Luận án Tiến sĩ Triết học: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay
lượt xem 37
download
Luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường trên địa bàn vùng; phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên; phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay
- HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH ĐỖ TRỌNG HƯNG KÕT HîP T¡NG TR¦ëNG KINH TÕ VíI B¶O VÖ M¤I TR¦êNG ë C¸C TØNH B¾C TRUNG Bé VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyên ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số : 62 22 03 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. TRẦN VĂN PHÒNG 2. PGS.TS. BÙI VĂN DŨNG HÀ NỘI - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Đỗ Trọng Hưng
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 6 1.1. Các công trình đề cập đến những vấn đề lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường 6 1.2. Các công trình đề cập đến thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam nói chung và ở Bắc Trung bộ Việt Nam nói riêng 16 1.3. Các công trình đề cập đến quan điểm, giải pháp kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường 23 1.4. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu về việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 34 Chương 2: KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 37 2.1. Kinh tế, tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế 37 2.2. Môi trường và bảo vệ môi trường 47 2.3. Yêu cầu, nội dung và những nhân tố ảnh hưởng đến kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường 53 Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY 75 3.1. Điều kiện tự nhiên, đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội và môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam 75 3.2. Thực trạng việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ hiện nay 84 3.3. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 97 3.4. Nguyên nhân của thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 108 Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM KẾT HỢP HÀI HÒA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CÁC TỈNH BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM HIỆN NAY 114 4.1. Một số quan điểm nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 114 4.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hoà tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay 134 KẾT LUẬN 155 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 158 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 159 PHỤ LỤC 172
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN CCN : Cụm công nghiệp CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CN : Công nghệ CT - XH : Chính trị - xã hội ĐT : Đào tạo GD : Giáo dục KCN : Khu công nghiệp KKT : Khu kinh tế KH : Khoa học KT - XH : Kinh tế - xã hội MT : Môi trường MTST : Môi trường sinh thái Nxb : Nhà xuất bản PTBV : Phát triển bền vững PTKT : Phát triển kinh tế TN - MT : Tài nguyên - môi trường TNTN : Tài nguyên thiên nhiên TTKT : Tăng trưởng kinh tế XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ cũng như toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ đã đặt ra nhiều cơ hội cùng thách thức cho tất cả các quốc gia, dân tộc. Nhận thức được điều đó, các quốc gia, dân tộc phải có một chiến lược phát triển kinh tế phù hợp để tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn. Song, nhiều khi vì mong muốn tăng trưởng kinh tế nhanh nhất, thu được nhiều lợi nhuận nhất mà người ta đã quên đi các vấn đề xã hội, môi trường. Quả thực, trong những năm gần đây, vấn đề ô nhiễm môi trường, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự đe doạ khủng hoảng sinh thái trên phạm vi toàn thế giới đang thu hút sự chú ý của các quốc gia, dân tộc, các nhà nghiên cứu khoa học và các nhà quản lý. Con người ngày càng nhận thức rõ hơn rằng, để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế nhằm khắc phục tình trạng đói nghèo, bất bình đẳng và giảm thiểu hậu quả về môi trường thì phải phát triển bền vững. Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững, tiếp tục xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu đó, vấn đề đặt ra cho chúng ta là trong khi phát triển kinh tế thì việc khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên phải bảo vệ được môi trường tự nhiên một cách có hiệu quả, nằm trong giới hạn cho phép của môi trường để bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Trong thời gian qua, việc bảo vệ môi trường ở nước ta hiện chưa đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội bền vững; môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm và suy thoái, có nơi nghiêm trọng. Việc thi hành pháp luật bảo vệ môi trường chưa nghiêm minh. Ý thức tự giác bảo vệ và giữ gìn môi trường chưa trở thành thói quen trong cách sống của đại bộ phận dân cư. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chỉ rõ:
- 2 Việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục bị xuống cấp, một số nơi đã đến mức báo động. Chưa chủ động nghiên cứu, dự báo đánh giá tác động của biến đổi khí hậu; hậu quả của thiên tai còn nặng nề [42, tr.169]. Do đó, việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường vì sự phát triển bền vững có ý nghĩa sống còn đối với nước ta cả trước mắt và lâu dài. Trong quá trình đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế con người đã tác động rất lớn đến môi trường. Trước thực trạng môi trường ngày càng xấu đi do phát triển kinh tế gây ra, con người đã đặt ra yêu cầu và đi tìm các biện pháp để vừa tăng trưởng, phát triển kinh tế nhưng ít gây tổn hại đến môi trường nhất. Những địa phương có xuất phát điểm về kinh tế thấp như các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam, thường phải đẩy nhanh tốc độ phát triển, vì vậy, mức độ tác động đến môi trường càng lớn do phải khai thác nhiều hơn đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bắc Trung bộ (gồm 6 tỉnh từ Thanh Hóa đến Thừa Thiên Huế) là một vùng kinh tế còn khó khăn, có điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc phát triển sản xuất hàng hóa. Bên cạnh đó, kinh tế kém phát triển dẫn tới tình trạng khai thác tràn lan tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực, nhưng kết quả phát triển kinh tế không cao, còn gây ra nhiều vấn đề về môi trường. Thực tế việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ còn nhiều bất cập chưa đáp ứng yêu cầu. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong vùng về vấn đề này vẫn còn hạn chế; vẫn còn biểu hiện tuyệt đối hóa tăng trưởng kinh tế mà chưa có sự quan tâm đúng mức tới bảo vệ môi trường, v.v.. Do vậy, kết hợp giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ là vấn đề mang tính bức thiết hiện nay. Bởi vì, để đạt được các lợi ích kinh tế đơn thuần, hiện nay ở các tỉnh Bắc Trung bộ đang tạo ra sức ép rất lớn đối với môi trường. Để bảo đảm sự cân
- 3 bằng trong phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, những ý kiến đề xuất và những giải pháp trong thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu vấn đề này ở các tỉnh Bắc Trung bộ. Vì vậy, để tiếp tục khẳng định cần phải kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên nhằm tạo ra môi trường cho sự phát triển bền vững, tác giả chọn vấn đề: Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích của luận án Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cũng như thực trạng kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường trên địa bàn vùng. 2.2. Nhiệm vụ của luận án - Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên. - Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu, tìm hiểu sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Môi trường là một vấn đề rất rộng, có thể nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, như: môi trường tự nhiên, môi trường kinh tế, môi trường sống (tồn
- 4 tại), môi trường phát triển, môi trường xã hội... Ở đây, luận án chỉ tập trung nghiên cứu sự kết hợp biện chứng tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay (gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế tính từ năm 2000 trở lại đây). Tác giả luận án xác định ba nhiệm vụ chính cần phải giải quyết (2.2) trong khuôn khổ cho phép của một luận án tiến sĩ Triết học, đặc biệt, tập trung đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. Các điều kiện để thực hiện tốt các giải pháp đó sẽ được tác giả luận án tiếp tục đào sâu nghiên cứu, khảo nghiệm trong quá trình nghiên cứu và công tác của mình. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là phép biện chứng duy vật, những quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường; những thành tựu lý luận hiện đại về cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong luận án là: phương pháp lịch sử và lôgíc; phân tích và tổng hợp; cách tiếp cận hệ thống, so sánh đối chiếu, điều tra khảo sát trên tinh thần kết hợp lý luận với thực tiễn. 5. Đóng góp về khoa học của luận án - Làm rõ hơn cơ sở triết học của việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường. - Phân tích, chỉ rõ thực trạng của việc giải quyết sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay. - Đề xuất được một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường ở các tỉnh Bắc Trung bộ Việt Nam hiện nay.
- 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập những vấn đề về môi trường, bảo vệ môi trường, kết hợp vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế. - Luận án có thể giúp những người làm công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, xây dựng pháp luật tham khảo vận dụng vào địa phương mình trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chương, 13 tiết.
- 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Kinh tế là một trong những lĩnh vực cơ bản của xã hội. Khi nói đến kinh tế là muốn nói đến các hoạt động của con người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Trong quá trình tồn tại và phát triển, các hoạt động kinh tế của con người ngày càng tác động sâu sắc tới tự nhiên, tạo nên sự tăng trưởng về nhiều mặt trong đó có tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là một trong những nội dung được các học giả trao đổi, bàn luận khá nhiều dưới các góc độ kinh tế, xã hội, môi trường... Ở khía cạnh kinh tế học, khái niệm tăng trưởng kinh tế được sử dụng khi muốn nói tới sự lớn lên, tăng thêm hay mở rộng của một nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế có thể được hiểu là “mức tăng sản lượng thực tế của một quốc gia trong một thời gian nhất định”; nói một cách khác, tăng trưởng kinh tế là việc mở rộng quy mô sản xuất quốc gia, tiềm năng của một nước, tiềm năng thực hiện: việc mở rộng khả năng kinh tế để sản xuất [47]. Các chỉ tiêu để đánh giá tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) [18], [30], [36], [47], [84], [120]... Tác giả Trần Thọ Đạt với các công trình “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” [44] và “Giáo trình mô hình tăng trưởng kinh tế” [45]; tác giả Vũ Thị Ngọc Phùng với công trình “Giáo trình kinh tế phát triển” [79] đã đi sâu phân tích các mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới như: mô hình tăng trưởng của trường phái Keynes, Harrod Domar, tăng trưởng tân cổ điển mở rộng, tăng trưởng nội sinh... Liên hệ ở Việt Nam về mô hình tăng trưởng kinh tế, tác giả cho rằng, cho đến nay mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta vẫn là mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, dựa vào tăng quy mô tài sản
- 7 cố định và khai thác tài nguyên thiên nhiên là chính. Mô hình tăng trưởng này có những ưu điểm nhưng cũng có nhược điểm: ưu điểm là đem lại nhiều lợi thế để kinh tế đất nước tăng trưởng với tốc độ nhanh; nhược điểm là tăng trưởng theo mô hình này sẽ không thật sự bền vững, đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ nhanh chóng bị cạn kiệt và nhiều vấn đề về môi trường sẽ nảy sinh... Như vậy, điểm qua một số công trình đã bàn về tăng trưởng kinh tế, chúng ta có thể thấy rõ, các tác giả đã tập trung làm rõ nội hàm của khái niệm tăng trưởng kinh tế, chỉ ra và so sánh các mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới và mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay. Các nghiên cứu đã phân tích rõ các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế một số nước trên thế giới và Việt Nam, bàn luận, đưa ra các giải pháp để thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay. Khi đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhiều quốc gia đã khai thác tài nguyên thiên nhiên vượt quá ngưỡng cho phép. Hệ quả là môi trường bị biến đổi và sự suy thoái tăng dần lên nếu không có những biện pháp bảo vệ môi trường kèm theo. Do vậy, vấn đề môi trường, bảo vệ môi trường tự nhiên, phát triển bền vững cũng là một trong các nội dung được đề cập khá nhiều trong thời gian qua ở trong nước cũng như ở nước ngoài trên các khía cạnh khác nhau. Môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người trong khi tăng trưởng kinh tế là quá trình con người tác động, sử dụng và cải thiện các điều kiện đó. Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về môi trường tùy thuộc vào khía cạnh nghiên cứu, tiếp cận. Một số định nghĩa đáng lưu ý của các công trình Môi trường và tài nguyên Việt Nam [86]; Môi trường tự nhiên trong hoạt động sống của con người [61]... Các tác giả của các công trình này đều cho rằng môi trường tự nhiên là tổng hòa nhiều yếu tố tự nhiên, hiện tượng tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên trong sự thống nhất với nền sản xuất xã hội, có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại với nhau và có ảnh hưởng tới sự tồn tại, phát triển của tất cả các loài sinh vật trên trái đất.
- 8 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo nhiều điều kiện thuận lợi nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, đảm bảo quyền con người cho nhân dân được sống trong môi trường trong sạch, đất nước được phát triển bền vững. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ra nhiều văn bản luật, dưới luật, các chỉ thị, nghị quyết về môi trường và bảo vệ môi trường [9]; [10]; [11]; [12]; [43]; [82]; [105]; [109]... Trong các văn bản này, Đảng và Nhà nước đã khẳng định nhiều nội dung quan trọng về môi trường, bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Bảo vệ môi trường được hiểu là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường... Bảo vệ môi trường là vấn đề chung, toàn cầu có ảnh hưởng tới cuộc sống của toàn bộ loài người. Luật Bảo vệ môi trường đã ghi rõ: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân” [82, tr.12]. Do vậy, bảo vệ môi trường không những tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế ngày một bền vững hơn, mà còn giúp cho mọi người ngày một tiếp cận với cuộc sống văn minh hơn, tốt đẹp hơn. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường thực chất là mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Mối quan hệ này được rất nhiều nhà khoa học, các trường phái tư tưởng, các tổ chức và chính phủ quan tâm nghiên cứu, giải quyết. Nhưng cách thức trình bày khác nhau, đi đến việc giải quyết cũng trên quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Cho đến nay, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ này hiệu quả nhất chỉ được thực hiện trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên cần phải được xem như một hệ thống động học thống nhất, hoạt động theo nguyên tắc liên hệ ngược chứ không phải chỉ là mối quan hệ một chiều (con người tác động và cải tạo tự nhiên). Đáng chú ý là con người thường không thể hiểu biết hết và lường
- 9 trước được những tác động ngược đó (ví dụ như hiện tượng nóng lên toàn cầu, nước biển dâng, biến đổi khí hậu…) và nó gây ra sự tàn phá nặng nề đối với tự nhiên nhân tạo mà con người đã tạo ra. Quá trình nhận thức hậu quả gây ra của con người đối với tự nhiên là một quá trình lâu dài, luôn bị chi phối và cản trở bởi các nhân tố kinh tế - chính trị - xã hội khác. Những hậu quả đó ở mức độ nào và có khả năng khắc phục, hạn chế hay không là phụ thuộc vào nhận thức và hành động của con người, của xã hội loài người. Ph.Ăngghen phân tích: Khi đốt rừng trên các triền núi và lấy số phân tro đủ để bón cho một đời cây cà phê đem lại một số thu hoạch rất lớn, thì những người chủ đồn điền Tây Ban Nha ở Cu-ba có cần gì phải nghĩ rằng sau này, những trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch lớp đất bên trên không có gì che chở và chỉ để lại những lớp đá trơ trụi! [69, tr.658]. Vậy, vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các nhà tư bản đã hành động bất chấp hậu quả, bất chấp quy luật tự nhiên, bất chấp sự “trả thù” của giới tự nhiên. Chính quy luật lợi nhuận cộng với sự vô ý thức của con người đã phá vỡ sự cân bằng của giới tự nhiên, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về môi trường, sinh thái. Do đó, vấn đề đặt ra cho các nhà quản lý kinh tế nói riêng, loài người nói chung là cần giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sống xung quanh mình, các quốc gia cần quan tâm xem xét nhiều hơn tới vấn đề tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế một cách bền vững. Ở tầm quốc tế, các tổ chức, liên minh toàn cầu cũng đã dành nhiều sự quan tâm, đưa ra những nguyên tắc và cam kết chung về vấn đề phát triển bền vững, bảo đảm môi trường sống cho các thế hệ tương lai, đồng thời góp phần tái tạo lại tài nguyên nói riêng, môi trường nói chung bằng nhiều biện pháp cụ thể, tích cực. Đặc biệt, Hội nghị Môi trường thế giới lần đầu tiên được tổ chức năm 1972 tại Stôckhôlm (Thụy Điển) đã đưa đến sự ra đời của Chương trình Môi
- 10 trường Liên Hợp quốc (UNEP), Uỷ ban Môi trường và Phát triển thế giới (WCED). Với sự kiện này càng chứng tỏ gắn với khả năng chinh phục và cải tạo tự nhiên của con người ngày càng cao, sự phát triển nhanh về kinh tế là sự suy thoái và xuống cấp gay gắt của môi trường, trở thành vấn đề chung đòi hỏi sự quan tâm của cả loài người. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển của Liên Hợp quốc tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 với Tuyên ngôn RIO về môi trường và phát triển [63]. Hội nghị đã đưa ra rất nhiều quyền và nghĩa vụ về khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường vì sự phát triển chung của nhân loại. Tại nguyên tắc thứ hai của Tuyên ngôn đã nêu rõ: Phù hợp với hiến chương Liên Hợp quốc và các nguyên tắc của Luật pháp Quốc tế, các quốc gia có chủ quyền khai thác những tài nguyên của mình theo những chính sách về môi trường và phát triển của mình và có trách nhiệm bảo đảm rằng những hoạt động trong phạm vi quyền hạn và kiểm soát của mình không gây tác hại gì đến môi trường của các quốc gia khác hoặc của những khu vực ngoài phạm vi quyền hạn quốc gia [63]. Khoa học và công nghệ ngày càng phát triển, con người được sử dụng công cụ lao động, máy móc, phương tiện hiện đại vừa phục vụ đắc lực cho cuộc sống của chính mình và cho cả quá trình sản xuất với năng suất, hiệu quả cao, nhưng nó cũng vừa là một trong những nguyên nhân đưa đến sự biến đổi khí hậu, sự nóng lên của trái đất, hiệu ứng nhà kính, băng tan... Thấy rõ được vấn đề mang tính chất toàn cầu ấy, Hội nghị các bên tham gia lần thứ ba đã nhóm họp tại Kyoto vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 bàn về vấn đề hiệu ứng nhà kính. Hội nghị cũng đã đưa ra Nghị định thư Kyoto liên quan đến Chương trình khung về biến đổi khí hậu và đã chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Có thể thấy rằng vấn đề môi trường và phát triển không chỉ có tầm quan trọng đặc biệt đối với mỗi quốc gia mà còn cho chính mỗi người chúng ta.
- 11 Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, thế giới đã đưa ra các chương trình hành động cụ thể để bảo vệ môi trường phục vụ cho cuộc sống và sản xuất của con người. Bên cạnh việc nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa môi trường và phát triển, nhiều học giả nước ngoài cũng đã đi sâu nghiên cứu bản chất kinh tế của các hành động của con người với động lực bảo vệ môi trường của họ. Ở Việt Nam, vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng với bảo vệ môi trường được giải quyết một cách hài hòa và giản dị trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh quan niệm độc đáo về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa tăng trưởng kinh tế với gìn giữ, bảo vệ môi trường, theo đó, Người đã nói: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước. Có đất và có nước thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho đất với nước điều hòa với nhau để nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội” [73, tr.506]. Như vậy, con người và xã hội có thể tồn tại được là dựa vào tự nhiên, vì vậy, việc duy trì mối quan hệ hài hòa giữa con người với giới tự nhiên chính là điều kiện đầu tiên, tiên quyết nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Để tăng cường hoạt động bảo vệ tự nhiên, Hồ Chí Minh thường đề cao việc giáo dục để nâng cao nhận thức của nhân dân về tầm quan trọng của tài nguyên thiên nhiên, môi trường cũng như xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, ví dụ như Người đã khởi xướng và phát động phong trào trồng cây gây rừng nhằm mục đích tạo ra môi trường trong lành hơn, góp phần bảo vệ môi trường. Tiếp nối quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã thực sự quan tâm đến việc giải quyết mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Đặc biệt, vấn đề bảo vệ môi trường cũng như quan điểm phát triển bền vững đã trở thành nội dung quan trọng trong văn kiện của các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X và XI của Đảng. Mục tiêu phát triển bền vững trở thành trọng điểm, yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia cũng như của các vùng kinh tế, các
- 12 tỉnh, địa phương trong các thời kỳ, trong Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000, 2001 - 2010, 2010 - 2020. Năm 1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị 36-CT/TW [9] Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Năm 2003, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Năm 2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 [10] Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng như một loạt quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững khác. Điều này đã ảnh hưởng khá nhiều tới nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội, chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp và cộng đồng dân cư về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường, bảo đảm môi trường phát triển bền vững của quốc gia. Trong Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) [105], có viết: Mục tiêu tổng quát của phát triển bền vững là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hóa, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường... Thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam, Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên Hợp quốc về Phát triển bền vững (RIO+20) [109]. Báo cáo được xây dựng với các mục đích sau: Thứ nhất, đánh giá toàn cảnh 20 năm thực hiện phát triển bền vững và hạn chế trong việc thực hiện phát triển bền vững ở Việt Nam; Thứ hai, đưa ra những quan điểm và cam kết của Việt Nam đối với những vấn đề toàn cầu sẽ được bàn thảo tại Hội nghị và các giải pháp để vượt qua các thách thức mới nảy sinh trong giai đoạn hiện nay, hướng tới nền kinh tế xanh, ứng phó với biến đổi khí hậu để phát triển bền vững; Thứ ba, đưa ra những bài học kinh nghiệm và khuyến nghị của Việt Nam cho Ủy ban Liên Hợp quốc về phát triển bền vững. Từ mục
- 13 đích đó, báo cáo mong muốn chia sẻ với cộng đồng quốc tế những kinh nghiệm của Việt Nam trong thực hiện phát triển bền vững. Đồng thời, báo cáo cũng mong muốn được tiếp tục hợp tác và nhận được sự hỗ trợ, nhất là về nguồn lực tài chính và kỹ thuật của cộng đồng quốc tế để tiếp tục thực hiện phát triển bền vững trong bối cảnh những cuộc khủng hoảng mới nảy sinh trong thế kỷ XXI hiện nay. Tác giả Nguyễn Văn Ngừng trong công trình Một số vấn đề về bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay [75] cho rằng, môi trường là địa bàn và là đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân tạo nên mọi biến đổi tích cực và tiêu cực đối với môi trường. Phát triển kinh tế - xã hội là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên trong quá trình phát triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi trường... Trong bài: Tăng trưởng kinh tế và môi trường: Quốc gia nào tăng trưởng, quốc gia nào bảo vệ môi trường? [140], Wilfred Beckerman cho thấy việc lên tiếng về những hành động hà khắc ngay lập tức làm giảm đi sự chú ý về vấn đề nóng lên toàn cầu và những vấn đề môi trường nghiêm trọng mà các quốc gia đang phát triển phải đối mặt. Các nguồn lực hạn chế không còn giới hạn sự tăng trưởng và dường như thiệt hại kinh tế do biến đổi khí hậu gây ra không đáng kể trong tổng đầu ra của thế giới. Sự sụt giảm phúc lợi của người dân ở các quốc gia đang và kém phát triển ngày nay là kết quả của việc tiếp cận không công bằng tới nước sạch và vệ sinh môi trường, hoặc ô nhiễm đô thị, là lớn hơn nhiều và cần được quan tâm ưu tiên hơn những quan tâm khác của các thế hệ tương lai. Hay như trong nghiên cứu Tăng trưởng kinh tế và môi trường của Gene M.Grossman và Alan B.Krueger cũng chỉ ra rằng sự suy thoái môi trường không tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Thông qua nghiên cứu bốn chỉ số: ô nhiễm không khí đô thị, nồng độ ôxy ở các lưu vực sông, ô nhiễm đáy của các lưu vực sông, ô nhiễm lưu vực sông do kim loại nặng gây ra, các tác giả đã rút ra kết luận rằng, chỉ trong giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng mới
- 14 gây ra suy thoái và ô nhiễm môi trường, trong giai đoạn tiếp theo, chất lượng môi trường ngày càng được quan tâm và cải thiện. Và khi thu nhập quốc dân của một quốc gia vượt ngưỡng 8.000 USD/người/năm thì nền kinh tế tạo ra bước ngoặt trong bảo vệ môi trường, mức độ ô nhiễm và suy thoái môi trường được cải thiện dần dần [132, tr.353-377]. Tác giả Nguyễn Thế Chinh trong Giáo trình Kinh tế và Quản lý môi trường [18] đã chỉ ra mối quan hệ giữa kinh tế với môi trường là mối quan hệ tương tác hai chiều. Trong đó, hệ thống môi trường là nguồn cung cấp tài nguyên cho con người, là nơi chứa đựng phế thải, là không gian sống cho con người. Tuy nhiên, các khả năng này của môi trường là hữu hạn. Còn hệ thống kinh tế luôn diễn ra quá trình khai thác tài nguyên, chế biến nguyên liệu, sản xuất và phân phối tiêu dùng. Hoạt động kinh tế của con người tuân theo định luật thứ nhất của động học, đó là năng lượng và vật chất không tự nhiên sinh ra và không tự nhiên mất đi, chúng chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Từ đó, có thể thấy được rằng khi tài nguyên thiên nhiên được khai thác càng nhiều thì lượng rác thải mà con người thải ra môi trường càng lớn. Khi hệ thống kinh tế của con người càng phát triển, các hành vi kinh tế càng tinh vi thì lượng rác thải ra môi trường càng mang tính chất độc hại, gây ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường. Vì mối quan hệ giữa con người với tự nhiên có nguồn gốc sâu xa, sự tác động qua lại giữa con người, xã hội và tự nhiên mang bản chất nguyên thủy, vì vậy, muốn bảo vệ môi trường tự nhiên, con người cần tìm ra bản chất và tác động vào các động lực của mối quan hệ đó. Tác giả Phạm Văn Boong với công trình: Ý thức sinh thái và vấn đề phát triển lâu bền [8], tác giả Bùi Văn Dũng với: Cơ sở triết học nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường [35] đã dựa trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa con người với tự nhiên. Trong mối quan hệ đó luôn tồn tại mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với yêu cầu bảo vệ môi trường. Khi những mâu thuẫn này được giải quyết làm cho xã hội phát triển, đồng
- 15 thời duy trì được sự cân bằng của tự nhiên và môi trường. Yêu cầu bảo vệ môi trường, bảo đảm mối quan hệ cân bằng giữa tự nhiên với xã hội là mục tiêu của mọi quá trình phát triển kinh tế bền vững. Để giải quyết vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường, trong nghiên cứu Tiến tới môi trường bền vững [119] của Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, các tác giả đã tiếp thu và thao tác hóa khái niệm phát triển bền vững theo Báo cáo Brundlantd, theo đó, phát triển bền vững được quan niệm như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: bền vững về kinh tế, bền vững về nhân văn, bền vững về môi trường, bền vững về kỹ thuật. Kỷ yếu hội thảo: Chính trị và Phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế - Những vấn đề lý luận và thực tiễn [55], do Học viện Báo chí và Tuyên truyền cùng với Văn phòng Viện Friedrich Ebert (Đức) đồng tổ chức, gồm rất nhiều bài viết phong phú về mối quan hệ giữa chính trị với phát triển bền vững, trong đó có những bài nghiên cứu về vai trò nhà nước đối với phát triển bền vững như bài: Vai trò của nhà nước và các đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững của Thomas Meyer; Vai trò của nhà nước với việc phát triển bền vững ở nước ta hiện nay của Trần Thành… Nội dung các bài viết đã đề cập đến xu hướng và sự cần thiết phải đưa quan niệm phát triển bền vững từ lý luận đến thực tiễn, trong đó phải thấy được mối quan hệ giữa thể chế chính trị và chiến lược phát triển bền vững của từng quốc gia. Nói cách khác, các tác giả đã chỉ ra vai trò của nhà nước và các đảng phái chính trị đối với sự phát triển bền vững. Ngoài ra, quan tâm tới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cũng như các yếu tố cho sự phát triển, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn từ nhiều năm trước đây đã có nhiều bài viết nghiên cứu sâu và có hệ thống như: Chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa [20]; Những tư tưởng của Ph.Ăngghen về quan hệ giữa con người và tự nhiên trong “Biện chứng của tự nhiên” [21]; Tăng trưởng kinh tế và những bảo đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát
- 16 triển lâu bền [22]; Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước [23]; Nguồn nhân lực và sự phát triển [24]; Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới chính sách kinh tế và đổi mới chính sách xã hội [25]; Để cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [26];... Các bài viết và sách đã tập trung bàn đến: những tư tưởng của những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác về quan hệ giữa con người và tự nhiên trong mối quan hệ với phát triển, chỉ ra vai trò của triết học - khoa học tự nhiên - cách mạng khoa học - kỹ thuật trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường; vai trò cách mạng khoa học kỹ thuật đối với công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tập trung phát triển nguồn nhân lực lực trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội; chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế và những bảo đảm cần có nhằm duy trì môi trường cho sự phát triển bền vững... 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN THỰC TRẠNG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ Ở BẮC TRUNG BỘ VIỆT NAM NÓI RIÊNG Trong tiến trình phát triển, nhân loại sớm tìm cách nhận thức mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa hoạt động kinh tế với bảo vệ môi trường sống và tìm cách giải quyết mối quan hệ đó. Tuy nhiên, phải đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, mối quan hệ này mới được nhìn nhận một cách toàn diện, trên cơ sở hiểu biết khoa học, biện chứng về thế giới. Ở nước ta, trong thời gian qua, vấn đề kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường cùng nhiều vấn đề liên quan khác đã trở thành nội dung quan trọng trong các chiến lược, các hội nghị, hội thảo về phát triển, các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều cấp bộ, ngành từ trung ương đến cơ sở. Tác giả Lê Quý An với bài viết Dân số, tài nguyên, môi trường và phát triển [2] đã chỉ ra rằng, nền kinh tế nước ta đang phát triển chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, vì vậy, kinh tế tăng trưởng cao hơn đồng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục - Đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
195 p | 501 | 221
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
174 p | 586 | 101
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
177 p | 347 | 91
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trường kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái nước ta hiện nay
176 p | 277 | 83
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
155 p | 343 | 77
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
165 p | 248 | 55
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
27 p | 224 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
170 p | 158 | 20
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
29 p | 193 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
28 p | 184 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
27 p | 171 | 19
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay
177 p | 26 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Xây dựng hình ảnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
220 p | 14 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó
32 p | 162 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Triết lý yêu nước Việt Nam và ý nghĩa của việc giáo dục triết lý đó cho sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay
151 p | 12 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
12 p | 113 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Bắc hiện nay
27 p | 16 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn