Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015
lượt xem 10
download
Mục đích nghiên cứu đề tài là nghiên cứu làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015; đúc rút những kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng vào lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của Đảng hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng năm 2021 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Ngô Văn Sỹ
- 3 MỤC LỤC Trang TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT MỞ ĐẦU 5 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn đề luận án tập trung giải quyết 24 Chương 2: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ (1998 - 2006) 29 2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 29 2.2. Chủ trương của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 38 2.3. Đảng chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 56 Chương 3: ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ (2006 - 2015) 75 3.1. Những yếu tố mới tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 75 3.2. Chủ trương của Đảng đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 84 3.3. Đảng chỉ đạo đẩy mạnh thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở 93 Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 120 4.1. Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (1998 - 2015) 120 4.2. Những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (1998 - 2015) 144 KẾT LUẬN 162 CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 165 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 166 PHỤ LỤC 181
- 4 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1. Ban Chấp hành Trung ương BCHTƯ 2. Ban Chỉ đạo BCĐ 3. Chủ nghĩa xã hội CNXH 4. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH, HĐH 5. Hệ thống chính trị HTCT 6. Hội đồng nhân dân HĐND 7. Mặt trận Tổ quốc MTTQ 8. Quy chế dân chủ QCDC 9. Trách nhiệm hữu hạn TNHH 10. Ủy ban nhân dân UBND 11. Xã hội chủ nghĩa XHCN
- 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài luận án Dân chủ XHCN là dân chủ của đại đa số Nhân dân, gắn với quyền làm dân chủ của Nhân dân; là hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định Nhân dân là chủ thể của quyền lực. Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm toàn bộ các quyền của con người, quyền của công dân như quyền tự do cá nhân, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm thân thể và quyền nhà ở, nghỉ ngơi, học hành… Đồng thời, dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cốt lõi của dân chủ XHCN là khẳng định quyền lực của Nhân dân, là giải quyết mối quan hệ giữa quyền và lợi ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam chủ trương xây dựng nền dân chủ XHCN, tức là nền dân chủ mà ở đó tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân; pháp luật của Nhà nước vì lợi ích của Nhân dân. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị BCHTƯ Đảng (khoá VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, nhằm phát huy tốt hơn quyền làm chủ của Nhân dân, coi đây là một khâu quan trọng và cấp bách để phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ở cơ sở - nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; nơi thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) đánh dấu một bước chuyển biến nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ XHCN trong xã hội, tạo sự đồng thuận sâu rộng trong Nhân dân. Để phát huy đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân trong sự nghiệp CNH, HĐH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa Chỉ thị số 30- CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) thành các nghị quyết, nghị định là cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện QCDC đối với các loại hình cơ sở; góp phần
- 6 nâng cao hiệu quả công tác chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền, chất lượng thực hiện chế độ công vụ; đổi mới phong cách làm việc của cán bộ, công chức, lắng nghe ý kiến chính đáng của Nhân dân trong việc xây dựng các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh; thay đổi phương thức và lề lối làm việc của chính quyền theo hướng trọng dân, gần dân, hiểu dân, có trách nhiệm với dân và chịu sự giám sát của dân. Bên cạnh đó, vẫn còn một số hạn chế bất cập như: Một số cán bộ, công chức, viên chức còn có biểu hiện nhũng nhiễu, phiền hà, làm khó doanh nghiệp, người dân. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” có khâu còn hình thức, việc công khai một số chương trình, dự án, công trình ở một số địa phương chưa đầy đủ, chưa thực hiện đúng quy trình lấy ý kiến của Nhân dân, quá trình triển khai chưa đảm bảo quyền giám sát của Nhân dân nên dẫn đến nảy sinh một số bức xúc; người dân còn tỏ ra thờ ơ, thụ động trong tìm hiểu, thực hiện các quyền làm chủ của mình; hiểu biết pháp luật về các quyền, nghĩa vụ công dân… chưa cao; đồng thời, xuất hiện hiện tượng một số cá nhân lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật. Biểu hiện của những hạn chế trên là tình trạng khiếu kiện đông người vượt cấp, kéo dài ở một số địa phương; tình trạng chống người thi hành công vụ, không thực hiện các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Từ thực tiễn lãnh đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở với cả những thành công và chưa thành công, đòi hỏi phải nghiên cứu có hệ thống, chuyên sâu, toàn diện về Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm đánh giá đúng ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân, nhất là nguyên nhân hạn chế và đúc rút kinh nghiệm để vận dụng vào giai đoạn mới là để góp phần tối ưu hóa sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm phát huy vai trò của Nhân dân phù hợp với thực tiễn đất nước trong thời đại mới. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình khoa học nào đáp ứng đúng, đủ yêu cầu trên và đây là “khoảng trống” về khoa học cần được giải quyết. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
- 7 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015; đúc rút những kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng vào lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở của Đảng hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến 2015. Làm rõ chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015 qua hai giai đoạn (1998 - 2006) và (2006 - 2015). Nhận xét ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở trong những năm 1998 - 2015. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở, bao gồm quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp, đồng thời làm rõ sự chỉ đạo của Đảng thực hiện QCDC ở cơ sở trên các nội dung: (1) Chỉ đạo thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC các cấp; (2) Chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao về nhận thức, thống nhất hành động cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về dân chủ, thực hiện QCDC ở cơ sở; (3) Chỉ đạo thực hiện QCDC ở các loại hình cơ sở; (4) Chỉ đạo công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và sơ tổng kết việc thực hiện QCDC ở cơ sở. Chủ trương, sự chỉ đạo trên được trình bày qua hai giai đoạn 1998 - 2006, 2006 - 2015. Về thời gian: Luận án chọn mốc thời gian mở đầu nghiên cứu là năm 1998, năm ra đời Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18/02/1998 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Thời gian kết thúc năm
- 8 2015, là mốc Ban Chỉ đạo thực hiện QCDC Trung ương Tổng kết 17 năm thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng. Mốc chia 2 chương lịch sử là năm 2006, năm tiến hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, có đánh giá sau 8 năm việc thực hiện QCDC ở cơ sở. Để bảo đảm tính hệ thống và làm rõ vấn đề nghiên cứu, luận án có đề cập đến một số nội dung liên quan trước năm 1998 và sau năm 2015. Về không gian: Trên phạm vi cả nước. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hiện dân chủ. Cơ sở thực tiễn Luận án dựa vào thực tiễn Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015. Điều đó được thể hiện thông qua hệ thống văn kiện của Đảng, cơ quan chức năng và báo cáo tổng kết của Đảng, Nhà nước, MTTQ và các các tổ chức chính trị - xã hội về thực hiện QCDC ở cơ sở; đồng thời dựa vào kết quả nghiên cứu khảo sát thực tế, điều tra xã hội học về thực hiện QCDC ở cơ sở được nghiên cứu sinh tiến hành trong thời gian làm luận án; kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài luận án. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng các phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic là chủ yếu; đồng thời, sử dụng một số phương pháp khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và qua khảo sát thực tế, điều tra xã hội học để triển khai các nội dung nghiên cứu của luận án. Phương pháp lịch sử được sử dụng trong cả 4 chương, nhưng chủ yếu ở chương 2 và chương 3 để nêu lên các sự kiện lịch sử, quá trình lịch sử liên quan đến dân chủ, thực hiện dân chủ và QCDC ở cơ sở của Đảng mà luận án nghiên cứu. Phương pháp lôgíc được sử dụng trong cả 4 chương của luận án, dùng để khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố liên quan đến đề
- 9 tài luận án ở chương 1, khái quát chủ trương của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở bao gồm quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và quá trình chỉ đạo thực hiện QCDC ở cơ sở trên các loại hình cơ sở ở chương 2 và chương 3; Phương pháp lôgíc được sử dụng nhiều ở chương 4 để khái quát những ưu điểm, hạn chế và đúc kết những kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở (1998 - 2015) . Đồng thời, nghiên cứu sinh còn sử dụng các phương pháp khác như: Phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia để làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu của luận án một cách phù hợp. 5. Những đóng góp mới của luận án Hệ thống hóa nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu về dân chủ và thực hiện QCDC ở cơ sở. Phục dựng trung thực, khách quan lịch sử Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015. Nhận xét ưu điểm, hạn chế và chỉ rõ nguyên nhân sự lãnh đạo của Đảng thực hiện QCDC ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2015. Luận án đúc rút những kinh nghiệm lịch sử từ quá trình Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC ở cơ sở (1998 - 2015) để vận dụng vào hiện tại. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận Góp phần tổng kết hoạt động lãnh đạo của Đảng về thực hiện QCDC ở cơ sở trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa thực tiễn Tài liệu tham khảo cho các tổ chức cơ sở đảng, các đơn vị cơ sở về thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung, thực hiện QCDC ở cơ sở nói riêng. Tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam ở các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường trong và ngoài Quân đội. 7. Kết cấu của luận án Luận án gồm: Mở đầu, 04 chương (10 tiết), kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
- 10 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 1.1.1. Những nghiên cứu về dân chủ, thực hiện dân chủ ở một số nước trên thế giới Dân chủ, thực hiện dân chủ là những giá trị chung của nhân loại; do đó, không chỉ là vấn đề nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong nước mà còn nhiều nước trên thế giới. Các công trình nghiên cứu về dân chủ, thực hiện dân chủ ở một số nước trên thế giới có thể kể đến như: Robert Alan, Dalh (1991), Democracy and its Critics (Dân chủ và những thảo luận về dân chủ) [167]. Từ cách tiếp cận chính trị học, tác giả khẳng định quyền lực mà nhà nước có được là xuất phát từ quyền lực gốc của nhân dân; do vậy, để đạt tới một nền dân chủ lý tưởng, đáp ứng năm tiêu chí: Một là, mọi công dân phải có cơ hội đầy đủ và bình đẳng để thể hiện nguyện vọng của mình. Hai là, các công dân phải được bình đẳng, công bằng trong bầu cử ở giai đoạn quyết định. Ba là, các công dân phải được hưởng những cơ hội phong phú và bình đẳng cho những phát hiện và lựa chọn tốt nhất phục vụ cho lợi ích của họ. Bốn là, các công dân phải có cơ hội quyết định những vấn đề chính trị thực sự toàn diện. Năm là, tính bình đẳng phải được mở rộng đến tất cả các công dân. Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Cheibub and Fernando Limongi (1996), What makes Democracies Endure (Điều gì khiến các nền dân chủ tồn tại) [161], đã chỉ ra được với mức độ thu nhập bình quân đầu người ở mức nào thì dân chủ xuất hiện, ở mức nào thì dân chủ bền vững. Bài viết so sánh thực hiện dân chủ ở một số nước có nền kinh tế phát triển với việc thực hiện dân chủ ở các nước có nền kinh tế kém phát triển và chỉ ra kinh tế là thước đo giá trị dân chủ, chưa đề ra những giải pháp hay kinh nghiệm để thực hiện dân chủ bền vững hơn dù kinh tế có phát triển hay chậm phát triển.
- 11 Vũ Văn Hiền (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển và Trung Quốc [64]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân Trung Quốc và Thụy Điển trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công trình đã phân tích việc thực hiện dân chủ cơ sở ở Thụy Điển và Trung Quốc dưới góc độ: Nhà nước phúc lợi xã hội, về HTCT; sự tham gia hoạt động quản lý nhà nước một cách dân chủ; dân chủ điện tử - một công cụ chính trị mới; xây dựng chính phủ của nhân dân trong thế kỷ mới; xây dựng dân chủ cơ sở với xã hội khá giả, quan hệ xây dựng dân chủ ở cơ sở với cải cách HTCT, khu dân cư tự quản là thực tiễn mới của việc xây dựng nền dân chủ cơ sở ở đô thị… Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc [117], công trình này gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về hệ thống chính quyền cơ sở và tổ chức tự quản ở nông thôn Trung Quốc. Chương 2: Việc thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc. Chương 3: Thành tựu, những vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết trong việc thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc. Tác giả nghiên cứu hệ thống chính quyền cơ sở, tổ chức tự quản ở nông thôn Trung Quốc và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế, các vấn đề đặt ra và phương hướng giải quyết, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham khảo trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã. Philip Cam (2006), “Toàn cầu hóa và dân chủ” [11], tác giả chỉ rõ vấn đề chính trị - xã hội đang đặt ra trước mắt và bàn về cách mà chúng ta có thể liên hệ với vấn đề kinh tế. Bài viết trình bày tiêu chuẩn đánh giá thái độ của người tham gia vào nền kinh tế toàn cầu theo nghĩa là các nguyên tắc cho sự chuyển đổi xã hội - chính trị dưới khẩu hiệu dân chủ. Nền kinh tế toàn cầu không thể hiện rõ là một sức mạnh không thể cưỡng lại đối với dân chủ và cũng không thể hiện rõ dân chủ là cái cần đến nhất trong một nền kinh tế bị điều khiển bởi thị trường đang ngày càng thống trị thế giới. Tuy nhiên, dưới hình thức nào đó, chúng ta đang chứng kiến sự mở rộng của dân chủ mà ở đó đã có nền kinh tế toàn cầu tăng trưởng.
- 12 Thomas Meyer và Nicole Breyer (2007), The future of social democracy (Tương lai của nền dân chủ xã hội) đã được Trần Danh Tạo và Ngô Lan Anh dịch [168], tác giả chỉ rõ công bằng xã hội có vai trò như thế nào đối với nền dân chủ hiện đại, nền dân chủ ấy dựa trên những quyền cơ bản nào, nó có ý nghĩa như thế nào đối với sự ổn định và hiệu quả của xã hội và chỉ ra các quyền cơ bản của con người và đối tượng thực hiện dân chủ trên tất cả các lĩnh vực. Theo cách nhìn nhận này, dân chủ tân tự do có thể được coi là một dạng không hoàn thiện, vì sự khiếm khuyết về cơ cấu thống trị, khi không đảm bảo được cơ hội bình đẳng cho các nhóm lợi ích kinh tế và xã hội tác động vào tiến trình chính trị…Tuy nhiên, tác giả vẫn khẳng định rằng, toàn cầu hóa không làm mất đi cơ sở của dân chủ xã hội, tương lai của nền dân chủ xã hội và khẳng định: “Dân chủ xã hội không chỉ là một đòi hỏi nhằm cải thiện cuộc sống của con người mà còn đảm bảo quyền thực thi các quyền cơ bản của họ” [168, tr. 414]. N.M.Voskresenskaia, N.B.Davletshina (2009), Democratic regime: State and society (Chế độ dân chủ: Nhà nước và xã hội) [166], được Phạm Nguyên Trường dịch, đưa ra khái niệm dân chủ, ý nghĩa khái niệm dân chủ và chỉ rõ quan điểm về dân chủ của các luật sư, nhà hoạt động chính trị đều cho rằng dân chủ là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Xây dựng nhà nước pháp quyền là quy phạm pháp luật nhằm thực thi chủ quyền của nhân dân trong khuôn khổ tổ chức nhà nước; nghĩa là tất cả quyền lực đều nằm trong tay nhà nước. Nhưng quyền lực đó được đặt lên trên cơ sở và thực thi theo những quy phạm pháp lí đã được ghi thành luật và được nhân dân thừa nhận. Sự phát triển của dân chủ trong lịch sử ở các bang của Hy Lạp cổ đại cho đến dân chủ trực tiếp từng tồn tại ở các nước như tại nước Nga xa xưa. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (Đồng chủ biên, 2011), Trào lưu xã hội dân chủ ở một số nước phương Tây hiện đại [127]. Trào lưu xã hội dân chủ có ảnh hưởng mạnh mẽ và các đảng dân chủ xã hội, có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị châu Âu, đặc biệt là các nước Tây Âu. Nội dung cuốn sách đã khái quát trào lưu xã hội dân chủ, nguồn gốc nội dung, bản chất của trào lưu
- 13 xã hội dân chủ và sự điều chỉnh cơ bản của trào lưu dân chủ xã hội trong bối cảnh quốc tế đương đại. Các tác giả đã bàn đến những ảnh hưởng của trào lưu xã hội dân chủ ở các nước phương Tây, những giá trị và hạn chế của trào lưu xã hội dân chủ và ảnh hưởng của trào lưu này đối với Việt Nam. Qua đó, đã tác động đến nhận thức của một bộ phận Nhân dân khi so sánh việc thực hiện QCDC ở cơ sở ở Việt Nam với xu thế của một số nước trên thế giới bị ảnh hưởng bởi trào lưu dân chủ ở một số nước phương Tây. Vũ Công Giao (2014), “Dân chủ trực tiếp trên thế giới và những gợi mở cho Việt Nam” [56], nêu: “Trong thực tế, không có quốc gia nào hiện chỉ áp dụng dân chủ đại diện mà loại trừ dân chủ trực tiếp và ngược lại” [56, tr. 69]. Có thể khái quát dân chủ trực tiếp có những ưu điểm: Nêu ra các vấn đề quan trọng với toàn thể hoặc một bộ phận dân chúng mà cơ quan nhà nước không để ý hoặc muốn giấu đi; cho phép nhân dân lấy lại quyền lực của mình từ các đảng phái chính trị hoặc từ những quan chức được bầu ra để bảo đảm việc thực thi quyền lực đó vì lợi ích của đa số công chúng chứ không phải vì lợi ích của một nhóm hay một cá nhân trong xã hội; cho phép nhân dân quyết định và kiểm soát con đường phát triển của đất nước; thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội… Nghiên cứu những tài liệu này giúp cho nghiên cứu sinh có cách nhìn đầy đủ hơn và toàn diện hơn về dân chủ, thực hiện dân chủ cả góc độ lý luận và thực tiễn; các mô hình dân chủ ở một số quốc gia trên thế giới, từ phạm vi, mục tiêu và phương pháp tổ chức thực hiện, mối quan hệ giữa dân chủ với đời sống chính trị; các yếu tố tác động, ảnh hưởng tới thực hiện dân chủ ở các quốc gia. 1.1.2. Những nghiên cứu về dân chủ, thực hiện dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở tại Việt Nam 1.1.2.1. Những nghiên cứu chung về dân chủ, thực hiện dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở trên phạm vi cả nước Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa [100], chỉ ra bản chất của nền dân chủ XHCN là “Một nền dân chủ
- 14 khác hẳn với dân chủ tư sản bởi dân chủ XHCN là dân chủ thuộc về số đông, hơn thế, dân chủ còn là kết quả của đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội do quần chúng nhân dân thực hiện như một hành vi giải phóng để đạt đến tự do và trở thành tự do” [100, tr. 41]. Khi bàn đến nền dân chủ tư sản, các tác giả khẳng định: “Nền dân chủ tư sản không phải là của đa số nhân dân lao động, không phải là nền dân chủ của dân, vì dân, do dân mà chỉ là dân chủ tư sản, vì giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản, dân chủ của thiểu số giai cấp này” [100, tr. 31]. Như vậy, đã có sự so sánh để thấy được tính ưu việt của nền dân chủ XHCN. Đối với Việt Nam, các tác giả cho rằng: “Dân chủ hóa trên các lĩnh vực ở Việt Nam là vấn đề cấp bách. Nhưng dân chủ hóa muốn được đảm bảo cần phải có pháp luật tức dân chủ hóa là thực hiện pháp luật dân chủ hóa đồng thời là pháp chế hóa xã hội” [100, tr. 111]. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (Đồng chủ biên, 2003), Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay [116], cuốn sách được rút ra từ những kết quả khảo cứu, nghiên cứu của tập thể tác giả tiến hành ở nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước và có tham khảo kinh nghiệm ở một số nước. Qua đó, chính quyền cơ sở đã tích cực thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhiều nơi đã triển khai QCDC cơ sở có hiệu quả cùng Nhân dân làm nên những thành tựu đổi mới trong phát triển kinh tế làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành thị. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, chính quyền cơ sở còn bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, tổ chức và vận động Nhân dân. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân còn xảy ra ở nhiều nơi, QCDC cơ sở chưa được triển khai đầy đủ, có nơi chưa đi vào cuộc sống. Trần Ngọc Khuê, Lê Kim Việt (Chủ biên, 2004), Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở [75], đã tổng quan các yếu tố tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở; phân tích mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở; đề ra một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, phân tích các yếu tố tâm lý xã hội cần chú ý trong quá
- 15 trình thực hiện QCDC ở cơ sở, chỉ ra các yếu tố chủ yếu như vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền; về thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; về tâm lý xã hội nói chung; nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ sở; phong cách của người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở; mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích trong triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở; vấn đề xây dựng quy ước, hương ước; tác động của tâm lý làng xã; tâm lý của phụ nữ nông thôn; tâm lý tôn giáo; những giải pháp thực hiện QCDC ở cơ sở. Nguyễn Trọng Chuẩn (2006), “Toàn cầu hóa hiện nay và vấn đề dân chủ hóa đời sống xã hội” [23], tác giả cho rằng: Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, nó tác động mạnh đến quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực tài chính và vốn đầu tư quốc tế. Toàn cầu hoá hiện nay đang diễn ra với những nét khác biệt hết sức lớn so với các giai đoạn trước mà nhân loại đã từng chứng kiến, với năm yếu tố: Một là, phản ánh xu thế khách quan, tiến lên của lịch sử nhân loại. Hai là, diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ba là, kết quả của sự phát triển mang tính đột biến của khoa học và công nghệ cao. Bốn là, tác động đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Năm là, tác động mạnh đến quá trình dân chủ hoá trong lĩnh vực tài chính và vốn đầu tư quốc tế. Hoàng Chí Bảo (2007), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi mới [7], vai trò thực hiện dân chủ của nông dân và coi vấn đề dân chủ là vấn đề bức xúc của nông dân, nhưng cũng là động lực để phát triển nông thôn hiện nay, “nông dân nước ta là lực lượng xã hội to lớn đã đóng góp một phần quan trọng cả vật chất và tinh thần, cả tính mạng và của cải, hy sinh cả xương máu của mình để làm nên những thành quả đó” [7, tr. 156]. Tác giả nêu lên những kinh nghiệm: Thứ nhất, tuyên truyền, vận động về dân chủ và QCDC ở cơ sở phải sâu rộng, thường xuyên, bằng nhiều hình thức cụ thể, nhiều biện pháp sinh động, thiết thực đối với người dân, hộ dân tại thôn xóm. Thứ hai, thực hiện QCDC là thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân ở cơ sở. Thứ ba, thực hiện QCDC ở cơ sở, đặc biệt ở nông thôn phải tạo được động lực để thúc đẩy kinh tế nông thôn, kinh tế hộ nông dân, kinh tế từng người phát triển. Thứ tư, thực hiện
- 16 QCDC ở cơ sở, nhất là nông thôn phải chú trọng phát huy tác dụng của các thiết chế xã hội có tính tự quản cộng đồng của dân. Thứ năm, thực hiện QCDC thực sự là một cuộc thử thách về đạo đức, năng lực, bản lĩnh. Trần Nguyên Việt (2008), “Sự thống nhất giữa ổn định chính trị và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa - cơ sở của đồng thuận xã hội và phát triển đất nước hiện nay” [160], chỉ ra rằng, ổn định chính trị trước hết là sự phản ánh các mối quan hệ xã hội giữa Đảng và các bộ phận cấu thành khác của HTCT. Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ nên sự lãnh đạo của Đảng không phải là một chiều, mang tính áp đặt hoặc độc đoán, chuyên quyền, mà luôn tiếp nhận sự tác động trở lại của đối tượng lãnh đạo. Nguyên tắc “Liên hệ mật thiết với quần chúng, lấy phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng là điều kiện tất yếu để giữ vững sự ổn định chính trị” [160, tr. 5]. Tuy nhiên, bài viết chưa phản ánh đầy đủ nội dung dân chủ với những yếu tố được thừa nhận một cách rộng rãi, mà dân chủ còn chung chung, chưa phải là cái phổ biến. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên, 2009), Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền [128]. Các tác giả cùng khẳng định: Để xã hội phát triển ổn định, quyền lực không trở thành tham quyền vị lợi, thì phải phát huy vai trò của phản biện xã hội. Khi phản biện được thực hiện đúng đắn sẽ đem lại kết quả tích cực trực tiếp chủ trương, đường lối, chính sách sẽ vận động phù hợp với thực tiễn khách quan, các chính sách phản ánh đúng nhu cầu thực tế, có cơ sở vững chắc: “Phản biện xã hội chính là cách thức cân bằng tốt nhất đối với các chủ thể lợi ích giúp họ phản ánh tiếng nói của mình để những nhà quản lý, chính trị gia uốn nắn, điều chỉnh lại các chính sách cho phù hợp với đòi hỏi chính đáng của quần chúng” [128, tr. 37]. Hoàng Chí Bảo, Tống Đức Thảo (Đồng chủ biên, 2011), Mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa pháp luật [9], các tác giả khẳng định: Dân chủ và pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Việc thực hiện dân chủ phải dựa vào pháp luật và thông qua pháp luật: “Pháp
- 17 luật của chúng ta là pháp luật thực sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho Nhân dân lao động” [9, tr. 223]. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật theo yêu cầu dân chủ phải được cụ thể hóa, thể chế hóa bằng hệ thống cơ chế, chính sách, các quy định, quy chế, văn bản pháp luật cụ thể; bổ sung, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật bảo đảm thực hiện đoàn kết, đồng thuận, công bằng, văn minh. “Hoàn thiện cơ chế giải trình, đối thoại với dân, tiếp dân, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, quy định về từ chức, cách chức, bãi miễn, xử lý quan liêu, tham ô, tham nhũng” [9, tr. 223]. Nguyễn Hồng Chuyên (2013), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới [25], trình bày chủ trương, đường lối của Đảng, chính quyền, pháp luật của Nhà nước về thực hiện dân chủ ở cấp xã và xây dựng nông thôn mới. Từ việc làm rõ vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới, trong đó tác giả đã phân tích khá sâu sắc một số nội dung về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nước ta như dân số, lao động, việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; vấn đề sử dụng và quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên; vấn đề phân tầng xã hội và xoá đói giảm nghèo; đề xuất các giải pháp đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã phục vụ xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay. Trần Đăng Sinh (2013), “Dân chủ và thực hiện dân chủ trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” [118], đã phân tích về nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại, yếu tố dân chủ trong lịch sử Việt Nam, thành tựu và một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay. Theo tác giả bài viết, dân chủ và pháp quyền không mâu thuẫn nhau; dân chủ càng cao thì pháp quyền càng nghiêm; pháp quyền nghiêm thì dân chủ cao mới thực hiện được. Ở Việt Nam, dân chủ được thực hiện trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Do đó, thực hành dân chủ, đề cao và tôn trọng pháp luật là cơ sở vững chắc để thực hiện mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Dân chủ càng cao thì pháp quyền càng nghiêm, pháp quyền càng nghiêm thì dân chủ
- 18 cao mới thực hiện được. Dân chủ và pháp quyền không mâu thuẫn, mà là thống nhất với nhau. “Đó là sự thống nhất của hai mặt đối lập tạo nên bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam” [118, tr. 67]. Lưu Ngọc Tố Tâm (2017), “Một số giải pháp phát huy dân chủ ở cơ sở” [121], nêu rõ bản chất tiến bộ của chế độ, ngay từ khi chính quyền cách mạng mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã khẳng định quyền lực nhà nước là của Nhân dân và nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng cấp, từng công việc và vận động toàn thể cán bộ, đảng viên và Nhân dân hiểu và có trách nhiệm thực thi quyền và nghĩa vụ trong vị thế của người làm chủ. Trên cơ sở đó tác giả đề xuất một số giải pháp: Thứ nhất, cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và Nhân dân về dân chủ. Thứ hai, thực hiện dân chủ cơ sở là góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hộ. Thứ ba, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những cơ chế bảo đảm dân chủ trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Thứ tư, nâng cao hiệu quả hoạt động của chế độ thực hành dân chủ trong các cơ quan, đơn vị. Nguyễn Phú Trọng (2018), “Không ngừng phát huy dân chủ ở cơ sở, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của Nhân dân” [148]. Bài viết đã đánh giá một số thành tựu cơ bản qua 20 năm thực hiện QCDC cơ sở: Một là, nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và Nhân dân ngày càng được nâng lên. Hai là, việc thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước. Những thành tựu trên là do cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện; sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp Nhân dân. 1.1.2.2. Những nghiên cứu về thực hiện dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở trên các địa phương, các vùng miền Nguyễn Hạnh Phúc (2007), “Thực hiện Quy chế dân chủ ở Thái Bình - thành tựu và kinh nghiệm” [105], tác giả đề cập cơ chế quản lý cũ cùng với
- 19 những nhận thức hạn chế của đội ngũ cán bộ cơ sở về dân chủ, Thái Bình trở thành một điểm “nóng” bất ổn. Việc thực hiện QCDC ở cơ sở đã góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các cơ quan, đơn vị và tác phong của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cơ sở, theo hướng khoa học, năng động gắn bó với cơ sở, gần dân, sát dân, nâng cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế những hiện tượng tiêu cực, quan liêu, cửa quyền, gây phiền hà đối với Nhân dân. Tác giả chỉ ra một số kinh nghiệm: Một là, các cấp ủy tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở. Hai là, triển khai quán triệt ở cơ sở phải nghiêm túc, sâu rộng làm cho cán bộ đảng viên và quần chúng. Ba là, việc thực hiện QCDC là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành và của toàn dân. Bốn là, quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở gắn với cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn đảng, xây dựng chính quyền. Năm là, tăng cường và đổi mới công tác kiểm tra. Đinh Văn Hùng (2009), “Ninh Bình phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, rèn luyện đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở” [68], việc thực hiện tốt dân chủ cơ sở xã, phường, thị trấn đã thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hoá các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao, tác động mạnh đến việc xây dựng nông thôn kiểu mới, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư. Việc xây dựng quy ước, hương ước với những nội dung sâu sát với thực tiễn, theo hướng văn minh, tiến bộ, có tác động tích cực đến phát triển các lễ hội truyền thống làng, xã đã giữ gìn được tập quán tốt đẹp trong cộng đồng dân cư. Chính quyền cơ sở cũng ngày càng được đổi mới về tổ chức và hoạt động. Phong cách, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được chuyên nghiệp. Việc thực hiện chủ trương cải cách hành chính của Nhà nước bước đầu thực hiện có kết quả, hạn chế dần tình trạng phô trương, hình thức, hành chính hoá. Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ thực tiễn của tỉnh Thái Bình [24], tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ trên địa bàn các xã, phường, thị trấn của tỉnh Thái Bình từ các điểm nóng cho thấy: Ở nơi nào
- 20 chính quyền cấp xã vững mạnh, tổ chức thực hiện tốt pháp luật về dân chủ, thì kinh tế - xã hội phát triển mạnh và quá trình CNH, HĐH được thực hiện một cách tuần tự, hợp với xu thế chung của thời đại. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, để quá trình CNH, HĐH trong giai đoạn trước mắt và lâu dài ở Thái Bình được thực hiện một cách có hiệu quả với tốc độ nhanh, thì một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm là phải tiếp tục mở rộng dân chủ từ cơ sở, không ngừng củng cố và hoàn thiện chính quyền cấp xã, tạo điều kiện sâu rộng để Nhân dân phát huy sáng tạo, hăng hái sản xuất và đưa tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn đời sống. Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên [29], chỉ rõ xây dựng và thực hiện pháp luật về dân chủ cở sở xã, phường, thị trấn là một chủ trương quan trọng, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa đột phá để giải quyết nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến quyền làm chủ của Nhân dân, củng cố HTCT ở cơ sở. Việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên từ 1998 đã đạt những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế, bất cập là: Chất lượng hoạt động của HTCT cơ sở chưa cao; chính sách cán bộ cho vùng miền núi Tây Nguyên chưa hợp lý; trình độ dân trí, ý thức và năng lực thực hành dân chủ, năng lực giám sát của Nhân dân còn thấp, đời sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên vẫn còn chậm phát triển; công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số nơi chưa được coi trọng... Đinh Ngọc Chính (2016), “Đảng bộ tỉnh Thái Bình thực hiện Quy chế dân chủ trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại của Nhân dân (1997-2007)” [20], công tác quán triệt, triển khai, tổ chức thực hiện QCDC được tiến hành đồng thời với việc giải quyết tình hình ở cơ sở từ năm 1997 đến năm 2007, dưới sự lãnh của Đảng bộ, công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại của Nhân dân đã góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội. Đối với công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại của Nhân dân: việc tiếp dân và giải quyết đơn thư tố cáo, khiếu nại phải làm đúng theo pháp luật. Lắng nghe ý kiến của Nhân dân, bố trí địa điểm tiếp công dân, trưng dụng một số
- 21 cán bộ có phẩm chất và năng lực làm nhiệm vụ chuyên trách tiếp dân ở tỉnh; thường xuyên quán triệt, học tập các văn bản về thực hiện QCDC ở cơ sở trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân cho các cấp, các ngành, các huyện, thị một cách nghiêm túc, khẩn trương. Đồng thời tác giả đưa ra một số kinh nghiệm trong thực hiện QCDC: Một là, việc thanh tra theo đúng nguyên tắc quy định của Điều lệ Đảng và pháp lệnh Thanh tra, thực hiện đúng hướng dẫn của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc xử lý các vi phạm, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên có vi phạm; bảo vệ cán bộ bị tố cáo oan sai; Hai là, việc giải quyết khiệu nại, tố cáo đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, sự điều hành của chính quyền, phát huy tốt vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân và hiệu quả hoạt động của HTCT; Ba là, các cấp ủy, chính quyền luôn chủ động nắm bắt đúng việc khiếu nại, tố cáo của người dân để kịp thời chỉ đạo các đơn vị chuyên môn hướng dẫn để người dân hiểu các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nguyễn Hữu Tâm (2016), Thực hiện Quy chế dân chủ ở các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay [123]. Thực hiện QCDC trong các trường đại học và cao đẳng là quá trình thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ nhằm huy động tiềm năng trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán bộ, công chức theo luật định, góp phần xây dựng nền nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của trường đại học và cao đẳng, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật Nhà nước. Tác giả chỉ ra cần thực hiện các giải pháp cơ bản như: Thứ nhất, công tác chính trị, tư tưởng trong nhà trường. Thứ hai, mở rộng dân chủ hóa để phát huy quyền cán bộ, giảng viên và sinh viên. Thứ ba, thực hiện đúng vai trò, chức năng của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường. Thứ tư, cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung. Thứ năm, xây dựng văn hóa từ chức và kỷ luật nghiêm minh đối với những đối tượng vi phạm QCDC trong nhà trường.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ chính trị - ngoại giao, an ninh của ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản (1991 - 2010)
238 p | 597 | 132
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885
222 p | 267 | 76
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954
177 p | 328 | 72
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ giữa nhà nước quân chủ Lý, Trần với Phật giáo - Hoàng Đức Thắng
11 p | 236 | 53
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây (1998 - 2010)
195 p | 195 | 51
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Nội chiến đến kết thúc Chiến tranh thế giới thứ nhất 1865 – 1918
190 p | 164 | 32
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Tiến trình quan hệ kinh tế Hoa Kỳ - Việt Nam giai đoạn 2000 - 2012
60 p | 219 | 29
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ chính trị - ngoại giao, an ninh của ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản (1991 - 2010)
24 p | 270 | 28
-
Luận án tiến sĩ lịch sử: Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802-1885
222 p | 158 | 28
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Xứ ủy Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam từ năm 1945 đến năm 1954
27 p | 152 | 18
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan giám sát triều Nguyễn giai đoạn 1802 - 1885
27 p | 145 | 13
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2020
258 p | 16 | 11
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ Ấn Độ - Indonesia giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2018
212 p | 33 | 10
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây
27 p | 131 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Đô thị hóa ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An từ năm 1974 đến năm 2008
206 p | 19 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên - Tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam
217 p | 16 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quá trình hình thành và phát triển của cơ chế hợp tác Tiểu vùng Mekong mở rộng từ năm 1992 đến năm 2012
248 p | 41 | 6
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Lịch sử: Quan hệ Ấn Độ - Indonesia giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2018
28 p | 14 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn