intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

Chia sẻ: ViJenlice ViJenlice | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:242

43
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án trình bày việc nhận diện và làm rõ thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng, luận án chỉ ra và phân tích một số đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao nhận thức, đồng thời cho thấy sức sống bền bỉ về mặt thời gian và những ảnh hưởng về mặt không gian của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, từ đó đưa ra khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Tôn giáo học: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH TÔN GIÁO HỌC Mã số: 62 22 03 09 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS,TS ĐỖ LAN HIỀN 2. TS. TẠ QUỐC KHÁNH HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Đỗ Thị Thanh Hương
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 8 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8 1.2. Những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến luận án 23 Chương 2: NHẬN DIỆN TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 31 2.1. Điều kiện hình thành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ 31 2.2. Đối tượng thờ cúng 55 2.3. Cơ sở thờ tự Tứ vị Thánh tổ 62 Chương 3: THỰC TRẠNG TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ Ở MỘT SỐ NGÔI CHÙA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG 69 3.1. Niềm tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ 69 3.2. Thực hành nghi lễ đối với Tứ vị Thánh tổ 79 3.3. Những biến đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay 97 Chương 4: ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA TÍN NGƯỠNG TỨ VỊ THÁNH TỔ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY 115 4.1. Một vài đặc điểm của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ 115 4.2. Vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay 130 4.3. Một số khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay 142 KẾT LUẬN 150 DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 154 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 155 PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết thường (AL) Âm lịch BBPV Biên bản phỏng vấn NCS Nghiên cứu sinh GS Giáo sư NXB Nhà xuất bản PGS Phó giáo sư TS Tiến sĩ Tr Trang UBND Uỷ ban nhân dân
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Trang 3.1. Mức độ tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ 72 3.2. Mức độ tin của người dân vào sự phù hộ độ trì của Tứ vị Thánh tổ 73 3.3. Tự thừa nhận của người dân vào sự linh thiêng và đã chứng nghiệm 74 3.4. So sánh tỷ lệ giới chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ 74 3.5. So sánh tỷ lệ độ tuổi chứng nghiệm sự linh thiêng của Tứ vị Thánh tổ 75 3.6. Tần xuất đi lễ Thánh của người dân 79 3.7. Về nghề nghiệp của cá nhân thực hành nghi lễ 89 3.8. Về độ tuổi của cá nhân thực hành nghi lễ 90 3.9. Đánh giá về tình hình an ninh trật tự và vệ sinh môi trường 106 4.1. Vị trí của Tứ vị Thánh tổ trong đời sống tín ngưỡng của người dân 135
  7. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Trang 3.1. Tỷ lệ người dân biết và không biết về Tứ vị Thánh tổ 71 3.2. Mức độ tin của người dân vào Tứ vị Thánh tổ 73 3.3. Mục đích của cá nhân thực hành nghi lễ 94 3.4. Cảm xúc của cá nhân sau khi thực hành nghi lễ 96
  8. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn nghiên cứu Tứ vị Thánh tổ là bốn vị thiền sư danh tiếng của Phật giáo Việt Nam thời Lý, gồm Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không, tu hành đắc đạo, tinh thông ngũ phương, có thể hàng long, phục hổ, hô phong, hoán vũ, cầu đảo, chữa bệnh,…, sau khi viên tịch các vị được nhân dân kính ngưỡng, thờ phụng, tôn xưng thành bậc Thánh trong đời sống tín ngưỡng của người dân tại nhiều địa phương vùng đồng bằng sông Hồng. Việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ đã hình thành từ lâu diễn ra ở nhiều loại hình cơ sở thờ tự như Đình, Đền, Chùa, tương ứng với mỗi loại hình đó các vị được tôn thờ là Thành Hoàng, Thần và Thánh. Trong đó, việc thờ các vị ở chùa và tôn vinh thành bậc Thánh là phổ biến, tạo nên mô hình chùa "tiền Phật, hậu Thánh", có nhiều giá trị về lịch sử, văn hoá, mang đậm giá trị bản sắc văn hoá dân tộc. Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ được tích hợp và tiếp biến bởi các yếu tố Mật giáo trong Phật giáo và Tín ngưỡng dân gian, phong tục, lễ nghi truyền thống, đây là nét tiêu biểu trong đời sống tâm linh của người Việt. Trải qua thời gian và biến thiên của lịch sử, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ vẫn được duy trì, khẳng định vị trí trong đời sống tinh thần của người dân và có một vị trí riêng trong kho tàng tín ngưỡng của người Việt, tạo nên những sinh hoạt văn hoá dân gian đặc sắc. Những ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ luôn có sức hấp dẫn, thu hút đông đảo người dân đến tham quan, chiêm bái, thực hành nghi lễ, cầu xin sự gia hộ của các vị Thánh và tin tưởng rằng các Thánh sẽ ban sức khoẻ, bình an, tài, lộc và những điều may mắn, nâng đỡ, hỗ trợ họ vượt qua những bất trắc, khó khăn trong cuộc sống. Nếu như trước đây, việc thực hành tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ chỉ bó hẹp trong cộng đồng làng xã, đến nay nhờ sự phát triển nhiều mặt của kinh tế - xã hội và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với tín ngưỡng, tôn giáo, tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông qua lễ hội truyền thống đã vượt khỏi quy mô của làng, xã, mở rộng phạm vi ra liên làng, liên xã, thậm chí mở rộng ra cả vùng đồng bằng sông Hồng. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, việc bảo tồn và phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng để giữ gìn văn hoá Việt, tìm hiểu tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ có tác dụng làm rõ hơn tính đặc sắc của một loại hình văn hoá. Tuy nhiên nghiên cứu, tìm hiểu về loại hình này mới chỉ được quan tâm trong khoảng hai chục năm trở lại đây, các đề tài nghiên cứu được tiếp cận dưới góc độ sử học, văn hoá học, khảo cổ học, dân tộc học, chủ yếu đề cập đến cơ sở thờ tự, lễ hội tín ngưỡng của cộng đồng như là loại hình văn hóa dân gian, chưa có công trình nghiên cứu tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ đi sâu tìm
  9. 2 hiểu ở khía cạnh về tín ngưỡng, tôn giáo. Để bổ sung cho khoảng trống trong nghiên cứu, luận án tiếp cận tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ dưới góc độ tôn giáo học, nhằm nhận diện, đánh giá thực trạng trên ba yếu tố là niềm tin, thực hành và những biến đổi của tín ngưỡng, từ đó phân tích đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay, để có cơ sở bảo tồn, phát huy giá trị của tín ngưỡng độc đáo này trong kho tàng văn hóa Việt. Đây là việc làm cần thiết để mở ra góc nhìn mới trong nghiên cứu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Với những lý do trên, nghiên cứu sinh (NCS) lựa chọn đề tài "Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay" làm luận án tiến sĩ chuyên ngành tôn giáo học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Nhận diện và làm rõ thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng, luận án chỉ ra và phân tích một số đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội, góp phần nâng cao nhận thức, đồng thời cho thấy sức sống bền bỉ về mặt thời gian và những ảnh hưởng về mặt không gian của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, từ đó đưa ra khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Thứ nhất, nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua các yếu tố hình thành, đối tượng thờ cúng, cơ sở thờ tự. Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua các yếu tố niềm tin, thực hành và những biến đổi của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay. Thứ ba, luận án nêu, phân tích đặc điểm, vai trò và đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ xuất hiện từ thời Lý. Sau khi các vị sư Từ Đạo Hạnh, Dương Không Lộ, Nguyễn Giác Hải, Nguyễn Minh Không viên tịch, được triều đình và nhân dân đèn nhang, thờ phụng và tôn vinh thành các vị Thánh, đã hình thành nên một dòng tín ngưỡng riêng biệt với không gian thiêng ở vùng đồng bằng sông Hồng, với thời gian thiêng gần mười thế kỷ, từ thời Lý đến
  10. 3 tận ngày nay. Vì thế, luận án không nhằm mục đích chứng minh có một loại hình tín ngưỡng riêng biệt là tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ mà luận án nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ qua điều kiện hình thành, hành trạng của các Thánh, một số ngôi chùa thờ Thánh tiêu biểu và thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở một số ngôi chùa vùng đồng bằng sông Hồng, trên cơ sở đó chỉ ra đặc điểm, vai trò, đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong đời sống xã hội hiện nay. - Về không gian: Qua khảo sát ban đầu cho thấy, có hơn 50 ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ rải rác khắp vùng đồng bằng sông Hồng (có chùa thờ 1 vị có chùa thờ hai vị, có chùa thờ 3 vị và hiện chưa khảo sát được có ngôi chùa nào thờ cả 4 vị, xem phụ lục số 1). Tuy nhiên, luận án tập trung nghiên cứu ở một số ngôi chùa đặc trưng và mang tính đại diện như: Chùa Thầy, chùa Láng (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Keo Hành Thiện, chùa Cổ Lễ, chùa Nghĩa Xá (Nam Định). Ngoài ra, luận án mở rộng tìm hiểu một số ngôi chùa khác thờ Tứ vị Thánh tổ để làm luận cứ so sánh như chùa Đại Bi, chùa Tây Lạc, chùa Lương Hàn (Nam Định), chùa Di Nậu, chùa Tổng, chùa Đồng Bụt (Hà Nội), chùa Ông (Hưng Yên),… Căn cứ lựa chọn không gian nghiên cứu: Thứ nhất, trong sáu ngôi chùa lựa chọn nghiên cứu chính có ba ngôi chùa được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, các ngôi chùa còn lại đều được xếp hạng di tích quốc gia hoặc di tích lịch sử văn hoá, có nhiều giá trị về mặt lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật và tâm linh. Thứ hai, các ngôi chùa trong đối tượng nghiên cứu đảm bảo tính đặc thù về mặt tín ngưỡng: Tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ tồn tại trên khắp vùng đồng bằng sông Hồng, nhưng vùng trung tâm của tín ngưỡng tập trung ở bốn tỉnh Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình. Kết quả khảo sát thực địa cho thấy việc thờ phụng Tứ vị Thánh tổ mang tính riêng rẽ, mỗi vị Thánh có vị trí đặc biệt riêng đối với người dân của từng địa phương, nếu tiếp cận theo không gian văn hoá, hình thành "vùng trung tâm" và "vùng lan toả", mỗi vị Thánh có mối quan hệ riêng với không gian văn hoá của từng vùng: Từ Đạo Hạnh được thờ ở nhiều ngôi chùa ở Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định nhưng vùng trung tâm thờ Từ Đạo Hạnh là Hà Nội và việc thờ vị Thánh này được quy tụ ở hai ngôi chùa nổi tiếng là chùa Thầy và chùa Láng, vào mùa xuân hàng năm nơi đây trở thành vùng lễ hội thờ Thánh Từ Đạo Hạnh. Dương Không Lộ được thờ ở nhiều ngôi chùa ở các tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, nhưng vùng trung tâm thờ Dương Không Lộ là Thái Bình và Nam Định (trước đây là vùng Trấn Sơn Nam Hạ), việc thờ tự vị Thánh này được quy tụ về hai ngôi chùa nổi tiếng chùa Keo Thái Bình và chùa Keo Hành Thiện Nam Định. Nguyễn Giác
  11. 4 Hải được phối thờ cùng hai vị Thánh Từ Đạo Hạnh và Không Lộ tại nhiều ngôi chùa ở các tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, nhưng vùng trung tâm thờ Thánh thuộc về tỉnh Nam Định, ngôi chùa Nghĩa Xá là ngôi chùa đại diện cho việc thờ Thánh Nguyễn Giác Hải, đây là nơi Thánh tu hành và thành đạo. Thánh Nguyễn Minh Không được thờ ở nhiều ngôi chùa trên địa bàn khắp các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng như Bắc Giang, Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hải Dương nhưng vùng trung tâm thờ Thánh thuộc về hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình, ngôi chùa Cổ Lễ (Nam Định) đại diện cho các ngôi chùa thờ Thánh Nguyễn Minh Không. Thứ ba, các ngôi chùa nằm trong đối tượng nghiên cứu đảm bảo bao quát không gian ở các vị trí khác nhau của vùng đồng bằng sông Hồng. Như đã trình bày ở trên, hiện có hơn 50 ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ nằm rải rác khắp vùng đồng bằng sông Hồng, tập trung chủ yếu ở các tỉnh Hà Nội, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. Với địa bàn phân bố nêu trên, việc lựa chọn các ngôi chùa ở các vị trí khác nhau tạo cơ hội cho luận án đưa ra những nhận xét mang tính khách quan. Mặc dù ở các địa bàn khác nhau nhưng sinh hoạt tín ngưỡng đều liên quan tới Tứ vị Thánh tổ, có điểm chung về thờ Thánh và ở mỗi cơ sở thờ tự có nét riêng trong biểu hiện. Việc lựa chọn vị trí nghiên cứu cũng góp phần làm rõ mối quan hệ giữa tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ với môi trường địa lý và xã hội. Chính vì lẽ đó, luận án sẽ tiến hành nghiên cứu sâu ở những ngôi chùa như đã trình bày ở trên. - Về thời gian: Luận án chú trọng tìm hiểu những sinh hoạt tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ từ năm 2003 đến nay (Mốc năm 2003, Nghị quyết số 25/NQ-TW của Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo, đánh dấu thêm một bước đổi mới trong tư duy nhận thức về tín ngưỡng tôn giáo). 4. Phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê`nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam về tín ngưỡng, tôn giáo và vai trò của tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống xã hội. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng xã hội phức tạp, thể hiện ở tính đa dạng, đa diện và đa chức năng, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội, vì thế đối với nghiên cứu tôn giáo không thể dùng một loại phương pháp nghiên cứu riêng biệt nào, mà cần phải được nghiên cứu bằng hệ thống những phương pháp. Vì thế, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, cụ thể: - Phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống: Đây là phương pháp cơ bản và quan trọng được sử dụng phổ biến trong hầu hết các nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong trường hợp khi đối tượng nghiên cứu có mối quan hệ đa chiều
  12. 5 với môi trường xung quanh và có những biến đổi theo không gian và thời gian. Luận án sử dụng phương pháp này nhằm đưa ra bức tranh tổng quát, hệ thống về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Ngoài ra, tính hệ thống còn được thể hiện ở việc kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình trước đây có liên quan được đề cập ở chương Tổng quan. - Phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học (quan sát, tham dự, phỏng vấn, điều tra bảng hỏi): Phương pháp này được sử dụng nhằm tiếp cận thêm một bước với không gian tín ngưỡng, tôn giáo với những ghi chép, khảo tả, thu thập thông tin từ các địa bàn. Trong quá trình quan sát, tham dự, NCS tiến hành gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn người dân đến thực hành nghi lễ tại các cơ sở thờ tự, các vị sư trụ trì, ông Thống, bà Tự những người được cắt cử coi sóc các ngôi chùa mà luận án đề cập. Nội dung phỏng vấn sẽ là nguồn tư liệu định tính hữu ích, giúp nhận diện rõ nét hơn về niềm tin và thực hành tín ngưỡng của người dân vùng đồng bằng sông Hồng. Đồng thời, luận án tổ chức điều tra xã hội học tập trung vào 04 ngôi chùa mang tính đại diện là chùa Thầy (Hà Nội), chùa Keo (Thái Bình), chùa Cổ Lễ (Nam Định) và chùa Nghĩa Xá (Nam Định) với mẫu phiếu dành cho các cá nhân, những người đến lễ Thánh tại các ngôi chùa trên (Xem phụ lục số 4) để đánh giá về niềm tin và những thực hành tín ngưỡng của họ. Phải nói thêm rằng, không gian nghiên cứu là các ngôi chùa ở đó có hai đối tượng thờ là Phật và Thánh, người dân khi đến lễ ở các ngôi chùa này đều thể hiện niềm tin song song, họ không chỉ tin vào Phật mà còn tin vào Thánh. Có một điều rất thú vị, khi nói đến chùa chúng ta đều cho rằng chủ thể chính là Phật và việc thờ Phật là chính yếu và quan trọng nhất, tuy nhiên ở các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ lại có nét đặc sắc riêng, đó là phần thờ Thánh luôn được chú trọng hơn thờ Phật, điều này được thể hiện ở kiến trúc, cách thức bài trí, sắp xếp, bố cục tổng thể của ngôi chùa và các sinh hoạt tâm linh. Tiếp nữa, các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ sau khi các vị viên tịch không có sư trụ trì nên việc đèn hương thờ phụng các Thánh là các ông Thống, bà Tự người làm nghề thầy cúng, họ được dân làng cắt cử trông coi hương khói trong chùa, điều này cũng cho thấy yếu tố thờ Thánh được trọng hơn thờ Phật. Trong giới hạn của đề tài NCS tập trung làm rõ về niềm tin và thực hành của cá nhân người đi lễ đối với vị Thánh được thờ phụng trong chùa, vì thế mẫu phiếu thiết kế các câu hỏi chỉ tập trung vào các vị Thánh được thờ ở các ngôi chùa mà luận án tiến hành khảo sát. Mẫu khảo sát lựa chọn thuận tiện, với tổng số phiếu khảo sát phát ra là 500 thu về là 457 phiếu và được tiến hành tại Điện Thánh nên tương đối khách quan. Từ kết quả thu nhận được, luận án sẽ tổng hợp, phân tích các vấn đề cần nghiên cứu như mô tả về cơ sở thờ tự; làm rõ thực trạng niềm tin của người dân vùng đồng bằng sông Hồng vào Tứ vị Thánh tổ; mô tả, phân tích những thực hành tín ngưỡng của cộng đồng, của cá nhân và những biến đổi hiện nay của tín ngưỡng
  13. 6 Tứ vị Thánh tổ. Những nhận định, đánh giá, kết luận trong luận án đều có cơ sở khoa học. - Phương pháp dân tộc học: Khi tìm hiểu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, NCS còn sử dụng phương pháp dân tộc học, thông qua những chuyến đi thực tế đến các cơ sở thờ tự và tham dự các nghi lễ, lễ hội thờ Tứ vị Thánh tổ, quan sát các hành vi thực hành nghi lễ của cộng đồng, của các cá nhân diễn ra vào thời điểm lễ hội và các thời điểm khác trong năm. Phương pháp dân tộc học giúp NCS tìm hiểu sâu hơn và lý giải về niềm tin và biểu hiện niềm tin thông qua thực hành tín ngưỡng tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ của cộng đồng và của cá nhân những người đến lễ Thánh. - Phương pháp nghiên cứu văn bản: Phương pháp này nhằm sưu tầm, tập hợp và hệ thống các tài liệu đã công bố được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến luận án. Các nghiên cứu đi trước chính là nền tảng khoa học vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn, giúp cung cấp nền tảng lý luận, phương pháp nghiên cứu, kiến thức, quan điểm để NCS thực hiện luận án này. 5. Đóng góp mới của luận án Một là, luận án nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng thông qua các yếu tố hình thành, đối tượng thờ cúng và cơ sở thờ tự. Hai là, luận án vận dụng lý thuyết thực thể tôn giáo để nghiên cứu tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trên hai lõi cấu trúc là niềm tin và thực hành tín ngưỡng, góp phần kiểm chứng mức độ phù hợp của lý thuyết này trong việc nghiên cứu một loại hình tín ngưỡng độc đáo ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ba là, cung cấp thêm các cơ sở dữ liệu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ ở vùng đồng bằng sông Hồng từ năm 2003 đến nay, góp phần nâng cao nhận thức, từ đó có một số khuyến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của tín ngưỡng độc đáo này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận - Luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về điều kiện hình thành và làm rõ thực trạng tín ngưỡng Tứ vị Thánh qua hai thành tố niềm tin và thực hành. - Kết quả nghiên cứu của luận án là một minh chứng cho sự phù hợp của lý thuyết thực thể tôn giáo khi được vận dụng để nghiên cứu một loại hình tín ngưỡng dân gian không đủ các tiêu chí như tôn giáo thể chế. - Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn giá trị văn hoá của dân tộc thông qua việc tìm hiểu về một loại hình tín ngưỡng đó là tín ngưỡng thờ Thánh, ở đây là những nhân vật lịch sử có thật được "thần thánh hóa", một nét đặc trưng trong đời sống tín ngưỡng của người Việt.
  14. 7 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận án làm rõ đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ để các nhà quản lý về tín ngưỡng có thể tham khảo, từ đó xây dựng chính sách văn hoá, chính sách tôn giáo hợp lý, nâng cao và phát huy giá trị của tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ trong điều kiện đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay. - Luận án cũng gợi mở hướng nghiên cứu mới về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ cho các nghiên cứu tiếp theo thuộc các chuyên ngành tôn giáo học, văn hoá học. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, tài liệu nghiên cứu, giảng dạy chuyên ngành tôn giáo học và về tín ngưỡng, tôn giáo nói chung. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
  15. 8 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra trong luận án, việc tổng quan các công trình đã nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ nhằm hiểu rõ những nội dung liên quan đến đề tài mà NCS kế thừa trong luận án và chỉ ra những nội dung chưa được nghiên cứu, luận án cần làm rõ. 1.1.1. Các công trình nghiên cứu nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ 1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về Mật giáo Phật giáo thời Lý Nghiên cứu về Mật giáo Phật giáo thời Lý được thể hiện trong các công trình nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam, dưới góc độ triết học, sử học, phật học, khá phong phú. Trong phần tổng luận này NCS lựa chọn một số nghiên cứu tiêu biểu, mang tính đại diện: Tác phẩm "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của Nguyễn Tài Thư [139], đây là tác phẩm được viết dưới góc độ triết học, mặc dù được viết theo các dữ liệu lịch sử nhưng có tư duy khác biệt và trình bày hệ thống, khoa học về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Chương III của tác phẩm đã khai thác khá toàn diện các dữ liệu lịch sử để làm rõ bức tranh của Phật giáo thời Lý với những đóng góp to lớn cho chính trị và xã hội đương thời. Thời kỳ này thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi phát triển từ thế hệ 11 đến thế hệ 19, trong phương pháp tu tập, hành trì của nhiều nhà sư thể hiện các phép tu Mật giáo, đại diện tiêu biểu là sư Từ Đạo Hạnh, Trì Bát, Minh Không, Thiền Nham, Giới Không, các sư thường thi triển phép thuật thần thông để thuần phục ác thú, cầu đảo, chữa bệnh… Phái Vô Ngôn Thông phát triển từ thế hệ thứ 5 đến thế hệ 15 và cũng chịu ảnh hưởng của Mật giáo tuy không sâu đậm như phái Tì Ni Đa Lưu Chi, tiêu biểu là các nhà sư Không Lộ, Giác Hải, Nguyện Học, Tịnh Giới, các sư chuyên tâm nghiên cứu pháp môn đà la ni, có nhiều phép thuật thần thông như bay trên không, đi dưới nước, cầu mưa cầu nắng, trì chú. Đến đời vua Lý Anh Tông, Lý Cao Tông tính chất Mật tông tăng lên do các vị vua này đều sùng tín yếu tố Mật giáo trong Phật giáo. Tác phẩm "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" của tác giả Lê Mạnh Thát [126], tác giả đã sử dụng phương pháp đối sánh lịch sử để trình bày diễn biến của lịch sử Phật giáo thời Lý thông qua các nhân vật tôn giáo để khắc họa đặc điểm và trường phái cơ bản. Mặc dù tác giả chú trọng đến yếu tố thiền học của cả hai phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông thông qua các nhân vật lịch sử như Vạn Hạnh, Đa Bảo, Định Hương, khẳng định sự gắn bó chặt chẽ giữa Phật giáo và triều đình nhà Lý. Mặc dù không đề cập đến yếu tố Mật giáo ở giai đoạn này một cách rõ nét nhưng
  16. 9 tác giả cũng đã không bỏ qua phương thức tu tập hành trì tam muội và đà la ni đó là những phương thức tu tập của Mật giáo đều xuất hiện ở các hai phái thiền này "Đối với giới xuất gia vẫn diễn ra lễ thọ giới cụ túc, tu các pháp thiền quán và đầu đà, trì các tam muội và đà la ni" [tr.678]. Ngoài ra, yếu tố Mật giáo trong Phật giáo thời Lý được thể hiện trong tác phẩm thông qua việc mô tả, giới thiệu tượng pháp được tôn thờ ở các chùa: "Trước hết là năm đức Như Lai của Mật giáo gồm có Đa Bảo, Bảo Thắng, Diệu Sắc Thân, Quảng Bác Thân và Cam Lồ Vương" [tr.691]. Tác phẩm "Việt Nam Phật giáo sử luận" của tác giả Nguyễn Lang [90], đã đề cập đến Mật giáo trong sinh hoạt tôn giáo của hai phái thiền Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông tại chương V và chương VI, yếu tố Mật giáo được coi là đặc điểm của cả hai phái và khẳng định các vị vua thời Lý đã nhờ tới Mật giáo để được yểm trợ và che chở. Tác giả cũng nêu cụ thể những vị sư sống ở thời Lý chịu ảnh hưởng của Mật giáo như: Đạo Hạnh, Trì Bát, Không Lộ, Giác Hải, Nguyện Học. Tác giả khẳng định: "Mật giáo thịnh hành tại Việt Nam từ những thế kỷ thứ bảy và thứ tám; tuy thiền phái Vô Ngôn Thông cố sức tự bảo vệ không để Mật giáo thâm nhập (Thông Biện chống Đại Điên và Bát Nhã) nhưng vẫn không tránh khỏi ảnh hưởng của giáo lý này. Sự kiện cho ta thấy tầm quan trọng của Mật giáo ở Việt Nam từ ngày Tì Ni Đa Lưu Chi đến Việt Nam qua Đinh, Tiền Lê cho đến cuối Lý" [tr.183-184]. Tác phẩm "Lịch sử đạo Phật Việt Nam" của tác giả Nguyễn Duy Hinh [57], tác giả tiếp cận dưới góc độ lịch sử đã chứng minh từ thế kỷ XI đến XIV là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo. Thông qua các sự kiện lịch sử theo biên niên sử của Đại Việt sử ký toàn thư tác giả đã nêu ra các sự kiện liên quan đến Phật giáo dưới thời nhà Lý, bắt đầu bằng sự kiện Lý Công Uẩn lên ngôi. Tiếp đến, tác giả đi vào nghiên cứu từng sơn môn và từng nhà sư, khẳng định trong hoạt động tôn giáo của một số vị sư mặc dù đều là những thế hệ truyền thừa của hai Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông nhưng lại không thuần túy thiền sư: "Tư tưởng của Đạo Hạnh ảnh hưởng Mật giáo dạng Lạt Ma giáo của Tây Tạng với đầu thai, phát hiện đứa trẻ Phật sống. Đạo Hạnh không phải là thiền sư" [tr.159]; "nhà sư Thiền Nham thuộc truyền thống sơn môn Dâu với đặc điểm trì tụng đà la ni, cầu mưa, không phải là thiền sư" [tr.163]; "Không Lộ không phải thiền sư, ông chuyên thần chú và có pháp thuật thuộc truyền thống sơn môn Dâu hơn là sơn môn Kiến sơ" [tr.246]; "Giác Hải không phải là thiền sư mà là pháp sư" [tr.282]. Tác phẩm là một kênh tham khảo hữu ích của luận án. 1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về hành trạng của Tứ vị Thánh tổ Nhận diện tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông quan việc nghiên cứu hành trạng của các Thánh cũng được thể hiện qua nhiều tác phẩm và chủ yếu được tiếp cận dưới góc độ sử học, tiêu biểu phải kể đến:
  17. 10 Bộ chính sử "Đại Việt Sử Ký Toàn Thư" của Nhà xuất bản Văn hoá thông tin [104; 105]. Trong phần biên soạn về giai đoạn lịch sử thời Lý, có những tư liệu lịch sử về Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không [104, tr.342, 376, 384], vì là văn bản chính sử nên đã lược bỏ đi nhiều tình tiết ly kỳ về hành trạng của Tứ vị Thánh tổ, nhưng với việc những vị thiền sư của Phật giáo và hoạt động tôn giáo của họ trở thành một sự kiện văn hoá, được đưa vào trong chính sử cho thấy sự ảnh hưởng của Tứ vị Thánh tổ đối với triều đình nhà Lý. Tư liệu ít ỏi về các vị Thánh được nêu trong tài liệu này đặt nền móng cho việc nghiên cứu tìm hiểu về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ. Tiếp đến là tác phẩm "Việt Điện U Linh tập lục toàn biên những câu chuyện thần linh cổ nhất nước ta" của Sống Mới [114], đây là bộ huyền sử của Việt Nam viết về những câu chuyện thần linh cổ xưa của nước Việt, tài liệu ghi chép về những huyền sử của các vị Thần được phụng tự trong đình, chùa với nhiều tình tiết ly kỳ, nhuốm mầu huyền bí, nhưng đã biểu hiện được một phần dân tộc tính với màu sắc rất Việt, tại trang 199 viết về sự tích sư Từ Đạo Hạnh "Từ Đạo Hạnh đại Thánh sự tích thực lục". Tác phẩm là một kênh để tìm hiểu về hành trạng của một trong Tứ vị Thánh tổ thời Lý là Từ Đạo Hạnh, nhân vật lịch sử được huyền thoại hoá, dân gian hoá, nhưng vẫn phảng phất đâu đó là một con người bình dị, gần gũi với đời. Không thể không nhắc đến tác phẩm "Thiền Uyển Tập Anh" [107], được ghi vào đời Trần, ghi chép lại tiểu sử và các tông phái thiền học từ cuối thời Bắc thuộc cho đến các thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Tác phẩm ghi chép khá chi tiết về tiểu sử, hành trạng của Tứ vị Thánh tổ. Trong đó, Từ Đạo Hạnh [tr.197] và Nguyễn Minh Không [tr.213] thuộc về thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, Nguyễn Giác Hải [tr.138] và Dương Không Lộ [tr.105] thuộc về thiền phái Vô Ngôn Thông. Tác phẩm giúp cho việc đánh giá những đóng góp của Tứ vị Thánh tổ đối với Phật giáo, triều đình và nhân dân trong một giai đoạn lịch sử của dân tộc. Các sử gia triều Nguyễn cũng rất quan tâm đến tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ, thể hiện qua tác phẩm "Đại Nam Nhất Thống Chí" của Nhà xuất bản Thuận Hoá [43; 44], đây là tác phẩm tổng hợp nghiên cứu về địa lý - lịch sử,…. Sự tích và các ngôi đền thờ Tứ vị Thánh tổ đều được ghi chép ở trong các mục Đền Miếu, Chùa quán, Tăng ở các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Ninh Bình, thể hiện rõ nét tại tập 3 của tác phẩm này. Cụ thể: phần viết về tỉnh Hà Nội trong mục Tăng có viết "Từ Lộ tự là Đạo Hạnh, người trại Yên Lãng huyện Thanh Trì, tu ở chùa Phật Tích huyện Yên Sơn, là cao tăng đời Lý" [44, tr.232], phần viết về tỉnh Ninh Bình, trong mục Đền Miếu có nói đến hai vị thiền sư đời Lý là Nguyễn Giác Hải và Nguyễn Minh Không cả hai cũng đều là những vị sư tu hành vào thời Lý, tinh thông phép thuật, "một năm gặp đại hạn, nhà sư lấy giấy dán vào cái giỏ bằng tre, ra sông xách nước tưới vào ruộng thành vũng bàn chân, nước ở vũng ấy chảy ra bốn phía, nước chảy đến đâu
  18. 11 đều thành khe, ngòi, nhân dân được nhờ" [44, tr.274]. Phần về tỉnh Nam Định, mục Chùa quán viết về chùa Thần Quang "trước là Nghiêm Quang ở xã Dũng Nhuệ, huyện Giao Thuỷ là nơi trụ trì của Dương Không Lộ, nay vẫn hiển linh phàm cầu đảo về việc thuỷ hạn tai thương đều ứng nghiệm" [44, tr.357], mục Tăng có ghi chép về thiền sư Không Lộ và Giác Hải giống như Lĩnh Nam Chích Quái [tr.370]. Tác phẩm đã ghi chép sơ lược về tiểu sử của bốn vị thiền sư thời Lý và những nơi thờ tự họ cho thấy các vị được thờ tự ở hai loại hình di tích là Đền và Chùa. Tác phẩm "Nam Hải Dị Nhân" của tác giả Phan Kế Bính [20], tác phẩm trở thành bộ sưu tập nổi tiếng về các truyền tích và dã sử ở nước ta. Trong chương viết về các vị tiên tích đã trình bày về thân thế sự nghiệp của hai vị Từ Đạo Hạnh [tr.153-158] và Nguyễn Minh Không [tr.158-161]. Qua lối kể chuyện mộc mạc, hình ảnh của hai vị hiện lên đều là những bậc kỳ tài " (…) từ bấy giờ pháp lực càng lấn tới, nội là rắn độc trong núi, hùm dữ trên rừng cũng có phép sai khiến được" [tr.155]. Câu chuyện về Đạo Hạnh và Minh Không cũng gần với các tác phẩm đã nêu trên hầu như ít có dị biệt. Tác phẩm "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận" của tác giả Nguyễn Lang [90]. Tác phẩm đã miêu tả về pháp thuật của thiền sư Từ Đạo Hạnh giống như những miêu tả trong Thiền Uyển Tập Anh, cho thấy sự ảnh hưởng mạnh mẽ của yếu tố Mật giáo trong hoạt động tôn giáo của vị sư này: "… từ đó pháp lực càng tăng, duyên thiền càng chính, có thể sai sử điều phục sơn đà dã thú, cầu mưa, cầu tạnh, chú thuỷ trị bệnh không gì là không ứng nghiệm" [tr.139]. Tác phẩm "Chùa Keo" của tác giả Bùi Duy Lan, Phạm Đức Duật [86]. Đây là tác phẩm chuyên khảo về ngôi chùa Keo (Thái Bình). Tại phần I, hai tác giả đặc biệt chú ý đến tìm hiểu về lịch sử ngôi chùa và sự tích thiền sư Dương Không Lộ, dựa trên nhiều tài liệu trong đó dựa vào cuốn sách "Quốc sư Bảo lục" của tiến sĩ Đặng Xuân Bảng để so sánh và đối chiếu với các tài liệu khác có liên quan đến thiền sư Dương Không Lộ, chỉ ra nguyên nhân gây nhầm lẫn và giải thích nhiều vấn đề liên quan đến sự tích về hai vị thiền sư Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không. Từ đó tác giả đi đến kết luận: (i) Không Lộ là đạo hiệu của một nhà sư có thật ở thời Lý; (ii) Không Lộ và Minh Không là hai người khác nhau [tr.23]. Tác giả cũng đã chỉ ra nguyên nhân của sự nhầm lẫn giữa hai vị sư này là do sự tích của hai vị sư có nhiều điểm tương đồng: (i) Cả hai người đều chữa bệnh cho vua nhà Lý, Không Lộ chữa bệnh sợ tiếng tắc kè kêu của vua Lý Nhân Tông, Minh Không chữa bệnh hoá hổ cho vua Lý Thần Tông; (ii) cả hai đều được phong làm Quốc sư; (iii) Minh Không cũng tu học ở chùa Diên Phúc, sau đổi tên là Viên Quang nơi mà Không Lộ, Giác Hải trước đó đã từng tu [tr.23-24]. Tác phẩm thể hiện tinh thần nghiên cứu công phu, nghiêm túc, đã làm sáng tỏ một số vấn đề còn nhầm lẫn giữa hai vị thiền sư nổi tiếng là Không Lộ và Minh Không.
  19. 12 Tác phẩm "Từ Đạo Hạnh Trần Nhân Tôn những trái chiều lịch sử" của Nguyễn Mạnh Cường, Đinh Viết Lực, Nguyễn Đức Dũng [30]. Tác phẩm gồm 5 chương. (i) Khái lược về đời sống tâm linh của người Việt thời Lý; (ii) Thiền sư Từ Đạo Hạnh từ nhà sư tới nhà Vua; (iii) Vài nét về đời sống tâm linh của người Việt thời Trần; (iv) Trần Nhân Tông từ nhà Vua tới nhà sư; (v) Những vấn đề lịch sử đang đặt ra. Tác phẩm tiếp cận vấn đề dưới góc độ lịch sử. Sự trái chiều của lịch sử chính là sự hình thành tu luyện và cung cách làm vua của mỗi người, Từ Đạo Hạnh là từ một nhà sư đến nhà vua còn Trần Nhân Tông là từ nhà vua đến nhà sư. Việc nhà sư đến nhà vua thông qua hình tượng Từ Đạo Hạnh chính là cuộc chiến giành giật ngôi vua của hai thế lực tôn giáo là Phật giáo và Đạo giáo. Trong cuộc chiến này Phật giáo chiếm ưu thế, vương quyền và thần quyền lúc này trở thành một và không có sự tách bạch. Còn Trần Nhân Tông lại có hành trình ngược lại đó là đi từ nhà vua đến nhà sư và lập ra phái thiền mới nhằm mục đích tạo ra một liên minh để cố kết cộng đồng, nêu cao tinh thần đoàn kết của người dân Đại Việt nhằm chống giặc ngoại xâm, đồng thời tách bạch thần quyền ra khỏi vương quyền nhằm trả lại cho vua quyền thế tục là để cai trị và xây dựng đất nước. Tác phẩm đã đưa ra những sự kiện lịch sử, cùng với đó là những đối sánh lịch sử nhằm làm rõ hơn đời sống tín ngưỡng của người Việt dưới thời Lý, Trần. Dưới ngòi bút của các sử gia, nhận diện về tín ngưỡng Tứ vị Thánh tổ thông qua việc nghiên cứu về hành trạng của Tứ vị Thánh tổ được thể hiện khá chi tiết. Họ đều là những bậc kỳ tài, tinh thông về học thuật, đạo pháp, có công với đạo và đời, được nhiều đời sau ghi nhớ công trạng, trong hoạt động tôn giáo của họ mang đậm yếu tố Mật giáo. Cũng qua hành trạng và hoạt động tôn giáo của các sư cho thấy sự tồn tại của một nền văn hoá Phật giáo đặc biệt là yếu tố Mật giáo Phật giáo trong lịch sử dân tộc và những đóng góp của Phật giáo trên các mặt của đời sống xã hội. Phật giáo thời Lý đã đóng góp cho dân tộc nhiều bậc kỳ túc cao tăng, tham gia mạnh mẽ vào đời sống thế tục, duy trì những hoạt động tâm linh. Mặt khác cũng cho thấy những tác động của Phật giáo đối với đời sống tín ngưỡng của người Việt, ảnh hưởng của yếu tố Mật trong Phật giáo đối với Tín ngưỡng dân gian. 1.1.1.3. Các công trình nghiên cứu về các ngôi chùa thờ Tứ vị Thánh tổ Đây là lĩnh vực cũng được nhiều nhà khoa học tập trung khai thác và tiếp cận dưới góc độ khảo cổ học tôn giáo, kiến trúc, mỹ thuật, văn hoá học, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu: Tác phẩm "Chùa Việt Nam"của nhóm tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự, Phạm Ngọc Long [121]. Tác phẩm được chia thành 2 phần: (i) Chùa Việt Nam, trong đó giới thiệu khái quát về những ngôi chùa Việt, từ việc chọn đất phải là nơi đắc địa, các vật liệu sử dụng, lối kiến trúc theo kiểu chữ Đinh, Tam hay kiểu chữ
  20. 13 Công để xây dựng chùa, cách bài trí tượng thờ trong các ngôi chùa. Một nội dung lớn nữa được trình bày trong phần này là Chùa Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, sự quan tâm của triều đình phong kiến đối với Phật giáo thông qua việc cho xây dựng chùa, sự khác nhau trong lối kiến trúc, (ii) tác phẩm giới thiệu khái lược và kèm theo hình ảnh minh họa về 118 ngôi chùa của 61 tỉnh, thành trong cả nước, trong đó có một số chùa thờ các vị Thánh Tổ như chùa Lý Quốc Sư [tr.102]; chùa Thày, chùa Láng [tr.122]; chùa Keo [tr.230]; chùa Cổ Lễ [tr.270]; chùa Bái Đính [tr.302]. Tác phẩm "Chùa Việt" của tác giả Trần Lâm Biền [18]. Ngôi chùa là nơi kết tụ tinh thần của người Việt và ngôi chùa cũng cõng trên lưng bao vấn đề của lịch sử dân tộc, đây không chỉ là nơi người dân gửi gắm mối liên hệ với thần linh qua các nghi lễ mà còn là nơi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng dân cư. Tác phẩm đã hướng người đọc theo từng bước: Diễn biến của ngôi chùa Việt; Văn hóa - Hướng - Bố cục chung trong các ngôi chùa thông qua các vấn đề như kiến trúc, thế đất, cấu trúc bộ khung và giới thiệu một số ngôi chùa qua các thời. Tác giả viết về chùa Thầy nơi thiền sư Từ Đạo Hạnh tu hành và hoằng pháp "việc thờ Từ Đạo Hạnh là nhu cầu căn bản của người chùa Thầy, chùa Láng (Hà Nội). Đây là một phản ánh tâm thức dân dã để khẳng định về yếu tố dung hội giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, đồng thời biểu hiện một hướng đi của tư tưởng Việt" [tr.125]. Công trình có nhiều thông tin khoa học đem đến cho người đọc những hiểu biết về lịch sử, kiến trúc, cách thức bài trí thờ tự, dấu ấn Mật tông biểu hiện ở các pho tượng, khám thờ và đời sống tín ngưỡng của người dân xung quanh ngôi chùa Thầy. Tác giả cũng đã khẳng định về sự dung hợp giữa yếu tố Mật trong Phật giáo với Tín ngưỡng dân gian thể hiện qua ngôi chùa này. Tác phẩm "Chùa Bối Khê nhìn từ khảo cổ học Phật giáo" của tác giả Nguyễn Quốc Tuấn [151]. Tác phẩm gồm 4 chương, trong chương 4, đã trình bày về các loại chùa tiền Phật, hậu Thánh ở miền Bắc Việt Nam và đưa ra nhận định, cấu trúc bình đồ tiền Phật, hậu Thánh hình thành mà biết rõ được là vào cuối thế kỷ 17, định hình vào thế kỷ 18 và được duy trì cho đến thời Nguyễn. Tác giả đã so sánh về cấu trúc của chùa Bối Khê (Đại Bi) với hai ngôi chùa tiền Phật, hậu Thánh đặc sắc ở miền Bắc đều mang tên Keo ở Nam Định và Thái Bình để chỉ ra những điểm chung và những điểm khác biệt giữa các ngôi chùa. Không dừng lại ở đó, tác giả còn so sánh chùa Bối Khê với bảy ngôi chùa thờ Thánh khác đều ở miền Bắc trên bình diện kỹ thuật, ý nghĩa và đặc điểm của các thành phần kiến trúc, nghệ thuật tạo tượng,... Tác phẩm dưới góc độ nghiên cứu về khảo cổ chủ yếu tìm hiểu về kiến trúc, di vật và niên đại thông qua việc nghiên cứu một di tích tôn giáo cụ thể đó là chùa Bối Khê với việc thờ Thánh Nguyễn Bình An, một nhân vật tôn giáo dưới thời nhà Trần, thông qua đó minh chứng tính hỗn hợp tôn giáo giữa Phật giáo, Đạo giáo, bản địa hoá tôn giáo du nhập ở người Việt trong lịch sử.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0