48<br />
<br />
Kinh nghiệm một số nước về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp…<br />
<br />
KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VỀ TỔ CHỨC<br />
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP KHOA HỌC<br />
VÀ CÔNG NGHỆ, GỢI SUY CHO VIỆT NAM<br />
ThS. Nguyễn Đức Minh<br />
Trường Đại học Hồng Bàng TP. Hồ Chí Minh<br />
Tóm tắt:<br />
Doanh nghiệp KH&CN - về cơ bản là một loại hình doanh nghiệp để thực hiện sản xuất,<br />
kinh doanh các sản phẩm, hàng hóa hình thành từ các kết quả nghiên cứu KH&CN, các<br />
thành tựu KH&CN được tự mình tạo ra hoặc tích hợp từ các nguồn trong nước hoặc quốc<br />
tế. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp đều hoạt động trong các lĩnh vực KH&CN ưu<br />
tiên của quốc gia, của vùng lãnh thổ và địa phương, hoặc của chính doanh nghiệp<br />
KH&CN. Thông thường, doanh nghiệp KH&CN được thành lập hoạt động trong các lĩnh<br />
vực công nghệ cao. Vì vậy, các doanh nghiệp này được hưởng các lợi ích nhà nước khuyến<br />
khích phát triển công nghệ cao. Kinh nghiệm của các nước dưới đây có thể gợi suy cho<br />
Việt Nam trong quá trình thành lập và tổ chức hoạt động các doanh nghiệp KH&CN.<br />
Từ khóa: Doanh nghiệp KH&CN; Tổ chức doanh nghiệp KH&CN.<br />
Mã số: 14100601<br />
<br />
1. Một số khái niệm cơ bản<br />
1.1. Doanh nghiệp khởi nghiệp (Start-up firm)<br />
<br />
Theo nghĩa thông thường, đây là doanh nghiệp mới thành lập. Trên thực tế,<br />
tại các nước công nghiệp mới và các nước phát triển, doanh nghiệp khởi<br />
nghiệp là giai đoạn đầu của một doanh nghiệp vừa và nhỏ với tư cách là<br />
chìa khóa của đổi mới công nghiệp nói riêng và của hệ thống đổi mới nói<br />
chung [7]. Nó được “ấp” tại một loại hình vườn ươm nào đó (của trường đại<br />
học, của khu công nghệ cao, của làng khoa học,...).<br />
Trong một số hướng công nghệ mới nổi, khi mà nhu cầu thị trường chưa<br />
thật chắc chắn, độ may rủi còn cao thì các doanh nghiệp này có ưu thế hơn<br />
hẳn so với các công ty lớn bởi tính mềm dẻo, năng động của nó trong việc<br />
ra quyết định tập trung nguồn lực cho các ưu tiên đổi mới. Rõ ràng là, với<br />
một đất nước có nhiều doanh nghiệp khởi nghiệp sẽ có lợi thế trong nền<br />
kinh tế tri thức.<br />
1.2. Doanh nghiệp spin-off<br />
<br />
Là loại hình doanh nghiệp trưởng thành trên cơ sở thương mại hóa một hoặc<br />
nhiều công nghệ được ươm tạo trực tiếp tại viện/ trường, vườn ươm công nghệ.<br />
Nó là giai đoạn cuối của doanh nghiệp khởi nghiệp - giai đoạn trưởng thành.<br />
<br />
JSTPM Tập 3, Số 4, 2014<br />
<br />
49<br />
<br />
Hiện nay, hình thức này khá phổ biến ở Mỹ, Canada, Trung Quốc và Nga.<br />
Tùy từng nước, người ta có tên gọi khác nhau: Doanh nghiệp đổi mới (Mỹ)<br />
dựa trên hình thức quản lý tự chủ, Spin-off (Canada), Doanh nghiệp<br />
KH&CN (Trung Quốc), Doanh nghiệp đổi mới vừa và nhỏ (Nga).<br />
Tại Mỹ và Trung Quốc, thường thì các doanh nghiệp này do tập thể (hoặc<br />
cá nhân nhà khoa học) đứng ra thành lập trên cơ sở thương mại hóa ý<br />
tưởng/ kết quả KH&CN, nâng cao vai trò cá nhân nhà khoa học trong việc<br />
thành lập các doanh nghiệp kiểu này. Người ta gọi các cán bộ đó là người<br />
“hạ hải - ra khơi”.<br />
Cần nhấn mạnh rằng, tên gọi “doanh nghiệp KH&CN” với tư cách là doanh<br />
nghiệp spin-off chỉ có ở các nước xã hội chủ nghĩa chuyển đổi - nơi mà mối<br />
liên kết khoa học với sản xuất và đào tạo không chặt, không có cơ chế tự<br />
chủ, độc lập, tự quyền phù hợp với cơ chế thị trường theo tính tự nhiên của<br />
nó. Đối với các nước phát triển, đã là doanh nghiệp đổi mới thì chắc chắn<br />
có con người làm KH&CN với vai trò là chìa khóa cho sự phát triển của<br />
doanh nghiệp và thường được thành lập trong các hướng KH&CN mới nổi<br />
lên (các công nghệ cao, công nghệ mới, công nghệ nền,...). Cụm từ “Doanh<br />
nghiệp KH&CN” ở các nước đó dùng để chỉ các tổ hợp Nghiên cứu - Đào<br />
tạo - Sản xuất như các làng KH&CN có trường đại học làm hạt nhân [5, 6].<br />
II. Kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp ở một số nước<br />
<br />
2.1. Canada<br />
Với mục tiêu xây dựng các chùm đổi mới mà hạt nhân là các doanh nghiệp<br />
spin-off, Chính phủ Canada đã xem xét việc thành lập các trung tâm công<br />
nghiệp vùng với một loạt thành phần quan trọng (trong đó có các doanh<br />
nghiệp đổi mới trong một số hướng công nghệ tương lai như công nghệ vi<br />
sinh, công nghệ gen (chỉ sau Mỹ 20 năm) và trong một số hướng công nghệ<br />
truyền thống (công nghệ ôtô với trung tâm nghiên cứu lớn tại Windsor, với<br />
các chi nhánh lớn tại Michigan, London, Ontario). Các chùm có chức năng<br />
gắn kết các yếu tố công nghệ, kinh phí và nhân lực phục vụ cho mục tiêu<br />
đổi mới và phát triển.<br />
Chính phủ đã giao cho Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia, từ năm 1995, thành<br />
lập các công ty công nghệ mới trên cơ sở nguồn lực trí tuệ, công nghệ và tri<br />
thức sẵn có trong nước. Từ 1995 đến năm 2000, Hội đồng Nghiên cứu<br />
Quốc gia đã thành lập mới 400 công ty công nghệ, trong đó có 40 công ty<br />
thuộc loại Spin-off [1, 2].<br />
Hiện nay, Canada có khoảng 150 doanh nghiệp spin-off từ các phòng thí<br />
nghiệm quốc gia, trong đó có 110 do Hội đồng nghiên cứu quốc gia; 800<br />
doanh nghiệp spin-off từ các trường đại học. Doanh thu hàng năm khoảng 2<br />
<br />
50<br />
<br />
Kinh nghiệm một số nước về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp…<br />
<br />
tỷ USD và tạo 12.000 việc làm. Riêng đối với các doanh nghiệp của Hội<br />
đồng nghiên cứu quốc gia - 1,2 tỷ USD/năm và 7.000 việc làm.<br />
Trong số các hình thức tổ chức chuyển giao công nghệ, Canada cho rằng<br />
hình thức chuyển giao công nghệ/thương mại hóa kết quả nghiên cứu nhanh<br />
nhất - đó là các doanh nghiệp spin-off/ khởi nghiệp (xem hình 1). Quá trình<br />
phát triển của loại hình doanh nghiệp này gắn liền với chương trình ươm<br />
tạo công nghệ hay còn gọi là chiến lược phát triển ươm tạo công nghệ ở<br />
Canada. Quá trình này không thể thực hiện được nếu như không có các<br />
nguồn quỹ đầu tư mạo hiểm.<br />
Chính sách và hỗ trợ pháp lý<br />
Các công ty và<br />
tổ chức R&D<br />
khác<br />
<br />
Hợp tác R&D<br />
<br />
Tổ chức<br />
R&D<br />
<br />
Các hoạt động<br />
R&D khác<br />
<br />
Mua công nghệ<br />
<br />
Các công ty<br />
<br />
Các công ty<br />
hoặc các bộ<br />
phận mới<br />
<br />
Spin- off<br />
<br />
Cải tiến sản phẩm<br />
hoặc quá trình<br />
<br />
Sản phẩm hoặc<br />
dịch vụ mới<br />
<br />
Thị trường<br />
<br />
Hình thành các<br />
công ty mới<br />
<br />
Hình 1. Các kênh chuyển giao công nghệ của Canada<br />
Phá vỡ tất cả các kỷ lục - Nét nổi trội trong đầu tư mạo hiểm của Canada<br />
. Năm 2000, các công ty<br />
Canada đã tiếp cận nhiều<br />
vốn hơn những năm trước<br />
. Năm 2000, vốn đầu tư mạo<br />
hiểm của Canada đạt 19 tỷ<br />
USD<br />
. Vốn đầu tư mạo hiểm trong<br />
công nghiệp của Canada đầu<br />
tư đạt kỷ lục 3,4 tỷ USD với<br />
1.013 vòng tài chính tính<br />
đến cuối quý 3 năm 2000<br />
<br />
6<br />
5<br />
<br />
5<br />
4<br />
<br />
3.48<br />
<br />
tỷ USD<br />
<br />
2.7<br />
<br />
3<br />
2<br />
1<br />
<br />
0.46<br />
<br />
0<br />
1994<br />
<br />
1999<br />
<br />
2000<br />
<br />
2014 (dự kiến)<br />
<br />
Nguồn: Hội đồng Nghiên cứu Canada<br />
<br />
Hình 2. Đầu tư mạo hiểm cho hoạt động của các doanh nghiệp đổi mới<br />
Như đã nói, hoạt động của các doanh nghiệp đổi mới ở Canada không thể<br />
thiếu vốn đầu tư mạo hiểm, cũng như không thể thiếu các biện pháp miễn<br />
<br />
JSTPM Tập 3, Số 4, 2014<br />
<br />
51<br />
<br />
giảm thuế. Canada coi việc miễn thuế cho các doanh nghiệp này thực chất<br />
không phải mất thuế mà hoãn thuế cho tương lai. Vốn đầu tư vốn mạo hiểm<br />
cho các doanh nghiệp đổi mới ở Canada (xem hình 2).<br />
2. Liên bang Nga<br />
Như chúng ta đã biết, Liên bang Nga tiếp thu phần lớn tài sản của Liên Xô<br />
để lại, trong đó có gần 150 Liên hiệp Khoa học - Sản xuất. Theo định nghĩa<br />
thời đó, Liên hiệp Khoa học - Sản xuất là một tổ hợp bao gồm viện nghiên<br />
cứu - thiết kế và một số doanh nghiệp sản xuất loạt số 0 các sản phẩm trong<br />
một số hướng công nghệ đặc biệt (công nghệ ưu tiên). Viện nghiên cứu<br />
đóng vai trò chủ đạo trong hoạt động của Liên hiệp, Viện trưởng đồng thời<br />
kiêm Tổng giám đốc. Liên Xô sụp đổ, cùng với nó là sự tan rã của các Liên<br />
hiệp này, trước hết là các viện nghiên cứu. Quá trình tư nhân hóa kinh tế<br />
nói chung và tư nhân hóa trong lĩnh vực KH&CN được đánh giá như “sự<br />
thủ tiêu thành phần quan trọng nhất của tiềm lực khoa học và công nghiệp”<br />
[4]. Trước tình trạng đó, Chính phủ đã tiến hành:<br />
- Trên cơ sở các Liên hiệp này, thành lập một loạt các doanh nghiệp đổi<br />
mới vừa và nhỏ đa sở hữu, biến địa điểm của Liên hiệp thành làng<br />
khoa học, làng công nghệ (theo kiểu thung lũng Silicon) với đầy đủ<br />
các dịch vụ đi kèm: tổ hợp tài chính - công nghiệp, ngân hàng, các tổ<br />
hợp đầu tư,...<br />
- Tạo cơ chế để các viện lớn liên kết với các doanh nghiệp có khả năng áp<br />
dụng và nhân rộng các công nghệ cao đã có, ví dụ góp vốn bằng cơ sở<br />
vật chất, bằng sở hữu trí tuệ.<br />
Chính phủ Nga đã thực hiện chương trình đổi mới các Liên hiệp khoa học sản xuất trong tất cả các lĩnh vực: nông nghiệp, giao thông, vận tải, chế<br />
tạo... và hình thành nên một hệ thống các doanh nghiệp đổi mới vừa và nhỏ.<br />
Phần lớn các doanh nghiệp này được xây dựng trên mặt bằng của các Liên<br />
hiệp khoa học - sản xuất nên vô hình chung tạo nên một sự liên kết hoặc<br />
chính thức hoặc phi chính thức theo ngành và liên ngành giữa các doanh<br />
nghiệp thông qua mục tiêu chung là đổi mới công nghệ. Bằng cách đó,<br />
người Nga đã hình thành các khu công nghệ cao - các khu đổi mới [3,4,5].<br />
Để phục vụ cho hoạt động của các doanh nghiệp đổi mới kiểu này, Chính<br />
phủ Nga đã xây dựng hệ thống quỹ tài chính và phi tài chính như: quỹ đầu<br />
tư mạo hiểm, các công ty đầu tư mạo hiểm, các quỹ dự trữ vật chất, quỹ<br />
phát triển công nghệ... Đồng thời, hình thành các vườn ươm doanh nghiệp<br />
để tiếp nhận các doanh nghiệp khởi nghiệp và qua đó xây dựng các doanh<br />
nghiệp đổi mới theo kiểu công ty mẹ và công ty con.<br />
Trên đây là những biện pháp tổng hợp hỗ trợ cho hoạt động của doanh<br />
nghiệp đổi mới của Nga. Chi tiết hơn, ta có thể thấy như sau:<br />
<br />
52<br />
<br />
Kinh nghiệm một số nước về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp…<br />
<br />
- Nhà nước đặc biệt chú ý đến việc điều chỉnh giá cả công nghệ mới trên<br />
cơ sở cung cầu, đảm bảo được 3 yếu tố: Bù đắp chi phí của người sản<br />
xuất; xác định được tỷ lệ doanh lợi giữa các thành viên tham gia quá<br />
trình khoa học - sản xuất, giảm giá cho người sử dụng tùy thuộc vào lĩnh<br />
vực mà công nghệ mới được áp dụng.<br />
Việc giảm giá được tiến hành trên cơ sở tính toán đầy đủ các chi phí,<br />
đồng thời có tính tới sự hao mòn vô hình xét theo khía cạnh kinh tế, xã<br />
hội và môi trường. Tăng giá dẫn đến tình trạng giảm ứng dụng, giảm giá<br />
dẫn đến giảm cung, chính phủ cần có các chính sách điều tiết hợp lý vì<br />
đối với công nghệ mới đôi khi không thể để thị trường tự do điều tiết.<br />
Việc trợ giá có thể được thực hiện thông qua các quỹ tập trung.<br />
- Nhà nước chú ý tới việc áp dụng cơ chế khấu hao nhanh để thúc đẩy quá<br />
trình đổi mới công nghệ nói chung và chu trình đổi mới sản phẩm của<br />
doanh nghiệp KH&CN nói riêng. Đây là điều mà nước Nga cho rằng cần<br />
học tập kinh nghiệm của Mỹ, nơi mà cơ chế này đã được áp dụng phổ<br />
biến từ hơn 50 năm nay.<br />
- Nhà nước đặc biệt chú ý đến vai trò tín dụng Ngân hàng thông qua<br />
việc: tạo cơ chế để Ngân hàng góp vốn cùng đầu tư với doanh nghiệp<br />
đổi mới, giảm thuế thu nhập để ngân hàng chỉ thu lãi 50% khoản nợ<br />
đáo hạn của doanh nghiệp; giảm 50% vốn dự trữ bắt buộc đối với ngân<br />
hàng đầu tư cho đổi mới; bảo đảm kịp thời trả tới 50% tổng số tín dụng<br />
của các ngân hàng thương mại bằng cách Ngân hàng Trung ương thu<br />
lãi suất bằng 0 trong thời hạn nhất định đối với các khoản nợ quá hạn;<br />
giảm 50% lãi suất đối với các khoản tín dụng trung và dài hạn cho đổi<br />
mới, nhưng tăng thêm 30% đối với các khoản vay ngắn hạn cho các<br />
mục tiêu đầu cơ, trục lợi.<br />
- Ưu đãi về thuế: bao gồm giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế<br />
thu nhập doanh nghiệp 2-3% đối với sản phẩm mới, dãn nợ thuế, thuế tín<br />
dụng đầu tư,... Cụ thể, không thu thuế các thương vụ sử dụng và bán<br />
licence, không thu thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần lợi nhuận<br />
bằng tổng chi phí cho nghiên cứu và phát triển của doanh nghiệp đổi<br />
mới, đồng thời tăng thuế lũy tiến đối với các doanh nghiệp độc quyền từ<br />
năm thứ năm trở đi. Miễn thuế tài sản 100% năm thứ nhất, 50% năm thứ<br />
hai, 30% năm thứ ba và 20% năm thứ tư đối với các doanh nghiệp đổi<br />
mới có trang thiết bị mới. Giảm các khoản bảo hiểm xã hội 30 - 50%, số<br />
còn lại do Nhà nước cấp bù từ ngân sách [4].<br />
3. Mỹ<br />
Một trong các hình thức tổ chức các quá trình đổi mới ở Mỹ là doanh<br />
nghiệp đổi mới vừa và nhỏ hay còn gọi là doanh nghiệp tự quyền [3]. Hình<br />
<br />