intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Thạc sĩ Khoa học ngữ văn: Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

145
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Thạc sĩ Khoa học ngữ văn: Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính tìm hiểu và đánh giá một phương diện đặc sắc về tư tưởng nghệ thuật của thơ Nguyễn Bính - những vần thơ mang đậm hồn quê, các phương diện nghệ thuật đặc sắc của thơ Nguyễn Bính để thấy rõ khả năng khám phá và biểu đạt "hồn quê" của chúng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Thạc sĩ Khoa học ngữ văn: Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính

  1. BỘ GIÁO DỤC V À ĐÀO TẠO 0T 1 T 0 1 T 0 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 0T TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM U 0T HỒN QUÊ VIỆT NAM 4T 4 3T 5 T 3 TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH T 5 5 4T LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN 0T 6 T 0 6 T 0 MÃ SỐ : 5.04.33 0T 6 T 0 Người hướng dẫn : PGS - PTS TRẦN HỮU TÁ 2T Người thực hiện : ĐẶNG TRỌNG HỘ T 2 Thành phố Hồ Chí Minh – 1997 2T
  2. BỘ GIÁO DỤC V À ĐÀO TẠO 0T 1 T 0 1 T 0 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 0T TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM U 0T HỒN QUÊ VIỆT NAM 4T 4 3T 5 T 3 TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH T 5 5 4T LUẬN ÁN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN 0T 6 T 0 6 T 0 MÃ SỐ : 5.04.33 0T 6 T 0 Người hướng dẫn : PGS - PTS TRẦN HỮU TÁ 2T Người thực hiện : ĐẶNG TRỌNG HỘ T 2 Thành phố Hồ Chí Minh – 1997 2T
  3. MỤC LỤC MỤC LỤC ......................................................................................................... 3 T 8 8T LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... 4 T 8 8T DẪN LUẬN ...................................................................................................... 5 T 8 8T 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: ............................................. 5 T 8 T 8 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: ...................................................................................................... 5 T 8 8T 3. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN: ........................................................................... 12 T 8 T 8 4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU: ....................................................................... 13 T 8 T 8 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:............................................................................... 14 T 8 T 8 6. CẤU TRÚC LUẬN ÁN: ............................................................................................. 14 T 8 8T CHƯƠNG 1: HỒN QUÊ VIỆT NAM VÀ VÀI NÉT VỀ HỒN QUÊ VIỆT NAM TRONG THƠ TRUNG ĐẠI VÀ THƠ MỚI .......................................... 15 T 8 T 8 1.1. Giới thuyết về “Hồn quê Việt Nam” ......................................................................... 15 T 8 T 8 1.1.1. Đặc trưng làng xã Việt Nam: ............................................................................. 15 T 8 T 8 1.1.2. Vài nét về văn hóa làng: .................................................................................... 16 T 8 8T 1.1.2.1. Đặc trưng cơ bản của văn hóa làng: ............................................................. 16 T 8 T 8 1.1.2.2. Nội dung cơ bản của văn hóa làng: .............................................................. 18 T 8 T 8 1.1.3. Hồn quê Việt Nam: ............................................................................................ 19 T 8 8T 1.2. Vài nét về “hồn quê Việt Nam" trong thơ Trung đại và Thơ Mới: ............................. 21 T 8 T 8 1.2.1. Thơ ca với "Hồn quê Việt Nam" ........................................................................ 21 T 8 T 8 1.2 2. Nét "Hồn quê Việt Nam " trong một số tác giả, tác phẩm của văn học Trung Đại: T 8 T 8 .................................................................................................................................... 23 1.2.2.1. Nét "Hồn quê " trong một số thi phẩm của văn học Lý -Trần:...................... 23 T 8 T 8 1.2.2.2. Nét "Hồn quê "trong một số bài thơ của Nguyễn Trãi: ................................. 24 T 8 T 8 1.2.2.3. Nét hồn quê trong thơ Nguvễn Du: .............................................................. 24 T 8 T 8 1.2.2.4. Nét hồn quê trong thơ Nguyễn Khuyến: ...................................................... 26 T 8 T 8 1.2.3. Nét "Hồn quê Việt Nam " trong Thơ Mới: ......................................................... 27 T 8 T 8 1.2.3.1. Thơ Mới với nguồn thi hứng đồng quê: ....................................................... 27 T 8 T 8 1.2.3.2. Nét “Hồn Quê Việt Nam" trong thơ Hàn Mạc Tử, Huy Cận và Tế Hanh: .... 28 T 8 T 8 1.2.3.3. Nét "Hồn quê Việt Nam'' trong thơ Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân và Anh Thơ: T 8 T 8 ................................................................................................................................ 29 CHƯƠNG 2: HỒN QUÊ VIỆT NAM - GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC TRONG THƠ NGUYỄN BÍNH .............................................................................................. 32 T 8 8T 2.1. Cội nguồn cảm hứng:................................................................................................ 32 T 8 8T 2.1.1. Nguồn thơ gắn với cảnh sắc và cuộc sống quê hương: ....................................... 32 T 8 T 8 2.1.2. Thi vị hóa làng quê - nét đặc trưng trong cảm hứng trữ tình của Nguyễn Bính: .. 33 T 8 T 8 2.1.2.1. Nguồn thơ gắn với chất liệu hiện thực: ......................................................... 33 T 8 T 8 2.1.2.2. Nguồn thơ gắn với cảm hứng lãng mạn: ...................................................... 34 T 8 T 8 3
  4. 2.1.3. Nguồn thơ gắn với cảm quan dự báo: ................................................................ 37 T 8 T 8 2.2. Cảnh sắc và cuộc sống thấm đượm hồn quê: ............................................................. 39 T 8 T 8 2.2.1. Cảnh sắc và con người hòa quyện trong bản thôn ca ngọt ngào: ......................... 39 T 8 T 8 2.2.1.1 . Mùa xuân và ngày hội - Dịp thăng hoa của đời sống tâm linh: .................... 39 T 8 T 8 2.2.1.2. Tết - niềm khát khao đoàn tụ ấm á p : ........................................................... 43 T 8 T 8 2.2.1.3. Mái tranh, mảnh vườn, lũy tre v.v… biểu tượng của quê hương thanh bình và T 8 thi vị: ....................................................................................................................... 45 8T 2.2.2. Khát vọng tình yêu gắn với sự lỡ làng: ............................................................... 55 T 8 T 8 2.2.2.1. Cảnh sắc và cuộc sống làng quê - Mối cơ duyên tác hợp lứa đôi:................. 55 T 8 T 8 2.2.2.2. Tình yêu lỡ làng - nỗi đau thầm lặng: .......................................................... 61 T 8 T 8 2.3. Khát vọng trở về “chân quê” trở thành niềm khắc khoải: ......................................... 66 T 8 T 8 2.3.1. Làng quê trong sự chuyển mình: ........................................................................ 66 T 8 T 8 2.3.1.1. Làng quê truyền thống đẹp trong hoài niệm: ................................................ 66 T 8 T 8 2.3.1.2. Làng quê chuyển mình về mặt tâm lý, ý thức: ............................................. 68 T 8 T 8 2.3.1.3. Những cuộc l y hương đậm màu phiêu lãng – hệ quả của sự biến đổi tâm l ý , T 8 ý thức: ..................................................................................................................... 69 8T 2.3.2. Tự ý thức sự tha hóa - khao khát được trở về quê hương: ................................... 70 T 8 T 8 2.3.2.1. Ý thức sự tha hóa trong những ngày ở "đô thị": ........................................... 70 T 8 T 8 2.3.2.2. Khao khát được trở về quê hương: .............................................................. 73 T 8 T 8 CHƯƠNG 3: NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC VỀ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN "HỒN QUÊ VIỆT NAM" ................................................................................ 77 T 8 8T 3.1. Phương thức chiếm lĩnh cuộc sống của Nguyễn Bính: .............................................. 78 T 8 T 8 3.1.1. Cái nhìn nghệ thuật về con người: ...................................................................... 78 T 8 T 8 3.1.2. Giọng điệu nghệ thuật: Ngậm ngùi tha thiết: ...................................................... 82 T 8 T 8 3.1.3. Không gian và thời gian nghệ thuật: ................................................................... 90 T 8 T 8 3.2. Hình thức thơ Nguyễn Bính: ..................................................................................... 95 T 8 8T 3.2.1. Thể thơ và cách thức thể hiện:............................................................................ 95 T 8 T 8 3.2.2. Hệ thống từ ngữ và hình ảnh: ............................................................................. 97 T 8 T 8 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 99 T 8 8T TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 102 T 8 8T 4
  5. LỜI CẢM ƠN Luận án "Hồn quê Việt nam trong thơ Nguyễn Bính" đã được hoàn thành. Nhân dịp này, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao dạy dỗ và giúp đỡ của các quý thầy thuộc trường Đại Học Sư Phạm, Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là Nhà giáo ưu tú, PGS - PTS Trần Hữu Tá - Người thầy trực tiếp hướng dẫn - đã chỉ bảo tận tình và chu đáo cho tôi trong cả quá trình thực hiện luận án. Tôi cũng xin được cảm ơn bà quả phụ Nguyễn Hồng Châu và chị Ái Nữ Hồng Cầu (vợ và con gái cố thi sĩ Nguyễn Bính) đã cung cấp cho tôi nhiều tư liệu quý về cuộc đời và sự nghiệp văn học của thi sĩ Nguyễn Bính, tạo điều kiện thuận lợi lớn cho tôi hoàn thành luận án. Cũng nhân dịp này tôi xin cám ơn sự giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường Phổ Thông Trung Học Thăng Long (Lâm Hà, Lâm Đồng), đặc biệt là anh chị em Tổ Văn đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập. Thành Phố Hồ Chí Minh tháng 12-1997 Người thực hiện luận án Đặng Trọng Hộ 4
  6. DẪN LUẬN 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU: Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ở giai đoạn đó, ông đã để lại bảy tập thơ, một truyện thơ, một kịch thơ và một số bài thơ lẻ chưa xuất bản. Sau cách mạng tháng tám năm 1945, thơ ông vẫn đọng lại nhiều giá trị nhưng chưa được sưu tập một cách đầy đủ. Suốt mấy chục năm, cùng số phận với thơ Mới, thơ Nguyễn Bính ít được nghiên cứu. Nhưng từ năm 1986 đến nay đã có rất nhiều ý kiến đánh giá thơ Nguyễn Bính. Các ý kiến đó dù đứng ở góc độ này hay góc độ khác, về phương diện này hay phương diện khác nhưng đều góp phần khẳng định thành tựu và vị trí của thơ Nguyễn Bính trong thơ Mới nói riêng và trong văn học Việt Nam nói chung. Giá trị và thành tựu nổi bật nhất của thơ Nguyễn Bính thuộc giai đoạn sáng tác trước năm 1945. Ở đó ông đã bộc lộ đầy đủ tài năng và cá tính sáng tạo của mình. Hầu hết các nhà nghiên cứu đã chú trọng khám phá giá trị của thơ ông trong giai đoạn sáng tác trên. Thơ Nguyễn Bính là một hiện tượng khá đặc biệt. Điều gì khiến thơ ông đã sống, và cứ ngân nga mãi trong tâm hồn biết bao thế hệ độc giả Việt Nam? Thành tựu nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính trong suốt hơn nửa thế kỷ qua đã góp phần giải quyết được những vấn đề quan trọng của nhiệm vụ trên những điều đó vẫn tiếp tục được đặt ra đối với giới nghiên cứu văn học. Hơn nữa trong xu hướng quay về khám phá và tôn vinh những giá trị mang bản sắc văn học dân tộc hiện nay, việc nghiên cứu thơ Nguyễn Bính càng có một ý nghĩa lớn lao hơn. Vì vậy đề tài nghiên cứu này muốn được góp một phần nhỏ vào nhiệm vụ chung đó. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, luận án này có mục tiêu nghiên cứu như sau: - Tìm hiểu vài nét cơ bản về hồn quê Việt Nam và hồn quê Việt Nam trong thơ của một số tác giả thời Trung đại và trong phong trào thơ Mới. - Tìm hiểu và đánh giá một phương diện đặc sắc về tư tưởng nghệ thuật của thơ Nguyễn Bính : Những vần thơ mang đậm hồn quê . - Tìm hiểu và đánh giá các phương diện nghệ thuật đặc sắc của thơ Nguyễn Bính để thấy rõ khả năng khám phá và biểu đạt "Hồn quê " của chúng. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ: Trước cách mạng tháng tám năm 1945, Nguyễn Bính là nhà thơ duy nhất sống bằng sự nghiệp sáng tác thơ của mình. Kể từ bài thơ "Cô hái mơ" được đăng báo Ngày nay năm 1936 đến năm 1945, Nguyễn Bính đã xuất bản được bảy tập thơ. Đây là tác giả có số tập thơ trình 5
  7. công chúng nhiều nhất thời ấy. Do nhiều nguyên nhân khác nhau mà vấn đề nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính có giai đoạn hầu như là bị lãng quên, có giai đoạn lại được hết sức chú ý. Và cũng từ đó, có giai đoạn thơ ông không được đề cao, có giai đoạn lại được định giá một cách khách quan và đặt ông vào hàng của những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ Mới. Không phải ngay từ đầu thơ Nguyễn Bính đã tạo được sự chú ý đối với độc giả. Phải từ khi tập "Tâm hồn tôi" được giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn năm 1937 và nhất là đến "Lỡ bước sang ngang" được đăng liền nhiều số trên Tiểu thuyết thứ năm thì thơ ông mới thực sự có sức thu hút mạnh mẽ đối với độc giả và đã có một vị trí quan trọng trong đời sống văn học lúc bấy giờ. Thời đó, trên tờ Tin mới, tác giả Nghị sĩ chê thơ Nguyễn Bính là ''làm vè chứ không phải làm thơ" (1). Đến năm 1941, trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài 0F P 7T 7T P Chân lại đánh giá cao thơ Nguyễn Bính và đã khẳng định ông là nhà thơ của chân quê: "Tôi muốn nói Nguyễn Bính vẫn còn giữ được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cam bụi chuối là hoàn cảnh tự nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta”(2). Hai ông tiếp tục nhận định: “Thành ra cái đặc sắc của Nguyễn Bính, chỗ Nguyễn F 1 P T 7 T 7 P Bính hơn các nhà thơ khác, ít được người ta nhìn thấy. Đó là một điều đáng phàn nàn với Nguyễn Bính. Đáng trách chăng giữa những bài giống hệt ca dao Người bỗng chen vào một đôi lời quá mới. Ta thấy khó chịu như khi vào một ngôi chùa có những ngọn đèn điện trên bàn thờ Phật. Cái lối gặp gỡ ấy của hai thời đại rất dễ trở nên lố lăng” (3). Lời phàn nàn này 2F P T 7 T 7 P không phải không có cơ sở. Nhưng ta có thể chia xẻ được với Nguyễn Bính vì ông là nhà thơ của thế hệ 1932 - 1945. Nhưng Hoài Thanh và Hoài Chân cũng đã khuyến cáo người đọc lúc bây giờ: “Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm được một số đông công chúng mộc mạc, khó lọt vào con mắt các nhà thông thái thời nay. Tình cờ có đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: "Thơ như thế này thì có gì?" Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng lý trí, một điều quý vô ngần: Hồn xưa của đất nước...''(4) P Sự đánh giá của Hoài Thanh và Hoài Chân về thơ Nguyễn Bính xuất phát từ một sự cảm nhận tinh tế và sắc sảo. Tuy sự đánh giá đó chủ yếu thiên về một phương diện cơ bản của nội dung và nghệ thuật nhưng cũng chính là một ý kiến cơ bản nhất và mở đầu cho lịch sử nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính. (1) Hoàng Tấn. Nguyễn Bính - Một vì sao (dẫn theo Hoàng Việt Nguyễn Bính - Thỉ sĩ của yêu thương-Nhà xuất bản Hội nhà văn , Hà Nội, 1992, Trang 73. (2) Hoài Thanh- Hoài Chân - Thi nhân Việt nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996, Trang 73. , Hoài Thanh-Hoài Chân - sách đã dẫn, trang 344, 345. (3) (4) 6
  8. Sau ngày hòa bình lập lại ở Miền Bắc, sự nhìn nhận đánh giá thơ Mới chịu sự chi phối sâu sắc của đời sống chính trị. Thơ Mới không những chưa được đặt đúng nấc thang giá trị của nó mà còn bị phê phán nặng nề. Sự đánh giá thơ Nguyễn Bính một phần cũng chịu ảnh hưởng xu hướng đó. Giáo sư Phan Cự Đệ trong cuốn Phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) sau khi đánh giá sự tiếp thu thể thơ lục bát của thơ Mới nói chung và của Nguyễn Bính nói riêng đã phê phán: "Ngay cả những câu ca dao có tính chiến đấu, có sức tố cáo hiện thực cũng không vào được thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Đình Thư. Rõ ràng là về mặt nghệ thuật thơ Mới có một số thành tựu nhưng cũng có nhiều hạn chế…” (1). Trong cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 3F P 7T T 7 P 1945, các tác giả đã khẳng định giá trị nghệ thuật của thơ Nguyễn Bính mang đậm phong cách thơ ca dân gian. Nhưng nội dung của thơ ông rất nghèo nàn. Ông rất dài lời về tình chị em, về tình yêu không thỏa mãn; tình cảm trong thơ ông nhiều khi loãng và giả tạo. Có khi ông lại gán cho nông dân tình cảm của tiểu tư sản thành thị ..."(2). Cùng với khuynh hướng F 4 P T 7 T 7 P đánh giá này, giáo sư Bùi Văn Nguyên- Hà Minh Đức - Thơ ca Việt nam - Hình thức và thể loại, sau khi khẳng định thơ lục bát của Nguyễn Bính thuộc khuynh hướng trở về với làn điệu ca dao đã có một đôi điều đáng tiếc về thơ ông là "Nguyễn Bính về thực chất không phải là một nhà thơ của đồng quê. Nguyễn Bính là một nhà thơ tiểu tư sản thích viết về nông thôn theo cảm xúc và suy nghĩ riêng của mình. Thơ lục bát của Nguyễn Bính còn thiếu cái chất phác bình dị trong nội dung cảm xúc. Tác giả hay thi vị hóa cuộc sống ở nông thôn. Nguyễn Bính lại dùng nhiều từ sáo và màu mè để diễn tả những mối tình không được bù đắp, có tình cảm éo le bi đát..."(3) Các tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoàng Khung, Nguyễn 5F P 7T 7T P Đăng Mạnh, Nguyễn Trác trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập V, phần I, xuất bản năm 1978 (có sửa chữa), đánh giá thơ Nguyễn Bính không có gì thay đổi so với lần xuất bản năm 1973. Các tác giả này đã khẳng định: "Nguyễn Bính đã tìm đến điệu thơ dân tộc và có được phần nào cái tình tứ duyên dáng mộc mạc của ca dao, Trong lúc thơ Mới đang đầy dẫy những cảm xúc phức tạp của cái "tôi" được nuôi dưỡng từ văn hóa Âu Tây, thơ Nguyễn Bính cũng được nhiều người ưa thích và khá được phổ biến. Mượn giọng ca dao, Nguyễn Bính trở lại hình ảnh những giàn trầu, hàng cau, vườn dâu, bến đò, những nỗi lòng ngậm ngùi của người con gái "lỡ bước sang ngang", của "cô lái đò", mơ "quan trạng", của "cô hàng xóm" quay tơ ... và đã đưa lại trong thơ Mới ít nhiều không khí của quê hương xa xưa”(3). Nhưng ngay sau P P đó các tác giả đã phê rằng "Nguồn thơ Nguyễn Bính cũng rất đơn điệu, chỉ quanh quẩn với (1) Phan Cự Đệ -Phong trào Thơ Mới (1932-1945). NXB KHXH HN 1982, trang 252. (2) Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945. NXB Văn Học Hà Nội, 1964, trang 159 (3) Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức Thơ ca Việt Nam - Hình thức và thể loại. NXB KHXH, HN, 1968, trang 302 7
  9. những mối tình dở dang, ngậm ngùi với giọng than thở dài dòng, dễ dãi, nhiều khi giả tạo, nhạt nhẽo” (4). Đồng thời cũng ở giáo trình này, sau khi khẳng định giá trị của hướng đi về F 6 P T 7 7T P đồng quê của Thơ Mới, các tác giả đã phê phán, đó "cũng chỉ là một xu hướng thoát ly"(5). P P Cho nên những cây bút được gọi là "tả chân" ấy chỉ vẽ nên những bức phong cảnh tĩnh ngưng đọng, có không khí cổ xưa , không hề có dấu vết của thời đại, không hề thấy cuộc sống khổ cực của người nông dân"(6). Đến năm 1984, bộ Từ điển văn học (7) ra đời, trong phần viết về P P F P T 7 T 7 P Nguyễn Bính, ông Nguyễn Hoàng Khung vẫn đánh giá căn bản giống như cuốn Lịch sử văn học Việt Nam của nhóm tác giả trên. Như thế, hầu hết các ý kiến trên đều khẳng định thơ Nguyễn Bính ít nhiều khơi dậy được không khí của quê hương xa xưa. Nhưng cũng đã có mấy khuynh hướng chủ yếu khi phê phán thơ Nguyễn Bính như sau : Một là Nguyễn Bính là nhà thơ tiểu tư sản viết về nông thôn, nên thiếu sự chất phác bình dị, hai là nguồn thơ Nguyễn Bính còn đơn điệu, có lúc giả tạo, nhạt nhẽo, ba là thơ ông về mặt nghệ thuật còn dễ dãi, dùng từ sáo và màu mè. Có thể ở góc độ này hay góc độ kia ta không chia sẻ được với những ý kiến này nhưng ta cũng không có quyền đòi hỏi gì hơn ở tác giả Nguyễn Bính cũng như các nhà nghiên cứu khi mà những sản phẩm tinh thần và trí tuệ ấy ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định. Trong thập niên sáu mươi và đầu thập niên bảy mươi, ở Miền Nam, các nhà nghiên cứu dành cho Nguyễn Bính một sự quan tâm đáng quý. Đặc biệt là trong dịp kỷ niệm 5 năm ngày mất của thi sĩ Nguyễn Bính , tạp chí Văn số 189/1971 - Số đặc biệt - đã có rất nhiều hồi ký, bài viết về cuộc đời và thơ của Ông. Ở giai đoạn đó, có hàng chục ý kiến đánh giá thơ Nguyễn Bính nhưng đáng chú ý hơn cả là các ý kiến sau : Sớm hơn cả là nhận định của nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ. Trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên ông chủ yếu đánh giá thơ Nguyễn Bính ở phương diện nghệ thuật. Ở đây, ông khẳng định nhược điểm của thơ Nguyễn Bính là "'thơ ông kỹ thuật hơi dễ, nhiều chỗ ngả sang vè đều là những lời than thở não nùng về cuộc thất tình với một nàng Oanh nào đó hoặc về bước sang ngang lỡ làng của một người chị tên Trúc." Nhưng ông cũng đã thấy được rằng: “Trong nhiều bài ông từ bỏ được cái điệu rền rĩ sống sượng giữ giọng trữ tình ở chỗ chừng mực hàm súc, đó là những bài có giá trị hơn cả của ông: "Hai lòng", "Thời trước", "Chờ mong", về sau ông cũng chuyển sang thể bảy chữ và cũng có nhiều bài chứa chan thi vị bình dân súc tích: "Cô lái đò", "Lời mẹ", “Lòng mẹ" (1). Cũng ở công trình nghiên cứu này, F 8 P T 7 T 7 P ông Phạm Thế Ngũ đã khẳng định thơ lục bát là sở trường của Nguyễn Bính ở giai đoạn 1932 (4), (5), (6) Huỳnh Lý-Hoàng Dung-Nguyễn Hoành Khung-Nguyễn Đăng Mạnh-Nguyễn Trác. Lịch sử văn học Việt Nam, Tập V, phần I. NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1978, trang 106, 107. (7) Nguyễn Hoành Khung. Nguyễn Bính (Dẫn theo từ điển Văn học, tập II. NXB KHXH, HN, 1984. (1) Phạm Thế Ngũ. Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên, tập III NXB Quốc học Tùng Thư, 1961, trang 594 8
  10. - 1940. Hai nhà nghiên cứu Nguyễn Tấn Long - Phan Canh đứng từ góc độ khuynh hướng nghệ thuật để xếp thơ Nguyễn Bính, Anh Thơ, Bàng Bá Lân và Đoàn Văn Cừ vào khuynh hướng hiện thực và đã ca ngợi: "Vườn thơ của họ có đủ màu sắc và rất gần gũi với con mắt chúng ta" (2). Còn ông Vũ Bằng lại khẳng định thơ Nguyễn Bính cảm được lòng người là nhờ F 9 P T 7 T 7 P "bệnh tương tư" (3). Thực ra về căn bản thì chưa hẳn như vậy. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu 10F P 7T 7T P Đào Trường Phúc, trong "Nguyễn Bính - Những mùa xuân tha hương" lại khẳng định: "tình hoài hương của Nguyễn Bính, như thế, vẫn không biến đổi gì từ cái bản chất đặc biệt phảng phất trong mỗi câu thơ, từ Lỡ bước sang ngang đến những bài thơ cuối cuộc đời ông. Nguyễn Bính trước sau vẫn chỉ là một thi sĩ giang hồ, một thi sĩ tha hương” (4). Chính ở đây, ông Đào 1F P T 7 T 7 P TrườngPhúc đã gián tiếp khẳng định Nguyễn Bính là nhà thơ của quê hương, của cội nguồn. Tựu trung lại, các ý kiến đánh giá thơ Nguyễn Bính ở Miền Nam trước năm 1975 chủ yếu theo ba khuynh hướng: Nguyễn Bính - nhà thơ của truyền thống; Nguyễn Bính - nhà thơ của tương tư; Nguyễn Bính - nhà thơ giang hồ lãng tử, nhà thơ của tha hương. Cho dù các ý kiến về thơ Nguyễn Bính ở giai đoạn trên như thế nào chăng nữa thì ta cũng thấy được rằng các cây bút này có cái nhìn cởi mở đối với thơ ông và đã góp phần đưa thơ Nguyễn Bính trở lại với nguồn mạch văn học dân tộc nói chung, khẳng định vị trí của thơ ông trong phong trào thơ Mới nói riêng. Từ năm 1986, trong xu thế đổi mới, thơ Nguyễn Bính lại được tái bản và được các nhà nghiên cứu đề cập đến nhiều hơn. Ngay trong năm này, hai nhà xuất bản đã cho ra đời hai tuyển tập thơ Nguyễn Bính mở đầu cho việc định giá lại thơ ông. Lời nói đầu trong Thơ Nguyễn Bính (Tuyển tập của Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam Ninh) viết: "Đó là những câu thơ mang phong vị đồng quê rất đậm đà, thân thuộc và cảm động. Những câu thơ cứ như nhắn gửi, như lay gọi, khơi dậy những tình cảm quê hương của mỗi chúng ta" (1). Còn trongF 2 1 P T 7 T 7 P lời giới thiệu Nguyễn Bính - Tuyển tập, nhà văn Tô Hoài đã khẳng định Nguyễn Bính là nhà thơ của quê hương, là nhà thơ "tầm vóc, thật tầm vóc''(2). Sang thập niên chín mươi, thơ F 3 1 P T 7 T 7 P Nguyễn Bính càng được xuất bản với số lượng lớn hơn và chưa bao giờ thơ ông lại được giới nghiên cứu tìm hiểu, đánh giá một cách sâu rộng như vậy. Trong bài viết ''Nguyễn Bính - Nhà thơ chân quê", Tôn Phương Lan đã khẳng định: "Khi Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên và phần lớn các nhà thơ đương thời chịu ảnh hưởng của thơ phương Tây và chính đó đã đem lại (2) Nguyễn Tấn Long – Phan Cảnh. Khuynh hướng thi ca tiền chiến: Một biến cố Văn học thế hệ 1932 – 1945, NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1968. (3) Vũ Bằng. Nguyễn Bính – Một thi sĩ suốt đời mắc bệnh tương tư (Dẫn theo tạp chí Văn số 189, năm 1971). (4) Đào Trường Phúc: Nguyễn Bính: Những mùa xuân tha hương (Dẫn theo tạp chí Văn số 189, năm 1971). (1) Lời giới thiệu. Thơ Nguyễn Bính (Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh). NXB Văn học, HN, 1986 (2) Tô Hoài. Lời giới thiệu - Nguyễn Bính - Tuyển tập. NXB Văn học, HN, 1986 9
  11. cho phong trào thơ Mới những nét đặc sắc thì Nguyễn Bính mang đến cho phong trào thơ một phong cách mộc mạc, chân quê, một lối ví von đậm đà màu sắc ca dao..."(3). Trong cuốn F 4 1 P T 7 T 7 P P P ''Nguyễn Bính - thi sĩ của yêu thương” (tái bản năm 1992) Hoài Việt đã tập hợp được khá (4) F 5 1 P T 7 T 7 P nhiều ý kiến về thơ Nguyễn Bính. Đáng chú ý hơn cả là các bài viết của Hoài Việt, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên An và của Đỗ Lai Thúy (5). Các tác giả này đánh giá rất cao thơ F 6 1 P T 7 T 7 P Nguyễn Bính. Mặc dù điểm nhìn có khác nhau nhưng họ đều gặp nhau ở chỗ khẳng định thơ Nguyễn Bính là hồn thơ nặng tình nặng nghĩa với quê hương, ông là nhà thơ của chân quê, của hồn quê. Cũng trong cuốn sách này, với bài viết "Thông điệp Nguyễn Bính", Nguyễn Phan Cảnh và Phạm Thị Hòa lại khai thác từ góc độ thật - ảo trong thơ Nguyễn Bính để kết luận thơ Nguyễn Bính là một thông điệp ''dự báo đầy thiên tài về một hiện thực "thật - ảo" sẽ diễn ra trong tiến trình xã hội tộc người Việt Nam" (6). Cũng trong năm 1992 đã diễn ra một F 1 P T 7 T 7 P cuộc hội thảo Thơ Mới và một cuộc hội thảo về thơ Nguyễn Bính. Cuộc hội thảo về thơ Mới ngày 15-02-1992 đã cho ra đời cuốn sách "Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca" (7) 8F 1 P T 7 T 7 P (Huy Cận và Hà Minh Đức chủ biên). Trong cuốn sách này, Đoàn Thị Đặng Hương đã khẳng định Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê và đánh giá rất cao thơ ông (8). Đến ngày 12-06-1992, F 9 1 P T 7 T 7 P Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội đã tổ chức lễ kỷ niệm 75 năm ngày sinh Nguyễn Bính. Đây là cuộc gặp mặt có tính chất một cuộc hội thảo và đã có khá nhiều ý kiến về thơ Nguyễn Bính. Đáng chú ý nhất là ý kiến của Vũ Quần Phương trong bài viết Đóng góp của thơ Nguyễn Bính. Với thức độ trân trọng và cách đánh giá khách quan, Vũ Quần Phương đã ca ngợi: "Đọc thơ Nguyễn Bính chúng ta như được nhập vào hồn của làng mạc, quê hương, vườn cau mái rạ" (9). Tiếp đến năm 1993, trong lời giới thiệu 150 bài thơ tình Nguyễn Bính, 20F P 7T 7T P giáo sư Lê Đình Kỵ đã khẳng định thơ Nguyễn Bính vừa đậm đà giá trị truyền thống vừa mang sức sống của thời đại(10). Đặc biệt, cuối năm 1995 đầu năm 1996 là thời gian có nhiều 21F P 7T 7T P bài viết, nhiều công trình nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính nhất. Công trình nghiên cứu của giáo sư Hà Minh Đức - Nguyễn Bính - Thi sĩ của đồng quê - là những nhận định có tính chất ''nhìn nhận lại" thơ Nguyễn Bính mà ông đã nhận định gần 30 năm trước đó: “Có thể nói rằng trong thơ ca thời kỳ hiện đại, Nguyễn Bính là người có công hơn cả trên mảng thơ viết về (3) Tôn Phương Lan. Nguyễn Bính - Nhà thơ chân quê (Dẫn theo tạp chí Văn học số 3, 1990) (4) Hoài Việt. Nguyễn Bính - Thi sĩ của yêu thương. NXB Hội nhà văn, HN, 1992. (5) Vương Trí Nhàn. Thi sĩ của hồn quê (Dẫn theo Hoài Việt. Sách đã dẫn). (6) Nguyễn Phan Cảnh - Phạm Thị Hòa. Thông điệp Nguyễn Bính (Dẫn theo Hoài Việt, sách đã dẫn) (7) Huy Cận – Hà Minh Đức – Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (60 năm phong trào Thơ Mới). NXB Giáo Dục, HN, 1993. (8) Đoàn Thị Đặng Hương. Nguyễn Bính – Nhà thơ “chân quê” (Dẫn theo Huy Cận, Hà Minh Đức. Sách đã dẫn, tr. 186). (9) Vũ Quần Phương. Đóng góp của Nguyễn Bính (Dẫn theo Phụ san báo GVND, tháng 7, 1989 - Nhìn lại mội số hiện tượng văn học). (10) Lê Đình Kỵ. Lời giới thiệu-150 bài thơ tình Nguyễn Bính. NXB Văn học, 1993 10
  12. làng quê. Ông đã khơi dậy ở mỗi người đọc tình cảm quê hương. Ông yêu mến và trân trọng giới thiệu những hình ảnh đẹp tiêu biểu của làng quê Việt Nam mà mỗi cảnh vật, con người đều thấm đậm hồn quê… (11). Như vậy giáo sư Hà Minh Đức đã khẳng định Nguyễn Bính là 2F P 7T 7T P thi sĩ của đồng quê. Trong dịp kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà thơ Nguyễn Bính (20/01/1996) đã có hàng loạt bài viết về thơ ông được đăng tải trên các báo. PGS-PTS Trần Hữu Tá - một trong những người tổ chức lễ kỷ niệm đó tại Tp. Hồ Chí Minh - với bài viết Nguyễn Bính - Nhà thơ của nông thôn Việt Nam đã khẳng định : "Ông để lại cho đời non 2000 bài thơ, trong đó không hiếm những viên ngọc quý có sức lan tỏa lắng sâu. Đó quả thật là một hồn thơ thuần khiết, tài hoa, một khuôn mặt khả ái trong nền thơ hiện đại của dân tộc. Có thể thấy giá trị của thơ ông trên nhiều phương diện khác nhau. Nhưng nền tảng của giá trị thơ Nguyễn Bính, như trên đã nói đó là hồn quê, tình quê, lòng quê chân chất, sáng trong tình nghĩa..." (12). Mặc dù trong phạm vi một bài viết ngắn, nhưng nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá đã F 3 2 P T 7 T 7 P có một cái nhìn bao quát đầy đủ các phương diện và các khía cạnh khác nhau về nội dung và nghệ thuật của thơ Nguyễn Bính. Đây chính là ý tưởng cho một công trình nghiên cứu đầy đủ, cụ thể về thơ Nguyễn Bính. Ông Trần Mạnh Hảo với cái cảm tinh tế và sự rung động sâu sắc của một nhà thơ trước hồn thơ Nguyễn Bính đã khẳng định rằng Nguyễn Bính là "nhà thơ hiện đại". Ông không nhất trí với cách đánh giá Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê, hồn quê, nhà thơ của ca dao mới, thậm chí là văn hóa làng quê Việt Nam. Ông viết: "Theo thiển ý của chúng tôi, thơ Nguyễn Bính là hành trình từ dân tộc tới hiện đại, đi tới tận cùng cái hồn Việt Nam nên nó đã bắt gặp hồn vía của nhân loại..." (13). Cũng trong dịp này có hai bài viết đáng F 4 2 P T 7 T 7 P chú ý của Vương Trí Nhàn - Thế giới hôm qua F 5 2 P T 7 (14) T 7 P - và của Đoàn Đức Phương - Thơ Nguyễn Bính với nghệ thuật biểu hiện đậm đà sắc thái dân gian (15). Ở đó hai ông đã khẳng định vị trí F 6 2 P T 7 T 7 P của thơ Nguyễn Bính trong việc lưu giữ, biểu hiện những giá trị của một thời đã qua. Điểm qua một số ý kiến về thơ Nguyễn Bính từ năm 1986 đến nay, ta thấy các ý kiến này đều đánh giá rất cao thơ Nguyễn Bính. Nếu như ở mấy chục năm trước có sự phê phán thơ ông thì trong giai đoạn này lại thiên về sự ca ngợi: Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê, nhà thơ của hồn quê, tình quê, nghệ thuật biểu hiện đậm đà giá trị truyền thống. Duy có hai ý kiến cũng rất ca ngợi thơ Nguyễn Bính nhưng thuộc một khuynh hướng khác đó là ông Hoài Anh trong Chân dung văn học khi viết về Nguyễn Bính đã cho rằng: ''Nét chủ đạo trong thơ ông trước năm 1945 là thuộc dòng bi tráng của thâm tâm, Trần Huyền Trân, chứ không phải dòng (11) Hà Minh Đức. Nguyễn Bính - Thi sĩ của đồng quê. NXB Giáo Dục, HN, 1995, trang 14 (12) Trần Hữu Tá. Nguyễn Bính – Nhà thơ của nông thôn Việt Nam (Báo Tuổi trẻ Chủ nhật, số 3, 1996) (13) Trần Mạnh Hảo. Nguyễn Bính – Nhà thơ hiện đại (báo Văn Nghệ, số 4, 1996) (14) Vương Trí Nhàn. Thế giới hôm qua (Báo Tuổi trẻ, số xuân Bính Tý, 1996) (15) Đoàn Đức Phương. Thơ Nguyễn Bính với nghệ thuật biểu hiện đậm đà sắc thái văn hóa dân gian (Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 3, 1996). 11
  13. thơ điền viên của Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân" (16). Và ông Trần Mạnh Hảo khẳng định 2F P T 7 T 7 P Nguyễn Bính là nhà thơ hiện đại 28F P (17) 7T . 7T P Như vậy, trong sáu mươi năm qua đã có rất nhiều ý kiến đánh giá về thơ Nguyễn Bính. Sự khen - chê, khẳng định - phủ định là một tất yếu trước sự ra đời và tồn tại của một hiện tượng như thơ Nguyễn Bính. Nhưng điều đáng mừng là trong vòng 10 năm trở lại đây, thơ của ông đã được phục hồi giá trị. Từ các nhà nghiên cứu văn học đến những độc giả bình thường đều rất đề cao thơ Nguyễn Bính. Điều đó chứng tỏ sức sống, sự thấm đượm, lan tỏa của thơ ông và thái độ nâng niu, trân trọng đối với một hồn thơ đã "đi đến tận cùng cái hồn quê Việt Nam", đã làm sống dậy "hồn xưa của đất nước''. Các ý kiến đánh giá thơ Nguyễn Bính ở những cấp độ, phương diện và khuynh hướng có khác nhau nhưng đó đều là thành quả của tâm huyết và trí tuệ. Mặc dù các ý kiến hầu hết ở dạng các phần nhỏ trong các giáo trình, các bài viết trong các cuốn sách và các bài báo nhưng đã gợi mở cho tôi nhiều vấn đề khi làm đề tài này. Tuy vấn đề Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính đã được một số nhà nghiên cứu đề cập đến nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà các tác giả chỉ mới có những nhận định chung hoặc ở mức độ khái quát. Do đó chúng tôi sẽ đi vào tìm hiểu cụ thể vấn đề trên. 3. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN: Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa, một hồn thơ phong phú và đa dạng. Giá trị của thơ ông được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau. Trong phạm vi một luận văn, chúng tôi không có điều kiện để tìm hiểu và khái quát tư tưởng nghệ thuật của ông. Như phần lý do chọn đề tài và mục tiêu nghiên cứu đã nói, ở đây chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một phương diện mà chúng tôi cho là cơ bản nhất, bao trùm nhất và đặc sắc nhất trong thơ Nguyễn Bính đó là vấn đề Hồn quê Việt Nam. Khi giải quyết vấn đề, luận án này sẽ có những đóng góp mới sau: 1. Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính được tỏa sáng từ việc thơ ông đã làm sống dậy một làng quê bình dị, chất phác và thi vị. Đó là cái hồn của quê hương Nguyễn Bính nhưng cũng chính là cái hồn của quê hương Việt Nam của con người Việt Nam 2. Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính còn được tỏa sáng từ sự khắc khoải, từ niềm khát vọng được trở về với quê hương trong những ngày "sầu đô thị". (16) Hoài Anh. Chân dung văn học. NXB Văn Nghệ, TP.Hồ Chí Minh, 1995, trang 194 (17) Trần Mạnh Hảo. Tài liệu đã dẫn. 12
  14. 3. Thơ Nguyễn Bính thâu giữ được Hồn quê Việt Nam trước hết phải nói đến phương diện nghệ thuật - phương tiện khám phá và lý giải cuộc sống - mang tính cảm tính vừa mang tính quan niệm của Nguyễn Bính như thể thơ, ngôn từ, hình ảnh đến nghệ thuật biểu hiện đến quan niệm nghệ thuật về con người, giọng điệu nghệ thuật, thời gian và không gian nghệ thuật. Để giải quyết những vấn đề này, chúng tôi đặt thơ Nguyễn Bính trong hệ quy chiếu với Văn hóa làng Việt Nam - Yếu tố mang đậm hồn quê Việt Nam - đã được hình thành và phát triển hàng ngàn năm nay. Đồng thời chúng tôi cũng đặt Hồn quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Bính bên cạnh Hồn quê Viêt Nam đã được các tác giả khác từ thời Trung đại tới thời thơ Mới thể hiện để thấy rõ hơn sự đặc sắc của thơ Nguyễn Bính 4. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Trong ngót 40 năm sáng tác, Nguyễn Bính đã để lại một khối lượng thơ lớn nhưng cho đến nay chưa thể nói là đã sưu tập được đầy đủ. Những sáng tác của ông trong những năm kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ và những năm tập kết ra Bắc cũng rất giá trị nhưng như ở phần lý do chọn đề tài đã nói Hồn quê Việt Nam trong thơ ông: tỏa sáng nhất, thấm đượm nhất, là ở những sáng tác trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Vì thế khi tiến hành đề tài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ chú trọng tìm hiểu, khảo sát Hồn quê Việt Nam trong các tập thơ sau : 1. Lỡ bước sang ngang 2. Tâm hồn tôi 3. Hương cố nhân 4. Một nghìn cửa sổ 5. Người con gái ở lầu hoa 6. Mười hai bến nước 7. Mây Tần Cạnh bảy tập thơ này, chúng tôi còn căn cứ vào những bài thơ của Nguyễn Bính sáng tác trong giai đoạn trên nhưng chưa được in thành tập. Cũng có những bài thơ lẻ của Nguyễn Bính trước năm 1945 gửi cho ông Bùi Hạnh Cẩn ở dạng các bức thư và đã được đưa vào trong cuốn Nguyễn Bính và tôi(34) xuất bản năm 1995. Như thế trong tay chúng tôi có hơn P P 250 bài thơ của Nguyễn Bính được sáng tác trong khoang thời gian 10 năm trước cách mạng 13
  15. tháng tám 1945. Đây là nguồn tài liệu cơ bản để chúng tôi tìm hiểu vấn đề Hồn quê Việt Nam trong thơ ông. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Với việc xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu như trên luận án này chủ yếu đi vào thế giới nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính nên sẽ sử dụng các phương pháp chính sau : 1. Phương pháp loại hình 2. Phương pháp lịch sử 3. Phương pháp hệ thống 4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học 5- Phương pháp so sánh Ngoài ra, khi tiến hành làm luận văn, một số phương pháp khác sẽ được sử dụng đan xen vào. 6. CẤU TRÚC LUẬN ÁN: Luận án này gồm ba phần: Dẫn luận, Nội dung và Kết luận. Ở phần DẪN LUẬN gồm có: - Lý do chọn đề tài và Mục tiêu nghiên cứu - Lịch sử vấn đề - Đóng góp mới của luận án - Giới hạn phạm vi nghiên cứu; Phương pháp nghiên cứu và Cấu trúc của luận án. Ở phần NỘI DUNG gồm có ba chương: Chương I : "HỒN QUÊ VIỆT NAM" VÀ VÀI NÉT VỀ "HỒN QUÊ VIỆT NAM " U U TRONG THƠ TRUNG ĐẠI VÀ THƠ MỚI. Chương II : "HỒN QUÊ VIỆT NAM "-GIÁ TRỊ ĐẶC SẮC TRONG THƠ NGUYỄN U U BÍNH. Chương III :NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC VỀ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN •'HỒN U U QUÊ VIỆT NAM" TRONG THƠ NGUYÊN BÍNH. PHẦN KẾT LUẬN 14
  16. CHƯƠNG 1: HỒN QUÊ VIỆT NAM VÀ VÀI NÉT VỀ HỒN QUÊ VIỆT NAM TRONG THƠ TRUNG ĐẠI VÀ THƠ MỚI 1.1. Giới thuyết về “Hồn quê Việt Nam” "Hồn quê Việt Nam" là gì? Nó được hun đúc từ đâu và có thể miêu tả nó ra sao? Đây là một vấn đề lớn và phức tạp. Hồn quê có thể cảm nhận được nhưng rất khó cụ thể hóa, mô hình hóa. Nhưng chắc chắn rằng ''Hồn quê" được toát ra từ đời sống vật chất và tinh thần của làng quê. Hay nói cách khác, "Hồn quê" được khởi nguyên từ Văn hóa làng. Trước khi đi vào trình bày khái niệm "Hồn quê Việt Nam", chúng tôi xin được điểm qua vài nét đặc trưng của làng Việt Nam và Văn hóa làng Việt Nam - nơi hun đúc, lưu giữ "Hồn quê Việt Nam". 1.1.1. Đặc trưng làng xã Việt Nam: Làng là một đơn vị địa bàn cư trú ở nông thôn. Đó là một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt và là đơn vị hành chính cấp thấp nhất thời phong kiến. Làng Việt Nam là một hiện tượng lạ ở Đông Nam Á và trên thế giới. Gần đây có nhiều nhà xã hội học, văn hóa học của Việt Nam và thế giới nghiên cứu địa bàn này. Theo nhà nghiên cứu Toan Ánh, thì làng Việt Nam được hình thành từ thời Hùng Vương (1). Đến cuối đời Trần thì làng nước ta đã có cơ cấu F 9 2 P T 7 T 7 P hoàn chỉnh và nhà nước phong kiến trung ương đã biến làng thành đơn vị hành chính tự quản(2). Như vậy tính đến cuối thế kỷ XX, làng Việt Nam đã phát sinh, phát triển và tồn tại F 0 3 P T 7 T 7 P hàng ngàn năm. Và ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ làng xã Việt Nam đều có những sự biến đổi nhất định. Dù vậy làng xã Việt Nam vẫn có những đặc trưng cơ bản, được PGS Thành Duy(3) F 1 3 P T 7 T 7 P rút ra như sau : - Ý thức cộng đồng là một đặc trưng của làng xã Việt Nam. Ý thức này có trước ý thức cộng đồng dân tộc. Nó thể hiện trên hầu hết các mặt của cuộc sống ở nông thôn như tính cộng đồng trong lao động sản xuất, trong việc chống ngoại xâm, bảo vệ làng xã, bảo vệ dân tộc, trong việc xây dựng văn hóa, lối sống đạo đức... - Do ý thức cộng đồng làng xã rất mạnh nên nhà nước phong kiến để cho làng có một vị trí độc lập tương đối, do đó nảy sinh ý thức tự quản. Ý thức này được thể hiện trong hương ước. Mỗi làng có một hương ước khác nhau, do người dân tham gia xây dựng và tự nguyện thực hiện. Đây là một nhu cầu tự quản, một đặc trưng của làng xã Việt Nam. (1) Toan Anh. Ta về ta tắm ao ta. NXB Thuận Hóa, Huế, 1992, trang 87 (2) Đỗ Long - Trần Hiệp. Tâm lý cộng đồng làng và di sản. NXB KHXH, HN, 1993, trang 63 (3) Nguyễn Duy Quý - Vũ Ngọc Khánh - Thành Duy - Bùi Khắc Việt. Văn hóa làng và làng văn hóa (Dẫn theo tạp chí Văn hóa dân gian, số 3 (43), 1993). 15
  17. - Một đặc trưng khác là tính đặc thù, độc đáo rất riêng của một làng. Có khi hai làng rất gần nhau nhưng không làng nào giống làng nào. Giữa các làng thường khác nhau về nội dung hương ước, về tập quán, nếp sống, về đời sống tâm linh, về tôn giáo và thậm chí về cách ứng xử. 1.1.2. Vài nét về văn hóa làng: Ở đây chúng tôi không đặt vấn đề tìm hiểu kỹ và miêu tả văn hóa làng mà chủ đích chính là nêu lên những nét đặc trưng của bộ phận văn hóa này theo hướng yêu cầu của luận án. Trước kia Văn hóa làng chưa được nhận thức một cách đầy đủ nhưng gần đây các nhà nghiên cứu đã khẳng định có một văn hóa làng. "Dùng thuật ngữ văn hóa làng" chính là muốn làm rõ nét đặc sắc truyền thống dân tộc ở địa bàn cơ sở. Vì vậy có khả năng được nhiều nhà nghiên cứu thừa nhận. Đó là một thuật ngữ, một khái niệm có một nội hàm và một ngoại diên xác định nên chúng ta có thể chấp nhận được. Nó giúp chúng ta hiểu được nội dung của văn hóa làng xã, văn hóa cơ sở" (1). F 2 3 P T 7 T 7 P Bất kỳ một nền văn hóa nào cũng đều là sản phẩm của một cộng đồng. Đến lượt nó, văn hóa lại tạo ra một động lực phát triển của cộng đồng và nhu cầu hưởng thụ của cộng đồng. Văn hóa làng cũng không nằm ngoài mối quan hệ này. Ba đặc trưng của làng xã Việt Nam đã chi phối đến Văn hóa làng và tạo nên đặc trưng cơ bản cũng như nội dung của bộ phận văn hóa này . 1.1.2.1. Đặc trưng cơ bản của văn hóa làng: 1.1.2.1.1. Văn hóa làng là một hệ thống giá trị mang tính cộng đồng: Những giá trị về vật chất và tinh thần của làng xã phải do cả cộng đồng từ thế hệ này đến thế hệ khác góp công sáng tạo nên. Từ con đường làng, đến bến nước, ngôi đình, lớp học cho con em đều do cộng đồng góp công, góp của để làm nên; những dịp hội hè đình đám cả cộng đồng phải tham gia; trong làng, ai có việc vui, buồn cả làng đều có mặt. Tính cộng đồng của văn hóa làng đã làm cho cái "tôi" ít có dịp được bộc lộ mà chỉ có cái ta là trên hết. Người ta thường nói ''làng ta" (làng ta phong cảnh hữu tình) mà ít khi nói "làng tôi". Mà khi có nói "làng tôi" thì người nói đó cũng đang đứng ở vị thế của một người đại diện cho cộng đồng làng để thực hiện công việc "đối ngoại". Nhờ tính cộng đồng trong văn hóa làng mà mọi người sống kết chặt với nhau. Những điều tốt đẹp được thăng hoa, được đề cao. Nhiều điều (1) Nguyễn Duy Quý – Vũ Ngọc Khánh – Thành Duy – Bùi Khắc Việt. Tài liệu đã dẫn. 16
  18. xấu bị cơ chế dư luận lên án và bài trừ, làm cho thuần phong mỹ tục được giữ vững, được bổ sung và phát triển. 1.1.2.1.2. Văn hóa làm là một hệ thống giá trị mang tính tự trị: Tính tự trị trong văn hóa làng được biểu hiện trên nhiều phương diện. Trước hết đó là việc tự sáng tạo cho mình một đời sống văn hóa. Có nhiều giá trị mang ý nghĩa biểu trưng, biểu tượng cho làng đều do những người dân làng tự tạo nên. Mái đình to hay nhỏ, quay theo hướng nào; cổng làng được thiết kế ra sao; lũy tre làng có đủ khả năng để thể hiện tính tự trị của làng hay không. Tất cả đều được chú ý xây dựng một cách cẩn thận. Kế đến mỗi làng đều thờ Thành Hoàng để thể hiện tính độc lập về đời sống tâm linh, tín ngưỡng với làng khác. Đặc biệt là mỗi làng có một hương ước. Ở đây đã quy định tất cả mọi hoạt động của người dân làng. Tính chất, nội dung của bản hương ước ấy đã thể hiện được ý thức tự trị, tự quản của làng. Đã gọi là một làng thì phải có bản sắc văn hóa riêng. Người dân làng ai cũng có tình cảm tự nhiên sâu đậm đối với làng của mình. Ý thức này đã thấm sâu trong đời sống tâm linh của cộng đồng. Một người trai làng đậu đạt cao, vinh hiển mà đi ở rể ở làng khác dứt khoát là bên làng ''trai" không chịu. Làng này tự hào hơn làng khác ở số người đỗ đạt, ở trình độ học vấn và ngay cả khả năng, quy mô của các phường hội trong làng. Tính tự trị trong văn hóa làng còn được thể hiện ở việc người dân làng tự sáng tạo ra các giá trị để đáp ứng nhu cầu của mình. Họ tự lập phường chèo, tự dựng lên những vở diễn và hoạt động theo nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của người dân làng. Như thế người dân làng rất có ý thức khẳng định "cái ta làng" (1) để phân biệt với cái chung. 3F P T 7 T 7 P 1.1.2.1.3. Văn hóa làng là một hệ thống giá trị mang tính nguyên hợp chưa tách phân, chưa được chuyên môn hóa: Văn hóa là một hệ thống giá trị bao gồm cả văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức cộng đồng và văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Trong văn hóa làng, các phương diện này còn mang đậm tính nguyên hợp. Những sáng tạo về vật chất như cây đa, bến nước, đình làng, lũy tre làng... trước hết là những hoạt động sản xuất vật chất nhưng đồng thời cũng có giá trị như một thực thể tất yếu trong đời sống tư tưởng tình cảm của người nông dân ở làng xã. Nếu xét theo nghĩa hẹp của khái niệm văn hóa (nghệ thuật) thì văn hóa làng không có một lực lượng hoạt động chuyên nghiệp. Người sáng tạo, người thực hiện và người hưởng thụ đều là những người nông dân làm ruộng. Nhiều khi họ tạo ra những giá trị tinh thần ngay trong hoạt động sản xuất vật chất. (1) Đỗ Long – Trần Hiệp. Sách đã dẫn. 17
  19. 1.1.2.2. Nội dung cơ bản của văn hóa làng: Văn hóa làng là một bộ phận cấu thành văn hóa dân tộc, là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Cùng với những đặc trưng cơ bản trên Văn hóa làng có một nội dung phong phú và đa dạng. Theo PGS Vũ Ngọc Khánh nội dung của văn hóa làng được thể hiện qua ba bình diện: văn hóa tư tưởng, văn hóa xã hội và văn hóa nghệ thuật (2). Ta thấy ở mỗi bình diện này đều F 4 3 P T 7 T 7 P chứa đựng nhiều giá trị quý báu. 1.1.2.2.1. Về bình diện văn hóa xã hội: Văn hóa làng xét từ bình diện xã hội là xét việc tổ chức cộng đồng tập thể và ý nghĩa của nó (giá trị). Đặc trưng của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng, và tính tự trị (tự quản) và tính độc đáo riêng biệt. Từ đây chúng ta sẽ thấy rõ hơn việc tổ chức cộng đồng làng xã. Cộng đồng ấy được kết chặt, được thể hiện ở mấy cấp độ sau : - Trước hết là mối quan hệ gia đình và dòng tộc. Đây là mối quan hệ rất đặc biệt. Trong gia đình phải tuân thủ chặt chẽ theo thứ bậc: con cái, cháu chắt phải kính trọng ông bà, cha mẹ; cha mẹ, ông bà phải có trách nhiệm nuôi dạy con cái, cháu chắt. Chính mối quan hệ này đã tạo nên nét đẹp trong tính cách và nếp sống của người Việt Nam. Và giá trị của mối quan hệ này - Thứ hai là mối quan hệ làng xóm ở làng xã được xây dựng trên cơ sở đùm bọc lẫn nhau. Điều này do tính cộng đồng và tính tự trị quy định. 1.1.2.2.2. Về bình diện văn hóa tư tưởng: Một làng thường có đình làng, ngôi đền thờ Thành Hoàng, lũy tre, giếng nước, cây đa, bến đò... tất cả đã trở thành giá trị biểu trưng cho đời sống tâm linh. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cùng với những tập tục như cưới xin, ma chay, ngày tết ngày hội đều để lại những giá trị quý báu mà ngày nay chúng ta vẫn cần tiếp tục bảo lưu và phát triển. 1.1.2.2.3. Về bình diện văn hóa nghệ thuật: Văn hóa làng ở bình diện này có nhiều giá trị độc đáo và thú vị. Nó được biểu hiện ở các khía cạnh sau : - Những phường chèo, phường trống của làng biểu diễn trong ngày hội với niềm phấn chấn hân hoan của người dân làng. Thường thì những vở diễn đề cao cái thiện, cái tốt, bài trừ cái xấu, cái ác. (2) Nguyễn Duy Quý – Vũ Ngọc Khánh – Thanh Duy – Bùi Khắc Việt. Tài liệu đã dẫn. 18
  20. - Những đêm hát giao duyên, những đêm hát trong lao động của các phường, hội. Chính trong lời ca, tiếng hát này, vẻ đẹp tự nhiên của tâm hồn người dân quê được bộc lộ - Những bức tranh dân gian và cách trang trí cho ngôi chùa, ngôi đền và đình làng cũng thể hiện cách cảm, cách nghĩ và lối thể hiện vừa mộc mạc vừa sâu sắc. Ba bình diện của văn hóa làng kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và thường là đan xen nhau góp phần tạo nên bản sắc riêng độc đáo cho văn hóa dân tộc. 1.1.3. Hồn quê Việt Nam: Theo Từ điển tiếng Việt (1) : Hồn d.l. Thực thể tinh thần mà tôn giáo và triết học duy 35F P 7T 7T P tâm cho là độc lập với thể xác, khi nhập vào thể xác thì tạo ra sự sống và tâm lý của con người; linh hồn ... 2. Tư tưởng và tình cảm của con người (nói khái quát). Quê d.1. Nơi gia đình , dòng họ đã nhiều đời làm ăn sinh sống , thường đối với mình có sự gắn bó tự nhiên về tình cảm. 2. Nông thôn, nơi có đồng ruộng và làng mạc. Qua việc xác định nghĩa của các từ này, ta thấy "Hồn quê" là sự kết hợp từ tạo nên một tổ hợp nghĩa . Vậy chưa kết luận "Hồn quê" là một thuật ngữ biểu đạt khái niệm, ta hãy nói đến "Hồn quê" và đặc trưng của "hồn quê" là gì? Thứ nhất, từ "Quê" ở đây là một danh từ, do đó không đề cập đến khía cạnh quê mùa. "Quê" có thể đồng nhất với làng ở phương diện địa bàn cư trú của những người nông dân gắn bó với nghề làm ruộng. Cao hơn nữa, "Quê" là quê hương bản quán. Và ở cấp độ vĩ mô "Quê" là đất nước, là quốc gia . "Quê" được hiểu ở cấp độ đó là xuất phát từ văn hóa tổ chức cộng đồng của tộc người Việt Nam như PGS-TS Trần Ngọc Thêm khẳng định "Một nền văn hóa gốc nông nghiệp điển hình như Việt Nam thì tổ chức nông thôn lại là lĩnh vực quan trọng nhất. Nó chi phối cả truyền thống tổ chức quốc gia lẫn tổ chức đô thị, cả diện mạo xã hội lẫn tính cách con người. Nắm vững những đặc thù của tổ chức nông thôn tức là nắm được chìa khóa trong việc tổ chức đời sống cộng đồng của người Việt Nam” (1). Về địa bàn cư trú có thể F 6 3 P T 7 T 7 P đồng nhất "Quê" với làng . Tuy nhiên từ ''Quê" được dùng với một sắc thái biểu cảm còn làng chỉ mang tính chất trung tính. Thứ hai, người ta vẫn thường nói "Bức tranh này có hồn'' , "Bài thơ này rất có hồn"... Đó chính là sự khẳng định giá trị tinh thần tinh túy nhất toát ra từ bức tranh, từ bài thơ. "Hồn" chính là yếu tố tạo nên sức sống cho một thực thể, yếu tố làm cho một thực thể nào đó tồn tại (1) Từ điển tiếng Việt. Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội, 1992. (1) Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc Văn hóa Việt Nam. NXB Tp. Hồ Chí Minh, 1997, trang 200. 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2