intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về chết đuối trẻ em ở vùng đồng bằng Sông Mekong

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

61
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu được tiến hành với mục tiêu nhằm xác định kiến thức, thái độ và thực hành ở các cộng đồng ở vung đồng bằng sông Mekong về sự an toàn của trẻ trong mùa lũ và (2) xác định đặc tính dịch tễ của trẻ chết đuối dưới 10 tuổi. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết để nắm rõ nội dung chi tiết của đề tài nghiên cứu này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiến thức, thái độ và thực hành của người dân về chết đuối trẻ em ở vùng đồng bằng Sông Mekong

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI DÂN<br /> VỀ CHẾT ĐUỐI TRẺ EM Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG MEKONG<br /> Đặng Văn Chính*, Lê Thế Thự*, Ngô Thái Hòe*, Phạm Kim Anh*,<br /> Nguyễn Thúy Ngọc*, Võ Hữu Thuận*, Nguyễn Thị Lan Hương*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Đặt vấn đề: Một quan tâm lớn của nhiều người dân “sống chung với lũ” là chăm sóc trẻ an toàn. Một số<br /> thống kê cho thấy rằng chết đuối ở trẻ em là một vấn đề xã hội đang gia tăng trong khi mức độ của vấn đề và<br /> nguyên nhân của nó vẫn chưa được rõ.<br /> Mục tiêu: (1) Xác định kiến thức, thái độ và thực hành ở các cộng đồng ở vung đồng bằng sông Mekong về<br /> sự an toàn của trẻ trong mùa lũ và (2) Xác định đặc tính dịch tễ của trẻ chết đuối dưới 10 tuổi.<br /> Phương pháp: Đây là một cuộc điều tra cắt ngang kết hợp cả hai phương pháp định tính và định lượng,<br /> được tiến hành trong hai xã có tỉ lệ chết đuối cao. Các ca chết đuối cũng được điều tra để mô tả các đặc điểm dịch<br /> tễ. Mỗi xã chọn ngẫu nhiên 100 hộ gia đình để phỏng vấn dựa trên bảng câu hỏi đã soạn sẵn và một nhóm 15 hộ<br /> gia đình được phỏng vấn sâu. Ủy ban phòng chống lụt bão của xã và huyện cũng được phỏng vấn sâu về chết<br /> đuối của trẻ và các giải pháp. Số liệu được phân tích trên phần mềm thống kê Epi 2000.<br /> Kết quả: 71% trẻ chết đuối là dưới 3 tuổi trong đó 65% là bé trai và 35% bé gái. Nguyên nhân phổ biến<br /> nhất đưa đến chết đuối ở trẻ là “sự bất cẩn” (81%) trong chăm sóc trẻ và nguyên nhân phổ biến thứ hai la “trẻ<br /> bơi mà không có sự giám sát” (7,8%). 74% hộ gia đình có bận tâm lớn nhất là trẻ chết đuối.<br /> Kết luận: “Sự bất cẩn” trong chăm sóc trẻ là nguyên nhân quan trọng nhất trong chết đuối của trẻ. Kết quả<br /> nghiên cứu gợi ý nhận thức của người trưởng thành về các nguy cơ trẻ chết đuối còn thấp và thiếu các biện pháp<br /> dự phòng hiệu quả.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PRACTICE OF THE FAMILIES LIVING<br /> IN FLOOD REGIONS ON DROWNING OF CHILDREN IN MEKONG DELTA<br /> Đang Van Chinh, Le The Thu, Ngo Thai Hoe, Pham Kim Anh,<br /> Nguyen Thuy Ngoc, Vo Huu Thuan, Nguyen Thi Lan Huong<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 108 - 114<br /> Background: A big problem concerned many people “living together with flood” is the safety and care of<br /> children. Several local reports show that drowning in children is a matter of growing concern whereas the extent<br /> of the problem and its causes remains unclear.<br /> Objectives: (1) To identify the knowledge, attitude and practice in Mekong delta communities regarding the<br /> safety of children during flood, (2) To identify epidemiological characteristics of drowning children under ten<br /> years old.<br /> Methods: It was a cross-sectional survey that combined the qualitative and quantitative methods. The<br /> survey was carried out in two communes with high drowning rate. Data of childhood drowning cases in each<br /> community were investigated for descriptive epidemiology. In each commune, randomly selected 100 households<br /> were interviewed by the prepared KAP questionnaire and a group of 15 households was in-depth- interviewed.<br /> Members of Flooding Mitigating Committee of communes and districts were also in-depth interviewed on<br /> * Viện Vệ Sinh – Y tế Công Cộng TPHCM<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> drowning and its solutions. Data were processed and analyzed on the EPI 2000 software.<br /> Results: 71% of drowned children were under 3 years old. 65% of them were male and 35 % female. The<br /> most common reason led to be drowned was “carelessness” (81%) and the second reason was “swimming without<br /> supervision” (7.8%). 74% of the households had the greatest concern about children’s drowning.<br /> Conclusions: Adults’carelessness appears to be the most important cause of childhood drowning. This<br /> finding suggests that the adults’ perception about their children’s drowning risks was low. There is a lack of<br /> effectively preventive measures.<br /> Ackowlegement: We would like to thank the WHO sponsored this study<br /> Many thanks to colleagues and Chau Thanh and Chau Phu District committees for support<br /> Mekong về sự an toàn của trẻ trong mùa lũ. Các<br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> mục tiêu cụ thể như sau:<br /> Mùa lũ xảy ra hàng năm thường bắt đầu từ<br /> Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10 tuổi có<br /> tháng 8 đến tháng 12 ở đồng bằng sông Mekong.<br /> kiến thức thực sự về chết đuối<br /> Lũ thường gây thiệt hại to lớn về con người, tài<br /> Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10 tuổi có<br /> sản và vụ mùa.Theo Ủy ban phòng chống thảm<br /> thái độ thực sự về phòng chống chết đuối<br /> họa thiên tai của tiểu vùng sông Mekong có<br /> Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10 tuổi có<br /> hàng trăm người chết trong năm 2000 và 2001.<br /> thực hành thực sự về phòng chống chết đuối.<br /> Tỉnh An Giang, năm 2000, có 134 người chết,<br /> trong đó có 94 trẻ; năm 2001 có 134 người chết,<br /> Xác định đặc tính dịch tễ của các ca chết đuối<br /> trong đó có 104 trẻ do hậu quả của hai cơn lũ<br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> liên tiếp xảy ra trong tỉnh(1). Điều này không chỉ<br /> Đây là một nghiên cứu cắt ngang kết hợp cả<br /> xảy ở An Giang mà cũng ghi nhận tương tự cho<br /> hai phương pháp nghiên cứu định tính và định<br /> các tỉnh khác ở vùng sông Mekong.<br /> lượng. Nghiên cứu này được tiến hành trong 2<br /> Chết đuối trẻ em không chỉ gây ra thiệt hại<br /> xã có tỉ lệ chết đuối cao- xã Phú Hữu tỉnh Đồng<br /> con người và đau khổ không thể đền bù được<br /> Tháp và xã Thạnh Mỹ Tây, tỉnh An Giang từ<br /> cho gia đình(2) và cũng gây lo lắng cho cộng<br /> tháng 10-12 năm 2003.<br /> động, đặc biệt khi mùa lũ đến. Mặc dù hệ<br /> Cỡ mẫu được tính theo công thức sau: n=4<br /> thống truyền thông đưa tin về chết đuối như<br /> pq / d2 (d = 0,1: độ chính xác tuyệt đối, với d cố<br /> một sự cảnh báo và chính quyền của các địa<br /> định; tích pq đạt cực đại khi p= 0,5, q=0,5; thay<br /> phương kêu gọi mọi người chú ý chăm sóc trẻ<br /> vào công thức trên ta có cỡ mẫu n = 100).<br /> trong mùa lũ, nhưng thực tế tỉ lệ chết đuối ở<br /> Mỗi xã chọn ngẫu nhiên 100 hộ gia đình để<br /> vùng đông bằng sông Mekong vẫn được ghi<br /> phỏng<br /> vấn KAP và một nhóm 15 hộ gia đình<br /> nhận rất cao. Tuy nhiên, không có nghiên cứu<br /> được phỏng vấn sâu và một số trường hợp chết<br /> về chết đuổi ở trẻ em ở vùng này. Vì thế,<br /> đuối điển hình. Thêm vào đó, phỏng vấn sâu<br /> chúng tôi tiến hành một cuộc điều tra về kiến<br /> một nhóm thành viên của Ủy ban Phòng Chống<br /> thức, thái độ và thực hành (KAP) để tìm hiểu<br /> Bão Lụt xã và huyện về chết đuối và các giải<br /> nguyên nhân và biện pháp dự phòng chết đuối<br /> pháp phòng chống.<br /> ở trẻ em trong vùng lũ ở đồng bằng sông<br /> Số liệu được phân tích với phần mềm Epi<br /> Mekong, nhằm giúp người dân hiểu được tình<br /> 2000. Kết quả bao gồm tỉ lệ KAP, đặc tính dịch<br /> trạng chết đuối trong cộng đồng và tìm ra các<br /> tễ của ca chết đuối và những thông tin thu<br /> biện pháp dự phòng thích hợp.<br /> được từ các cuộc phỏng vấn sâu dùng để giải<br /> Mục tiêu nghiên cứu<br /> thích nguyên nhân của chết đuối và đề nghị<br /> Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu<br /> các giải pháp.<br /> KAP trong các cộng đồng vùng đồng bằng sông<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br /> KẾT QUẢ<br /> Nghiên cứu định tính<br /> Bảng1: Đặc điểm kinh tế- xã hội của mẫu nghiên cứu<br /> Đặc điểm<br /> Mẹ<br /> Cha<br /> Ông bà<br /> 18-29<br /> Tuổi<br /> 30-39<br /> ≥40<br /> Nữ<br /> Giới tính<br /> Nam<br /> Mù chữ<br /> Cấp I<br /> Trình độ học<br /> vấn<br /> Cấp II<br /> Cấp III và hơn<br /> Nông dân<br /> Nghề nghiệp<br /> Khác<br /> Gỗ<br /> Tre<br /> Nhà<br /> Gạch<br /> Khác<br /> Radio<br /> Có<br /> Tivi<br /> Có<br /> Có<br /> Thuyền<br /> Có<br /> Người được<br /> phỏng vấn<br /> <br /> Tần suất<br /> (n=200)<br /> 116<br /> 60<br /> 24<br /> 72<br /> 76<br /> 52<br /> 132<br /> 68<br /> 14<br /> 106<br /> 59<br /> 21<br /> 170<br /> 30<br /> 72<br /> 68<br /> 38<br /> 22<br /> 110<br /> 128<br /> 68<br /> 131<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> (%)<br /> 58<br /> 30<br /> 12<br /> 36<br /> 38<br /> 26<br /> 66<br /> 34<br /> 7<br /> 53<br /> 29<br /> 10,5<br /> 85<br /> 15<br /> 36<br /> 34<br /> 19<br /> 11<br /> 55<br /> 64<br /> 34<br /> 65<br /> <br /> Bảng 1 cho thấy đặc điểm kinh tế xã hội của<br /> 200 hộ gia đình có trẻ em dưới 10 tuổi trong mẫu<br /> nghiên cứu. Tỉ lệ nữ cao hơn nam (66% so với<br /> 34%), tuổi từ 18 đến 77 với gần ¾ người được<br /> phỏng vấn dưới 40 tuổi. Phần lớn đối tượng<br /> phỏng vấn là nông dân có trình độ văn hóa dưới<br /> cấp 2 trong đó khoảng 2/3 là trình độ cấp một<br /> hoặc mù chữ. 2/3 số hộ gia đình sống trong nhà<br /> lợp bằng tre gỗ và có tivi, hơn ½ hộ có radio,<br /> phương tiện đi lại phần lớn bằng thuyền.<br /> Bảng 2: Kiến thức của người dân vùng lũ về chết<br /> đuối.<br /> Kiến thức của người dân về trẻ chết Tần suất Tỉ lệ<br /> đuối<br /> (n=200) (%)<br /> Chết đuối<br /> 147<br /> 73.5<br /> Bận tâm<br /> Đói<br /> 104<br /> 52<br /> trong mùa<br /> Bệnh<br /> tật<br /> 75<br /> 37,5<br /> lũ<br /> Di chuyển<br /> 34<br /> 17<br /> Thương tổn<br /> 16<br /> 8<br /> Rắn cắn<br /> 15<br /> 7,5<br /> Sập nhà<br /> 11<br /> 5.5<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Kiến thức của người dân về trẻ chết Tần suất<br /> đuối<br /> (n=200)<br /> Bất cẩn<br /> 161<br /> Nguyên<br /> Thuyền bị lật<br /> 8<br /> nhân dẫn<br /> đến chết<br /> Nước chảy xiết<br /> 14<br /> đuối<br /> Bơi và chơi với nước<br /> 2<br /> Có<br /> 152<br /> Không<br /> 48<br /> Nguồn thông tin<br /> Truyền hình<br /> 106<br /> Đài và loa phóng thanh<br /> 90<br /> Hàng xóm<br /> 56<br /> Chính quyền địa phương và<br /> 9<br /> Nhận<br /> nhân viên y tế<br /> thông tin<br /> Tờ bướm, tờ rơi<br /> 14<br /> chết đuối<br /> Khác<br /> 5<br /> Nội dung thông tin<br /> Quan tâm đến trẻ<br /> 113<br /> Đưa trẻ đến nhà giữ trẻ<br /> 6<br /> Thông báo về chết đuối<br /> 26<br /> Sơ cứu chết đuối<br /> 2<br /> Không nhớ<br /> 5<br /> Truyền hình<br /> 66<br /> Nguồn<br /> Phát thanh<br /> 46<br /> thông tin<br /> Hàng xóm<br /> 6<br /> hữu ích<br /> Khác<br /> 3<br /> nhất<br /> Không biết<br /> 31<br /> Có<br /> 50<br /> Biết về sơ<br /> cứu chét<br /> Không chắc<br /> 15<br /> đuối<br /> Không<br /> 135<br /> Sơ cứu chết đuối được mô tả là<br /> Hô hấp miệng - miệng<br /> 8<br /> Dốc nước ra<br /> 23<br /> Hô hấp miệng - miệng rồi dốc nước ra<br /> 2<br /> Dốc nước ra rồi hô hấp miệng - miệng<br /> 32<br /> <br /> Tỉ lệ<br /> (%)<br /> 79,5<br /> 4<br /> 7<br /> 1<br /> 76<br /> 24<br /> 53<br /> 45<br /> 28<br /> 12,5<br /> 7<br /> 2,5<br /> 74,3<br /> 3,9<br /> 17,2<br /> 1,3<br /> 3,3<br /> 43.4<br /> 30.3<br /> 3.9<br /> 2<br /> 20.4<br /> 25<br /> 7,5<br /> 67,5<br /> 12,3<br /> 35,4<br /> 3,1<br /> 49,2<br /> <br /> Mối lo ngại chính trong mùa lũ của các hộ<br /> gia đình là sợ trẻ bị chết đuối (74%), đói (52%) và<br /> bị bệnh (37.5%) (Bảng 2). Lý do chính dẫn trẻ<br /> đến chết đuối chính là sự “bất cẩn”của người giữ<br /> trẻ. Có 76 % hộ gia đình biết thông tin về chết<br /> đuối: từ tivi là 53 %, radio và loa phát thanh 45<br /> %, hành xóm 28 % và các nguồn khác 7%. Phần<br /> lớn (74 %) nhớ nội dung thông tin là nhắc nhở<br /> mọi người chăm sóc trẻ tốt hơn trong mùa lũ,<br /> tiếp theo thông báo tình hình chết đuối và có<br /> một tỉ lệ nhỏ không nhớ nội dung thông tin.<br /> Trong số 200 người được phỏng vấn, ¼ cho<br /> rằng họ biết hồi sức cấp cứu. Thực tế, chỉ có 12,3<br /> % người biết hô hấp nhân tạo, 36 % biết cách dốc<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br /> cho nước chảy ra ngoài, 49,2 % biết dốc nước và<br /> hô hấp nhân tạo.<br /> Bảng 3: Thái độ của dân vùng lũ về tình trạng trẻ<br /> chết đuối<br /> Tần suất Tỉ lệ<br /> (n=200) (%)<br /> Không biết bơi là nguyên nhân chính của chết đuối<br /> Đồng ý<br /> 189<br /> 94,5<br /> Không đồng ý<br /> 11<br /> 5,5<br /> Dạy bơi là biện pháp bảo vệ cần thiết<br /> Đồng ý<br /> 198<br /> 99<br /> Không đồng ý<br /> 2<br /> 1<br /> Ai dạy trẻ bơi<br /> Gia đình<br /> 183<br /> 91,5<br /> Tổ chức xã hội và khác<br /> 20<br /> 8,5<br /> Đánh giá chết đuối ở địa phương<br /> Nghiêm trọng<br /> 127<br /> 63,5<br /> Trung bình<br /> 58<br /> 29<br /> Không nghiêm trọng<br /> 15<br /> 7,5<br /> Quan tâm của chính quyền địa phương về chết đuối<br /> Không<br /> 60<br /> 30<br /> Ít<br /> 58<br /> 29<br /> Trung bình<br /> 44<br /> 22<br /> Tốt<br /> 38<br /> 19<br /> Cần được hỗ trợ từ chính quyền<br /> Có<br /> 139<br /> 69.5<br /> Không<br /> 26<br /> 13<br /> Không biết<br /> 35<br /> 17.5<br /> Thích nghe thông tin nhất từ<br /> Truyền hình<br /> 106<br /> 53<br /> Truyền thanh, loa phóng thanh<br /> 52<br /> 26<br /> Khác<br /> 18<br /> 9<br /> Chính quyền địa phương<br /> 7<br /> 3.5<br /> Nhân viên y tế<br /> 5<br /> 2.5<br /> Sách<br /> 6<br /> 1.5<br /> Hàng xóm<br /> 3<br /> 1.5<br /> Báo<br /> 1<br /> 0.5<br /> Thái độ<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> dạy cho trẻ biết bơi là cần thiết. Hầu hết các gia<br /> đình báo cáo rằng người dạy bơi cho trẻ là các<br /> thành viên trong gia đình. Gần 70 % hộ gia đình<br /> mong có sự giúp đỡ từ cộng đồng.<br /> Bảng 4: Thực hành về phòng tránh chết đuối<br /> Thực hành<br /> Tần suất Tỉ lệ (%)<br /> Nhà có trẻ dưới 5 tuổi có hàng rào<br /> 42<br /> 23.8<br /> (n=176)<br /> Số trẻ trên 5 tuổi biết bơi (n=124)<br /> 52<br /> 42<br /> Nơi trẻ được gửi khi gia đình đi làm trong mùa lũ (n=200)<br /> Ở nhà có người lớn trông<br /> 180<br /> 90<br /> Nhà giữ trẻ<br /> 13<br /> 6.5<br /> Đem trẻ theo<br /> 6<br /> 3<br /> Ở nhà không có người coi<br /> 1<br /> 0.5<br /> Kiến nghị<br /> Nhà giữ trẻ<br /> 70<br /> 35<br /> Phao cứu sinh<br /> 69<br /> 34.5<br /> Gia tăng thông tin-giáo dục-truyền thông<br /> 49<br /> 24.5<br /> Dạy bơi<br /> 11<br /> 5.5<br /> Huấn luyện sơ cứu<br /> 7<br /> 3.5<br /> <br /> * n: cỡ mẫu<br /> Bảng 4 cho thấy thực hành trên dự phòng<br /> chết đuối của trẻ. Hầu hết trẻ được giữ ở nhà,<br /> một số nhỏ mang trẻ theo khi làm việc và đưa trẻ<br /> đến nhà giữ trẻ. Tỉ lệ nhà có hàng rào bảo vệ cho<br /> trẻ dưới 5 tuổi là 24% và ít hơn ½ số trẻ trên 5<br /> tuổi biết bơi.<br /> <br /> Nghiên cứu định lượng<br /> Bảng 5: Đặc tính dịch tễ của 52 ca chết đuối ở huyên<br /> Châu Thành và Châu Phú 2002-2003<br /> Đặc tính<br /> Tần số (n=52)<br /> Nam<br /> 34<br /> Giới<br /> Nữ<br /> 18<br /> 1<br /> 6<br /> 2<br /> 15<br /> 3<br /> 16<br /> Tuổi<br /> 4<br /> 5<br /> 5<br /> 5<br /> 6-10<br /> 5<br /> Bất cẩn<br /> 42<br /> 4<br /> Lý do dẫn Bơi không có giám sát<br /> đến chết<br /> Đi chơi một mình<br /> 2<br /> đuối<br /> Đi vệ sinh<br /> 2<br /> Khác<br /> 2<br /> <br /> Tỉ lệ (%)<br /> 65.4<br /> 34,6<br /> 11.5<br /> 28.9<br /> 30,8<br /> 9,6<br /> 9,6<br /> 9,6<br /> 80,8<br /> 7,8<br /> 3,8<br /> 3,8<br /> 3,8<br /> <br /> Bảng 3 cho thấy thái độ người dân về tình<br /> trạng chết đuối của trẻ em. Gần 2/3 hộ gia đình<br /> cho trẻ em chết đuối là nghiêm trọng, gần 1/3<br /> cho rằng mức độ vừa phải. Nói cách khác, hầu<br /> hết gia đình cho rằng chết đuối ở trẻ em là vấn<br /> đề cần được quan tâm. Tuy nhiên, 7,5 % không<br /> quan tâm tới tình trạng này. Hơn ½ hộ gia đình<br /> cho rằng quan tâm của chính quyền địa phương<br /> là không tốt (59%), vừa phải (22 %), tốt (19 %).<br /> <br /> Nguồn: Số liệu từ Chau Thanh & Chau Phu District<br /> <br /> Gần 95 % hộ gia đình đồng ý rằng không<br /> biết bơi là nguyên nhân chính của chết đuối và<br /> <br /> Bảng 5 cho thấy hơn 80% ca chết đuối là trẻ<br /> dưới 5 tuổi, trong đó hơn 70% là trẻ dưới 3 tuổi.<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản của Số 4 * 2008<br /> Trẻ trai có tỉ lệ cao hơn nữ. Lý do chính đưa đến<br /> chết đuối được ghi nhận là do bất cẩn và trẻ bơi<br /> mà không có người giám sát<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Kiến thức<br /> “Bất cẩn” của người giữ trẻ được xem như<br /> nguyên nhân quan trọng nhất của chết đuối ở trẻ<br /> em. Được xem là “ bất cẩn” khi người giữ trẻ<br /> không trông chừng trẻ một cách liên tục. Hậu<br /> quả là trẻ đi khỏi tầm nhìn và và rơi xuống nước<br /> xung quanh nhà và chết đuối. Một số ví dụ minh<br /> họa như sau:<br /> “ M là một trẻ trai 2 tuổi, ngủ với mẹ. M thức<br /> dậy trong khi mẹ vẫn còn ngủ. Em chơi một<br /> mình và rơi xuống nước ở dưới nhà và chết”<br /> “Bà mẹ N vừa làm và vừa trông chừng trẻ<br /> nhưng bà ta quên chú ý đôi phút, hậu quả con<br /> của bà tự chơi và rớt xuống nước”.<br /> “Bà nội trông trẻ và cảm thấy buồn ngủ. Bà<br /> ta buộc trẻ với một cái khăn mặt. Sau đó, khăn<br /> tuột ra vì trẻ cố gắng bò đi xa, và rồi trẻ rơi<br /> xuống nước và chết.<br /> “Ở các gia đình nghèo, đứa lớn trông đứa<br /> nhỏ, nhưng đưa lớn thường thích chơi và để đứa<br /> nhỏ một mình. Đứa nhỏ đi vòng vòng và té<br /> xuống nước.<br /> “Có gia đình nghĩ rằng hàng rào xung quanh<br /> nhà đủ an toàn để bảo vệ trẻ không bị chết đuối<br /> khi chơi trong nhà mà không cần ba mẹ trông<br /> coi. Nhưng khi cả nhà đang ngủ, đứa trẻ phá rào<br /> ra ngoài và rơi xuống nước.<br /> 76 % hộ gia đình nhận được thông tin về<br /> chết đuối. Điều đó có nghĩa là tỉ lệ phủ chưa đủ<br /> cho toàn cộng đồng. Những hộ này là những hộ<br /> có tivi hay/và radio. Thêm vào đó, họ thường là<br /> sống gần loa phát thanh thường được đặt ở<br /> trung tâm xã. Các hộ không có tivi/radio nghèo<br /> hơn và sống ở những làng xa mà tiếp cận của họ<br /> đối với phương tiện truyền thông rất hạn chế.<br /> Thật vậy, các loa phóng thanh là phương tiện<br /> truyền thông chính của chính quyền địa phương<br /> nhưng không phủ khắp các xã, đặc biệt là các<br /> làng xa xôi. Nội dung thông tin chủ yếu nhắc<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> nhở “cẩn thận, để ý chăm sóc trẻ”, “thông báo<br /> tình hình chết đuối”. Các thông tin này quá<br /> chung chung, không thật sự cung cấp các biện<br /> pháp bảo vệ. Thêm vào đó, thời gian phát thanh<br /> quá trễ, khi người dân đã đi làm và môi trường<br /> quá ồn ào khiến cho nghe thông tin bị hạn chế.<br /> Các phương tiện truyền thông khác không<br /> đa dạng và không thực tế. Thí dụ như cuốn sách<br /> mỏng với nhan đề “sống với lũ” có “9 lời<br /> khuyên cho người lớn bảo vệ trẻ” và“ 8 lời<br /> khuyên” trẻ cần chú ý như: “không cho phép trẻ<br /> bơi trong trong dòng nước cuốn”, “cần để trẻ ở<br /> nơi cao có người lớn chăm sóc”. Các hộ gia đình<br /> có thể không cần đến các lời khuyên như vậy vì<br /> chúng quá hiển nhiên, không cung cấp thêm<br /> thông tin hữu ích. Không có thông tin nào viết<br /> về “sự bất cẩn khi trông trẻ”. Mặc dù chết đuối<br /> là mối quan ngại lớn nhất của người dân trong<br /> cộng đồng xã, ít có buổi họp nào nói hay thảo<br /> luận về vấn đề chết đuối. Điều cần thiết là cung<br /> cấp thông tin cho người nghèo và ở xa không có<br /> tivi/radio. Vì thế, cần có chương trình truyền<br /> thông hiệu quả dựa trên nhóm có nguy cơ cao.<br /> <br /> Sơ cứu<br /> “T là một cậu bé 7 tuổi không biết bơi. Nhà<br /> của bé ở trên bờ kênh. Một đêm, bé đau bụng<br /> và đi đại tiện trong “nhà vệ sinh trên kênh”<br /> sau nhà. Chẳng may, bé rơi xuống kênh. Vài<br /> phút sau, mẹ bé phát hiện và đem bé lên bờ.<br /> Bà không làm gì cả mà chỉ biết đưa bé ngay<br /> đến trạm y tế xã. Tại đó, người ta đã cố gắng<br /> cứu nhưng bé đã chết.<br /> Số hộ gia đình biết cách sơ cứu chết đuối rất<br /> thấp. Chỉ hơn 10 % của 200 hộ gia đình trả lời<br /> biết. Số còn lại biết chút chút và đôi khi biết sai.<br /> Thí dụ, khi được hỏi khi gặp trẻ sắp chết đuối sẽ<br /> làm gì, họ trả lời “đem trẻ tới trạm y tế gần nhất”<br /> hay “để tro lên người để hút nước ra”. Thiếu<br /> kiến thức một phần do hiểu sai thông tin y tế<br /> hay do kinh nghiệm sai.<br /> <br /> Thái độ về trẻ chết đuối<br /> Từ thảo luận nhóm sâu và phỏng vấn từng<br /> người, đa số cho là “trẻ chết đuối là vấn đề và<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
18=>0