Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Vai trò văn hóa kinh doanh trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
lượt xem 21
download
Kỷ yếu tập hợp 36 bài tham luận của các nhà khoa học trong toàn quốc, tập trung làm rõ những nội dung cơ bản về văn hóa kinh doanh. Kỷ yếu tiếp cận văn hóa kinh doanh ở các góc độ khác nhau, từ nhân học, văn hóa học, xã hội học, kinh tế học để làm rõ thêm khái niệm, nội hàm, cấu trúc, vai trò và bản chất của văn hóa kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Vai trò văn hóa kinh doanh trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- 3 CHỦ ĐỀ HỘI THẢO: VAI TRÒ VĂN HÓA KINH DOANH TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM BAN NỘI DUNG - PGS.TS. Nguyễn Mạnh Toàn Trưởng ban - PGS.TS. Đào Hữu Hòa Phó Trưởng ban - PGS.TS. Lê Hữu Ái Phó Trưởng ban - TS. Ngô Văn Hà Phó Trưởng ban - TS. Lê Thị Tuyết Ba Ủy viên - TS. Nguyễn Hồng Cử Ủy viên - TS. Trịnh Sơn Hoan Ủy viên - TS. Trần Hồng Lưu Ủy viên - TS. Nguyễn Huy Thành Ủy viên - NCS. Lâm Bá Hòa Ủy viên - ThS. Nguyễn Văn Hoàn Ủy viên BAN TỔ CHỨC - PGS.TS. Nguyễn Mạnh Toàn Trưởng ban - PGS.TS. Đào Hữu Hòa Phó Trưởng ban - PGS.TS. Lê Hữu Ái Phó Trưởng ban - TS. Ngô Văn Hà Phó Trưởng ban - TS. Nguyễn Phúc Nguyên Ủy viên - TS. Đường Liên Hà Ủy viên - TS. Dương Anh Hoàng Ủy viên - ThS. Phan Kim Tuấn Ủy viên - CN. Hồng Thị Thủy Ủy viên * TS. Nguyễn Phúc Nguyên điều hành hội thảo thay PGS.TS. Đào Hữu Hòa.
- 5 LỜI NÓI ĐẦU V ăn hóa kinh doanh là hệ thống Nam. Việc xây dựng văn hóa kinh doanh, các giá trị tinh thần chi phối mọi góp phần đưa doanh nghiệp Việt Nam đủ sức hoạt động kinh doanh, nó góp cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế là phần nâng cao sức cạnh tranh của mỗi doanh một yêu cầu cấp bách. Vì lý do trên, Trường nghiệp cũng như cả nền kinh tế. Văn hóa Đại học Kinh tế _ Đại học Đà Nẵng, tổ chức kinh doanh hướng tới mục tiêu nhân văn, vì Hội thảo khoa học VAI TRÒ CỦA VĂN con người, phù hợp với mục tiêu xây dựng HÓA KINH DOANH TRONG KINH TẾ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI nghĩa ở Việt Nam. CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. Kinh doanh có văn hóa là biết làm giàu Kỷ yếu tập hợp 36 bài tham luận của các cho mình, nhưng vẫn phải tuân thủ pháp luật nhà khoa học trong toàn quốc, tập trung làm và các giá trị đạo đức chung, kết hợp hài hòa rõ những nội dung cơ bản về văn hóa kinh giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, doanh. phát triển sản xuất kinh doanh gắn với bảo Kỷ yếu tiếp cận văn hóa kinh doanh ở vệ tài nguyên - môi trường, đảm bảo quyền các góc độ khác nhau, từ nhân học, văn hóa lợi cho người lao động và an toàn cho người học, xã hội học, kinh tế học để làm rõ thêm tiêu dùng, góp phần đưa đất nước phát triển khái niệm, nội hàm, cấu trúc, vai trò và bản nhanh và bền vững. chất của văn hóa kinh doanh trong nền kinh Một doanh nghiệp có văn hóa kinh tế thị trường. Những biểu hiện văn hóa kinh doanh luôn theo đuổi giá trị đã xác định, bất doanh trong doanh nghiệp nhà nước, doanh chấp sự tác động từ hoàn cảnh bên ngoài. Giá nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh trị đó chính là bầu không khí và môi trường nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân được hoạt động của doanh nghiệp, ở đó, mọi người các tham luận trình bày khá sinh động. Vị trí được tôn trọng, hợp tác, phát huy được năng và vai trò của doanh nhân được đề cao. Họ là lực, đề ra nhiều sáng kiến đem lại lợi ích cho những người đứng mũi chịu sào, những chiến bản thân và doanh nghiệp. sĩ tiên phong trong sự nghiệp chấn hưng nền Từ khi chuyển sang kinh tế thị trường kinh tế. Đảng và Nhà nước luôn quan tâm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều doanh đến việc xây dựng văn hóa kinh doanh, kiến nghiệp Việt Nam đã xây dựng hình ảnh của tạo môi trường bình đẳng, tổ chức các giải mình, khẳng định được vị trí ở thị trường thưởng nhằm tôn vinh các doanh nghiệp tiêu trong nước và từng bước vươn ra tầm khu biểu. vực. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa Kỷ yếu đã chỉ ra những hạn chế trong quan tâm nhiều đến việc xây dựng văn hóa văn hóa kinh doanh của Việt Nam, thiếu nền kinh doanh. Hoạt động kinh doanh còn mang tảng triết lý, tầm nhìn chiến lược, làm ăn tính chụp giật, gian lận thương mại, buôn nhỏ lẻ, xem nhẹ chữ tín, thiếu tính liên kết, lậu, trốn thuế, nợ lương, vô trách nhiệm với nặng về lợi ích cá nhân. Tập trung phân tích môi trường sinh thái, làm ảnh hưởng tiêu một cách hệ thống nguyên nhân khách quan cực đến thương hiệu của doanh nghiệp Việt và chủ quan những hạn chế của văn hóa kinh
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 6 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam doanh, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm quả pháp luật để lập lại trật tự, kỷ cương xã phát triển văn hóa kinh doanh Việt Nam hội, tạo môi trường thuận lợi cho việc hình trong bối cảnh hội nhập quốc tế như: Tuyên thành và phát triển đạo đức kinh doanh. truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về văn Do thời gian có hạn và đây là vấn đề lớn, hóa kinh doanh; xây dựng triết lý, chiến lược nên Kỷ yếu sẽ không tránh khỏi những hạn kinh doanh; xây dựng môi trường kinh doanh chế. Rất mong nhận được sự góp ý của các lành mạnh; xây dựng cơ chế bảo vệ quyền nhà khoa học, Quý thầy, cô giáo. Trân trọng lợi người tiêu dùng; nâng cao vai trò, hiệu cám ơn. T/M BAN NỘI DUNG TS. Ngô Văn Hà
- ts. Trần Hồng Lưu 7 I. PHẦN LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA KINH DOANH V.I.LÊNIN BÀN VỀ NỘI DUNG NỀN VĂN HOÁ MỚI TS. Trần Hồng Lưu Trường Đại học kinh tế, Đại học Đà Nẵng TÓM TẮT Tất cả những gì thuộc về con người, liên quan đến con người và do con người sáng tạo ra đều là văn hóa khi nó được định hướng phát triển theo tiêu chí phù hợp với (chân - thiện - mỹ). Phát triển chính là đích ngắm cuối cùng cho mỗi quốc gia, dân tộc từ bao đời nay. Nhiều nước đã và đang đề ra các chính sách phát triển nhằm đưa quốc gia mình tiến lên nhanh chóng, thoát xa khỏi nghèo đói lạc hậu. Song cái giá cho sự lựa chọn phát triển đó là quá đắt nếu không biết đúc tỉa để rút ra kinh nghiệm. Thực tiễn lịch sử loài người đã luận chứng, văn hoá chính là một trong những nhân tố quan trọng tạo ra sự phát triển bền vững của các quốc gia. Sớm nhận thức vấn đề này, ngay sau khi giành chính quyền, V.I.Lênin, đã đưa ra ý tưởng về việc xây dựng một nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở cho sự phát triển. Trong đó việc giáo dục tri thức khoa học, học vấn phổ thông và việc kế thừa có chọn lọc những thành tựu của chủ nghĩa tư bản được Lênin đặc biệt đề cao. Ý tưởng về việc xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa của Người vẫn còn nguyên ý nghĩa thời sự nóng bỏng ngay cả khi nền kinh tế tri thức đã và đang gõ cửa từng quốc gia, dân tộc từng ngày, từng giờ. Từ khóa: văn hóa, xã hội chủ nghĩa, học vấn, tri thức, khoa học, kế thừa. N gày nay, để thoát xa khỏi nghèo đói Ngay sau khi giành chính quyền, thành và tụt hậu, các quốc gia đã sử dụng lập nhà nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu mọi nguồn lực về tiền của, khoa học- tiên trên thế giới, muốn thắng lợi hoàn toàn, công nghệ nhằm tạo ra sự phát triển nhanh cần phải tiến hành đồng thời các hoạt động chóng. Thực tiễn cho thấy, không ít nước đã trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội… tạo ra sự tăng trưởng kiểu bong bóng xà phòng trong đó kinh tế là then chốt. Tuy nhiên, trước sau đó xẹp xuống nhanh chóng. Nguyên nhân bề bộn công việc của nhà nước trẻ và sự tấn cơ bản là trong chiến lực phát triển, các nước công của “thù trong, giặc ngoài”, bắt tay vào này đã quên mất yếu tố văn hoá. Thực ra, văn xây dựng chế độ mới, V.I.Lênin, đã sớm nhận hoá chính là một trong những nhân tố quan thấy muốn tiến hành thành công các lĩnh vực trọng tạo ra sự phát triển bền vững của các trên thì trước hết phải xây dựng một nền văn quốc gia. Sớm nhận thức vấn đề này, ngay hoá mới - XHCN, làm cơ sở cho sự phát triển sau khi giành chính quyền, V.I.Lênin, đã đưa bền vững nhằm đạt đến mục đích của chế độ ra ý tưởng về việc xây dựng một nền văn hoá mới. Với một nước Nga nghèo đói, vừa thoát mới xã hội chủ nghĩa, làm cơ sở cho sự phát ra khỏi nội chiến, kinh tế lạc hậu, trình độ dân triển. trí thấp thì không thể nào xây dựng được chế
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 8 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam độ mới, nếu như không có một trình độ văn từ chỗ là công cụ của chủ nghĩa tư bản thành hoá nhất định. công cụ của chủ nghĩa xã hội ” (3). Để tiến hành công cuộc xây dựng xã Ý thức sâu sắc vấn đề này, nhiều lần, hội mới, bản thân giai cấp vô sản và chính Lênin căn dặn: “…chúng ta, những người xã đảng của nó phải có trình độ văn hoá và họ hội chủ nghĩa, những người cộng sản, phải phải tiến hành cuộc cách mạng văn hoá trên chứng tỏ trên thực tế rằng chúng ta có thể xây toàn xã hội để tạo ra một nền văn hoá XHCN. dựng chủ nghĩa xã hội với những viên gạch Lênin chỉ rõ, để có được những “người có văn đó, với những vật liệu đó”. Và cần “…phải hoá thì tư liệu vật chất để sản xuất phải phát tiếp thu toàn bộ nền văn hoá do chủ nghĩa triển tới một mức độ nào đó”, trên “một cơ sở tư bản để lại và dùng nền văn hoá đó để xây vật chất nhất định nào đó” (1). Cơ sở vật chất dựng chủ nghĩa xã hội. Phải tiếp thu toàn bộ đó chính là nền đại công nghiệp có khả năng khoa học, kỹ thuật, tất cả kiến thức, tất cả cải tạo nông nghiệp, muốn có được điều đó, nghệ thuật. Không có cái đó, chúng ta không nước Nga buộc phải điện khí hoá toàn quốc. thể xây dựng cuộc sống của xã hội cộng sản Tuy nhiên “việc điện khí hoá không thể do được” 4. những người mù chữ thực hiện được, mà chỉ Văn hoá vô sản- xã hội chủ nghĩa, không biết chữ không thôi thì cũng không đủ.. mà phải hình thành từ hư vô. Nó phải là kết quả phải hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện phát triển tự nhiên trong dòng chảy chung của được trên cơ sở một nền học vấn hiện đại”2. văn hoá nhân loại. Một nền văn hoá như vậy, Chính vì vậy, theo Lênin, tiến hành công chỉ có thể kết quả của “sự phát triển hợp quy tác văn hoá được coi là nhiệm vụ trọng tâm, luật của tổng số kiến thức mà loài người đã bức thiết và lâu dài không chỉ ngày một ngày tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư hai - đó là cuộc cách mạng thật sự. Muốn làm bản” (5). Mục đích của sự kế thừa- theo Lênin, được điều đó, Đảng cộng sản và Nhà nước là nhằm xây dựng thành công CNXH, biến vô sản không những phải tích cực tự giáo các thành quả của chủ nghĩa tư bản thành dục và không ngừng nâng cao trình độ khoa công cụ của xã hội mới, để cải biến nước Nga học, kỹ thuật cho giai cấp vô sản và nhân dân thành một nước XHCN tốt đẹp. Lênin căn dặn lao động mà quan trọng hơn là phải biết kế kỹ lưỡng: “Chúng ta cần những tri thức, kinh thừa và tiếp thu chọn lọc những tinh hoa văn nghiệm của họ- tức chủ nghĩa tư bản (THL)- hoá của nhân loại, trong đó có cả văn hoá tư nếu không có những cái đó thì thực tế không bản chủ nghĩa, vì đó chính là những vật liệu, thể nắm lấy nền văn hoá đã được tạo nên bởi những viên gạch để xây dựng nên cnxh. những quan hệ xã hội cũ”6. Sự kế thừa đó, chính là nhằm “phát triển văn hoá của toàn Trong quan niệm của Lênin, chỉ có thể xây thể quần chúng nhân dân”, chứ không phải dựng thành công cnxh, một khi nắm vững chỉ phục vụ thiểu số giai cấp thống trị- giai được “nền văn hoá đã được tạo nên bởi những cấp trước đây đã “đè bẹp một cách tàn bạo” quan hệ xã hội cũ và lưu lại với tính cách là và “giày xéo, đè nén, bóp nghẹt mất hàng cơ sở vật chất của cnxh”. Do đó, giai cấp vô ngàn, hàng triệu” nhân tài trong quần chúng sản cần thiết phải “tự đề ra cho mình nhiệm nhân dân. Nền văn hoá kiểu mới- văn hoá vô vụ biến cái vốn vô cùng phong phú về văn sản (XHCN), phải là công cụ hữu hiệu để xây hoá, về tri thức và về kỹ thuật mà chủ nghĩa dựng thành công cnxh, tạo lập một đời sống tư bản đã tích luỹ.. biến tất cả những cái đó 3 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.36, tr.321, 472. 1 V.I.Lênin, Toàn tập, t.45, Nxb Tiến bộ, Matxcơva,1978, 4 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.45, tr. 66, 67. tr.429. 5 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.36, tr.321, 472. 2 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.41, tr. 364, 365. 6 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.36, tr.321.
- ts. Trần Hồng Lưu 9 vật chất và tinh thần ngày càng đầy đủ và Từ quan điểm duy vật biện chứng, khi phong phú cho toàn thể nhân dân. xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, Lênin đã chỉ ra sự cần thiết phải sử dụng, Lênin đã không phủ định sạch trơn các thành kế thừa các thành tựu mà chủ nghĩa tư bản tựu của chế độ trước đó như những người tự để lại, vì: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, xưng thuộc phái văn hoá vô sản (RAFF), đã cần phải sử dụng đầy đủ khoa học, kỹ thuật, chủ trương. Đối với họ- những người thuộc và nói chung, tất cả những gì do nước Nga tư phái văn hoá vô sản- thì muốn xây dựng nền bản để lại cho chúng ta”77. Với tình cảnh nước văn hoá mới thật “tinh khiết” thì nhất thiết Nga lúc đó- năm 1918- đang sa vào khủng phải “dọn sạch” những gì thuộc về chế độ cũ mà họ cho là đầy rẫy rác rưởi và tàn tích của hoảng trầm trọng, muốn làm được điều đó, chủ nghĩa tư bản và chế độ cũ. Xây dựng nền theo Lênin, cần thiết phải sử dụng các biện văn hoá mới-xhcn, theo Lênin: “Không phải pháp độc tài, những thủ đoạn dã man để bắt là nghĩ ra một thứ văn hoá vô sản mới, mà chước chủ nghĩa tư bản nước ngoài, nhanh là phát triển những kiểu mẫu ưu tú, những chóng tạo lập ra nền văn hoá mới cho toàn kết quả tốt nhất của nền văn hoá hiện tồn.. dân. Để đuổi kịp trình độ các nước Tây Âu lúc và những điều kiện của đời sống và của cuộc đó, không có cách nào khác là phải ra sức học đấu tranh của giai cấp vô sản trong thời đại tập các thành tựu khoa học, kỹ thuật, đặc biệt chuyên chính vô sản”(10). là cách quản lý kinh tế của các nước tư bản tiên tiến. Rất nhiều lần, Người nhắc lại nhiệm Đương thời, Lênin cũng kiên quyết vạch vụ cụ thể của giai cấp vô sản và nhà nước trần luận điệu giả dối của những kẻ tự chủ vô sản lúc đó là: “học tập chủ nghĩa tư bản trương xây dựng một nền văn hoá thuần nhà nước của người Đức, dốc hết sức ra bắt khiết mà không cần đến sự kế thừa những chước nó và không ngại dùng biện pháp độc tinh hoa của thời đại trước, những người tự tài để đẩy nhanh sự bắt chước đó..và không coi là trung lập, đứng ngoài các đảng phái. ngần ngại dùng những thủ đoạn dã man để Người chỉ rõ, trong xã hội có giai cấp, hoàn đấu tranh với tình trạng dã man”8. Chỉ bằng toàn không thể có một nền văn hoá vị nghệ cách học tập và vận dụng các phương pháp thuật đứng ngoài cuộc sống và cuộc đấu tư bản- như phương pháp Taylo và nâng cao tranh giai cấp sôi động vì quyền lợi của nhân năng suất lao động theo kiểu Mỹ trên toàn dân lao động. Với một lĩnh vực hẹp như văn nước Nga, thì mới tạo ra phương pháp và học, Lênin cũng yêu cầu “sự nghiệp văn học cách thức tổ chức lao động mới đạt hiệu quả phải trở thành một bộ phận trong sự nghiệp cao mà không gây ra tổn hại lớn về sức lao của toàn thể giai cấp vô sản, phải trở thành động đối với nhân dân. Điều đó được Lênin “một cái bánh xe nhỏ và một cái đinh ốc nhỏ” nhiều lần khẳng định: “không có kỹ thuật tư trong một bộ máy dân chủ, xã hội thống nhất, bản chủ nghĩa quy mô lớn được xây dựng trên do toàn bộ đội tiền phong giác ngộ của giai những phát minh mới nhất của khoa học hiện cấp công nhân điều khiển. Sự nghiệp văn học đại, không có một tổ chức nhà nước có kế phải thành một bộ phận khăng khít của công hoạch có thể khiến cho hàng chục triệu người tác có tổ chức, có kế hoạch thống nhất của phải tuân theo hết sức nghiêm khắc một tiêu Đảng dân chủ-xã hội”(11). chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất và Nhiệm vụ của giai cấp vô sản là phải cải phân phối sản phẩm, thì không thể nói đến biến toàn bộ di sản văn hoá truyền thống và chủ nghĩa xã hội được” (9). các thành tựu văn hoá nhân loại nhằm xây dựng nền văn hoá của đa số nhân dân lao 7 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.38, tr.8. 8 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.36, tr.369 hoặc tr.170-174. 10 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.41, tr.548. 9 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.36, tr.368. 11 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.12, tr.123, 124.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 10 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam động, sử dụng chúng như là nguồn vật liệu chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng không thể thiếu để đưa nước Nga lạc hậu, tâm công tác của chúng ta vào đấu tranh nghèo đói và tăm tối tiến lên CNXH. Xuất chính trị, vào việc giành chính quyền, v.v. phát từ một nước Nga tiểu nông lạc hậu, với Ngày nay trọng tâm ấy đã chuyển sang công những người mugích ít học, tầm nhận thức tác hoà bình tổ chức “văn hoá”…trọng tâm đầy hạn chế, Lênin coi việc kế thừa chọn lọc của chúng ta đã chuyển sang hoạt động giáo các thành tựu văn hoá nhân loại, nhất là các dục”. Lênin còn chỉ ra hai nhiệm vụ chủ yếu thành quả mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trong có ý nghĩa thời đại của nước Nga lúc đó là cải tiến trình phát triển lịch sử là hết sức cần kíp tạo bộ máy quản lý mà xã hội cũ để lại và tiến đối với giai cấp vô sản và chính đảng của nó, hành công tác văn hoá trong nông dân. Hai để xây dựng xã hội mới. Đó là công việc hoàn nhiệm vụ này có môi liên hệ qua lại với nhau, toàn mới mẻ, trong tình trạng, nước Nga “còn vì theo Lênin, muốn xây dựng bộ máy quản lý lâu mới đạt đến một trình độ tiểu học cho toàn nhà nước “đòi hỏi nhiều, nhiều, rất nhiều năm dân” và để đạt đến một trình độ văn hoá cao tháng” mà nước Nga lúc đó, chỉ có hai yếu hơn một chút, theo Lênin, đó là công việc lâu tố: “Một là”: những công nhân hăng hái đấu dài mà “chúng ta cũng còn phải hoàn thành tranh cho chủ nghĩa xã hội. Họ chưa có đầy bao nhiêu công việc to lớn nữa” (12). đủ học thức. Họ rất muốn mang lại cho chúng Đặc biệt, đối với nước Nga lạc hậu, với đa ta một bộ máy tốt hơn. Nhưng họ không biết số nông dân lúc đó, thì theo V.I.Lênin, “việc làm như thế nào. Họ không thể làm được việc tiến hành công tác văn hoá trong nông dân” là đó. Cho đến nay họ không được học tập mấy, một trong hai nhiệm vụ “chủ yếu có ý nghĩa họ không có trình độ văn hoá cần thiết để làm đánh dấu thời đại” mà “chúng ta nhất thiết việc đó. Thế mà để làm được việc ấy chính phải làm”. V.I.Lênin, tin tưởng chắc chắn rằng lại cần phải có văn hoá.Về việc này không “chỉ cần hoàn thành cuộc cách mạng văn hoá thể giải quyết được bằng một hành động liều là đủ để.. trở thành một nước hoàn toàn xã lĩnh hay một cuộc xung phong, bằng sự táo hội chủ nghĩa” (13). Năm 1923, khi nói về tính bạo hay bằng nghị lực, hoặc nói chung bằng chất gay go của thời kỳ quá độ, một lần nữa, bất cứ một một trong những đức tính tốt đẹp Lênin lại chỉ ra vai trò cực kỳ quan trọng của nhất của con người. Hai là: những yếu tố kiến việc giáo dục tri thức, văn hoá cho nhân dân: thức, học thức, giáo dục: nhưng nếu so với “Nếu không trải qua thời kỳ lịch sử đặc biệt tất cả các nước khác, thì chúng ta có ít ỏi đến ấy…không làm cho mọi người đều có trình nực cười” (15). độ học vấn phổ thông, không có một trình độ Để xây dựng xã hội mới mà chỉ bằng nhiệt hiểu biết đầy đủ về công việc, không giáo dục tình mà thiếu tri thức, văn hoá thì chắc chắn cho dân cư biết dùng sách báo, không có cơ sẽ gây ra sự phá hoại. Chính vì vậy, việc xây sở vật chất cho việc đó, không có những sự dựng nền văn hoá mới và giáo dục tri thức đảm bảo nào đó, chẳng hạn để chống nạn mất khoa học cho nhân dân được Lênin đặc biệt mùa, nạn đói,v.v…,- không có tất cả những nhấn mạnh, coi đây là nhiệm vụ mang tính điều đó thì chúng ta sẽ không thể đạt được chất sống còn cho sự thắng lợi của nhà nước mục đích” (14). xhcn. Người viết: “Muốn đổi mới bộ máy Như vậy, đến lúc này, Lênin coi trọng nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức đặt tâm của thời kỳ quá độ là giáo dục học vấn, cho mình nhiệm vụ sau đây: một là học tập, văn hoá cho nhân dân, bởi vì: “…trước đây, hai là học tập, ba là học tập mãi, và sau nữa, 12 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.45, tr.416. phải làm sao cho học thức ở nước ta không 13 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.45, tr.428, 429. 14 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.45, tr. 428. 15 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.45, tr.443-444.
- ts. Trần Hồng Lưu 11 nằm trên giấy hoặc là lời nói theo mốt nữa…, móc quan trọng nhất trong số những máy mới phải làm sao cho học thức thực sự ăn sâu vào nhất để học và dạy” (17). Cách mạng Tháng trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ Mười Nga đã diễn ra cách đây gần 100 năm, phận khăng khít của cuộc sống chúng ta” (16). cũng chừng ấy năm, loài người được chiêm Ngoài ra, để phát triển văn hoá nhanh nghiệm và kiểm chứng những tư tưởng vĩ đại chóng, Lênin còn yêu cầu cần phải tổ chức của Lênin- lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp vô tốt việc tuyên truyền, quảng bá các thành tựu sản thế giới và của nước Nga -về việc xây văn hoá, khoa học kỹ thuật của các nước tư dựng nền văn hoá mới. Bước vào thiên niên bản đương thời vào việc giáo dục, đó là: “cần kỷ mới, khi mà văn hoá được coi là một trong những yếu tố quyết định tạo nên sự phát triển phải giới thiệu cho chúng ta biết kỹ thuật của bền vững, bất cứ một quốc gia nào coi nhẹ Châu Âu và của Mỹ một cách rõ ràng kịp vấn đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi thời…Matxcơva phải có I mẫu tất cả các máy nguy cơ tụt hậu xa so với thế giới./. 16 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.45, tr.444. 17 V.I.Lênin, Toàn tập, Sđd, t.53, tr.216.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 12 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam MỐI QUAN HỆ GIỮA VĂN HÓA - SỨC MẠNH NỘI SINH CỦA DÂN TỘC VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Nguyễn Tiến Nam Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng 1.Văn hóa - Sức mạnh nội sinh quan đến khẳng định “Đảm bảo sự gắn kết giữa trọng của dân tộc trong phát triển bền vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây Sức mạnh của một dân tộc về bản chất dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng phát triển chính là văn hóa với tư cách sức mạnh nội mạnh mẽ là then chốt với không ngừng nâng sinh trong lòng dân tộc. Văn hóa là một nguồn cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; lực mềm giữ vai trò động lực và đòn bẩy thúc tạo nên sự phát triển đồng bộ cả ba lĩnh vực đẩy kinh tế phát triển và làm hài hòa các mối trên chính là điều kiện quyết định để bảo đảm quan hệ xã hội cũng như lành mạnh hóa môi cho sự phát triển toàn diện bền vững của đất trường xã hội. nước” (Hội nghị Trung ương 10, Khóa IX) và chỉ rõ “Văn hóa trở thành sức mạnh nội Một trong những nội dung quan trọng sinh quan trọng của phát triển” (Cương lĩnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong bổ sung, phát triển năm 2011). thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại Văn hóa biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, hội XI là Đảng Cộng sản Việt Nam là đã nêu sức mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc của lên định hướng về văn hóa với nội hàm toàn dân tộc. Thực tế đã chứng minh, một quốc diện, sâu sắc: “Xây dựng nền văn hóa tiên gia muốn phát triển bền vững thì, ngoài việc tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn dựa vào các nguồn lực tự nhiên, kinh tê kỹ diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần thuật như tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; cơ sở vật chất,…còn cần phải biết tận dụng, làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu khai thác nguồn lực mềm như nguồn nhân lực vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức với vai trò là nhân cách văn hóa năng động, mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. sáng tạo nhất, đóng góp quyết định nhất đến sự hùng mạnh, phồn vinh của xã hội. Hay nói Đây là thành quả của tư duy không ngừng cách khác, văn hóa là một nguồn lực mềm tìm tòi, sáng tạo và ngày càng hoàn thiện lý làm động lực và đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát luận về văn hóa trong lịch sử hơn 80 năm của triển và làm hài hòa các mối quan hệ xã hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là: Từ việc xác và lành mạnh hóa môi trường xã hội. định “văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan tâm” (Đề cương Không phải ngẫu nhiên mà Tổ chức Giáo văn hóa Việt Nam năm 1943), “một trong ba dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp cuộc cách mạng phải tiến hành đồng thời” Quốc (UNESCO) từng khuyến cáo các nước (Đại hội IV), rồi nâng tầm “Văn hóa là nền trên thế giới là phải tiếp thêm sức mạnh của tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là nền văn hóa đương đại và nâng lên ngang tầm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã với sự phát triển kinh tế và sự phồn vinh của hội” (Hội nghị Trung ương 5, Khóa VIII), xã hội cũng như cần coi văn hóa như nguồn
- nguyễn tiến nam 13 bổ sung trực tiếp cho phát triển và ngược lại vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời phát triển cần thừa nhận văn hóa giữ một vị sống văn hóa” và “Học tập và làm theo tấm trí trung tâm, đóng vai trò điều tiết xã hội. gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Kết hợp hài Việc Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan hòa, đồng bộ và thực hiện bền bỉ hai cuộc vận tâm xây dựng văn hóa thực chất là coi trọng động này thực chất là tạo điều kiện cho mọi và đề cao sức mạnh mềm của đất nước. Sức người dân được “tắm mình” trong môi trường mạnh mềm là sức mạnh bắt nguồn, là xuất văn hóa lành mạnh, được thưởng thức đời phát điểm từ bên trong được kết tinh từ trí tuệ, sống văn hóa tinh thần phong phú, sinh động ý chí, tâm hồn, cốt cách, truyền thống lịch sử và luôn hướng đến một nhân cách văn hóa vẻ vang, tinh thần anh dũng, quật cường, mưu tiêu biểu, mẫu mực để từng bước xây dựng, trí, sáng tạo của dân tộc Việt Nam từ hàng hoàn thiện phẩm chất văn hóa của chính mình. nghìn đời nay. Đó cũng là giải pháp căn bản nhất để Đánh thức những tiềm năng còn tiềm ẩn xây dựng con người Việt Nam có đủ các tiêu trong mỗi con người và kết nối những tiềm chuẩn “Giàu lòng yêu nước, ý thức làm chủ, năng ấy thành sức mạnh vật chất trong cuộc trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khỏe, chiến chống đói nghèo, lạc hậu; trong xây lao động giỏi, có văn hóa và có tinh thần quốc dựng xã hội văn minh; trong tôi luyện thành tế chân chính” như Nghị quyết Trung ương 5 những con người mới XHCN chính là nhiệm (Khóa VIII) đã xác định. vụ của văn hóa; đồng thời thể hiện sức mạnh Thứ ba, trong thời đại toàn cầu hóa hiện nội sinh của văn hóa thúc đẩy sự phát triển nay, văn hóa không chỉ là sức mạnh nội sinh kinh tế- xã hội. của một dân tộc, mà còn là phương tiện, công Trước hết, cần kiên định một cuộc cách cụ quảng bá hình ảnh dân tộc, vị thế đất nước mạng về nhận thức, làm cho mọi cán bộ, đảng ra thế giới rất hữu hiệu. viên và các tầng lớp nhân dân, các cấp, cách Do vậy, cùng với mở rộng hợp tác quốc ngành hiểu biết đầy đủ và thấm nhuần sâu sắc tế về văn hóa và nâng cao nguồn nhân lực văn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn hóa, cần có những chính sách, giải pháp đồng hóa trong quá trình phát triển đất nước. bộ để phát triển văn hóa đúng hướng, phù hợp Trên cơ sở đó, vận dụng nhuần nhuyễn, với sự phát triển của thời đại mới. Trong đó, sáng tạo yếu tố văn hóa trong sự nghiệp xây đặc biệt quan tâm đến lĩnh vực phim ảnh, ca dựng và bảo vệ Tổ quốc, lấy văn hóa là một múa nhạc, sách báo, truyền thông…để vừa trong những đòn bẩy chủ yếu để thúc đẩy tăng tạo ra những tác phẩm bổ ích, phong phú đáp trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng ứng nhu cầu thưởng thức đa dạng của công xã hội. Kiên quyết khắc phục cho được các chúng trong nước; vừa chủ động giới thiệu, quan niệm hời hợt, phiến diện, coi văn hóa quảng bá hình ảnh văn hóa Việt Nam với bạn chỉ là “cờ, đèn, kèn, trống” hay là yếu tố “bên bè quốc tế và đẩy mạnh xuất khẩu các “sản ngoài, đi sau” kinh tế, hoặc chỉ chạy theo sự phẩm văn hóa Việt” ra thị trường văn hóa khu tăng trưởng kinh tế thuần túy, mà thiếu quan vực và thế giới. tâm đúng mức đến các giá trị, truyền thống, Làm tốt công việc này chính là đưa văn bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc. hóa vào trong kinh tế và trực tiếp tạo động Thứ hai, tiếp tục duy trì, đẩy mạnh và lực thúc đẩy kinh tế đất nước ngày càng phát nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện cuộc triển.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 14 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Thứ tư, tăng cường đầu tư xây dựng các Nguyên thủy, nó phản ánh sự quan ngại thiết chế văn hóa, hạ tầng cơ sở văn hóa trong đối với một số quốc gia muốn tăng trưởng cả nước, trong đó đặc biệt quan tâm đến các kinh tế vội vã, chọn cách phát triển thiển cận, địa bàn miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, miễn sao tăng thu nhập hiện tại cho nhanh, vùng xa, vùng căn cứ kháng chiến cũ. Văn mà không để ý đến những nguy hại dài lâu hóa gắn liền với con người, do con người, của của lối phát triển ấy đến môi trường sinh thái con người và vì con người. (tàn phá rừng, sa mạc hóa...), đến trữ lượng hữu hạn của tài nguyên thiên nhiên (quặng Phải nắm vững vấn đề cốt lõi đó để cùng mỏ, dầu hỏa, khí đốt). với việc nâng cao dân sinh, dân trí, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân được Khái niệm “phát triển bền vững” nhấn tiếp cận, thưởng thức đời sống văn hóa tinh mạnh đến khả năng phát triển kinh tế liên tục thần lành mạnh, phong phú. Đây không chỉ lâu dài, không gây ra những hậu quả nặng là việc làm nhân văn, mà còn thiết thực góp nề rất khó khắc phục ở những lĩnh vực khác, phần bảo đảm công bằng xã hội- một trong nhất là thiên nhiên. Phát triển mà làm hủy năm yếu tố của mục tiêu phát triển bền vững hoại môi trường là một phát triển không bền ở nước ta là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, vững, phát triển mà chỉ dựa vào những loại công bằng, văn minh”. tài nguyên có thể cạn kiệt (mà không lo trước đến ngày chúng cạn kiệt thì phải làm sao) Thứ năm, văn hóa là lĩnh vực rất phong là một phát triển không bền vững. Còn có ý phú nhưng cũng không kém phần phức tạp, kiến cho rằng kiểu phát triển phụ thuộc quá nhạy cảm. Trong điều kiện và bối cảnh hội nhiều vào ngoại lực (như FDI) cũng khó bền nhập quốc tế hiện nay, để văn hóa không phát vững, vì nguồn lực này có nhiều rủi ro, không triển lệch hướng, nhất thiết phải nâng cao chắc chắn. Nói ngắn gọn, phát triển như vậy năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý về văn là không bền vững và không thể duy trì được hóa của các cấp ủy, chính quyền và cơ quan lâu dài, ổn định, dễ dẫn đến khủng hoảng, hay chức năng từ trung ương đến cơ sở. chí ít cũng chậm lại trong tương lai. 2. Văn hóa với phát triển bền vững Không thể phủ nhận rằng khái niệm “phát Phát triển bền vững là một khái niệm mới triển bền vững” là một khái niệm hữu ích, rất nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt đáng lưu tâm. Nhưng chỉ để ý đến liên hệ giữa trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này và tăng trưởng kinh tế là chưa khai thác hết sự hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc quan trọng của khái niệm “bền vững”. Khái gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc niệm này sẽ có ý nghĩa đầy đủ hơn nếu được thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... áp dụng vào hai thành tố nòng cốt khác của riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất phát triển, đó là văn hóa và xã hội. Theo nhà với quốc gia đó. xã hội học người Mỹ James Coleman (1926- Từ giữa thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, 1995) nhấn mạnh hai nguồn cơ bản là nguồn vốn vật thể là kết quả của những biến đổi “phát triển bền vững” đã trở thành một khái trong con người để cấu thành tài nghệ và khả niệm phổ biến. Nó là khẩu hiệu của hàng trăm năng thao tác và nguồn vốn vốn xã hội. tổ chức quốc tế, đề tài của nhiều hội nghị, hội thảo toàn cầu, và một tiêu chuẩn quan trọng Coleman nhấn mạnh: nguồn vốn xã hội trong chiến lược phát triển của hầu hết mọi có ba đặc tính. Thứ nhất, nó tùy thuộc vào quốc gia. mức độ các thành viên trong xã hội tin cậy
- nguyễn tiến nam 15 nhau. Nói cách khác, nó tùy thuộc vào nghĩa một nhân tố trong đời sống kinh tế, và nhất vụ mà mỗi người tự ý thức, và kỳ vọng của là muốn đánh giá vai trò của nó trong tiến người này ở người khác. Thứ hai, nó có giá trình phát triển, thì nên nhìn nó như một loại trị vì nó chứa đựng trong mình những liên hệ vốn - tương tự như ba loại vốn thường biết xã hội. Nói rõ hơn thì qua liên hệ tiếp xúc xã khác. (Đó là: vốn vật thể, như máy móc, thiết hội, mỗi người có thể thu thập nhiều thông bị; vốn con người, như kỹ năng, kiến thức; tin hữu ích cho cuộc sống, thay thế phần nào và vốn thiên nhiên, gồm những tài nguyên những phương tiện truyền thông như sách do thiên nhiên cống hiến và môi trường sinh báo, truyền thanh, truyền hình. Thứ ba, vốn thái). xã hội càng lớn nếu xã hội càng có nhiều Thêm một bước, có thể phân biệt hai chuẩn mực tích cực. dạng vốn văn hóa: vật thể và phi vật thể. Vốn Đi xa hơn Coleman, Francis Fukuyama văn hóa vật thể là gồm những công trình kiến (tác giả quyển sách “Sự kết thúc của lịch sử” trúc, đền đài cung miếu, di tích lịch sử, những (The End Of History) nổi tiếng) cho rằng vốn địa điểm có ý nghĩa văn hóa. Loại vốn này con người và vốn xã hội có ảnh hưởng lẫn cung cấp một kênh dịch vụ có thể hưởng thụ nhau. Cụ thể, theo ông, vốn con người có thể ngay (chẳng hạn như du lịch), hoặc là đầu vào làm tăng vốn xã hội. cho sản xuất những sản phẩm và dịch vụ (văn Như vậy, theo ý niệm vốn xã hội của hóa cũng như ngoại văn hóa) trong tương lai. Coleman và Fukuyama và nhiều người khác Dạng kia, vốn văn hóa phi vật thể, là những nữa, phát triển không đồng thời nuôi dưỡng tập quán, phong tục, tín ngưỡng, và các giá trị vốn xã hội là phát triển không bền vững. Dù khác của xã hội. Loại vốn văn hóa này (cùng rằng, như nhà kinh tế Kenneth Arrow (Nobel những tác phẩm nghệ thuật như văn chương 1972) đã chỉ rõ, ưu điểm của vốn xã hội là nó và âm nhạc) là chất keo gắn kết cộng đồng. không cạn kiệt qua sử dụng, song điều nguy Nó cũng cung cấp dịch vụ có thể hưởng thụ hiểm là loại vốn này dễ bị suy mòn nếu đường ngay, hoặc dùng để sáng tạo các giá trị văn lối phát triển không đúng, và không thể một hóa trong tương lai. Những nhận xét trên cho sớm một chiều tái tạo hay vay mượn nó được. thấy một số mối liên hệ giữa văn hóa, kinh tế Khó nghĩ hơn, hầu như bất cứ phát triển kinh và phát triển. tế nào cũng cần sự dịch chuyển lao động từ Một là, giá trị kinh tế có thể tăng lên nhờ vùng này đến vùng khác thông thoáng, tuy giá trị văn hóa. Lấy ví dụ một ngôi nhà có tính nhiên sự di cư này sẽ ảnh hưởng trực tiếp (có di tích lịch sử. Ngôi nhà ấy có giá trị kinh tế phần tiêu cực) đến mối quan hệ gắn bó trong như một kiến trúc (cư trú hoặc thương mại), gia đình, và do đó tới vốn xã hội. Phát triển biệt lập với giá trị văn hóa. Song nhiều người bền vững đòi hỏi sự đánh đổi tối ưu, hài hòa, sẽ sẵn sàng mua ngôi nhà đó với giá cao hơn giữa nhiều diễn biến xã hội và kinh tế khác giá trị vật thể thuần túy của nó. Hầu như mọi nhau. Phát triển bền vững đòi hỏi phải phát loại vốn văn hóa vật thể đều có thể được nghĩ triển văn hóa,vì đời sống của chúng ta không đến như ngôi nhà lịch sử trong ví dụ này, tức thể coi là «khá hơn» (theo bất cứ định nghĩa là chúng gia tăng giá trị văn hóa vào giá trị nào, miễn là nhất quán và trung thực) nếu kinh tế của vật thể, làm tăng thêm, có thể gấp thiếu một nền văn hóa tốt đẹp. nhiều lần, giá trị của vật thể ấy. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu kinh tế Hai là, vốn văn hóa giúp người ta hiểu và xã hội cho rằng, muốn hiểu văn hóa như sâu hơn về ý niệm tính bền vững của phát
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 16 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam triển. Đóng góp của nó vào khả năng phát nghi ngờ rằng điều này sẽ làm tốc độ phát triển dài hạn không khác gì đóng góp của vốn triển chậm lại. Nói khác đi, phương thức phát thiên nhiên. Vì môi trường sinh thái đóng vai triển chỉ nhằm tăng tiện nghi sinh hoạt, bất trò thiết yếu cho hầu hết hoạt động sản xuất chấp mỹ quan văn hóa, là không bền vững. cũng như tiêu dùng, bỏ bê môi trường đó, Tóm lại, nếu khẳng định rằng có một mối khai thác quá đáng tài nguyên sẽ làm giảm liên kết giữa vốn kinh tế, vốn văn hóa và vốn năng suất và phúc lợi kinh tế. Không bảo tồn xã hội (trong đó có vốn con người), thì hủy vốn văn hóa (để di sản suy tàn, làm mất bản hoại vốn văn hóa và vốn xã hội cũng là hủy sắc văn hóa dân tộc) cũng để lại những hậu hoại vốn kinh tế. Nói cách khác, những mất quả tai hại như vậy. mát, suy đồi không thể phục hồi của văn hóa Hãy nhìn kỹ xem đường lối phát triển và xã hội sẽ đe dọa sự bền vững của phát triển hiện tại của Việt Nam có ảnh hưởng tiêu cực kinh tế. đến văn hóa không? Sự hủy hoại này có thể dễ Như đã đề cập ở trên, xét cho cùng, tài thấy như sự suy tàn các di tích lịch sử, những nguyên quý nhất, vốn quý nhất là con người. cảnh quan thu hút khách du lịch, nhưng nó Con người Việt Nam là sự kết tinh nền văn cũng có thể khó thấy, như sự suy thoái văn hóa Việt Nam, vì vậy quá trình xây dựng nền chương, nghệ thuật, ngôn ngữ bản xứ. Sự văn hóa Việt Nam cũng chính là quá trình tràn lan của tiếng Anh ngày nay là một thí dụ nổi bật. Hiển nhiên, sự phổ cập tiếng Anh thực hiện chiến lược con người, xây dựng và sẽ có lợi cho thương mại và công nghiệp cần phát huy nguồn lực con người - nguồn lực nội thiết để phát triển, nhưng nó cũng hút đi phần sinh quan trọng nhất của phát triển. nào sinh lực phát triển của ngôn ngữ và văn Văn hóa là toàn bộ những giá trị do con chương bản xứ, làm suy giảm vốn văn hóa. người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử bằng Điều nguy hiểm là, trong cuộc chạy đua lao động của mình trên cả hai lĩnh vực sản phát triển, người ta quên đi những giá trị văn xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Chủ tịch hóa dân tộc, và đến một lúc nào đó, nhìn lại thì Hồ Chí Minh nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như đã mất nó từ lâu. Nên nói rõ rằng đây không mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo phải chỉ là bảo tồn văn hóa vì cái hay, cái đẹp và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, của nó, nhưng mà giữ gìn tính kế thừa của pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác, bảo thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày tồn vai trò của nó trong những giai đoạn phát về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. triển về sau. Không có nó thì sự phát triển Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức hôm nay chẳng những què quặt, nhưng còn là là văn hóa”. một phát triển không bền vững. Quán triệt tư tưởng chỉ dẫn của Bác Hồ, Thí dụ: Phương thức phát triển (trên hầu Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần hết thế giới) hiện nay là nhằm vào tiện nghi, thứ 5 khóa VIII xác định văn hóa là “nền tảng nhưng theo đuổi tiện nghi thường làm mòn đi tinh thần của xã hội”. Đời sống xã hội có hai sự tinh tế thẩm mỹ («sao cũng được, miễn là mặt vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tiện lợi» như nhà phê bình mỹ học Virginia tảng vật chất của đời sống xã hội, thì văn hóa Postrel đã nhận xét). Một khi cảm quan thẩm là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Khái mỹ bị tầm thường hóa thì tính sáng tạo cũng quát khoa học đó cho thấy tất cả tầm rộng lớn sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, và không ai có thể và sâu sắc của văn hóa, từ đó dẫn đến nhiều
- nguyễn tiến nam 17 khía cạnh lý luận cùng những kết luận thực triển kinh tế chỉ là tăng trưởng đơn thuần, tiễn hết sức quan trọng. Xã hội đứng hai chân tăng trưởng với bất kỳ giá nào, thậm chí dù có trên hai nền tảng, nếu chỉ có một nền tảng thì phải hy sinh cả mặt xã hội, hy sinh văn hóa, xã hội không thể đứng vững. hy sinh phẩm giá con người. Nếu hiểu và làm Với tính cách là nền tảng tinh thần của xã như thế là hoàn toàn xa lạ với lý tưởng xã hội hội, văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực chủ nghĩa của chúng ta. Ngay một số học giả của sự phát triển kinh tế. Nghị quyết Trung tiến bộ phương Tây cũng đã đi đến nhận thức ương 5 viết: “Chăm lo văn hóa là chăm lo rằng: những tiến bộ về kinh tế làm tăng mức củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu sống nhưng đôi khi lại làm rối loạn cuộc sống nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không con người và môi trường. Không phải cứ của quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát cải tăng lên là cuộc sống gia đình, hôn nhân, lối sống, lao động... sẽ chỉ có tốt đẹp lên. Tiến triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội bộ kỹ thuật góp phần làm cuộc sống dễ dàng, thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội có khi lại là nguyên nhân của nhiều rối loạn bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải xã hội nghiêm trọng. Trong những trường nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, hợp như thế, có tăng trưởng nhưng không có văn minh, con người phát triển toàn diện”. phát triển, trái lại là phản phát triển. Cương lĩnh của Đảng được thông qua Bởi vậy, cần nắm chắc quan điểm chỉ đạo tại Đại hội XI thể hiện những quan điểm xây cơ bản là chăm lo văn hóa là chăm lo xây dựng nền văn hóa Việt Nam ở tầm chiến lược dựng, củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. phát triển. Cương lĩnh viết: “Xây dựng nền Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc thì không có sự phát triển kinh tế - xã hội bền dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong vững và dù tiện nghi vật chất dồi dào, xã hội đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân cũng không tránh khỏi nguy cơ suy thoái, văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết biến chất. Xây dựng và phát triển kinh tế phải chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, văn minh, con người phát triển toàn diện. sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Văn hóa không chỉ là mục tiêu mà còn là Trên thế giới, người ta đang bàn nhiều về động lực của sự phát triển kinh tế. Trong thời các lý thuyết phát triển, trong đó ưu thế ngày đại ngày nay, nguồn gốc của sự giàu có không càng thuộc về quan niệm coi mục tiêu phát chỉ là tài nguyên thiên nhiên, vốn, kỹ thuật mà triển phải là nâng cao chất lượng cuộc sống yếu tố ngày càng quan trọng và quyết định là con người với bảo đảm sao cho hài hòa đời nguồn lực con người, là tiềm năng sáng tạo của sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa mức con người. Tiềm năng này nằm trong văn hóa, sống cao với lối sống và nếp sống đẹp; không trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lối chỉ cho một số ít người mà cho đại đa số, cho sống, ý chí, nghị lực, tài năng và sự thành thạo toàn xã hội; không chỉ cho hôm nay mà cho công việc của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. cả mai sau. Chung quy lại, tài nguyên quý nhất, cái vốn Để đạt mục tiêu đó, nhất thiết phải có sự quý nhất là con người, là văn hóa, là nguồn lao phát triển cao về kinh tế, về cơ sở vật chất động chất lượng cao, là nhân tài trong kinh tế kỹ thuật và công nghệ. Song chỉ như thế thôi tri thức, trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa đủ, và rất không đúng nếu hiểu phát xã hội chủ nghĩa đất nước.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 18 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Không ít nước có nhiều tài nguyên thiên tộc. Các dân tộc có điều kiện hiểu biết và học nhiên nhưng rất nghèo đói, trái lại có nước hỏi lẫn nhau, làm cho những thành quả của tài nguyên thiên nhiên rất nghèo nhưng kinh hoạt động tinh thần của một dân tộc trở thành tế lại rất giàu chính là nhờ coi trọng nâng cao tài sản chung của tất cả các dân tộc. Tính chất dân trí, hun đúc dân khí, đào tạo nhân lực, bồi đơn phương và phiến diện dân tộc ngày càng dưỡng nhân tài, nghĩa là rất coi trọng văn hóa. không thể tồn tại được nữa; và từ những nền văn hóa dân tộc và địa phương muôn hình Xét cho cùng, tài nguyên quý nhất, vốn muôn vẻ, đang nảy nở ra một nền văn hóa quý nhất là con người. Con người Việt Nam là toàn thế giới. Nhưng, mặt khác, những biến sự kết tinh nền văn hóa Việt Nam, vì vậy quá đổi phức tạp trong văn hóa gắn với thị trường trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng toàn cầu, lại đặt các nước đang phát triển chính là quá trình thực hiện chiến lược con trước những thách thức to lớn. người, xây dựng và phát huy nguồn lực con người - nguồn lực nội sinh quan trọng nhất Có thể nói, toàn cầu hóa bên cạnh mặt của phát triển. Đây là khâu trung tâm trong tích cực, đang đặt văn hóa dân tộc trước sự nghiệp xây dựng nền tảng tinh thần, tiềm những thách thức, thậm chí là nguy cơ bị tha lực văn hóa đất nước. Tăng trưởng kinh tế là hóa nếu thiếu bản sắc độc lập, tự chủ. Quá cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam do điểm trình toàn cầu hóa tư bản chủ nghĩa, nếu áp xuất phát rất thấp. Nếu kinh tế không tăng dụng cho văn hóa, về thực chất có nghĩa là trưởng, đời sống vật chất nghèo nàn thì nói gì chủ nghĩa đế quốc văn hóa, nó đưa những giá đến văn hóa. Nhưng xã hội phát triển không trị phương Tây thống trị thế giới, nó đe dọa chỉ cần tăng trưởng kinh tế mà còn phải phát xóa bỏ sự khác biệt về nền văn hóa giữa các triển văn hóa, công bằng xã hội, lối sống lành quốc gia dân tộc, giữa các vùng, các khu vực, mạnh, nền tảng tinh thần xã hội vững chắc sẽ làm nghèo đi sự đa dạng, phong phú của và cao. bức tranh văn hóa nhân loại; nguy cơ đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và truyền thống Ngày nay, toàn cầu hóa đã và đang trở sẽ dẫn đến xóa bỏ ý thức dân tộc, làm cạn kiệt thành một xu thế khách quan, trước hết trong khả năng sáng tạo của các nền văn hóa. lĩnh vực kinh tế và từ đó tác động mạnh lên mọi mặt đời sống của tất cả các quốc gia dân Mở cửa hội nhập thế giới, văn hóa Việt tộc. Quá trình toàn cầu hóa tạo điều kiện cho Nam được tiếp cận ngày càng nhiều tinh hoa các quốc gia, dân tộc xích lại gần nhau, hiểu văn hóa nhân loại, làm phong phú thêm nền biết lẫn nhau, bổ sung cho nhau, làm phong văn hóa dân tộc và giúp nhanh chóng xây phú và hỗ trợ lẫn nhau. Đất nước ta nhất định dựng một nền văn hóa tiên tiến, hiện đại mà nắm lấy xu thế này, coi đó là một thời cơ nội dung cơ bản là độc lập dân tộc và chủ lớn, ra sức tận dụng mọi điều kiện có lợi do nghĩa xã hội. Không thể nhân danh bảo vệ xu thế ấy tạo ra, đặc biệt để tranh thủ những bản sắc văn hóa dân tộc để đóng cửa, khép khả năng vật chất kỹ thuật, khoa học, công kín, hạn chế hội nhập và giao lưu văn hóa với nghệ cao, những kinh nghiệm và tri thức hiện thế giới bên ngoài. Nhưng, nếu mang tâm thế đại cần thiết cho sự nghiệp đẩy mạnh công tự ti, vọng ngoại hay mất cảnh giác, thiếu bản nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ góc độ văn hóa, lĩnh thì sẽ đánh mất mình, sẽ bị lấn lướt và có toàn cầu hóa đã mở ra khả năng to lớn để giao thể bị đồng hóa. lưu văn hóa toàn cầu, tạo thêm động lực cho Bài học từ những nước đang phát triển quá trình đổi mới và hiện đại hóa văn hóa dân cho thấy, với sự mở cửa hướng ngoại tập
- nguyễn tiến nam 19 trung vào kinh tế thì văn hóa truyền thống dễ Xuất phát từ yêu cầu hiện đại hóa đất bị xem thường. Sự du nhập ồ ạt, thiếu chọn nước trong quá trình mở cửa, hội nhập, giao lọc các sản phẩm văn hóa từ bên ngoài dẫn lưu với nước ngoài, người ta vừa phải biết đến tình trạng tha hóa, lai căng và hủy hoại kế thừa, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; vừa phải đấu tranh chống các giá trị văn hóa nền tảng tinh thần của xã sự xâm nhập của các loại văn hóa độc hại, hội, khoét sâu thêm hố ngăn cách giữa tăng những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, trưởng kinh tế với phát triển văn hóa. Đây mất gốc; vừa ra sức tiếp thu tinh hoa văn hóa chính là kịch bản xấu nhất của sự tăng trưởng của loài người để hình thành nền văn hóa Việt thuần túy về mặt kinh tế mà thiếu hẳn khái Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ngang niệm phát triển bền vững. tầm thời đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO (1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.431. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.55. (3 ) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.75-76. (4) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.602. (5) Ủy ban đối ngoại của Quốc hội Cộng hòa Pháp: Toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.50.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường 20 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam VĂN HÓA KINH DOANH - CÁCH TIẾP CẬN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA PGS.TS. LÊ HỮU ÁI Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng 1. Văn hóa kinh doanh là gì? lĩnh vực kinh doanh thì nó được biểu hiện ở Văn hóa, với ý nghĩa phổ quát được biểu đâu và có biện pháp nào có thể và cần phải thị như là phương thức hoạt động của con hoàn thiện nó phục vụ cho môi trường kinh người, nó bao gồm toàn bộ các sản phẩm vật doanh hiện đại. chất và tinh thần của con người. Chính vì lẽ Thực ra, văn hóa kinh doanh theo chúng đó, UNESCO thừa nhận có hai loại di sản: tôi, nó đã và đương nhiên xuất hiện xa xưa đó là di sản văn hóa vật thể và văn hóa di sản từ trong lịch sửcủa loài người. Vì hành động phi vật thể. Nếu quan niệm như thể, trong lý tạo dựng nên lịch sử là hoạt động thực tiễn luận hiện nay, văn hóa được xếp là một trong của con người tác động vào tự nhiên để sinh những hình thái ý thức xã hội thì chưa thật tồn, vì vậy hành vi ấy đương nhiên là hành thỏa đáng. vi có tính văn hóa và các sản phẩm của nó Ở phương diện là các di sản phi vật thể được định dạng và mang tính chủ quan của thì quan niệm, văn hóa phản ánh và thể hiện cá nhân, tộc người, dân tộc tạo nên nó. Trong một cách khái quát sống động mọi mặt cuộc mọi trường hợp, nó đều tuân thủ nguyên tắc, sống của con người đã diễn ra trong quá khứ, quy luật của cái đẹp. qua thời gian cấu thành một hệ thống các giá Trên thực tế, có thể khái quát thành hai trị truyền thống, thẩm mỹ, lối sống mà từ đó cách quan niệm về văn hóa kinh doanh: các dân tộc tạo nên bản sắc độc đảo riêng Thứ nhất, đồng nhất văn hóa kinh doanh của mình.Theo nghĩa này, khái niệm văn hóa (business culture) với văn hóa doanh nghiệp được tiếp cận ở đời sống tinh thần. Vì thế, ở (Corporate culture). Với quan niệm này, văn lĩnh vực này, văn hóa có thể được nghiên cứu hóa kinh doanh chỉ có thể xảy ra trong quá ở các phương diện như: văn hóa chính trị, văn trình các doanh nghiệp kinh doanh, nhờ nó hóa thể thao, văn hóa pháp luật, văn hóa nghệ tạo ra được giá trị riêng biệt nhằm hướng thuật,… và gần đây, người ta nhắc đến cả văn tới khẳng định thương hiệu của hàng hóa vì hóa kinh doanh. mục đích cạnh tranh và lợi nhuận. Vì nghĩa Ở nước ta hiện nay, vì tính chất phức tạp hẹp của khái niệm này, nên rất dễ dẫn đến và nội hàm rộng lớn của văn hóa nên có nhiều kết luật là văn hóa doanh nghiệp chính là văn ý kiến chưa thống nhất. Trong phạm vi bài hóa kinh doanh. Quan niệm này nhận được sự viết này, chúng tôi xin không đề cập đến lĩnh ủng hộ của các doanh nhân, bởi họ cho rằng, vực văn hóa nói chung mà chỉ xác định thể trong quá trình kinh doanh họ đã tạo ra các nào là văn hóa kinh doanh, những biểu hiện giá trị và giá trị ấy thể hiện ở thương hiệu, ở của nó là gì. Giả định là đã hình thành văn triết lý, ở niềm tin và chữ tín đối với khách hóa kinh doanh, hay rõ hơn là văn hóa trong hàng, v.v…
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kỷ yếu hội thảo khoa học_ Kinh tế tri thức ( Tập 2)
0 p | 183 | 51
-
Ứng dụng của Big data trong tiếp thị kỹ thuật số (Digital marketing)
10 p | 38 | 16
-
Khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam: cơ hội phát triển bền vững - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc gia
436 p | 24 | 13
-
Phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phù hợp với tiềm năng của địa phương và khu vực - Kỷ yếu hội thảo
469 p | 18 | 10
-
Nhu cầu nguồn nhân lực phát triển khoa học dữ liệu và trí tuệ nhân tạo trong thời đại kinh tế số
10 p | 19 | 8
-
Phát triển doanh nghiệp thương mại điện tử trong kỷ nguyên điện toán đám mây
14 p | 22 | 7
-
Thương mại và phân phối lần thứ 3 năm 2022 - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế (Tập 1): Phần 1
428 p | 24 | 7
-
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quản trị CMS 2013
513 p | 46 | 6
-
Thương mại và phân phối lần thứ 3 năm 2022 - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế (Tập 2): Phần 2
273 p | 19 | 6
-
Thương mại và phân phối lần thứ 3 năm 2022 - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế (Tập 1): Phần 2
302 p | 16 | 6
-
Đào tạo nguồn nhân lực ngành kinh doanh nông nghiệp đáp ứng nhu cầu xã hội - Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia
378 p | 16 | 6
-
Quản trị và kinh doanh COMB 2016 - Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phần 2
281 p | 16 | 5
-
Quản trị và kinh doanh COMB 2016 - Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phần 1
209 p | 9 | 5
-
Kỷ yếu hội thảo khoa học cấp thành phố Marketing giai đoạn bình thường mới
658 p | 17 | 5
-
Thương mại và phân phối lần thứ 3 năm 2022 - Kỷ yếu hội thảo khoa học Quốc tế (Tập 2): Phần 1
411 p | 13 | 4
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quản trị kinh doanh COMB 2016
492 p | 36 | 2
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quản trị và kinh doanh COMB 2014
464 p | 46 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn