intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ: Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:192

42
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận án nhằm làm rõ đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt, để thấy được sự độc đáo của loại văn bản đặc biệt này dưới góc độ ngôn ngữ học. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ: Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI -------- VŨ THỊ HƢƠNG GIANG ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA VÀ LẬP LUẬN CỦA CÂU ĐỐ VỀ ĐỘNG THỰC VẬT TRONG TIẾNG VIỆT Chuyên ngành: Ngôn ngữ học Mã số: 9.22.90.20 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: 1. PGS. TS NGUYỄN THỊ LƢƠNG 2. PGS. TS PHẠM VĂN TÌNH Hà Nội - 2020
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả Vũ Thị Hƣơng Giang
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài......................................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................................. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 3 4. Phương pháp và thủ pháp nghiên cứu ........................................................................ 4 5. Đóng góp mới của luận án .......................................................................................... 5 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án ..................................................................... 5 7. Cấu trúc luận án .......................................................................................................... 5 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN... 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................ 6 1.1.1.Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ văn học ............................................. 6 1.1.2. Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ ngôn ngữ học ................................ 10 1.2. Cơ sở lí luận............................................................................................ 15 1.2.1. Câu đố và đặc điểm của câu đố ............................................................... 15 1.2.2. Một số lý thuyết ngôn ngữ được chọn làm cơ sở lí luận của luận án ............. 24 1.3. Tiểu kết.................................................................................................................... 39 CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC – NGỮ NGHĨA CỦA CÂU ĐỐ VỀ ĐỘNG THỰC VẬT TRONG TIẾNG VIỆT .................................................. 41 2.1. Đặc điểm cấu trúc của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt .................. 41 2.1.1. Cấu trúc của văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ....................... 41 2.1.2. Mô hình cấu trúc đồng dạng của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ..... 48 2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ............... 74 2.2.1. Hệ thống đề tài (chủ đề) được phản ánh trong văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt .............................................................................................................. 75 2.2.2. Cách thức triển khai chủ đề trong câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ... 78 2.3. Tiểu kết ................................................................................................................ 102
  4. CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM LẬP LUẬN CỦA CÂU ĐỐ VỀ ĐỘNG THỰC VẬT TRONG TIẾNG VIỆT ............................................................................................. 104 3.1. Đặc điểm các thành phần lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt .. 104 3.1.1. Đặc điểm thành phần kết luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 105 3.1.2. Đặc điểm thành phần luận cứ của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt . 107 3.2. Cấu trúc lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt.................. 112 3.2.1. Cấu trúc lập luận tường minh ........................................................................... 113 3.2.2. Cấu trúc lập luận hàm ẩn ................................................................................. 114 3.3. Cơ sở lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt ....................... 116 3.3.1. Lập luận theo lẽ thường .................................................................................... 116 3.3.2. Lập luận theo tư duy sáng tạo riêng ................................................................. 117 3.4. Tiểu kết ................................................................................................................ 147 KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 152
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN ÁN Số STT Tên bảng Trang bảng 1 2.1 Cấu trúc văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt 41 2 2.2 Số lượng lời đố về động thực vật trong tiếng Việt có mô hình 49 cấu trúc đồng dạng 3 2.3 Mô hình đồng dạng nghi vấn ở cấu đố có cấu trúc thông thường 50 4 2.4 Mô hình đồng dạng trần thuật của câu đố có cấu trúc thông 54 thường 5 2.5 Mô hình đồng dạng của câu đố có cấu trúc đặc biệt 58 6 2.6 Mô hình cấu trúc ngữ pháp đồng dạng ở lời đố về động vật 64 trong tiếng Việt 7 2.7 Mô hình cấu trúc ngữ pháp đồng dạng ở lời đố về thực vật 69 trong tiếng Việt 8 2.8 Chủ đề ở lời giải của câu đố về động vật trong tiếng Việt 76 9 2.9 Chủ đề ở lời giải của câu đố về thực vật trong tiếng Việt 77 10 2.10 Miêu tả tố ở lời đố về động thực vật trong tiếng Việt 79 11 2.11 Miêu tả tố riêng ở lời đố về động vật trong tiếng Việt 90 12 2.12 Miêu tả tố riêng ở lời đố về thực vật trong tiếng Việt 94 13 2.13 Cách thức miêu tả vật đố trong lời đố về động thực vật trong 98 tiếng Việt 14 3.1 Số lượng vật đố ở kết luận của câu đố về động thực vật trong 105 tiếng Việt 15 3.2 Số lượng luận cứ trong lập luận câu đố về động thực vật 108 trong tiếng Việt 16 3.3 Cấu trúc lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng 113 Việt 17 3.4 Một số dạng lập luận theo tư duy sáng tạo riêng ở lời đố về 118 động thực vật trong tiếng Việt 18 3.5 Phương thức chuyển trường trong lập luận ở lời đố về động 119 thực vật trong tiếng Việt 19 3.6 Phương thức chơi chữ ở lời đố về động thực vật trong tiếng 134 Việt
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Là một thể loại văn học dân gian nên câu đố cũng được tạo ra từ chất liệu ngôn từ. Cùng với thành ngữ, tục ngữ, câu đố là kho tàng bảo lưu giá trị văn hóa của dân tộc, cộng đồng. Từ lâu, nó đã đi sâu, chiếm vị trí đáng kể, trở thành một món ăn quan trọng, không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Tiếp cận thể loại văn học dân gian này từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa sẽ là cơ hội tốt để chỉ ra được bản sắc văn hóa của cộng đồng, bên cạnh đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa, lập luận của câu đố. Đây cũng là hướng nghiên cứu khá phổ biến, được ưa chuộng hiện nay: hướng nghiên cứu liên ngành, nghiên cứu ngôn ngữ trong mối quan hệ với văn học, tâm lý học. 1.2. Đố - giải là một trong những hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, thường xuyên diễn ra trong đời sống cộng đồng. Không đơn thuần chỉ là một trò chơi giải trí thông thường, đó còn là một sân chơi trí tuệ bổ ích bằng ngôn từ - nhờ đó, với cả người ra đố và giải đố; năng lực tư duy, cụ thể là năng lực phán đoán trên cơ sở suy luận được rèn rũa, trau dồi; đồng thời khả năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt cũng được rèn luyện. Nhiều câu đố đã được văn bản hóa, tồn tại với tư cách một văn bản. Là văn bản nhưng văn bản câu đố lại có cấu trúc đặc biệt, so với các thể loại văn học dân gian khác. Câu đố là một loại đơn vị hết sức đặc biệt (Nó là một dạng “câu” đặc biệt và cũng là một dạng văn bản đặc biệt). Được gọi là “câu” nhưng câu đố lại có cấu tạo ở dạng văn bản, trọn vẹn và khép kín. Mặt khác, câu đố vốn là một loại hình văn bản có phong cách chức năng ngôn ngữ khá độc đáo, vừa thể hiện đặc điểm của ngôn ngữ văn học (văn học dân gian) lại vừa mang những nét đặc trưng của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày; vừa là một loại hình văn bản ngôn từ vừa là loại hình văn hóa diễn xướng dân gian. Vì thế, nghiên cứu, tìm hiểu câu đố (kể cả phần lời đố, lời giải hay phần diễn xướng) đều hứa hẹn có nhiều “đất” để khai thác; mang lại những kết luận khoa học hấp dẫn, lí thú. 1.3. Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, câu đố chủ yếu là sản phẩm của quần chúng nông dân lao động nên ẩn số (để giải mã) thường là những gì thân quen, gắn bó với đời sống của họ. Với nền văn minh nông nghiệp lúa nước, thế giới
  7. 2 động thực vật muôn màu không chỉ là một thực thể bên ngoài của tự nhiên mà còn thâm nhập sâu sắc vào đời sống văn hóa tinh thần của con người. Vì thế, chiếm đa số (gần 1/5) trong kho tàng câu đố Việt Nam là những câu đố về con vật; về cây cỏ, hoa lá, củ quả gần gũi, quen thuộc với người nông dân. Đây cũng là mảng có nhiều câu đố đặc sắc cần khai thác. Dù câu đố được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong đời sống sinh hoạt hàng ngày nhưng không phải ai cũng dễ dàng giải mã, tìm ra ẩn số được kí mã trong bài toán ngôn ngữ ấy. Bởi lẽ nó không phản ánh sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan như lối nói thông thường mà theo “lối nói chệch, nói một đằng, hiểu một nẻo” [44, tr. 257], “bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật chuyển hóa gây nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia)” [43, tr. 48 – 49]. Yêu cầu đặt ra với người đố là luôn phải tìm ra những cách nói mới lạ, nhằm đánh lạc hướng lập luận ở người đoán giải. 1.4. Xem xét đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố góp phần khẳng định giá trị, vai trò cũng như sự độc đáo, riêng biệt của thể loại này trong đời sống văn học dân tộc. Đồng thời đây là việc làm cần thiết để thấy được nét đặc sắc về ngôn ngữ của thể loại này, cũng như giải mã được lôgic của tư duy, triết lí dân gian qua ngôn ngữ đố. 1.5. Do tính hấp dẫn của câu đố (từ góc độ ngôn ngữ học) nên đã có không ít công trình nghiên cứu về nó song phần lớn các công trình đó mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm và giải đáp ẩn số. Cũng có một số tài liệu nghiên cứu về thể loại này nhưng ở mức khái quát. Cho đến nay, những công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ ngôn ngữ học còn khá khiêm tốn. Các tác giả mới chỉ khai thác nó ở góc độ biểu thức miêu tả chiếu vật, tiền giả định, phương thức chơi chữ, vấn đề ẩn dụ trong câu đố,… chứ chưa khai thác đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của nó. Chưa có công trình nào nghiên cứu tổng thể ba đặc điểm này của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. Vì thế, tiếp cận câu đố một cách hệ thống ở các bình diện trên cho đến thời điểm này, vẫn là điều mới lạ, hứa hẹn kết quả nghiên cứu về đối tượng “được coi là thách thức người tiếp nhận”. Với những căn cứ trên, chọn đề tài Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt để nghiên cứu, người viết mong muốn góp thêm một cách nhìn về câu đố dưới ánh sáng của một số lý thuyết ngôn ngữ học.
  8. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài này, chúng tôi mong muốn: - Làm rõ đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt, để thấy được sự độc đáo của loại văn bản đặc biệt này dưới góc độ ngôn ngữ học. - Chỉ ra nét độc đáo về cấu trúc - ngữ nghĩa, lập luận và đặc trưng tư duy văn hóa, triết lí dân gian qua câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. - Chỉ ra căn cứ - cơ chế giải mã để có thể giải đáp câu đố nhanh, đúng và chính xác. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, chúng tôi xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Xác lập khung lý thuyết cho đề tài luận án (khái niệm câu đố, lý thuyết văn bản, lý thuyết lập luận, vấn đề nghĩa chiếu vật (sở chỉ), quy chiếu, lý thuyết định danh) - Khảo sát, phân loại câu đố căn cứ vào cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của chúng. - Miêu tả, phân tích các loại câu đố, lần lượt ở các khía cạnh: + Chỉ ra đặc điểm cấu trúc của văn bản câu đố, mô hình hoá cấu trúc đồng dạng của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. + Làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa: xem xét các mảng chủ đề được phản ánh, các đặc điểm được chọn làm miêu tả tố trong lời đố (qua lời đố miêu tả trực tiếp). + Làm rõ đặc điểm lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt: Đặc điểm các thành phần lập luận, cấu trúc lập luận và cơ sở lập luận. - Tổng kết kết quả nghiên cứu bằng bảng biểu hoặc bằng cách nêu nhận định. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Do khuôn khổ của luận án và thời gian thực hiện, chúng tôi chỉ tập trung khảo sát, tìm hiểu 488 câu đố về động vật và 636 câu đố về thực vật trong tiếng Việt được sưu tầm, biên soạn trong cuốn biên Tổng tập văn học dân gian Việt Nam (Tập 3 – Câu đố), 2005, NXB Khoa học Xã hội [125] (dựa trên ngữ liệu đã được văn bản hóa vì câu đố vốn là trò chơi dân gian bằng ngôn ngữ nói).
  9. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Từ góc nhìn của ngôn ngữ học, có thể nghiên cứu câu đố trên nhiều phương diện, song luận án chỉ tập trung vào ba phương diện, đó là: Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận. 4. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu Để đạt được các mục đích và nhiệm vụ đề ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp, thủ pháp nghiên cứu sau đây: 4.1. Phương pháp nghiên cứu (1) Phương pháp phân tích diễn ngôn Từ những ngữ liệu đã thu thập được, chúng tôi tiến hành phân tích, đối chiếu văn bản câu đố (một dạng diễn ngôn đặc biệt) để nhận biết đặc điểm cấu trúc của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. Phương pháp này dùng để phân tích văn bản câu đố về động thực vật trong tiếng Việt cũng như cấu trúc lập luận của các câu đố loại này. (2) Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng để mô tả đặc điểm cấu trúc, một số mô hình cấu trúc đồng dạng trong lời đố, các nét nghĩa đặc trưng được chọn làm miêu tả tố. (3) Phương pháp nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ học – văn hóa học Phương pháp này giúp chúng tôi giải mã được ý đồ nghệ thuật và phần nào hiểu được cách tri nhận của người Việt qua câu đố về động thực vật. 4.2. Thủ pháp nghiên cứu (1) Thủ pháp thống kê, phân loại Thủ pháp này được sử dụng để thống kê, phân loại câu đố theo tiêu chí đã định trước (mô hình cấu trúc đồng dạng, các đặc điểm được chọn làm miêu tả tố, đặc điểm các thành phần lập luận, cấu trúc lập luận, cơ sở lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt). Kết quả thống kê sẽ được tổng hợp dưới hình thức các bảng biểu, giúp hình dung rõ hơn đặc trưng cơ bản về cấu trúc, ngữ nghĩa, lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt; làm cơ sở cho kết luận của luận án. (2) Thủ pháp so sánh: tìm ra điểm chung và nét riêng (về cấu trúc - ngữ nghĩa và lập luận) của câu đố về động vật và thực vật trong tiếng Việt.
  10. 5 5. Đóng góp mới của luận án Đây là công trình khảo sát một cách hệ thống và chuyên sâu đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án Tìm hiểu Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa và lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt, tác giả luận án có những đóng góp sau: 6.1. Về lí luận Luận án góp phần bổ sung, hoàn thiện thêm vào các kết quả nghiên cứu về câu đố; góp thêm một cái nhìn mới về câu đố dân gian người Việt từ góc nhìn của ngôn ngữ học (văn bản, lập luận, nghĩa chiếu vật (sở chỉ), định danh). Các kết quả của đề tài sẽ góp phần củng cố hướng nghiên cứu cấu trúc ngữ nghĩa, kết hợp với nghiên cứu lập luận đối với một loại hình diễn ngôn cụ thể là câu đố trong tiếng Việt. 6.2. Về thực tiễn Kết quả của đề tài sẽ góp phần nâng cao công tác biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho học sinh phổ thông (đặc biệt trong bối cảnh Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng chương trình và biên soạn bộ sách Ngữ văn mới), giáo trình giảng dạy tiếng Việt, phục vụ cho đào tạo ngôn ngữ học ở bậc cử nhân và sau đại học, biên soạn sách tham khảo phục vụ phân tích giảng văn trong nhà trường. Ngoài ra, kết quả của luận án có giá trị hữu ích, phục vụ tốt trong nghiên cứu giảng dạy, khai thác câu đố nói riêng, văn học dân gian nói chung từ góc nhìn ngôn ngữ học. Luận án sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai muốn tìm hiểu thêm về thể loại văn học dân gian độc đáo này. 7. Cấu trúc luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục, danh mục bảng, danh mục các công trình đã công bố; nội dung của luận án được triển khai trên ba chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận Chương 2: Đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt Chương 3: Đặc điểm lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt
  11. 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN Chương đầu của luận án, chúng tôi tìm hiểu tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề lí luận chung, liên quan trực tiếp đến đề tài: Vài nét về câu đố, lý thuyết văn bản, lập luận, nghĩa chiếu vật (sở chỉ), quy chiếu và định danh – Đây chính là cơ sở nền tảng cho việc nghiên cứu sâu hơn (đặc điểm cấu trúc - ngữ nghĩa và lập luận), gắn với đối tượng cụ thể (câu đố về động thực vật trong tiếng Việt) ở các chương sau. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ văn học Câu đố là một giá trị văn hóa, một kho tàng trí tuệ dân gian. So với các thể loại văn học dân gian khác, trước kia câu đố chưa được nhìn nhận và quan tâm thích đáng. Song từ những năm 80 của thế kỉ XX trở lại đây, các nhà nghiên cứu, giảng dạy và những người yêu thích văn học dân gian đã dành sự quan tâm nhiều hơn cho thể loại này. 1.1.1.1. Nghiên cứu câu đố nói chung Trước hết, chúng ta phải kể đến một số công trình chủ yếu mang tính chất sưu tầm về câu đố, tiêu biểu: Câu đố Việt Nam (Thiên Lữ, Võ Hồng sưu tầm), Nxb Thanh Hoá, 2000, Câu đố Việt Nam (Hồ Anh Thái biên soạn), Nxb Hải Phòng, Câu đố Việt Nam (Ninh Viết Giao), Câu đố dân gian Việt Nam (Xuân Thu), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1998, Câu đố dân gian (Lữ Huy Nguyên, Trần Gia Linh, Nguyễn Đình Chỉnh sưu tầm), Nxb Kim Đồng, Hà Nội, 1989, Câu đố Việt Nam (Ninh Viết Giao sưu tầm), Nxb Khoa học Xã hội, 1990, Câu đố Việt Nam (Nguyễn Văn Trung biên soạn), Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1986; Câu đố người Việt (Triều Nguyên biên soạn), Nxb Thuận Hoá, 2007. Nhìn nhận vai trò quan trọng của thể loại câu đố, viện KHXH Việt Nam cũng đã cho ra đời bộ sưu tầm câu đố người Việt và câu đố các dân tộc thiểu số: Tổng tập văn học dân gian người Việt, (tập 3, Câu đố), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số. Trong số các công trình kể trên, có ba công trình được chú ý nhiều hơn cả là công trình của Ninh Viết Giao, Triều Nguyên và Nguyễn Văn Trung.
  12. 7 Ninh Viết Giao [36] khi tìm hiểu về Câu đố Việt Nam đã lí giải nguồn gốc ra đời của câu đố, phạm vi đề tài, đặc điểm chủ yếu của nội dung và giới thiệu về một số biện pháp nghệ thuật của câu đố. Tác giả đã nhận thấy vai trò và vị trí riêng của thể loại này trong đời sống tinh thần của dân tộc. Nó đã đáp ứng được những yêu cầu nào đó của nhân dân và có tác động, ảnh hưởng nhất định tới văn học viết. Ông nhận thấy “Trong những lúc đố nhau, câu đố đã đem lại cho người bình dân Việt Nam những tràng cười thoải mái không chỉ ở sự giảng được mà ngay ở bản thân câu đố. Hầu như câu đố nào đọc lên, ta cũng thấy ngộ nghĩnh, hóm hỉnh, tươi mát, đôi khi thấy tục tĩu nữa, song hiện thực sự vật, sự việc lại không tục tĩu chút nào” [36, tr. 268]. Tác giả cũng xem xét những phương tiện nghệ thuật làm nên chất trí tuệ, tính hài hước ở câu đố (ẩn dụ, phép so sánh, người hóa, vật hóa, thực vật hóa…). Tìm hiểu về Câu đố người Việt về tự nhiên, Triều Nguyên [92] trình bày một cách tương đối đầy đủ, hệ thống, toàn diện và có những kiến giải thấu đáo những vấn đề thuộc bình diện thể loại: xác định câu đố trên cơ sở phân biệt nó với một số thể loại văn học dân gian khác, phân biệt các kiểu dạng đố thường gặp, tìm hiểu về cách đố - giải, hình thức và nội dung, phân loại câu đố. Có nhiều vấn đề được đặt ra lần đầu như: “trường và hiện tượng xuất nhập trường trong câu đố”,“mô hình câu đố”,“câu đố tá ý”… Công phu và chuyên sâu hơn cả là cuốn Câu đố Việt Nam của Nguyễn Văn Trung [119]. Trong công trình này, bên cạnh việc tập hợp một số lượng khá lớn giới thiệu 1.513 câu đố sắp xếp theo đối tượng phản ánh và một vài kiểu đố khác, tác giả đã đi sâu phân tích xuất xứ, nguồn gốc, hoàn cảnh sử dụng, mục đích, chức năng, cách cấu tạo câu đố về mặt tổng quát, về mặt ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ điệu, tần số câu đố, tư tưởng và lối nhìn trong câu đố, khía cạnh văn chương. Ông cũng chỉ ra rằng, qua câu đố, “chúng ta có thể phác họa được những nét lớn nền văn minh vật chất của người Việt Nam. Mỗi câu đố phản ánh hoặc cách sống, hoặc cách ăn uống, làm việc, hoặc tinh thần, tâm tình của người Việt” [119, tr. 200]. Là một thể loại văn học dân gian mang đậm tư duy và bản sắc dân tộc, câu đố có sức thu hút không nhỏ với các nhà nghiên cứu dân gian: Đinh Gia Khánh, Mã Giang Lân, Lê Chí Quế, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị… Những công trình nghiên cứu của họ chủ yếu tập trung khai thác câu đố dưới góc nhìn văn học, câu đố được
  13. 8 bàn đến hết sức sơ lược dưới dạng chương, mục. Nó trở thành đối tượng để nhìn nhận, khám phá về khái niệm và đặc trưng thể loại, trong cái nhìn so sánh với các thể loại văn học dân gian khác. Nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Võ Quang Nhơn, Chu Xuân Diên [73] trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam đã dành 12 trang (257 – 269) để sơ lược, nêu lên những nét khái quát nhất về đối tượng phản ánh, đặc điểm nội dung, chức năng câu đố cũng như vị trí của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân, giới thiệu tóm lược nghệ thuật sử dụng câu đố, so sánh sự giống và khác nhau trong ẩn dụ của câu đố và tục ngữ, phân biệt hát đố và câu đố. Câu đố được xem là “một phương tiện nhận thức, vừa thoả mãn được nhu cầu tri thức, vừa thoả mãn được nhu cầu vui chơi, giải trí của nhân dân lao động”. [73, tr. 361]. Dễ nhận thấy, ở góc độ văn học, việc nghiên cứu câu đố nói chung khá phong phú (khoảng 40 công trình) nhưng các tác giả chủ yếu đi vào sưu tầm, biên soạn lại câu đố Việt Nam (11 công trình) và chú trọng bàn về nội dung hay đối tượng phản ánh. Bên cạnh đó, còn có một số công trình nghiên cứu câu đố cho những đối tượng cụ thể. 1.1.1.2. Nghiên cứu câu đố cho những đối tượng cụ thể Tác giả Đinh Thị Thu Hương [70] trong luận văn thạc sĩ Câu đố Việt – Tày những tương đồng và khác biệt đã chỉ ra các điểm giống và khác nhau giữa câu đố của người Việt – người Tày. Qua việc so sánh câu đố của người Việt và người Tày về các phương diện (thế giới vật đố, cách thức tư duy cũng như thể thơ, cách gieo vần); tác giả luận văn đã khám phá những điểm tương đồng, khác biệt về văn hoá, phong tục, đời sống kinh tế, xã hội của hai dân tộc Việt - Tày; giải mã và khám phá những bản sắc trong nền văn hoá của hai dân tộc, nhờ chìa khóa là câu đố. Nguyễn Thị Hường [71], trong luận văn tốt nghiệp đại học năm 2008 đã tìm hiểu Không gian làng quê trong thế giới hình ảnh vật đố của câu đố người Việt. Ở luận văn này, sau khi tìm hiểu vài nét khái quát về câu đố và vấn đề khảo sát các hình ảnh thuộc không gian làng quê xuất hiện trong thế giới hình ảnh vật đố; tác giả đã nghiên cứu không gian làng quê Việt Nam và một số đặc điểm nghệ thuật của câu đố; qua đó giúp người đọc thấy được đời sống lao động, sinh hoạt, những quan niệm, tâm tư, tình cảm của con người thời điểm thể loại này ra đời, từ đó có cái nhìn khái quát về hình ảnh làng quê Việt Nam mọi thuở.
  14. 9 Trần Thị Lan (1996) [77] tìm hiểu Một số vấn đề về bản chất thể loại câu đố Việt Nam với trẻ em. Theo tác giả, đề tài của câu đố luôn là “sự vật, hiện tượng cụ thể, quen thuộc của thế giới xung quanh, những cái nhìn mà con người ta có thể cảm nhận trực tiếp bằng giác quan" [77; 20]. Điểm đóng góp riêng của luận văn này là sau khi hệ thống lại một số vấn đề về bản chất thể loại câu đố (đặc trưng thi pháp thể loại câu đố đặc biệt là phương pháp ẩn dụ, phân loại câu đố; một vài suy nghĩ về sự hình thành câu đố… để làm rõ cái chung và cái riêng của câu đố so với các thể loại khác trong tổng thể văn học dân gian); tác giả đã đi sâu tìm hiểu sự gặp gỡ giữa thể loại này với trẻ em, tìm hiểu sự phát triển của thể loại câu đố từ câu đố cổ truyền đến câu đố hiện đại: sự biến đổi sâu sắc của thể loại này trên nhiều bình diện: mục đích sáng tác, đối tượng tiếp nhận, phương pháp quan sát, phương pháp miêu tả vật đố, hình thức đố. Dựa trên đặc điểm tâm sinh lí trẻ em ở lứa tuổi mẫu giáo – tiểu học với việc tiếp nhận câu đố, chương trình và phương pháp dạy câu đố hiện nay; tác giả cũng đã đưa ra một số đề xuất về chương trình và cách dạy. Như vậy, tác giả luận văn đã nghiên cứu về bản chất thể loại của câu đố trong việc ứng dụng với đối tượng cụ thể (trẻ em). Đặng Thị Mân [88] khi nghiên cứu Câu đố và vai trò của câu đố trong góp phần phát triển tư duy của học sinh tiểu học, đã trình bày khái quát chung về câu đố (khái niệm, nguồn gốc, nội dung và đặc trưng cơ bản); đồng thời chỉ ra vai trò của câu đố trong việc phát triển tư duy gắn với đối tượng cụ thể - học sinh tiểu học. Ngoài ra, có thể kể đến một số luận văn tìm hiểu nghệ thuật câu đố đặt trong việc dạy – học thể loại văn học dân gian này như: Nghệ thuật câu đố Việt Nam và việc dạy – học câu đố ở tiểu học của Đinh Thị Phương [100], Nghệ thuật câu đố về loài vật của Nguyễn Thu Hồng [57]... hay một số bài viết của các tác giả như: Nguyễn Văn Tứ trong “Câu đố chữ và việc dạy tiếng” Ngôn ngữ và đời sống, số 5 (13) đã nói về cơ chế đố chữ (chữ quốc ngữ), cách phân loại đố chữ; Nguyễn Bá Lương trong “Câu đố dân gian Việt Nam tài và hóm” Ngôn ngữ và đời sống, số 5 (104) bàn về cái tái tạo ra nụ cười sảng khoái trong câu đố dân gian Việt Nam…. Nhìn chung, dưới góc độ văn học, câu đố đã được tìm hiểu khá toàn diện và hệ thống. Giới nghiên cứu đã dành nhiều công sức tìm tòi, nhận diện (từ khái niệm, đặc trưng bản chất thể loại, nguồn gốc, chức năng cho đến môi trường sản sinh, môi trường diễn xướng… trong cái nhìn so sánh với các thể loại văn học dân gian khác) hay gắn nó với đối tượng cụ thể; song họ chưa quan tâm nhiều đến góc độ ngôn ngữ.
  15. 10 1.1.2. Công trình nghiên cứu câu đố dưới góc độ ngôn ngữ học Là một thể loại văn học dân gian đặc sắc, câu đố không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu dân gian, các nhà văn hóa học, dân tộc học… mà nó còn có sức hấp dẫn lớn với các nhà ngôn ngữ học. Song những công trình nghiên cứu câu đố ở bình diện ngôn ngữ học chưa nhiều. 1.1.2.1. Nghiên cứu các biện pháp tu từ trong câu đố Có thể kể đến một số bài viết nhỏ, xuất hiện lẻ tẻ trên các tạp chí chuyên ngành như: Nguyễn Tấn Phát [96] trên Tạp chí Văn học số 2 – 1986 trong bài “Câu đố sưu tầm ở Nam bộ và vấn đè bản chất thể loại của sáng tác truyền miệng dân gian” đã đưa ra những nhận xét ban đầu, khá tinh tế về câu đố được sưu tầm ở Nam Bộ. Theo tác giả, câu đố miền Nam khác câu đố miền Bắc ở đối tượng phản ánh, dạng thức cấu tạo, cách suy luận, đặc biệt là ở “cách sử dụng từ ngữ, cách láy âm, láy chữ, sử dụng từ ngữ thoải mái hơn, láy âm, láy chữ tươi sáng, sống động” [96, tr. 56]. Trên cơ sở chỉ ra điểm thống nhất chung và các sắc thái địa phương đậm đà của câu đố Nam Bộ, tác giả đã khẳng định những giá trị của câu đố Nam Bộ. Đỗ Bình Trị [118] với phần viết về câu đố gồm 35 trang (164 -189), bàn về đặc điểm thi pháp của câu đố, chủ yếu chú ý về kết cấu của ẩn dụ trong câu đố. Triều Nguyên [93] trong bài Vấn đề ẩn dụ trong câu đố đã khẳng định ẩn dụ trong câu đố phân biệt với ẩn dụ trong văn học nghệ thuật, trong các phong cách ngôn ngữ nói chung; sau khi tổng hợp, phân tích, chỉ ra sự bất ổn trong các quan niệm về ẩn dụ trong câu đố của Chu Xuân Diên, Hoàng Tiến Tựu, Đỗ Bình Trị (vì các tác giả này đều quy biện pháp tu từ: so sánh, nhân hóa (hay vật hóa),… các lối nói cùng nghĩa (hay gần nghĩa), cùng trường nghĩa và cả lối chơi chữ về ẩn dụ). Tác giả bài viết cũng chỉ ra rằng: “Câu đố nhìn tổng thể thì ra một vật kì dị, thậm chí quái đản… nhưng từng bộ phận hợp thành nó thì lại là những hình ảnh sự vật, hiện tượng thân quen với người lao động” [93, tr. 32]. Một số bài viết của Đỗ Thành Dương [29], [30], [31] trên Tạp chí Ngôn ngữ, tập san Ngữ học trẻ đề cập tới ba loại thủ pháp chơi chữ trong câu đố: hiện tượng đồng âm, hiện tượng đồng nghĩa (đồng nghĩa trực tiếp, đồng nghĩa gián tiếp) và hiện tượng nói lái trong câu đố của người Việt. Trong bài “Nói lái trong câu đố tiếng Việt” - Ngôn ngữ và đời sống, số 9 (17), tác giả đã đề cập đến cách sử dụng biện pháp nói lái trong câu đố và tác dụng của nó.
  16. 11 Hay Nguyễn Thị Lê Vân [120] trong luận văn của mình cũng đã tìm hiểu Một số biện pháp tu từ trong câu đố dân gian Việt, trong đó giá trị của biện pháp so sánh, ẩn dụ, chơi chữ... đã được khẳng định. Trong Đề tài NCKH cấp trường – Nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt, Trương Chí Hùng [59] đã tập trung nghiên cứu nghệ thuật chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt: Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm và chữ viết,; chơi chữ bằng phương tiện từ vựng, ngữ nghĩa; chơi chữ bằng phương tiện ngữ pháp; chơi chữ bằng nói lái; chơi chữ dựa vào cứ liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học dân gian, cứ liệu văn chương bác học), để thấy được chơi chữ trong câu đố dân gian người Việt vận dụng hầu hết các tiềm năng ngôn ngữ đồng thời vận dụng linh hoạt các phương thức chơi chữ dựa vào cứ liệu ngoài văn bản (cứ liệu văn học). Trên cơ sở đó, tác giả đã tiến hành so sánh với chơi chữ trong ca dao dân ca và trong văn học viết. 1.1.2.2. Nghiên cứu ngữ nghĩa của câu đố Phạm Văn Tình [113] trong Thông báo văn hóa dân gian, 2003, NXB Khoa học Xã hội cũng đã chỉ ra Hiện tượng đồng dạng khác nghĩa và đồng nghĩa khác dạng của câu đố. Tác giả bài viết đã chỉ ra điểm thú vị trong câu đố đó là nhiều câu đố về những sự vật, hiện tượng khác nhau lại có cấu trúc giống nhau (đồng dạng khác nghĩa) và ngược lại có nhiều câu đố có cấu tạo khác nhau được dùng để đố về cùng một sự vật, hiện tượng (đồng nghĩa khá dạng). Đây cũng là những gợi ý để chúng tôi tìm hiểu một số mô hình cấu trúc đồng dạng trong câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. Võ Thị Kim Xoa [127] trong luận văn Câu đố dân gian của người Việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, đã nghiên cứu câu đố theo lý thuyết từ vựng học. Tác giả đã tìm hiểu hình thức cũng như các phương thức xây dựng, các hiện tượng từ vựng ngữ nghĩa khi xây dựng câu đố; từ đó giúp người đọc hiểu chính xác hơn ý nghĩa ẩn đằng sau nó. Tác giả luận văn cũng đã chỉ ra rằng nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, câu đố có thể được hình thành dựa vào chức năng của từ (chức năng miêu tả, chức năng dụng học, chức năng phát ngôn, chức năng cú học), các thành phần nghĩa của từ (nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa biểu thái); hay hiện tượng nhiều nghĩa, chuyển nghĩa của từ.
  17. 12 1.1.2.3. Nghiên cứu ngữ dụng của câu đố Ngoài ra, trong những năm gần đây, đã có một số bài viết, luận văn tìm hiểu câu đố dưới góc độ Ngữ dụng học. Tiêu biểu như bài viết Biểu thức miêu tả chiếu vật trong ngữ dụng học với câu đố Việt Nam của Bùi Minh Toán [115] trên tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 4, 2011 (1 – 5). Đỗ Quyên [102] trong bài Thử tìm hiểu về tiền giả định bách khoa trong câu đố Việt đã đề cập tới các loại tiền giả định bách khoa cùa câu đố Việt với 7 loại tri thức nền: phương ngữ, về con vật, đồ vật, cây cói gần gũi quen thuộc với người nông dân [102, tr.9], về sinh hoạt và những công việc lao động quen thuộc của người nông dân [36,10], về các tập tục nói chung [102, tr.10], về cuộc đời con người [102, tr.10], về các thủ pháp sử dụng trong sáng tác câu đố [102 , tr.11] và các tiền già định bách khoa khác: chữ Hán, các vị thuốc, cuộc sống [102 , tr.12]. Từ đó, tác giả bài viết cũng đặt ra yêu cầu muốn nhận thức đúng về giá trị của thể loại này, cần xuất phát từ những hiểu biết về phong tục, tập quán, nếp ăn ở, sinh hoạt, suy nghĩ của con người ở thời điểm ra đời của nó; đồng thời phải tăng cường vốn tri thức về những vật đố được sử dụng trong câu đố Việt cho người giải. Song giới hạn một bài viết 5 trang và sự khảo sát bước đầu trên phạm vi ngữ liệu hơn 200 câu đố, tác giả chưa cho người đọc có một cái nhìn hệ thống, toàn diện và họp lý về tiền giả định bách khoa trong câu đố của người Việt. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các tiền giả định ngôn ngữ - một nửa căn cứ để hiểu nghĩa tường minh của phát ngôn vẫn còn là một hướng đi để ngỏ. Tô Thị Phương Dung [28] trong luận văn Tiền giả định trong câu đố người Việt đã tìm hiểu tiền giả định bách khoa và tiền giả định ngôn ngữ trong câu đố của người Việt. Theo tác giả, tiền giả định bách khoa được phân loại thành 5 loại: tiền giả định bách khoa về tự nhiên; tiền giả định bách khoa về con người; tiền giả định bách khoa về văn hóa - xã hội; tiền giả định bách khoa về phương ngữ; tiền giả định bách khoa liên quan đến hiểu biết về từ Hán - Việt. Còn tiền giả định ngôn ngữ gồm tiền giả định từ vựng, tiền giả định cú pháp và tiền giả định đề tài. Dù xuất hiện ít hơn nhưng loại tiền giả định này rất hữu hiệu trong Ị việc giúp người giải thu hẹp được phạm vi vật đố. Bùi Thị Thu Huyền [69] trong Câu đố dân gian của người Việt nhìn từ góc độ ngôn ngữ học, đã nghiên cứu Câu đố dân gian người Việt nhìn từ bình diện hình
  18. 13 thức. Theo tác giả: xét theo thể loại văn bản, câu đố có dạng thơ và dạng lời nói thông thường; xét theo lý thuyết cấu trúc hội thoại, câu đố có dạng một cặp trao – đáp và dạng đoạn thoại; còn xét theo lý thuyết lập luận, lại có câu đố có luận cứ tường minh và câu đố có kết luận hàm ẩn, câu đố có kết luận tường minh và câu đố có luận cứ hàm ẩn. Ngoài ra, người viết còn đề cập đến số lượng luận cứ, kết luận trong một lập luận; hiện tượng luận cứ đồng hướng lập luận trong câu đố; vai trò của luận cứ trọng tâm trong lời đố có môtip giống nhau), đồng thời chỉ ra một số căn cứ (căn cứ vào tri thức ngôn ngữ và tri thức về cuộc sống, căn cứ vào các tri thức nền khác) và phương thức xây dựng câu đố dân gian người Việt (phương thức đánh lạc hướng chiếu vật, phương thức thay thế - bổ sung)… Nguyễn Thị Chiên [21] trong luận văn Biểu thức miêu tả chiếu vật trong câu đố Việt Nam đã nêu ra các đặc điểm (đặc điểm hình thức, đặc điểm nội dung, một số thủ pháp xây dựng biểu thức miêu tả chiếu vật) của biểu thức miêu tả chiếu vật; đồng thời thấy được vai trò, chức năng của biểu thức này trong việc lập mã và giải mã. Tác giả luận văn đã chỉ ra rằng: Về mặt hình thức, biểu thức miêu tả chiếu vật trong câu đố có thể là danh từ hay một hoặc một số miêu tả tố về vật đố. Câu đố có nhiều dạng biểu thức miêu tả chiếu vật là một cụm từ, một câu hay một văn bản. Có thể là lời nói thông thường hoặc một văn bản vần. Và có khi là một dạng nghi vấn hoặc một dạng trần thuật. Về bình diện nội dung, do tính chất của đối tượng được phản ánh, câu đố chứa đựng giá trị nhận thức sâu sắc. Nội dung biểu hiện của các miêu tả tố rất đa dạng: nêu hình dáng bên ngoài, nêu vị trí và trạng thái tồn tại của vật quy chiếu, nêu hoạt động, chức năng tác dụng của vật quy chiếu…. Nó được miêu tả trực tiếp hay bằng thủ pháp chơi chữ, thủ pháp đánh lạc hướng chiếu vật…. Cái hay của biểu thức miêu tả chiếu vật trong câu đố chính là nghệ thuật mã hóa. Câu đố ký mã bằng sự vật này sang sự vật kia, làm thế nào để vật được ký mã ấy giống với đối tượng được đố mà vẫn không bị lộ vật đố. Hay dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, với Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn Bước đầu tìm hiểu cách tri nhận thế giới của người Việt (trên ngữ liệu câu đố) - Nguyễn Thị Thanh Huyền [68] trên cơ sở khảo sát, phân tích các đặc điểm được chọn làm cơ sở định danh của câu đố về động vật, thực vật; đặc điểm tư duy liên tưởng của người Việt trong khi miêu tả về các loài động vật, thực vật trong câu đố; đã có những so
  19. 14 sánh về những điểm tương đồng và khác biệt trong cách thức sáng tạo câu đố động vật, thực vật của người dân lao động. Từ đó, tác giả luận văn đã đi đến kết luận về vật đố, cách quan sát và miêu tả đối tượng, đồng thời rút ra những nhận xét bước đầu về cách tri nhận thế giới của người Việt trong câu đố động vật, thực vật. Đó là óc sáng tạo, trí tưởng tượng và cách nhìn hóm hỉnh, lạc quan về thế giới…. Lý Toàn Thắng và Nguyễn Thị Thanh Huyền [107] trong bài viết “Thử tìm hiểu cách thức tri nhận thế giới của người Việt” (trên ngữ liệu câu đố về động vật) cũng đã chỉ ra 22 tiêu chí được sử dụng như là cơ sở định danh cho các con vật, với các mức độ khác nhau (cấu tạo cơ thể; hình thức và hình dạng; môi trường sống; tập tính, lối sống; vai trò chức năng và mối quan hệ với con người; kích cỡ cơ thể; cách thức di chuyển; màu sắc cơ thể; tiếng kêu; tên gọi; cách thức kiếm mồi và thức ăn; sinh trưởng, sinh dục; nguồn gốc; phản ứng (trước tác động của môi trường, tự nhiên, con người và loài vật khác); số lượng; mối quan hệ với loài vật khác; tính tình; bản năng sinh vật học; giống; vị trí; trí khôn; mùi). Các đặc điểm này hầu hết được sử dụng kết hợp với nhau, và càng có nhiều đặc điểm trong cùng một câu đố thì bức tranh về con vật càng rõ ràng, chi tiết và cụ thể hơn. Ngoài ra việc sử dụng tục ngữ, ca dao hoặc truyện cổ, truyện Kiều để tạo lời đố cũng được đề cập đến trong bài viết. Các tác giả cũng chỉ ra chín cách thức liên tưởng, so sánh của người Việt trong câu đố động vật: So sánh dựa trên sự giống nhau về hình thức; so sánh dựa trên sự giống nhau về kích cỡ; so sánh đặc điểm cấu tạo cơ thể; so sánh dựa trên sự giống nhau về màu sắc; so sánh đặc điểm tiếng kêu; so sánh đặc điểm số lượng; so sánh đặc điểm về giống; so sánh đặc điểm môi trường sống; so sánh đặc điểm về cách thức di chuyển. Từ đó, nhóm tác giả bài viết chỉ ra xu hướng quan sát, mô tả, cách nhìn vật đố của người Việt. Như vậy, cho đến nay, nghiên cứu câu đố có khá nhiều nhưng chủ yếu là khai thác từ góc độ văn học, văn hóa dân gian, folklore và thường nặng về sưu tầm. Tuy đưa ra nhận xét song đó chỉ là những gợi ý đối với người đọc. Nghiên cứu hệ thống thể loại này dưới góc độ ngôn ngữ học chưa được khai thác triệt để. Vì trước đó, có một số công trình Việt ngữ học nhưng lẻ tẻ (tìm hiểu hiện tượng đồng dạng khác nghĩa, chơi chữ…) hay luận văn phân tích một phương diện nào đó (phương diện
  20. 15 tiền giả định, biểu thức chiếu vật, cách thức tri nhận, một số biện pháp tu từ…) dựa trên một số câu đố tiêu biểu. Về mặt cấu trúc hình thức, đã có một số bài viết về cấu trúc đồng dạng, nghệ thuật chơi chữ; các dạng câu đố (xét theo thể loại văn bản: dạng thơ và dạng lời nói và theo cấu trúc hội thoại: dạng một cặp trao – đáp và dạng đoạn thoại) … nhưng chưa có công trình nào tìm hiểu đặc điểm cấu trúc câu đố với tư cách một văn bản. Về mặt nghĩa, một số luận án đã tìm hiểu biểu hiện cụ thể của câu đố (Không gian làng quê trong câu đố, biểu thức miêu tả chiếu vật, tiền giả định…) nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu hệ thống đề tài được phản ánh và cách thức triển khai trong văn bản câu đố về động thực vật; các đặc điểm được chọn làm miêu tả tố và phương thức miêu tả. Về mặt lập luận, đã có tác giả đề cập đến luận cứ, kết luận trong một lập luận; hiện tượng luận cứ đồng hướng lập luận, một số căn cứ và phương thức xây dựng câu đố dân gian người Việt nhưng cũng chưa có công trình nào tìm hiểu các thành phần lập luận, cấu trúc lập luận và cơ sở lập luận của câu đố về động thực vật trong tiếng Việt. Như vậy, đến nay câu đố đã thu hút sự quan tâm của không ít nhà nghiên cứu, song chưa có tác giả nào bao quát hết được tổng thể các mặt biểu hiện của câu đố (cấu trúc - ngữ nghĩa, lập luận) với tư cách một văn bản hoàn chỉnh, một văn bản đặc biệt và cũng chưa có công trình nào chỉ ra được cơ chế giải mã câu đố (dựa vào hình thức và nội dung của nó). 1.2. Cơ sở lí luận Do đối tượng nghiên cứu của luận án là câu đố về động thực vật trong tiếng Việt nên cần thiết phải có kiến thức nền về câu đố và đặc điểm của nó. 1.2.1. Câu đố và đặc điểm của câu đố Tìm hiểu câu đố và đặc điểm của câu đố, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu khái niệm, đặc trưng, chức năng của nó. 1.2.1.1. Khái niệm Xếp vào lĩnh vực “sự bắt chước có tính nghệ thuật” (dẫn theo [95, tr. 244]), từ xưa, Aritstôt đã định nghĩa “Câu đố là một kiểu ẩn dụ hay” (dẫn theo [95, tr. 244]) và
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0