intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp: Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương

Chia sẻ: Le Duy | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:63

135
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận với mục đích nghiên cứu: luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn về vai trò của FDI đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Trên cơ sở đó đưa ra những quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của FDI đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương

  1. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ  khi Luật Đầu tư  (1987) có hiệu lực, đất nước ta đã có những   bước phát triển mới cả  về  tư  duy và hoạt động trong lĩnh vực kinh tế,   chúng ta đã dần chuyển đổi mô hình kinh tế  tập trung sang n ền kinh t ế  thị trường năng động và phù hợp hơn. Chính vì vậy đã tạo ra môi trường   đầu tư thuận lợi cho các nhà đầu tư  trong nước và nướ c ngoài, đặc biệt   đối với nền kinh tế  còn thiếu nhiều điều kiện và các yếu tố  cấu thành  nền kinh tế, các doanh nghiệp trong n ước còn non trẻ, chưa đủ  mạnh thì  nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài đã giúp chúng ta giải bài toán trong tình  trạng khó khăn đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “  Kinh tế  có vốn đầu tư  nướ c ngoài là một bộ  phận quan trọng của  nền   kinh tế  thị  trường xã hội chủ  nghĩa  ở  nướ c ta, đượ c khuyến khích phát   triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần khác. Thu hút đầu tư  nướ c   ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong   nước, mở  rộng hợp tác kinh tế  quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp   phục   vụ   sự   nghiệp   CNH­   HĐH   phát   triển   của   đất   nước”.   Trong   các  nguồn đầu tư  nước ngoài thì đầu tư  trực tiếp nước ngoài(FDI) là nguồn  vốn quan trọng,   là động lực lớn của quá trình phát triển kinh tế  xã hội   của nước ta trong suốt 29 năm qua. Thực tiễn 30 năm đổi mới có thể  khẳng định đóng góp của FDI vào sự  tăng trưởng của nền kinh t ế  c ủa  nước   ta   với   con   số   không   hề   nhỏ,   tạo   sự   chuyển   biến   l ớn   thúc   đẩy  chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  theo h ướng hi ện  đại, đẩy nhanh quá trình  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
  2. 2 Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế  trọng điểm phía Nam, Bình Dương  luôn được đánh giá là một trong những tỉnh miền Đông Nam bộ  có tốc độ  tăng trưởng kinh tế  khá cao, thực tế  cho thấy Bình Dương có nền kinh tế  phát triển năng động, có chính sách thu hút vốn đầu tư khá hiệu quả và môi   trường đầu tư không ngừng được cải thiện. Chính vì vậy trong những năm  qua Bình Dương luôn là một trong những địa phương đi đầu và đạt được  những kết quả  quan trọng trong thu hút đầu tư  nước ngoài ngay từ  khi có  chủ  trương của Đảng và Nhà nước. Nguồn vốn này đã tạo nên bước đột  phá trong phát triển kinh tế, tác động tích cực đến cán cân xuất nhập khẩu,   đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng GDP của địa phương, tạo sự chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  theo hướng hiện đại, mở  ra nhiều ngành, nghề  sản xuất mới,   xây dựng và phát triển các khu công nghiệp công nghệ  cao, giúp mở  rộng  thị trường và nâng cao kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh. Đồng thời, giúp  các cơ sở kinh tế, các doanh nghiệp của Bình Dương tiếp nhận được công  nghệ và phương pháp quản lý hiện đại, tạo nhiều việc làm, góp phần tăng  thu nhập cho người lao động và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của   địa phương. Tuy nhiên bên cạnh đó, nguồn vốn FDI đầu tư  vào địa bàn của tỉnh  vẫn còn nhiều bất cập tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thật sự  hợp lý giữa các địa phương trong tỉnh, giữa các ngành sản xuất, nhất là tỷ  lệ  đầu tư  vào các ngành có sự  chênh lệch lớn, vì vậy đã làm mất cân đối   trong cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế của tỉnh. Để  phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đối với chuyển dịch cơ cấu   kinh tế  ngành của tỉnh một cách hợp lý và đúng hướng,  cần nghiên cứu  những vấn đề  lý luận và thực tiễn về  vai trò của nó đối với quá trình  chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành của địa phương. Trên cơ sở đó, xác định  
  3. 3 những quan điểm chỉ đạo sát, đúng với yêu cầu thực tiễn, đề ra những biện   pháp cụ thể, khả thi nhằm phát huy vai trò của nguồn vốn FDI đến chuyển  dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương hiện nay, đây là vấn đề có ý  nghĩa cấp thiết cả  về  lý luận và thực tiễn. Vì những lý do đó, tác giả  lựa   chọn đề  tài: “Vai trò đầu tư  trực tiếp nước ngoài đối với chuyển dịch   cơ  cấu kinh tế  ngành  ở  tỉnh Bình Dương”  làm khóa luận tốt nghiệp  chuyên ngành kinh tế chính trị.  2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Vai trò của FDI đối với phát triển kinh tế  của các địa phương trong  cả nước là rất lớn, có những tác động tích cực và cả những hạn chế của nó  chính vì vậy đã có nhiều công trình khoa học,   nhiều bài báo đề  cập đến  vấn đề  này, trong đó liên quan trực tiếp đến đề  tài có các công trình đáng  chú ý sau:  Dưới dạng sách tham khảo và chuyên khảo có: Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả  đầu tư   trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam của PGS, TS Nguyễn Khắc Thân, PGS,  TS Chu Văn Cấp. Các tác giả  đã chỉ  ra xu hướng vận động của luồng tư  bản đầu tư  trực tiếp nước ngoài và thực trạng thu hút đầu tư  trực tiếp  nước ngoài vào Việt Nam  trên cơ sở  đó đề  ra những giải pháp cơ bản về  chính trị, kinh tế nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế ở   Việt Nam của TS Lê Xuân Bá chủ biên xuất bản năm 2006. Tác giả đã phân  tích những tác động của FDI đến nền kinh tế  Việt Nam từ năm 1988 đến  nay, chỉ  rõ vai trò của khu vực FDI với nền kinh tế  nước ta. Bài viết đã   đánh giá một cách tổng quan chính sách thu hút FDI  ở Việt Nam, phân tích  những quan điểm và so sánh chính sách thu hút FDI hiện hành với các nước  
  4. 4 trong khu vực từ  đó đưa ra những kiến nghị  nhằm nâng cao hiệu quả  thu   hút FDI trong thời gian tới. Các hình thức đầu tư  trực tiếp nước ngoài  ở  Việt Nam ­ Chính sách   và thực tiễn  do PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ  chủ  biên, được Nhà xuất bản  Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2007, biên soạn trên cơ  sở  kết   quả  nghiên cứu của đề  tài đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội  Các  hình thức đầu tư  trực tiếp nước ngoài  ở  Việt Nam.  Nội dung cơ  bản của  cuốn sách này bao hàm cơ  sở  lý luận và thực tiễn của lựa chọn các hình  thức  FDI  ở  Việt Nam; các hình thức  FDI  theo luật đầu tư   ở  Việt Nam;  thực trạng các hình thức ĐTNN  ở  Việt Nam và các đề  xuất, khuyến nghị  chính sách đối với từng hình thức FDI ở Việt Nam giai đoạn hiện nay. Dưới dạng luận văn, luận án có các công trình: Những tác động trái chiều của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến đời   sống kinh tế  ­ xã hội  ở  Đồng Nai hiện nay  của tác giả  Nguyễn Thị  Nga,  luận văn thạc sĩ kinh tế, bảo vệ  tại Học viện Chính trị  năm 2011. Công  trình đã luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn về FDI và tác động của  nó đối với sự phát triển KT ­ XH ở quốc gia nhận đầu tư, phân tích những   tác động trái chiều của FDI đến đời sống KT ­ XH ở Đồng Nai. Trên cơ sở  đó, đề xuất một số quan điểm chỉ đạo, giải pháp cơ  bản hạn chế  mặt trái  của FDI đối với sự phát triển KT ­ XH ở Đồng Nai trong thời gian tới. Phát triển kinh tế có vốn đầu tư  nước ngoài ở  tỉnh Bắc Ninh hiện   nay  của tác giả  Phạm Duyên Minh, luận văn thạc sĩ kinh tế, bảo vệ  tại   Học viện Chính trị  năm 2009. Công trình này đã làm rõ những vấn đề  lý  luận và thực tiễn về kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và phát triển kinh tế  có vốn đầu tư nước ngoài, phân tích thực trạng phát triển kinh tế có vốn đầu  tư nước ngoài ở tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, đề xuất những quan điểm cơ bản và 
  5. 5 giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Bắc  Ninh trong thời gian tới.  Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát  triển kinh tế ­   xã hội ở Hải Dương của tác giả Nguyễn Quang Tạo luận văn thạc sĩ kinh  tế, bảo vệ  tại Học viện Chính trị  năm 2013. Công trình này  đã làm rõ  những vấn đề lý luận và thực tiễn về tác động của đầu tư  trực tiếp nước   ngoài, phân tích thực trạng tác động của đầu tư  trực tiếp nước ngoài đến  phát triển kinh tế  ­ xã hội đồng thời đưa ra những quan điểm cơ  bản và   giải pháp chủ yếu phát huy những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu   cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến phát triển kinh tế ­ xã hội ở Hải   Dương. Dưới dạng các tạp chí có công trình: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam dưới tác động   của hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu  của tác giả  Nguyễn Quốc Toản, đăng trên Tạp chí Cộng sản số 877­ 11/2015[ Tr8­11].   Tác giả đã phân tích và đưa ra những nhận định về  hoạt động đầu tư  trực   tiếp nước ngoài ở nước ta dưới tác động của hiệp định thương mại tự do.   Bài viết đã đánh giá thực trạng bất cập của FDI đối với nền kinh tế nước   ta đồng thời đưa ra một số  giải pháp nhằm nhận diện cũng như  tháo gỡ  những bất cập và tồn tại của FDI trong thời gian tới. "Tổng kết 20 năm Luật Đầu tư  nước ngoài tại Việt Nam”   của tác  giả  Phan Hữu Thắng, đăng trên Tạp chí Kinh tế  và dự  báo, số  1/2008 đã  khái quát kết quả  FDI  ở  Việt Nam 20 năm qua; đánh giá tác động của  ĐTNN trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường; đồng thời nêu ra   một số vấn đề có tính định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn 2006 ­ 2010  ở 
  6. 6 nước ta.   “Thực trạng và triển vọng phát triển kinh tế  có vốn đầu tư  nước   ngoài  ở  Việt Nam  ”  của tác giả  Hồ  Thanh Thuỷ, công bố  trên Tạp chí   Kinh tế  châu Á ­ Thái Bình Dương, số  23/2005 đã khái quát kết quả  đạt   được và những mặt tồn tại, hạn chế  của khu vực kinh tế  có vốn ĐTNN   sau 17 năm thực hiện Luật ĐTNN; nêu dự báo về  khả năng cải thiện môi   trường đầu tư  và triển vọng thu hút ĐTNN của Việt Nam trong thời gian   tới. Ngoài ra, có thể tìm thấy nhiều bài viết trong đó đăng tải: những ý   kiến nhận định, những số liệu thực tiễn, những chính sách, các quyết định   về hoạt động của FDI trên các trang website của Tỉnh ủy Bình Dương, Sở   Kế  hoạch và Đầu tư  tỉnh Bình Dương… với những tiêu đề  phong phú, đa   dạng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập  một cách hệ thống, toàn diện về vai trò của FDI đối với CDCCKT ngành trên  địa bàn tỉnh Bình Dương. Điều này đồng nghĩa với việc khẳng định sự không  trùng lắp về  hướng nghiên cứu của tác giả  với các công trình khoa học đã   được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi của khóa luận   * Mục đích: Luận giải những vấn đề  cơ  bản về  lý luận, thực tiễn  về  vai trò  của FDI đến chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  ngành trên địa bàn tỉnh Bình  Dương. Trên cơ  sở  đó đưa ra những quan điểm và đề  xuất một số  giải   pháp nhằm phát huy vai trò của FDI đối với sự  chuyển dịch cơ cấu kinh   tế ngành ở tỉnh Bình Dương. * Nhiệm vụ 
  7. 7 ­ Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của FDI đến  chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trên địa bàn tỉnh Bình Dương. ­ Phân tích tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Bình Dương  trong thời gian vừa qua. ­ Đề  xuất một số  quan điểm cơ  bản và giải pháp chủ  yếu nhằm  phát huy vai trò của FDI đối với sự  chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành  ở  tỉnh Bình Dương. * Đối tượng nghiên cứu Khóa   luận   tập   trung   nghiên   cứu  những   vai   trò   của   FDI   đến   sự  chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở tỉnh Bình Dương * Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu FDI và vai trò của nó đối với chuyển dịch cơ  cấu kinh  tế ngành ở tỉnh Bình Dương. Các số liệu điều tra, khảo sát được thực hiện chủ yếu từ năm 2011  đến năm 2015.  4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu   * Cơ sở phương pháp luận Khóa luận dựa trên lý luận kinh tế  của chủ  nghĩa Mác ­ Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam  về  phát huy sức mạnh của thời đại, về  hội nhập kinh tế  quốc tế; Nghị  quyết của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về thu hút đầu tư nước ngoài và phát   huy vai trò của nguồn FDI vào phát triển kinh tế  ngành của tỉnh. * Phương pháp nghiên cứu:  Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và  duy vật lịch sử, luận văn sử  dụng phương pháp đặc thù của kinh tế  chính 
  8. 8 trị  Mác –  Lênin và  các phương pháp khác như: kết hợp lôgíc và lịch sử,  phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia. 5. Ý nghĩa của khóa luận Khóa luận được nghiên cứu thành công là đóng góp nhỏ đối với việc   hoạch định chủ  trương, chỉ  đạo, quản lý hoạt động thu hút đầu tư  trực   tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bình Dương và có thể tham khảo đối với  các địa phương khác. Đồng thời, cũng có thể  sử  dụng làm tài liệu tham   khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn kinh tế  chính trị  liên quan đến  vấn đề đầu tư nước ngoài và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.  Có thể phát triển thành hướng đề tài nghiên cứu ở cấp độ cao hơn. 6. Kết cấu của khóa luận Khóa luận gồm: Mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; 15 danh mục  tài liệu tham khảo và 7 phụ lục. Chương 1 VAI TRÒ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI  CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG  ­  MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
  9. 9 1.1 Một số  vấn đề  liên quan đến vai trò của đầu tư  trực tiếp  nước ngoài đối với chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  ngành  ở  tỉnh Bình   Dương  1.1.1 Đầu tư  trực tiếp nước ngoài và các hình thức đầu tư  trực   tiếp nước ngoài ở Bình Dương hiện nay * Đầu tư trực tiếp nước ngoài ­ Xuất khẩu tư bản và các hình thức xuất khẩu tư bản Đầu tư  trực tiếp nước ngoài là một hình thức của xuất khẩu tư  bản, bởi quá trình hình thành và phát triển của nền kinh tế thế giới đã sảy  ra quá trình tích tụ và tập trung tư bản làm cho các nước công nghiệp phát  triển đã tích luỹ được những khoản tư bản khổng lồ làm tiền đề  cho việc   xuất khẩu tư bản và đến giai đoạn chủ nghĩa độc quyền, xuất khẩu tư bản   là một đặc điểm nổi bật và trở  thành sự  cần thiết của chủ  nghĩa tư  bản.   Đó là vì tư bản tài chính trong quá trình phát triển đã xuất hiện cái gọi là "   tư bản thừa". “Tình trạng thừa này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa  tương đối, nghĩa là không tìm được nơi có lợi nhuận cao  ở  trong nước.   Tiến bộ  kỹ  thuật  ở các nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ  của tư  bản và hạ  thấp tỷ  suất lợi nhuận”[7,tr.328]. Trong lúc  ở  nhiều nước kinh  tế  lạc hậu cần tư  bản để  mở  mang kinh tế  và đổi mới kỹ  thuật, nhưng   chưa tích luỹ tư bản kịp thời. Vậy xuất khẩu tư bản là đem tư bản ra nước   ngoài, nhằm chiếm được giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác được tạo ra  ở các nước nhập khẩu tư bản. Ta đã thấy rằng việc xuất khẩu tư  bản xuất hiện trong các nước   tiên tiến. Đây là vấn đề mang tính tất yếu khách quan của một hiện tượng 
  10. 10 kinh tế khi mà quá trình tích luỹ và tập trung đã đạt đến một độ  nhất định  sẽ xuất hiện nhu cầu ra nước ngoài. Đây cũng là quá trình phát triển sức sản  xuất của xã hội vươn ra thế giới, thoát khỏi khuôn khổ chật hẹp của quốc  gia, hình thành quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Theo Lê Nin, “các  nước xuất khẩu tư bản hầu như bao giờ cũng có khả năng thu được một số  lợi nào đó” [6, tr. 90]. Chính đặc điểm này là nhân tố  kích thích các nhà tư  bản có tiềm lực hơn trong việc thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Bởi vì khi  mà nền công nghiệp đã phát triển, đầu tư  trong nước không còn có lợi  nhuận cao nữa. Mặt khác các nước lạc hậu hơn có lợi thế  về  đất đai,  nguyên liệu, tài nguyên, nhân công… lại đưa lại cho nhà đầu tư  lợi nhuận  cao, ổn định, tin cậy và giữ vị trí độc quyền Theo Lê Nin, " xuất khẩu tư bản" là một trong năm đặc điểm kinh  tế  của chủ  nghĩa đế  quốc, thông qua xuất khẩu tư  bản, các nước tư  bản  phát triển thực hiện việc bóc lột đối với  các nước lạc hậu và thường là  thuộc địa của nó: Nhưng ông không phủ nhận vai trò của nó. Trong thời kỳ  đầu của chính quyền Xô Viết, Lê Nin chủ trương sử dụng đầu tư trực tiếp   nước ngoài và khi đưa ra "chính sách kinh tế mới" đã nói rằng những người  cộng sản phải biết lợi dụng những thành tựu kinh tế và khoa học kỹ thuật   của chủ  nghĩa tư  bản, thông qua hình thức " chủ  nghĩa tư  bản nhà nước".   Theo quan điểm này nhiều nước đã “chấp nhận phần nào sự  bóc lột của  chủ nghiã tư bản để phát triển kinh tế, như thế có thể còn nhanh hơn là sự  vận động tự thân của mỗi nước”. Tuy nhiên việc "xuất khẩu tư bản" phải   tuân theo pháp luật của các nước đế  quốc vì họ  có sức mạnh kinh tế, còn  ngày nay thì tuân theo pháp luật, sự điều hành của mỗi quốc gia nhận đầu  tư.             Các hình thức xuất khẩu tư bản
  11. 11 Xét về  chủ  sở  hữu tư  bản có: xuất khẩu tư bản nhà nước và xuất  khẩu tư bản tư nhân. Xét về hình thức đầu tư có: xuất khẩu tư bản trực tiếp (đưa tư bản  ra nước ngoài để  trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao) và xuất khẩu tư   bản gián tiếp(cho vay để thu lợi tức). Trong phạm vi khóa luận này tác giả  chỉ  tập trung nghiên cứu  hình thức xuất khẩu trực tiếp(đầu tư  trực tiếp),  bao gồm cả đầu tư về vốn, khoa học­kỹ thuật­công nghệ. ­ Quan niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI)  Gần đây, khái niệm đầu tư  trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ  chức kinh tế quốc tế  đưa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định  chính sách kinh tế  vĩ mô về  FDI, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tự  do   hóa thương mại và đầu tư quốc tế cũng như sử  dụng trong công tác thống   kê quốc tế. Đầu tư  trực tiếp nước ngoài ngày nay đã trở  thành hình thức  đầu tư  phổ  biến và đã được định nghĩa bởi các tổ  chức kinh tế  quốc tế  cũng như luật pháp của các quốc gia. Theo  Ủy ban thương mại và phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD):   “FDI là hoạt động đầu tư bao gồm mối quan hệ dài hạn, phản ánh lợi ích và   quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một nền kinh tế (nhà   đầu tư nước ngoài hoặc công ty mẹ nước ngoài) đối với một doanh nghiệp   thường trú  ở  một nền kinh tế  khác với nền kinh tế  của nhà đầu tư  nước   ngoài (doanh nghiệp FDI, doanh nghiệp liên doanh hoặc chi nhánh nước   ngoài) ”[4, tr.11]. Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF): FDI được quan niệm là “ Đầu tư có   lợi ích lâu dài của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu   tư ­ hosting country) không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động   (nước đi đầu tư  ­ source country) với mục đích quản lý một cách có hiệu  
  12. 12 quả doanh nghiệp” [10, tr.350]. Hoa Kỳ  là một trong những nước ti ếp nh ận đầu tư  và tiến hành  đầu tư lớn nhất trên thế  giới cũng đưa ra định nghĩa về  FDI:  FDI là bất   kỳ  dòng vốn nào thuộc sở  hữu đa phần của công dân hoặc công ty của   nước đi đầu tư  có đượ c từ  việc cho vay hoặc dùng để  mua sở  hữu của   doanh nghiệp nước ngoài [10, tr.350]. Luật Đầu tư năm 2005 của Việt Nam không đưa ra khái niệm “đầu   tư  trực tiếp nước ngoài” mà chỉ  đưa ra các khái niệm “đầu tư”, “đầu tư  trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”: Đầu tư  là việc nhà đầu tư  bỏ  vốn bằng các loại tài sản hữu hình  hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy  định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan [9, tr.1]. Đầu tư  trực tiếp là hình thức đầu tư  do nhà đầu tư  bỏ  vốn đầu tư  và tham gia quản lý hoạt động đầu tư [9, tr.1]. Đầu tư nước ngoài  là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam  vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư [9,  tr.2]. Vốn đầu tư  là tiền và tài sản khác để thực hiện hoạt động đầu tư  kinh doanh[8, tr.10].  Vốn có thể  là những tài sản hàng hoá như  tiền vốn,  đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng   sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ  thuật, uy tín kinh  doanh, bí quyết thương mại… Từ các khái niệm này có thể hiểu: FDI là một loại hình đầu tư quốc  tế, trong đó chủ đầu tư của một nền kinh tế đóng góp một số vốn hoặc tài   sản đủ lớn vào một nền kinh tế khác để sở hữu hoặc điều hành, kiểm soát   đối tượng họ  bỏ  vốn đầu tư  nhằm mục đích lợi nhuận hoặc các lợi ích 
  13. 13 kinh tế khác. Hay có thể hiểu FDI là sự  di chuyển vốn, tài sản, công nghệ  hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước đi đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư  để  thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi.              Như  vậy, FDI, xét theo định nghĩa pháp lý của Việt Nam, là hoạt  động bỏ vốn đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào lãnh thổ Việt Nam với   điều kiện họ phải tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó.   Xét về  bản chất FDI khác (đối lập) với đầu tư  gián tiếp nước   ngoài; đồng thời FDI là đầu tư thuộc kênh tư nhân, khác hẳn với đầu tư tài   trợ (ODA) của Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế. Về mặt kinh tế: FDI là một hình thức đầu tư quốc tế đặc trưng bởi  quá trình di chuyển tư  bản từ nước này qua nước khác. FDI được hiểu là  hoạt động kinh doanh, một dạng kinh doanh quan hệ  kinh tế  có quan hệ  quốc tế. Về  đầu tư  quốc tế  là những phương thức đầu tư  vốn, tư  sản  ở  nước ngoài để  tiến hành sản xuất kinh doanh dịch vụ  với mục đích tìm  kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế, xã hội nhất định. Về mặt nhận thức: Nhân tố nước ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở  sự  khác biệt quốc tịch hoặc về  lãnh thổ  cư  trú thường xuyên của các bên  tham gia đầu tư  trực tiếp nước ngoài mà còn thể  hiện  ở  sự  di chuyển tư  bản bắt buộc phải vượt qua tầm kiểm soát quốc gia. Vì vậy, FDI là hoạt động kinh doanh quốc tế  dựa trên cơ  sở  quá   trình di chuyển tư  bản giữa các quốc gia chủ  yếu là do các pháp nhân và   thể  nhân thực hiện theo những hình thức nhất định trong đó chủ  đầu tư  tham gia trực tiếp vào quá trình đầu tư. Nguồn vốn đầu tư có thể là những  tài sản hữu hình như  tiền vốn, đất đai, nhà cửa, máy móc, thiết bị, công  nghệ, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng thương hiệu, sáng chế, phát 
  14. 14 minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ  thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết  thương mại, trình độ quản lý của nhà đầu tư nước ngoài… Tóm lại, qua nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của đầu tư  trực tiếp nước ngoài qua các thời kỳ có thể nhận thấy bản chất của đầu tư  trực tiếp nước ngoài là nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích đầu tư  hay tìm  kiếm lợi nhuận ở nước tiếp nhận đầu tư thông qua di chuyển vốn từ nước   đi đầu tư  đến nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư  nước ngoài  ở  đây bao  gồm tổ chức hay cá nhân chỉ mong muốn đầu tư khi cho rằng khoản đầu tư  đó có thể đem lại lợi ích hoặc lợi nhuận cho họ.  Đặc điểm của FDI Thứ nhất,gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các  loại tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản   của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản  nước đi đầu tư. Thứ hai,được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh  nghiệp mới (liên doanh hoặc sở  hữu 100% vốn), h ợp đồng hợp tác kinh  doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở  mức   khống   chế   hoặc   tiến   hành   các   hoạt   động   hợp   nhất   và   chuyển   nhượng doanh nghiệp. Thứ ba,nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở  hữu hoàn toàn vốn đầu tư  hoặc cùng sở  hữu vốn đầu tư  với một tỷ  lệ  nhất định đủ  mức tham gia  quản lý trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp. Thứ  tư,là hoạt động đầu tư  của tư  nhân, chịu sự  điều tiết của các  quan hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan   hệ chính trị giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi  nhuận cao.
  15. 15 Thứ năm,nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận   động của dòng vốn đầu tư. Thứ  sáu,FDI bao gồm hoạt động đầu tư  từ  nước ngoài vào trong   nước và đầu tư  từ  trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả  vốn di   chuyển vào một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước   đó. Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện. Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả  các hoạt  động FDI trên toàn thế  giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI  diễn ra đã được gần 30 năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện  rõ nét. Chính  những đặc điểm này đòi hỏi thể  chế  pháp lý, môi trường và  chính sách thu hút FDI phải chú ý để vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư,   vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh đầu tư FDI với các kênh đầu tư  khác của nền kinh tế. * Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Bình Dương ­ Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước ngoài Hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức truyền  thống và phổ  biến của FDI. Với hình thức này, các nhà đầu tư, cùng với   việc chú trọng khai thác những lợi thế của địa điểm đầu tư mới, đã nỗ lực  tìm cách áp dụng các tiến bộ  khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý  trong hoạt động kinh doanh để  đạt hiệu quả  cao nhất. Hình thức này phổ  biến  ở  quy mô đầu tư  nhỏ  nhưng cũng rất được các nhà đầu tư   ưa thích   đối với các dự án quy mô lớn. Hiện nay, các công ty xuyên quốc gia thường   đầu tư  theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và họ  thường   thành lập một công ty con của công ty mẹ xuyên quốc gia.
  16. 16 Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư  nước ngoài thuộc sở  hữu của nhà  đầu tư nước ngoài nhưng phải chịu sự kiểm soát của pháp luật nước sở tại   (nước nhận đầu tư). Là một pháp nhân kinh tế  của nước sở  tại, doanh   nghiệp phải được đầu tư, thành lập và chịu sự quản lý nhà nước của nước   sở  tại. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc quyền  sở  hữu của nhà đầu tư  nước ngoài tại nước chủ  nhà, nhà đầu tư  phải tự  quản lý, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Về hình thức pháp lý,  dưới hình thức này, theo Luật Doanh nghiệp 2005, có các loại hình công ty  trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần… Hình thức 100% vốn đầu tư  nước ngoài có  ưu điểm là nước chủ  nhà không cần bỏ vốn, tránh được những rủi ro trong kinh doanh, thu ngay  được tiền thuê đất, thuế, giải quyết việc làm cho người lao động. Mặt   khác, do độc lập về quyền sở hữu nên các nhà đầu tư nước ngoài chủ động  đầu tư và để cạnh tranh, họ thường đầu tư công nghệ mới, phương tiện kỹ  thuật tiên tiến nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao, góp phần nâng cao trình  độ tay nghề người lao động. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là nước chủ nhà   khó tiếp nhận được kinh nghiệm quản lý và công nghệ, khó kiểm soát  được đối tác đầu tư nước ngoài và không có lợi nhuận. Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, doanh nghiệp 100% vốn  nước ngoài có 1.315 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký đầu tư  gần  13 tỷ USD chiếm 65% vốn đầu tư [11, tr.78]. ­ Thành lập doanh nghiệp liên doanh giữa các nhà đầu tư  trong   nước và nhà đầu tư nước ngoài Đây là hình thức được sử  dụng rộng rãi trên thế  giới từ  trước tới   nay. Hình thức này cũng rất phát triển  ở  Việt Nam nói chung và  ở  Bình   Dương nói riêng, nhất là giai đoạn đầu thu hút FDI.   Doanh nghiệp liên 
  17. 17 doanh là doanh nghiệp được thành lập tại nước sở tại trên cơ sở hợp đồng  liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên nước chủ nhà với Bên hoặc các Bên   nước ngoài để đầu tư kinh doanh tại nước sở tại. Như  vậy, hình thức  doanh nghiệp liên  doanh  tạo nên pháp nhân  đồng sở  hữu nhưng địa điểm đầu tư  phải  ở  nước sở  tại. Hiệu quả  hoạt   động của doanh nghiệp liên doanh phụ  thuộc rất lớn vào môi trường kinh  doanh của nước sở tại, bao gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, mức độ hoàn   thiện pháp luật, trình độ của các đối tác liên doanh của nước sở tại... Hình  thức  doanh nghiệp liên doanh  có những  ưu điểm là góp phần giải quyết   tình trạng thiếu vốn, nước sở  tại tranh thủ  được nguồn vốn lớn để  phát  triển kinh tế  nhưng lại được chia sẻ  rủi ro; có cơ  hội để  đổi mới công  nghệ, đa dạng hóa sản phẩm; tạo cơ  hội cho người lao động có việc làm  và học tập kinh nghiệm quản lý của nước ngoài; Nhà nước của nước sở  tại dễ dàng hơn trong việc kiểm soát được đối tác nước ngoài. Về phía nhà   đầu tư, hình thức này là công cụ  để  thâm nhập vào thị  trường nước ngoài  một cách hợp pháp và hiệu quả, tạo thị  trường mới, góp phần tạo điều  kiện cho nước sở  tại tham gia hội nhập vào nền kinh tế  quốc tế. Tuy   nhiên, hình thức này có nhược điểm là thường dễ  xuất hiện mâu thuẫn  trong điều hành, quản lý doanh nghiệp do các bên có thể  có sự  khác nhau  về  chế  độ  chính trị, phong tục tập quán, truyền thống, văn hóa, ngôn ngữ,  luật pháp. Nước sở  tại thường rơi vào thế  bất lợi do tỷ  lệ  góp vốn thấp,  năng lực, trình độ  quản lý của cán bộ  tham gia trong  doanh nghiệp liên  doanh yếu. Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương,  thành lập doanh nghiệp  liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài  có 950 
  18. 18 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký đầu tư gần 4 tỷ USD chiếm   20% vốn đầu tư [11, tr.78]. ­ Đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư được ký giữa các   nhà đầu tư  nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia sản  phẩm mà không thành lập pháp nhân Hình thức đầu tư  này có  ưu điểm là giúp giải quyết tình trạng  thiếu vốn, công nghệ; tạo thị  trường mới, bảo  đảm được  quyền  điều   hành dự án của nước sở tại, thu lợi nhuận tương đối ổn định. Tuy nhiên,  nó có  nhược   điểm  là nước  sở  tại không tiếp nhận  được  kinh nghiệm  quản lý; công nghệ thường lạc hậu; chỉ thực hiện được đối với một số ít  lĩnh vực dễ sinh lời. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh không thành lập pháp nhân   riêng và mọi hoạt động BCC phải dựa vào pháp nhân của nước sở  tại. Do  đó, về phía nhà đầu tư, họ rất khó kiểm soát hiệu quả các hoạt động BCC.   Tuy nhiên, đây là hình thức đơn giản nhất, không đòi hỏi thủ  tục pháp lý  rườm rà nên thường được lựa chọn trong giai đoạn đầu khi các nước đang  phát triển bắt đầu có chính sách thu hút FDI. Khi các hình thức 100% vốn  hoặc liên doanh phát triển, hình thức BCC có xu hướng giảm mạnh. Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, đầu tư theo hình thức hợp  đồng hợp tác kinh doanh có 24 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng  ký đầu tư gần  920 triệu USD chiếm 2% vốn đầu tư [11, tr.78]. ­  Hình thức hợp đồng BOT, BTO, BT BOT là hình thức đầu tư  được thực hiện theo hợp  đồng ký kết  giữa cơ  quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư  nước ngoài để  xây   dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ  tầng trong một thời gian nh ất  
  19. 19 định; hết thời hạn, nhà đầu tư  chuyển giao không bồi hoàn công trình đó   cho Nhà nước Việt Nam. BTO và BT là các hình thức phái sinh của BOT, theo đó quy trình  đầu tư, khai thác, chuyển giao được đảo lộn trật tự. Hình thức BOT, BTO, BT có các đặc điểm cơ  bản: một bên ký kết  phải là Nhà nước; lĩnh vực đầu tư  là các công trình kết cấu hạ  tầng như  đường sá, cầu, cảng, sân bay, bệnh viện, nhà máy sản xuất, điện, nước...;   bắt buộc đến thời hạn phải chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước. Ưu điểm của hình thức này là thu hút vốn đầu tư vào những dự  án   kết cấu hạ  tầng, đòi hỏi lượng vốn lớn, thu hồi vốn trong thời gian dài,  làm giảm áp lực vốn cho ngân sách nhà nước. Đồng thời, nước sở  tại sau   khi chuyển giao có được những công trình hoàn chỉnh, tạo điều kiện phát  huy các nguồn lực khác để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hình thức BOT có   nhược điểm là độ  rủi ro cao, đặc biệt là rủi ro chính sách; nước chủ  nhà  khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý, công nghệ. Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, đầu tư theo hình hình thức  hợp đồng BOT, BTO, BT có 80 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng  ký đầu tư 1.07 tỷ USD chiếm 5.5% vốn đầu tư [11, tr.78]. ­ Đầu tư mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp Đây là hình thức thể hiện kênh đầu tư Cross ­ border M & As. Khi thị  trường chứng khoán phát triển, các kênh đầu tư  gián tiếp (FPI) được khai   thông, nhà đầu tư  nước ngoài được phép mua cổ  phần, mua lại các doanh  nghiệp ở nước sở tại, nhiều nhà đầu tư rất ưa thích hình thức đầu tư này. Ở đây, về mặt khái niệm, có vấn đề ranh giới tỷ lệ cổ phần mà nhà   đầu tư nước ngoài mua ­ ranh giới giúp phân định FDI với FPI. Khi nhà đầu  tư  nước ngoài tham gia mua cổ  phiếu, trái phiếu trên thị  trường chứng  
  20. 20 khoán nước sở tại, họ tạo nên kênh đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Tuy  nhiên, khi tỷ lệ sở hữu cổ phiếu vượt quá giới hạn nào đó cho phép họ  có   quyền tham gia quản lý doanh nghiệp thì họ trở thành nhà đầu tư FDI. Luật  pháp Hoa Kỳ và nhiều nước phát triển quy định tỷ lệ ranh giới này là 10%.  Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tỷ  lệ  này được quy định là  30%. Hình thức mua cổ  phần hoặc mua lại toàn bộ  doanh nghiệp có  ưu   điểm cơ bản là để thu hút vốn và có thể  thu hút vốn nhanh, giúp phục hồi   hoạt động của những doanh nghiệp bên bờ  vực phá sản. Nhược điểm cơ  bản là dễ gây tác động đến sự ổn định của thị trường tài chính. Về phía nhà  đầu tư, đây là hình thức giúp họ  đa dạng hoá hoạt động đầu tư  tài chính,   san sẻ rủi ro nhưng cũng là hình thức đòi hỏi thủ tục pháp lý rắc rối hơn và  thường bị ràng buộc, hạn chế từ phía nước chủ nhà. Tính đến hết năm 2015, tại Bình Dương, đầu tư theo hình hình thức  mua cổ phần hoặc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp có 246 dự án được cấp  phép với tổng số vốn đăng ký đầu tư gần 1.5 tỷ USD chiếm 7.5% vốn đầu  tư [11, tr.198]. Mỗi hình thức FDI đều có những đặc điểm riêng. Do vậy, cần phải  đa dạng hóa các hình thức FDI này sao cho phù hợp với cơ  cấu chung của  nền kinh tế, quy hoạch phát triển lực lượng sản xuất của từng ngành, từng  địa phương với mục tiêu là huy động và phát huy một cách có hiệu quả  nguồn vốn FDI cho chuyển dịch cơ  cấu kinh tế, tăng trưởng và phát triển   bền vững. 1.1.2 Vai trò của FDI đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành   ở tỉnh Bình Dương
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0