cho người mua cảm thấy mình là chủ 1.1.2. Vị trí, chức năng của doanh nghiệp bán lẻ: 1.1.2.1. Vị trí của dịch vụ bán lẻ trong dịch vụ thương mại Dịch vụ bán lẻ là một bộ phận nằm trong lĩnh vực dịch vụ phân phối của ngành dịch vụ thương mại. Theo cách hiểu của WTO, họ không đưa ra khái niệm, định nghĩa về dịch vụ, dịch vụ thương mại và thương mại dịch vụ. Thay vì đưa ra các khái niệm này, WTO dành sự quan tâm cho những quy định về các phương thức cung ứng dịch vụ thương mại giữa các nước thành viên. Vì dịch vụ đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thương mại quốc tế, tại vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên GATT đã đồng ý đưa dịch vụ vào nội dung đàm phán. Và cũng vì dịch vụ là lĩnh vực nhạy cảm so với hàng hóa hữu hình, cho nên, để điều chỉnh các hoạt động thương mại dịch vụ, kết thúc vòng đàm phán Urugoay, các nước thành viên đã ký một hiệp định đa biên dành riêng cho thương mại dịch vụ, đó là Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (Tiếng Anh là General Agreement on Trade Services, viết tắt là GATS). Để cụ thể hóa hơn nữa các loại hình dịch vụ mà Hiệp định GATS điều chỉnh, WTO đưa ra danh mục phân loại các dịch vụ theo ngành (Services Sectorial Classification List – GNS/W/120). Về cơ bản, phân loại dịch vụ của WTO dựa theo CPC (Danh mục phân loại các sản phẩm chủ yếu - Central Products Classification). WTO phân loại dịch vụ dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Toàn bộ lĩnh vực dịch vụ được chia ra 12 ngành. Mỗi ngành dịch vụ lại được chia ra các phân ngành, trong các phân ngành có liệt lê các hoạt động dịch vụ cụ thể. Việc phân loại dịch vụ theo WTO rất thích hợp cho việc xúc tiến đàm phán về mở của thị trường dịch vụ quốc tế. GATS điều chỉnh dịch vụ bán lẻ là một trong các lĩnh vực của dịch vụ phân phối - bao gồm các dịch 7
- vụ đại lý ăn hoa hồng, các dịch vụ thương mại bán buôn, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ cấp quyền kinh doanh, các dịch vụ phân phối khác. 1.1.2.2. Vị trí của doanh nghiệp bán lẻ trong hệ thống phân phối Phân phối là quá trình lưu thông hàng hóa từ nhà chế tạo/sản xuất hay nhập khẩu tới các nhà phân phối trực tiếp/các đại lý bán hàng; hay các công ty thương mại, các đối tác thu mua tới tay người tiêu dùng/các khách hàng kinh doanh, nhà chuyên môn (các trung gian phân phối). Dù hoạt động phân phối có thể do chính người sản xuất thực hiện hay do các trung gian đảm nhiệm theo yêu cầu của người sản xuất, nó luôn được coi là chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng, hoạt động phân phối được thể hiện chủ yếu tại các cửa hàng bán lẻ. Vậy nhà bán lẻ là mắt xích cuối cùng của quá trình biến đổi, vận chuyển, dự trữ và đưa hàng hóa, dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Vị trí đó được thể hiện trong sơ đồ các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ cuối cùng sau đây: Sơ đồ 1: Các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất cho tới ngƣời tiêu thụ cuối cùng5 5 Bộ Công thương. Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại (2008), WTO và hệ thống phân phối Việt Nam, NXB Lao động, trang 6 8
- 1.1.2.3. Chức năng của doanh nghiệp bán lẻ: Nhà bán lẻ là một trung gian trong hệ thống phân phối, do đó nhà bán lẻ mang đầy đủ chức năng của một thành viên trong kênh phân phối6: - Thứ nhất, nghiên cứu, thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo thuận lợi cho việc trao đổi - Thứ hai, kích thích tiêu thụ - soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hóa - Thứ ba, thiết lập các mối liên hệ - tạo dựng và duy trì mối liên hệ với những người mua tiềm ẩn. - Thứ tư, hoàn thiện hàng hóa – làm cho hàng hóa đáp ứng được yêu cầu của người mua. - Thứ năm, tiến hành thương lượng – những việc thỏa thuận về giá cả và những điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng - Thứ sáu, tổ chức lưu thông hàng hóa – vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng hóa - Thứ bảy, đảm bảo kinh phí – tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các chi phí hoạt động - Chấp nhận rủi ro – gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh. Việc thực hiện năm chức năng đầu hỗ trợ cho nhà bán lẻ ký kết các hợp đồng, còn việc thực hiện ba chức năng còn lại thì hỗ trợ cho việc hoàn tất thương vụ đã ký kết. 1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp bán lẻ: Để làm rõ hơn cách phân loại các nhà bán lẻ đã được đề cập ở phần 1 về khái niệm bán lẻ và doanh nghiệp bán lẻ, người viết xin phân tích cụ thể hơn các phương thức phân loại cửa hàng bán lẻ và đặc điểm của các loại hình bán lẻ đó: 1.1.3.1. Phân loại theo mức độ cung cấp dịch vụ 6 Philip Kotler (2007), Marketing căn bản, NXB Lao động – xã hội, trang 289 9
- Theo số lượng dịch vụ nhà bán lẻ cung cấp, người ta chia thành 4 loại: những cửa hàng bán lẻ tự phục vụ, những cửa hàng bán lẻ tự do lựa chọn hàng hóa có người bán hàng để giúp đỡ, cửa hàng bán lẻ phục vụ hạn chế, cửa hàng bán lẻ phục vụ đầy đủ Bảng 1: Phân loại loại hình bán lẻ theo chỉ tiêu khối lƣợng dịch vụ cho ngƣời tiêu dùng Tự phục vụ Tự do lựa chọn Phục vụ hạn chế Phục vụ đầy đủ Đặc - Số dịch vụ tối - Số dịch vụ hạn - Có nhiều dạng - Có rất nhiều điểm thiểu: Người tiêu chế: Có người bán dịch vụ: Mức độ dạng dịch vụ: nổi bật dùng sẵn sàng tự hàng giúp đỡ giúp đỡ cao hơn từ Dịch vụ chăm tìm, so sánh và lựa - Giá cả hấp dẫn phía nhân viên, sóc khách hàng chọn hàng hóa - Bán những mặt người tiêu dùng tốt - Giá cả hấp dẫn hàng chủ yếu được hưởng dịch - Bán hàng thời - Bán những mặt thường dùng vụ bán trả góp thượng hàng chủ yếu, - Bán những mặt hoặc trả lại hàng - Bán những mặt thường dùng hàng thường ngày đã mua hàng cho nhu cầu - Bán những mặt đặc biệt hàng cần lựa chọn trước Ví dụ - Cửa hàng kem Cửa hàng hạ giá, Bán hàng lưu Cửa hàng chuyên bán lẻ, cửa hàng cửa hàng tạp hóa, động, cửa hàng doanh, cửa hàng thực phẩm, cửa cửa hàng bán qua bách hóa, cửa bách hóa tổng hàng hạ giá, cửa bưu điện hàng bán qua điện hợp hàng bán qua bưu thoại, cửa hàng tạp điện, máy bán hóa hàng tự động 1.1.3.2. Phân loại theo chủng loại hàng hóa được bán Theo nghĩa rộng ra có thể nói về chiều rộng và mức độ phong phú của chủng loại hàng hóa và dựa vào những đặc điểm đó để phân ra những kiểu cửa hàng chủ 10
- yếu: cửa hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hóa tổng hợp, cửa hàng bán hàng tiêu dùng thường ngày, phức hợp thương mại. - Cửa hàng chuyên doanh: bán một số chủng loại hàng hóa thuộc dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu, nhưng rất phong phú.Ví dụ cửa hàng quần áo, cửa hàng chỉ bán giày thể thao, cửa hàng chỉ bán máy tính. - Cửa hàng bách hóa tổng hợp: bán một số nhóm chủng loại hàng, mỗi nhóm chủng loại do một bộ phận cửa hàng chuyên trách. Đứng đầu các bộ phận này là người thu mua hay người bán. - Các siêu thị: Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng. - Cửa hàng phục vụ nhu cầu thường ngày: Thường là các cửa hàng thực phẩm có quy mô tương đối nhỏ và nằm ở gần các khu dân cư, mở cửa tất cả các ngày trong tuần và đến khuya, bán một số chủng loại hàng thông dụng thường ngày với tốc độ quay vòng cao. Các cửa hàng này làm việc kéo dài và chủ yếu phục vụ người tiêu dùng trong trường hợp “chữa cháy” nên thường bán với giá tương đối cao hơn. Nhưng chúng đáp ứng được một trong những nhu cầu tiêu dùng quan trọng và người ta sẵn sàng trả giá cho những sự thuận tiện đã tạo ra cho họ. Hiện nay mô hình cửa hàng này ở Việt Nam còn được biết đến với tên gọi cửa hàng tiện ích, cửa hàng tiện dụng. Ngoài ra trong lĩnh vực bán lẻ hàng tiêu dùng còn xuất hiện mô hình “cây xăng – cửa hàng”. Các cửa hàng bán lẻ này nằm kế bên trạm xăng, và người mua xăng có thể kết hợp mua rất nhiều mặt hàng tiêu dùng thường ngày như bánh mì, sữa, thuốc lá, bánh ngọt, cà phê… - Siêu thị liên hợp, siêu thị bách hóa và các tổ hợp thương mại: kiểu cửa hàng vượt hơn hẳn siêu thị thông thường về quy mô. Siêu thị liên hợp là dạng siêu thị với chủng loại hàng được mở rộng do có bán cả thuốc không cần toa và thuốc theo toa. Siêu thị bách hóa có quy mô diện tích lớn hơn siêu thị thông thường , cố gắng thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm cũng như về hàng hóa không phải thực phẩm thường dùng. Ở các siêu thị bách hóa chính vì chủng loại mặt 11
- hàng rộng nên giá cả thường cao hơn so với giá ở các siêu thị thông thường. Tổ hợp thương mại vượt cả những siêu thị bách hóa về quy mô và diện tích, bao gồm siêu thị, cửa hàng hạ giá và kho – cửa hàng bán lẻ. Chủng loại mặt hàng vượt ra ngoài phạm vi những hàng hóa thông thường, bao gồm cả đồ gỗ, đồ điện gia dụng lớn và nhỏ, quần áo và rất nhiều các mặt hàng khác. So với mức giá thông thường của các siêu thị bách hóa, các tổ hợp thương mại áp dụng giá có chiết khấu. 1.1.3.3. Phân loại theo sự quan tâm tương đối về giá cả: Có thể phân loại các cửa hàng bán lẻ trên cơ sở hình thành giá cả của chúng. Phần lớn các cửa hàng đều bán hàng theo giá trung bình và mức dịch vụ bình thường cho người tiêu dùng. Một số cửa hàng bán hàng hóa và dịch vụ chất lượng cao và theo giá cao hơn. Ta sẽ xem xét các cửa hàng hạ giá, các mô hình sinh ra từ chúng dưới dạng kho – cửa hàng và cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog: - Cửa hàng hạ giá: bán những hàng hóa tiêu chuẩn theo giá thấp hơn bằng cách giảm định mức lợi nhuận và tăng khối lượng tiêu thụ. Cửa hàng hạ giá thực sự có 5 đặc điểm sau: 1. nó luôn bán hàng theo giá thấp hơn giá thịnh hành ở các cửa hàng có phụ giá cao và tốc độ quay vòng hàng dự trữ chậm; 2. nó coi trọng hàng hóa có nhãn hiệu phổ biến trong toàn quốc nên giá thấp hoàn toàn không phải do chất lượng hàng kém; 3. nó hoạt động theo phương pháp tự phục vụ với những tiện nghi tối thiểu; 4. Nó thường nằm ở khu vực có mức tiền thuê nhà thấp và thu hút người mua từ những nơi tương đối xa; 5. ở đó chỉ lắp đặt thiết bị thương mại đơn giản. - Các kho – cửa hàng: Kho - cửa hàng là một doanh nghiệp thương mại hạ giá với khối lượng dịch vụ hạn chế và bỏ mọi thứ rườm rà với mục đích là bán một khối lượng lớn hàng theo giá hạ, thậm chí trưng bày hàng ngay trong thùng chứa. Đối tượng phục vụ là những người mua phẩm cấp trung bình, quan tâm đến giá hạ và khả năng nhận được hàng ngay. - Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalog: kết hợp các nguyên tắc bán hàng theo catalog và những nguyên tắc bán hàng hạ giá để tiêu thụ nhiều chủng loại hàng hóa có nhãn hiệu bán chạy, thường là với phụ giá cao. Các cửa hàng này xuất bản những cuốn catalog nhiều màu sắc và có thể lấy ở phòng trưng bày. Trong 12
- catalog ghi rõ giá quy định chính thức của từng mặt hàng và giá có chiết khấu của nó. Khách hàng có thể đặt hàng qua điện thoại hay đến gian trưng bày trực tiếp xem sản phẩm và mua những thứ có sẵn. 1.1.3.4. Phân loại theo tính chất của gian hàng: - Bán lẻ theo đơn đặt hàng qua bưu điện hay điện thoại: có các loại hình bán theo đơn đặt hàng căn cứ vào catalog, marketing trực tiếp hoặc gửi thư trực tiếp, bán hàng qua điện thoại. Ngày càng có nhiều phụ nữ đi làm nên đây là các hình thức giúp họ tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại. - Các máy bán hàng tự động: Các máy bán hàng tự động ngày nay đã vượt xa các thế hệ tiền bối của nó với kết cấu thể hiện những thành tựu của kỹ thuật vũ trụ và máy tính. Chúng có thể nhận tiền xu hay tiền giấy và trả lại tiền dư. Máy được đặt ở mặt bằng thuận lợi như các nhà máy, cơ quan, cửa hàng lớn, trạm tiếp xăng và cả trên toa ăn của đường sắt. Đây là một kênh phân phối tương đối đắt và chi phí của người bán khá cao do các máy nằm rải rác khắp nơi trên một địa bàn rộng, cần thường xuyên bổ sung hàng, hay hỏng hóc và một số khu vực còn bị mất cắp vặt. Người tiêu dùng đôi khi khó chịu vì máy hư, không bổ sung hàng kịp thời và không thể trả hàng lại được. - Phục vụ đơn hàng có chiết khấu: hỗ trợ nhóm khách hàng đặc biệt, thường là công nhân viên của những tổ chức lớn như trường học, bệnh viện, đoàn thể, cơ quan nhà nước, mua hàng theo giá có chiết khấu của một số người bán lẻ nhất định. - Bán hàng lưu động: hoạt động theo nguyên tắc đến từng nhà, từng cơ quan hay theo nguyên tắc bố trí những cuộc hẹn mua bán tại nhà. Ví dụ công ty Avon có một ý tưởng độc đáo, xây dựng đội ngũ nhân viên nữ vừa là bạn, vừa là cố vấn cho các bà nội trợ về mỹ phẩm, chào hàng rải khắp thế giới và biến công ty Avon thành công ty mỹ phẩm lớn nhất thế giới và công ty bán hàng lưu động lớn nhất thế giới. 1.1.3.5. Phân loại theo loại hình sở hữu cửa hàng: - Mạng lưới công ty: Là một trong những hiện tượng quan trọng và đáng kể nhất ngành thương nghiệp bán lẻ trong thế kỷ 20. Mạng lưới cửa hàng là hai hay nhiều doanh nghiệp thương mại chung một quyền sở hữu và kiểm soát, bán những chủng 13
- loại hàng tương tự nhau, có chung một bộ phận thu mua và tiêu thụ và cũng có thể có hình thức kiến trúc như nhau. - Các hợp tác xã tiêu thụ: Là công ty bán lẻ thuộc quyền của chính người tiêu dùng, khi dân cư của một cộng đồng nào đó chung tiền mở cửa hàng riêng của mình, cùng xác định những nguyên tắc hoạt động cho cửa hàng và bầu các thành viên của ban quản trị. - Tổ chức của những người có quyền ưu đãi: là sự liên kết theo hợp đồng giữa những người chủ sở hữu quyền ưu đãi (nhà sản xuất, người bán sỉ hay tổ chức dịch vụ) và những người được hưởng quyền ưu đãi (những nhà kinh doanh độc lập, mua quyền sở hữu một hay một số điểm của hệ thống hoạt động trên cơ sở quyền ưu đãi đó). Điểm khác biệt cơ bản của tổ chức này so với các liên kết theo hợp đồng khác (mạng lưới tự nguyện, hợp tác xã bán lẻ) là thường bán một mặt hàng độc đáo, dịch vụ độc đáo, một phương pháp hoạt động kinh doanh, tên thương mại, uy tín hay giấy phép của chủ sở hữu quyền ưu đãi. - Các tập đoàn bán lẻ: hợp nhất một số doanh nghiệp thuộc các hướng khác nhau và hình thức bán lẻ khác nhau vào một mối với sự nhất thể hóa một phần các chức năng phân phối và quản lý. 1.1.3.6. Phân loại theo mức độ tập trung cửa hàng: Nguyên tắc cuối cùng để phân loại các doanh nghiệp bán lẻ là số lượng cửa hàng. Ngày nay phần lớn các cửa hàng tập trung ở những khu thương mại do quy định của các cơ quan chính quyền địa phương phân vùng các hoạt động cũng như vì ý muốn tạo cho người tiêu dùng nhiều khả năng mua sắm tất cả những thứ cần thiết trong một lần đi. Những cửa hàng tập trung vào một chỗ cũng giải quyết nhiệm vụ như các siêu thị và các cửa hàng bách hóa tổng hợp, tiết kiệm thời gian và công sức của người tiêu dùng khi tìm kiếm hàng hóa cần thiết cho mình. Có 4 kiểu tập trung cơ bản: - Khu vực kinh doanh trung tâm - Các trung tâm thương mại khu vực - Các trung tâm thương mại quận, huyện. 14
- - Các trung tâm thương mại phường, xã. 1.2. Quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp bán lẻ 1.2.1. Khái niệm quản lý Nhà nƣớc về kinh tế Quản lý nhà nước về kinh tế là sự tác động có chủ đích của nhà nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của nhà nước, thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính, trên tất cả các lĩnh vực và các thành phần kinh tế.7 Quản lý nhà nước về kinh tế là một tất yếu khách quan của mọi quốc gia, không kể chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước bao giờ cũng có nguồn gốc từ kinh tế, và ngược lại bất kỳ một hoạt động nào của nhà nước cũng, hoặc là thúc đẩy, hoặc là kìm hãm sự phát triển kinh tế. Ngày nay sự cạnh tranh giữa các quốc gia cơ bản là về tiềm lực kinh tế. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo về vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ và duy trì sức mạnh của mỗi quốc gia. Vấn đề quan trọng là mỗi nhà nước phải xác định được phạm vi, mức độ, vai trò của mình trong quản lý kinh tế sao cho phù hợp với bản chất và định hướng chính trị, đồng thời có tri thức và kỹ năng để thực hiện thành công, có hiệu quả vai trò của mình trong thực tế. 1.2.2. Chức năng của quản lý Nhà nƣớc về kinh tế Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là hình thức biểu hiện phương hướng và giai đoạn tác động có chủ đích của nhà nước, là tập hợp những nhiệm vụ khác nhau mà nhà nước phải tiến hành trong quá trình quản lý kinh tế đất nước Thực chất chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhà nước tạo ra và thực hiện một cơ chế hay phương thức quản lý nền kinh tế quốc dân, đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững Phân tích chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là nhằm hiểu được nhà nước phải làm những công việc gì để thúc đẩy nền kinh tế quốc dân phát triển. 7 PGS.TS. Nguyễn Cúc (Chủ biên) (2008), Tập bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, trang 31 15
- Nhận thức rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là cơ sở khách quan để tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế, từ chức năng mà sắp xếp bộ máy và bố trí biên chế về con người. Mặt khác chức năng quản lý nhà nước về kinh tế là những nhiệm vụ tổng quát mà nhà nước phải thực hiện trong từng thời gian nhất định, do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội và do tình hình, điều kiện cụ thể của từng giai đoạn lịch sử quy định. Do đó, nhận thức về chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế cũng không cố định mà luôn biến động và phát triển. Tuy nhiên các chức năng cơ bản, chủ yếu thường ít thay đổi, mà thay đổi thường xuyên là các nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế - các công việc cụ thể hóa chức năng quản lý trong không gian và thời gian nhất định. Các chức năng cơ bản của quản lý nhà nước về kinh tế nước ta được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: 1.2.2.1. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo phương hướng tác động Đại hội VII của Đảng đã chỉ rõ: “Trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp, Nhà nước cần tập trung thực hiện tốt các chức năng quản lý vĩ mô sau đây: - Tạo môi trường và điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh - Dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển - Hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội - Quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia…” 1.2.2.2. Các chức năng quản lý nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động a. Định hướng phát triển kinh tế đất nước: Định hướng phát triển kinh tế là quyết định trước những nhiệm vụ, những mục tiêu và những chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong khoảng thời gian thường là 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn. Đây là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý của nhà nước và các chức năng quản lý khác phải căn cứ vào đó để thực hiện. Chức năng định hướng bao gồm các nội dung chủ yếu sau: 16
- - Xác định các nhiệm vụ, là xác định những công việc phải làm trong khoảng thời gian nhất định để tạo ra sự phát triển kinh tế đất nước. - Xác định mục tiêu dài hạn của phát triển kinh tế đất nước. Đây là nội dung quan trọng của chức năng định hướng, vì mục tiêu là khởi đầu của quản lý, nó chi phối toàn bộ hoạt động quản lý. Xác định mục tiêu đúng còn là cơ sở để xác lập các nguyên tắc và bộ máy quản lý. - Xác định chiến lược phát triển kinh tế: + Các đường lối tổng quát, các chủ trương mà nhà nước sẽ thực thi trong một thời gian đủ dài + Các mục tiêu dài hạn cơ bản của đất nước + Các giải pháp chủ yếu để thu hút và phân bổ các nguồn lực, các tiềm năng trong và ngoài nước, nhằm đạt mục tiêu đã đề ra. b. Lập kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tập hợp các mục tiêu ở cấp quốc gia hay khu vực nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Nhà nước phải xây dựng các kế hoạch phát triển quốc gia dài hạn và trung hạn. Kế hoạch dài hạn kéo dài từ 10 đến 20 năm hoặc lâu hơn, kế hoạch trung hạn kéo dài trong 5 năm, với những mục tiêu và giải pháp cụ thể hơn. Các kế hoạch trung hạn được cụ thể hóa thành kế hoạch hàng năm, kết hợp với hệ thống ngân sách của Chính phủ và có tính đến viện trợ từ bên ngoài đã được phê duyệt, để triển khai thực hiện. Chương trình là tổ hợp các mục tiêu, các chính sách, các thủ tục, các quy tắc, các nhiệm vụ, các bước phải tiến hành, các nguồn lực cần sử dụng và các yếu tố cần thiết khác, để thực hiện một ý đồ lớn, một mục tiêu nhất định về phát triển kinh tế đất nước, vùng và ngành. Chương trình và kế hoạch có quan hệ với nhau và có điểm khác nhau. Chương trình là một bộ phận của kế hoạch, hay một phương thức vận hành của kế hoạch để đưa nhiệm vụ kế hoạch vào thực tế cuộc sống. Chương trình đảm bảo phối hợp một cách đồng bộ các biện pháp liên quan trong việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch đề ra. Chương trình tập trung những nguồn lực hạn hẹp vào giải quyết có 17
- hiệu quả những trọng tâm của kế hoạch nhà nước trong từng thời kỳ, để tạo cơ cấu kinh tế mới. c. Thiết lập khung khổ pháp luật về kinh tế Pháp luật về kinh tế theo nghĩa rộng là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và với các đơn vị hữu quan khác. Luật kinh tế là hành lang an toàn nhất cho các hoạt động kinh tế, đồng thời xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và các đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập cơ sở pháp lý cho các hoạt động và nhà nước thực hiện sự quản lý của mình với các hoạt động đó. d. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các chính sách, các công cụ và các đòn bẩy kinh tế Chính sách là tổng thể các phương thức, biện pháp, phương tiện nhất định, được nhà nước sử dụng, nhằm tác động đến cá nhân, nhóm người, xã hội, để đạt tới các mục tiêu bộ phận, trong quá trình thực hiện các mục tiêu tổng thể phát triển kinh tế xã hội như: - Chính sách tài chính; - Chính sách tiền tệ - tín dụng; - Chính sách kinh tế đối ngoại… đ. Tổ chức và điều hành các hệ thống kinh tế trong nước hoạt động Với chức năng tổ chức sản xuất, nhà nước phải hình thành các đơn vị kinh tế theo ngành, theo vùng, theo thành phần kinh tế và theo loại hình sản xuất – kinh doanh, cũng như các trung tâm khoa học, đào tạo và các đơn vị sự nghiệp, phục vụ cho phát triển kinh tế. Với chức năng điều hành, nhà nước phối hợp hoạt động giữa các cơ quan, đơn vị trong nền kinh tế quốc dân, đảm bảo những mối quan hệ cần thiết trong quá trình thực hiện những mục tiêu kế hoạch của đất nước.. e. Kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế 18
- Chức năng này nhằm kịp thời phát hiện những sai sót, ách tắc, đồng thời phát hiện những cơ hội, vận hội tốt trong quá trình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội của đất nước, giữ đúng định hướng kế hoạch nhà nước đã đề ra. g. Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế: Điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế là những tác động bổ sung của nhà nước đến nền kinh tế, nhằm sửa chữa những sai sót, tận dụng thời cơ để phát triển kinh tế. Điều chỉnh về kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua các công cụ và chính sách quản lý kinh tế, như luật pháp, kế hoạch, chính sách, các đòn bẩy kinh tế… 1.2.3. Các công cụ quản lý Nhà nƣớc đối với hoạt động của doanh nghiệp: Thực chất của quản lý kinh tế vĩ mô là quá trình thiết kế mục tiêu kinh tế và căn cứ vào đó mà sử dụng công cụ quản lý hiện hữu và phương pháp quản lý thích hợp để điều tiết sự vận hành của nền kinh tế quốc dân theo quỹ đạo và mục tiêu đã định. Mục tiêu quản lý đề ra dù có chính xác và khả thi đến đâu đi nữa, nhưng nếu không có công cụ quản lý tương ứng thì cũng không thể thực hiện được, vẫn chỉ là mục tiêu quản lý trên lý thuyết, chứ chưa phải mục tiêu quản lý trong hiện thực Công cụ quản lý nói chung là tất cả mọi phương tiện mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý đã đề ra. Công cụ quản lý của Nhà nước về kinh tế là tổng thể những phương tiện hữu hình và vô hình mà Nhà nước sử dụng để tác động lên mọi chủ thể kinh tế trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế quốc dân. Chính nhờ đó công cụ quản lý kinh tế với tư cách là vật truyền dẫn tác động của quản lý Nhà nước mà nhà nước chuyển tải được ý định và ý chí của mình lên mọi tổ chức và cá nhân sinh sống và hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia và các khu vực phạm vi ảnh hưởng có thể ở bên ngoài. Công cụ quản lý Nhà nước chủ yếu là bằng pháp luật. Bên cạnh đó, một công cụ không kém phần quan trọng đó là sử dụng các chính sách, các đòn bẩy kinh tế tạo điều kiện cho phát triển kinh tế. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận Tốt nghiệp Quản lý môi trưởng & Du lịch sinh thái: Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động du lịch sinh thái đến công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại Vườn Quốc gia Tràm Chim, tỉnh Đồng Tháp
106 p | 896 | 274
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam: Thực trạng và giải pháp
103 p | 838 | 190
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI tại Việt Nam- Thực trạng và giải pháp
103 p | 446 | 118
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý hoạt động dịch vụ tại lễ hội Đền Hùng, tỉnh Phú Thọ
90 p | 365 | 57
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý di tích lịch sử văn hóa đền-chùa Hoàng Thái Hậu Ỷ Lan xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội
9 p | 335 | 49
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý các dịch vụ văn hóa tại khu du lịch Cửa Lò- Nghệ An
10 p | 197 | 42
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng tại Việt Nam
98 p | 162 | 34
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nhà nước về xử lý công trình xây dựng sai phép trên địa bàn quận Hai Bà Trưng - TP Hà Nội
81 p | 143 | 33
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý đất đai
21 p | 303 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý đất đai: Nghiên cứu sự biến động giá đất ở dưới tác động của dự án xây dựng khu đô thị mới trên địa bàn xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội
60 p | 65 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ phân phối hàng hóa ở Việt Nam
105 p | 130 | 16
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý và khai thác nguồn tài liệu nội sinh nhằm phục vụ việc học tập của sinh viên trường Đại học Văn hóa Hà Nội
9 p | 187 | 16
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý nguồn nhân lực văn hóa tại đảo Cát Bà
8 p | 132 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Quản lý kinh tế: Nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ Chubb Việt Nam trên thị trường nội địa
60 p | 26 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý du lịch làng Lương Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa
8 p | 133 | 10
-
Tóm tắt Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý di tích đình Lục Nà xã Lục Hồn, huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh
14 p | 109 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp: Quản lý rủi ro trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Hàng Hải Việt Nam - Chi nhánh Huế
93 p | 85 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn