intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Triết học: “Những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay và giải pháp tháo gỡ”

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:213

7
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Triết học “Những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay và giải pháp tháo gỡ” trình bày các nội dung chính sau: Những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay và giải pháp tháo gỡ; Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tháo gỡ những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: “Những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay và giải pháp tháo gỡ”

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG THỊ NGÂN “NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở HÀ NỘI HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP THÁO GỠ” Ngành: CNDVBC và CNDVLS Mã số: 9.22.90.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1.PGS.TS Nguyễn Ngọc Hà 2.TS. Đào Thị Minh Thảo Hà Nội, 2024
  2. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan các kết quả trình bày trong luận án là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung được nêu trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận án hoàn toàn trung thực, khách quan và chưa từng được công bố trong các công trình nào trước đó. Hà Nội, ngày tháng năm 2024 Hoàng Thị Ngân
  3. ii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt 1 Cách mạng công nghiệp CMCN 2 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNH,HDH 3 Công bằng xã hội CBXH 4 Kinh tế thị trường KTTT 5 Lực lượng sản xuất LLSX 6 Phương thức sản xuất PTSX 7 Quan hệ sản xuất QHSX 8 Tăng trưởng kinh tế TTKT 9 Xã hội chủ nghĩa XHCN 10 Thành phố Hà Nội TP HN
  4. iii MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1.TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI ......................... 6 1.1. Các công trình nghiên cứu lý luận về lực lượng sản xuất và các yếu tố cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ................................................................................ 6 1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng những yếu tố cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng và giải pháp tháo gỡ những yếu tố đó ......................................................................................................... 19 1.3. Đánh giá khái quát kết quả những công trình đã tổng quan và những vấn đề mà luận án cần tiếp tục nghiên cứu ........................................................................................................ 42 Tiểu kết chương 1................................................................................................... 456 Chương 2.LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ CÁC YẾU TỐ CẢN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ............................................................. 47 2.1.Lực lượng sản xuất .............................................................................................. 47 2.2. Các yếu tố cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất .................................... 63 Tiểu kết chương 2..................................................................................................... 86 Chương 3.THỰC TRẠNG NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở HÀ NỘI HIỆN NAY .................................. 87 3.1. Các yếu tố bên trong cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay87 3.2. Các yếu tố bên ngoài cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay.. 117 Tiểu kết chương 3................................................................................................... 147 Chương 4.MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÁO GỠ NHỮNG YẾU TỐ CẢN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở HÀ NỘI HIỆN NAY ................ 148 4.1. Nhóm giải pháp tháo gỡ những yếu tố bên trong cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay .................................................................................... 148 4.2. Nhóm giải pháp tháo gỡ những yếu tố bên ngoài cản trở phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay ........................................................................................... 172 Tiểu kết chương 4................................................................................................... 190
  5. iv KẾT LUẬN ............................................................................................................ 191 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 195 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hà Nội là Thủ đô của cả nước, trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và hội nhập quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng Sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước. Vì vậy, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Thủ đô Hà Nội "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại" theo tinh thần Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 05/5/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thành phố Hà Nội đã triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các Nghị quyết, kết luận của Trung ương về phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô và đã đạt được kết quả quan trọng, quy mô cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, diện mạo Thủ đô có nhiều thay đổi khang trang, văn minh, hiện đại hơn. Hạ tầng kinh tế, xã hội được quan tâm đầu tư, xây dựng và từng bước hiện đại. Sự nghiệp phát triển văn hóa, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ có bước phát triển. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Thủ đô tiếp tục được hoàn thiện và phát triển. Hệ thống các thị trường, nhất là thị trường tài chính, thương mại, bất động sản, chứng khoán phát triển theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập; thị trường khoa học, công nghệ được đẩy mạnh với nhiều hình thức. Các hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy thị trường lao động được đẩy mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, sự phát triển kinh tế - xã hội ở thành phố Hà Nội vẫn còn hạn chế. Tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra, tốc độ dần chậm lại; kinh tế tri thức và kinh tế đô thị phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của Thủ đô; việc khai thác, phát huy các nguồn lực, đặc biệt là đất đai và các nguồn lực khác như: nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ chưa hiệu quả. Một trong những nguyên nhân kinh tế - xã hội Thủ đô phát triển chưa tương xứng với tiềm năng thế mạnh là do lực lượng sản xuất phát triển chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý quy hoạch đô thị còn nhiều hạn chế. Hệ
  7. 2 thống hạ tầng đô thị, nhất là hạ tầng số, hạ tầng giao thông, thoát nước triển khai chậm, chưa theo kịp tốc độ đô thị hóa; vẫn còn nhiều yếu tố cản trở phát triển lực lượng sản xuất như việc thu hút nguồn lực đầu tư từ xã hội cho giáo dục, hợp tác, liên kết quốc tế về giáo dục đào tạo, đổi mới phương pháp dạy và học còn hạn chế, gặp nhiều rào cản về thể chế. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự trở thành động lực quan trọng để nâng cao năng suất lao động; nhân lực khoa học và công nghệ tuy đã có bước phát triển về số lượng, nhưng chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu; thị trường khoa học và công nghệ Thủ đô còn manh mún, chưa hội tụ đầy đủ các yếu tố của thị trường, hiệu quả chưa cao. Số lượng công bố khoa học quốc tế của Hà Nội đứng thứ hai cả nước, nhưng việc chuyển giao ứng dụng vào thực tiễn còn hạn chế; chính sách thu hút các chuyên gia, nhân tài, nhà khoa học có trình độ về làm việc tại Thủ đô còn hạn chế, thiếu chính sách cụ thể đủ hấp dẫn nhân tài. Cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao, phát triển công nghệ còn thiếu và chưa đồng bộ. Xây dựng hạ tầng kinh tế (các khu, cụm công nghiệp, làng nghề, trung tâm thương mại, chợ, khu du lịch, trung tâm logictics…) chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII “Xây dựng Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị thông minh, hiện đại; có không gian xanh, sạch, đẹp; có kiến trúc đô thị mang dấu ấn nghìn năm văn hiến và mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; có cuộc sống an ninh, an toàn; đẩy mạnh đô thị hóa gắn với xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là các đầu mối liên kết giao thông quan trọng; mở rộng phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch gắn với công nghiệp chế biến, tham gia chuỗi giá trị; đi đầu trong xây dựng nông thôn mới, nông thôn kiểu mẫu; thúc đẩy mạnh mẽ các trung tâm đổi mới sáng tạo; tập trung phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ hiện đại: điện tử, sản xuất phần mềm, trí tuệ nhân tạo, sản xuất ô tô, các dịch vụ thương mại, logictics, tài chính, du lịch, viễn thông” [6, tr.165-166] và Nghị quyết số 15 của Bộ Chính trị: xây dựng phát triển Hà Nội trở thành Thủ đô “Xanh - Văn hiến - Thông minh - Hiện đại” sánh vai với các Thủ đô văn minh, hiện đại trong khu vực và trên thế giới, thì việc chỉ ra những cản trở và đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những cản trở để thúc đẩy lực lượng sản xuất ở Hà Nội phát triển là hết sức cấp thiết. Bởi lực lượng sản xuất là yếu
  8. 3 tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một phương thức sản xuất nói chung và sự phát triển của thành phố Hà Nội nói riêng. Chính vì những lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài “Những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay và giải pháp tháo gỡ” làm đề tài luận án tiến sỹ. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất và nghiên cứu thực trạng những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay, luận án đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tháo gỡ những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Tổng quan những công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. - Làm rõ hơn lý luận về lực lượng sản xuất và các yếu tố cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. - Làm rõ các yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tháo gỡ những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 4.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài - Về nội dung: nghiên cứu những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội gồm nguồn nhân lực, tư liệu sản xuất, quan hệ sản xuất, chính sách, hoạt động giáo dục, đào tạo, khoa học. - Về không gian (phương diện địa lý): nghiên cứu địa bàn Thành phố Hà Nội. - Về thời gian: nghiên cứu thực trạng những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội từ năm 2016 (từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết của Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020) đến nay.
  9. 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài 5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu của đề tài Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về lực lượng sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất. 5.2. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Phương pháp nghiên cứu của đề tài là: phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, thu thập và xử lý tài liệu sơ cấp, thu thập và xử lý tài liệu thứ cấp và các phương pháp chung của khoa học xã hội. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu: đây là phương pháp được sử dụng trong suốt quá trình nghiên cứu và trình bày luận án. Trong phạm vi của đề tài, luận án tham khảo các tài liệu gốc và tài liệu thứ cấp gồm các Văn kiện của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của Thành ủy Hà Nội; các chỉ thị, thông tư, chính sách; một số báo cáo; một số công trình lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề lực lượng sản xuất đã công bố. Các phương pháp quy nạp - diễn dịch, tổng hợp - phân tích, so sánh; thống kê cho phép luận án khái quát hóa và trừu tượng hóa, mô tả, luận giải làm rõ thực chất, thực trạng và những yếu tố cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án đã làm rõ hơn các yếu tố cản trở sự phát triển LLSX ở Thủ đô Hà Nội hiện nay. - Luận án đã hệ thống hóa một số giải pháp khả thi nhằm tháo gỡ những yếu tố cản trở sự phát triển lực lượng sản xuất ở Thủ đô Hà Nội hiện nay. 7.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 7.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Luận án cung cấp thêm cơ sở lý luận cho việc hoạch định chính sách phát triển lực lượng sản xuất ở Hà Nội hiện nay.
  10. 5 7.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Luận án cung cấp thêm cơ sở thực tiễn cho việc hoạch định chính sách phát triển lực lượng sản xuất ở Thủ đô Hà Nội hiện nay, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc trong giảng dạy Triết học Mác – Lê nin tại các trường đại học, cao đẳng và các trường Đảng ở Thủ đô Hà Nội. 8.Kết cấu của luận án Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án gồm 4 chương và 10 tiết.
  11. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 1.1.Các công trình nghiên cứu lý luận về lực lượng sản xuất và các yếu tố cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất Tình hình nghiên cứu trong nước Lý luận về lực lượng sản xuất và những yếu tố tác động đến sự phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề được nghiên cứu trong rất nhiều công trình, vì đó là vấn đề cơ bản của triết học xã hội. Dưới đây là tóm tắt nội dung của những công trình nghiên cứu chủ yếu gần đây ở Việt Nam về vấn đề này. Nguyễn Thị Lan Hương (2006), (Tạp chí Triết học, số 9, có bài viết “Tác động của cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin đến lực lượng sản xuất – nhìn từ góc độ triết học” [71, tr.46 - 52]. Trong bài viết này, tác giả đã luận giải thực chất của cuộc cách mạng trong công nghệ thông tin, trên cơ sở đó, phân tích tác động của nó đến lực lượng sản xuất trong nền kinh tế hiện đại. Theo tác giả, cách mạng thông tin là yếu tố đóng vai trò thúc đẩy việc biến tri thức khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (tạo dựng kinh tế tri thức, phát huy vai trò ngày càng cao của tri thức, làm cơ sở cho quá trình hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế). Công nghệ thông tin đóng vai trò là công nghệ chìa khóa trong hệ thống các công nghệ cao, làm thành trụ cột của nền kinh tế tri thức gồm: công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vật liệu mới, công nghệ thông tin. Dưới tác động của Internets, tri thức ngày càng mang tính xã hội hóa cao độ, tính quốc tế hóa và đại chúng hóa của Internets đang làm giảm sự độc quyền về tri thức; ngày nay tri thức không còn là độc quyền sở hữu của các nhà nghiên cứu, những chuyên gia kỹ thuật hay những ông chủ tư bản. Khi đã được xã hội hóa nhờ công nghệ thông tin, tri thức được phổ biến tới đông đảo quần chúng cả về quy mô, tốc độ và nhờ đó, thúc đẩy việc đưa các phát minh khoa học, các sáng chế công nghệ vào quá trình sản xuất một cách nhanh nhất; khoảng cách từ phòng thí nghiệm đến sản xuất đang không ngừng được rút ngắn một cách tối đa. Chính điều đó đang tạo ra động lực cho LLSX phát triển trên quy mô quốc tế, thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa. Công nghệ thông tin hiện đại đã tác động mạnh mẽ đến các yếu tố của LLSX: tạo ra những biến đổi to lớn trong phân công lao động xã hội, làm thay đổi cơ cấu lao động, làm biến đổi nội dung và tính chất của lao động. Cách
  12. 7 mạng công nghệ thông tin đến sự phát triển của LLSX, làm thay đổi các yếu tố cấu thành LLSX; phân tích làm rõ tác động của công nghệ thông tin đến các yếu tố của LLSX, trước hết là tạo ra những biến đổi to lớn trong phân công lao động xã hội theo hướng tăng lao động trí óc và giảm lao động chân tay; làm xuất hiện một dạng lao động mới – lao động thông tin. Lao động thông tin là sản xuất, xử lý, trao đổi thông tin, cung cấp những cơ sở cho việc ra quyết định. Phân công lao động trong nền kinh tế mới không phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên thiên nhiên, ngành nghề được đào tạo, nguồn lao động dồi dào hay lực lượng tư bản như trước đây, mà ngày càng dựa nhiều vào lực lượng lao động có năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng kiến thức. Cùng với sự xuất hiện của lao động thông tin, cơ cấu ngành nghề cũng biến đổi nhanh chóng. Số lao động liên quan đến thông tin và xử lý thông tin tăng nhanh (đặc biệt ở lĩnh vực máy tính, nghiên cứu, triển khai, phân tích, đo lường, giáo dục – đào tạo) tăng nhanh. Cơ cấu lao động biến đổi theo hướng tăng đội ngũ chất xám. Cách mạng công nghệ thông tin đã góp phần làm biến đổi cả nội dung và tính chất của lao động. Về nội dung, lao động đang chuyển dần từ lao động thủ công, lao động cơ khí sang lao động thông tin, lao động trí tuệ. Về tính chất, lao động đang biến đổi theo hướng ngày càng mang tính chất xã hội hóa sâu sắc, thể hiện ở việc tổ chức sản xuất trực tiếp giữa các đơn vị sản xuất diễn ra trên một quy mô lớn với sự phân công lao động vừa đảm bảo khả năng chuyên môn hóa, vừa có khả năng phi chuyên môn hóa một cách rộng rãi. Công nghệ thông tin là cơ sở cho quá trình hội nhập và toàn cầu hóa kinh tế. Về kỹ thuật, nhờ những phát minh của công nghệ thông tin như bộ vi xử lý, vệ tinh viễn thông, cáp quang, đặt biệt là internet đã kết nối thế giới nhanh chóng và chặt chẽ hơn. Toàn cầu hóa ngày nay, ngoài việc dựa trên cơ sở Internet và thương mại điện tử, còn dựa trên nền tảng của sản xuất với sự chuyên môn hóa và phi chuyên môn hóa cao độ. Chất lượng hàng hóa ngày nay mang quy chuẩn quốc tế, thể hiện qua các ISO. Đó là một yêu cầu nhưng cũng là một thực tế cho thấy tính quốc tế hóa, toàn cầu hóa cao độ của sản phẩm sản xuất. Nguyễn Hữu Khiển (2009) (trong Tạp chí Triết học, số 3) có bài“Học thuyết Mác và vấn đề hoàn thiện các yếu tố của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay”[80]. Trong bài viết này, tác giả cho rằng, với phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ khái quát đến các yếu tố của sự vật, hiện tượng, C.Mác đã kế thừa các học
  13. 8 thuyết xã hội trước đó và khẳng định rằng phương thức sản xuất (PTSX) là yếu tố quan trọng và quyết định nhất, là tiêu chí cơ bản thể hiện trình độ của tiến bộ xã hội, phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Với phương pháp đi từ trừu tượng đến cụ thể, bằng những sự kiện của lịch sử trong sản xuất xã hội và các quá trình xã hội khác, chúng ta có thể làm sáng tỏ thêm rằng mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX quyết định sự phát triển của các PTSX, quyết định sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử. Cũng theo tác giả, triết học Mác coi LLSX là yếu tố năng động nhất trong các yếu tố cấu thành PTSX xã hội, quyết định xu hướng, tốc độ, nhịp độ vận động của các QHSX; đến nay quan điểm đó vẫn còn nguyên giá trị. Khi vận dụng quan điểm của C.Mác về LLSX chúng ta cần dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau: (1) Nhận thức đúng đắn quan điểm của C.Mác và V.I.Lênin; (2) Không máy móc, giáo điều; học thuyết Mác cần được vận dụng một cách sáng tạo sao cho có thể thích ứng với một xã hội cụ thể, một quốc gia, dân tộc cụ thể…(3) Vận dụng sáng tạo học thuyết Mác vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể sao cho có thể hướng tới việc phát huy cao nhất các yếu tố vốn có, các yếu tố mới sáng tạo, các nguồn lực của đất nước và dân tộc. (4) Cần xác định rõ vị trí và vai trò của LLSX trong xã hội, cũng như vị trí vai trò của từng yếu tố cấu thành LLSX. Trong LLSX, con người là yếu tố quan trọng hàng đầu. Đối với nước ta, ưu thế của nguồn lực con người đã được khẳng định (thông minh, sáng tạo, cần cù và khéo léo…). Nhưng trước những yêu cầu mới, bối cảnh mới, cơ chế mới, nguồn lực đó đang bộc lộ những hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động xã hội (tác phong của người tiểu nông, kỷ luật lao động thấp; hạn chế về thể chất và tinh thần…). Một số khuyết điểm trong lao động của người Việt Nam có thể do nguyên nhân khách quan và chủ quan; những yếu tố tác động bên ngoài như (cơ chế, chính sách, thể chế…); những hạn chế chủ quan đến từ sự yếu kém trong phương thức, quy trình và nội dung đào tạo hiện nay. Trần Đắc Hiến (2011) (trong tạp chí Triết học, số 1), có bài viết“Luận điểm khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của C.Mác và sự vận dụng ở nước ta hiện nay” [49, tr 127]. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích một số nội dung cơ bản trong luận điểm của C.Mác dự báo khoa học trở thành LLSX trực tiếp, nghĩa là khoa học trực tiếp tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Tác giả
  14. 9 cho rằng, khoa học (biểu hiện ở các tri thức khoa học, thành tựu của khoa học và phát minh khoa học) là sản phẩm sáng tạo của tư duy con người, khi được con người ứng dụng vào hoạt động sản xuất, hay là khi được chuyển hóa, được vật chất hóa thành công cụ sản xuất và được con người sử dụng trong hoạt động lao động để tạo ra của cải vật chất thì nó sẽ trở thành LLSX trực tiếp. Khoa học với tính cách là hình thái ý thức xã hội, một yếu tố của kiến trúc thường tầng thì không thể là LLSX hay thành tố của LLSX được. Khoa học – công nghệ và sản xuất đang có xu hướng nhất thể hóa. Nguyễn Đức Luận (2012) có luận án tiến sỹ triết học “Những tác động của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển lực lượng ở nước ta hiện nay” [84]. Trong luận án này sau khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về LLSX, QHSX và sự tác động của QHSX đối với sự phát triển của LLSX, tác giả phân tích quá trình đổi mới QHSX và tác động của quá trình đó đối với sự phát triển của LLSX ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Tác giả chia thời kỳ từ 1986 đến nay thành các giai đoạn khác nhau. Giai đoạn từ 1986 đến 1991, QHSX có sự đổi mới trên cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm. Giai đoạn từ 1991 đến 1996, vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế được Đảng ta xác định rõ ràng hơn so với Đại hội VI, phản ánh rõ nét hơn những đặc trưng của LLSX ở nước ta. Về tổ chức và quản lý sản xuất, Đảng đã xác định hướng cơ bản và lâu dài của cơ chế quản lý kinh tế là: xóa bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong cơ chế này, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Về phân phối sản phẩm, Đảng chú trọng tới việc điều chỉnh từ trả lương bằng hiện vật sang hình thức trả bằng tiền, kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Giai đoạn từ 1996 đến 2006, Đảng ta xác định: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối khi CNXH được xây dựng xong về cơ bản. Nền kinh tế ở nước ta có ba hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân, tập thể và tư nhân; với các thành phần kinh tế nhà nước, tập thể, cá thể tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Về tổ chức, quản lý sản
  15. 10 xuất: lần đầu tiên khái niệm KTTT định hướng XHCN được chính thức nêu trong Văn kiện Đại hội Đảng IX, vai trò và cách thức quản lý kinh tế của Nhà nước được Đảng ta xác định rõ hơn: Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức KTTT để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Về phân phối sản phẩm: Đảng ta chủ trương phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Đây là một vấn đề rất mới và cũng là một bước tiến lớn so với nguyên tắc phân phối được nêu trong các Văn kiện Đại hội trước; phù hợp với nét đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay chúng ta đang có nhu cầu bức bách phải thu hút vốn đầu tư để phát triển sản xuất. Ở giai đoạn 2006 đến 2012, về sở hữu, Đảng ta khẳng định, trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể và tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Về tổ chức, quản lý sản xuất: Đảng ta tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế thị trường để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp cũng như mọi tổ chức, cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh; Đại hội XI, Đảng coi trọng hiệu quả quản lý của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường; tăng cường công tác giám sát, nhất là giám sát thị trường tài chính, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp sai lệch vào các quan hệ thị trường. Đồng thời tác giả cũng cho rằng tính đúng đắn của chủ trương của Đảng về đa dạng hóa các hình thức sở hữu; chủ trương này phù hợp với trình độ của LLSX ở nước ta, thể hiện sự vận dụng đúng đắn của Đảng về quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở nước ta. Với sự vận dụng đúng đắn đó đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng sức sản xuất, kích thích được cá nhân người lao động hăng say lao động, lao động với tinh thần
  16. 11 trách nhiệm cao, ý thức kỷ luật tốt, tinh thần sáng tạo trong lao động thúc đẩy LLSX và nền sản xuất xã hội phát triển. Phạm Văn Tân (2017) có luận án tiến sỹ triết học “Phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở thành phố Hà Nội hiện nay” [110]. Trong luận án này tác giả phân tích một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH,HDH); quan niệm về nguồn lực con người, phát triển nguồn lực con người. Từ cách tiếp cận các khái niệm khác nhau về nguồn lực con người, tác giả cho rằng: nguồn lực con người là tổng thể số lượng và chất lượng con người với tổng hòa các tiêu chí về thể lực, trí lực và phẩm chất đạo đức – tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Với cách tiếp cận này thì nguồn lực con người bao gồm các yếu tố cơ bản đó là số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn lực con người. Muốn phát triển nguồn lực con người cần phải phát triển về mặt số lượng và chất lượng (bao gồm những yếu tố cơ bản về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, năng lực xã hội, năng lực thẩm mỹ) tức là nâng cao giá trị nguồn lực con người. Việc phát triển nguồn lực con người có tầm quan trọng, vì đây là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là nhân tố quyết định thành bại của chủ trương CNH,HĐH. Để phát triển nguồn nhân lực con người đáp ứng yêu cầu CNH,HDH thì cần phải đảm bảo đủ về số lượng, phải đảm bảo nâng cao chất lượng (về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, năng lực xã hội) Lê Thị Chiên (2021) có bài “Quan điểm của C.Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay” đăng trên tapchicongsan.org.vn, ngày 14/1/2021 [35]. Trong bài này tác giả phân tích quan điểm của C.Mác về LLSX. Tác giả cho rằng, theo C.Mác LLSX không phải là cái “bản chất tinh thần” nào đó, mà là những cái có sức mạnh vật chất; sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người, là hoạt động cơ bản nhất, quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Trong quá trình sản xuất, con người có quan hệ với tự nhiên chính là biểu thị của LLSX. Nhưng không phải mọi quan hệ của con người với tự nhiên đều
  17. 12 tạo ra LLSX, mà chỉ có những quan hệ trong đó sự tác động giữa con người với tự nhiên tạo thành của cải vật chất phục vụ những nhu cầu của họ, đồng thời giúp họ cải biến bản thân mới được gọi là những quan hệ tạo ra LLSX. LLSX thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình cải biến giới tự nhiên. Trong quá trình đó, con người nắm bắt những quy luật của tự nhiên, biến nó thành thế giới thứ hai với sự tham gia của bàn tay và khối óc con người. LLSX tạo ra tiền đề vật chất cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nó là tiêu chí cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Các yếu tố cơ bản cấu thành LLSX, đó là người lao động và tư liệu sản xuất. Nếu tư liệu sản xuất là điều kiện cần của quá trình sản xuất vật chất thì người lao động chính là chủ thể, đóng vai trò quyết định sự phát triển của sản xuất. Nếu không có con người biết chế tạo, sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên thì không có quá trình sản xuất vật chất. Ngoài hai yếu tố cơ bản trên, khoa học cũng có vai trò đối với sản xuất vật chất nói chung và với sự phát triển của LLSX nói riêng. Tri thức khoa học đã làm cho tư bản cố định như nhà xưởng, máy móc được dùng trong sản xuất và được người lao động sử dụng trong quá trình sản xuất chuyển hóa đến một mức độ nhất định nào đó thì trở thành LLSX trực tiếp. Tác giả nhận xét quan điểm của C.Mác về LLSX trong bối cảnh toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp (CMCN) lần thứ tư ở mấy điểm sau. Một là, ở thời đại của C.Mác, lực lượng lao động chủ yếu là công nhân cơ khí, đa số là lao động thủ công; nhưng ngày nay, những thành tựu của CMCN lần thứ tư đã làm cho công cụ lao động ngày càng được cải tiến; sức lao động của con người được giải phóng; trình độ kiến thức, tay nghề, kỹ năng, kỹ xảo của người lao động không ngừng được nâng cao. Do đó, trong rất nhiều nhà máy, xí nghiệp, số lượng nhân lực khoa học – công nghệ tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất chiếm tỷ lệ ngày càng cao, vượt trội hơn hẳn so với số lượng lao động làm việc cơ bắp thông thường. Đội ngũ công nhân trí thức xuất hiện và có xu hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng và chất lượng, điều này đã làm thay đổi dần tỷ trọng lao động phổ thông và lao động có trình độ cao. Do đó, việc bổ sung nội hàm của khái niệm người lao động là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay, vì “Điều này hết sức quan trọng đối với đất nước ta khi đất nước đang từng bước tiến tới nền kinh tế tri thức, khi nhiệm vụ tri thức hóa công nhân trở thành đòi hỏi bắt buộc, nếu chúng ta muốn đưa đất nước tiến kịp thế giới, tránh tụt hậu xa hơn trong
  18. 13 quá trình hội nhập với kinh tế thế giới. Hai là, trước đây khi nói đến LLSX, C.Mác nhấn mạnh đến khả năng của con người trong việc chinh phục giới tự nhiên. Nhưng trên thực tế, trong quá trình sản xuất, con người không chỉ chinh phục giới tự nhiên mà còn phải thích nghi với giới tự nhiên, nên khi đề cập đến phạm trù LLSX mà chỉ nhấn mạnh đến hoạt động chinh phục giới tự nhiên, xem nhẹ hoạt động thích nghi với giới tự nhiên là chưa đầy đủ. Hệ quả của quan điểm này là con người tìm mọi cách chinh phục, khai thác sao cho được nhiều nhất của cải từ thiên nhiên, bất chấp mọi hậu quả. Trong bối cảnh hiện nay, với mục tiêu phát triển bền vững, quan niệm về LLSX cần được bổ sung khía cạnh “con người hòa hợp với tự nhiên”. Ba là, LLSX hiện đại trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa. Đây là đặc điểm mới, chỉ riêng có ở LLSX hiện đại mà LLSX ở các giai đoạn trước kia chưa có hoặc mới ở phạm vi hẹp. Ở thời của C.Mác, ông đã đề cập đến xu hướng phát triển tất yếu của nền sản xuất là thiết lập mối quan hệ ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng chưa thực sự đặt ra vấn đề toàn cầu hóa LLSX. Nguyễn Thúy Quỳnh (2021), có bài “Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam”, (đăng trên Tạp chí Kinh tế tài chính Việt Nam, số 3/2021) [107]. Trong công trình này, tác giả vận dụng lý thuyết nghiên cứu kinh tế học để nghiên cứu chất lượng nguồn nhân lực. Theo tác giả, chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực với tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực là tổng thể những nét đặc trưng, phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất và phát triển con người. Chất lượng nguồn nhân lực cao có tác động làm tăng năng suất lao động. Trong thời đại tiến bộ kỹ thuật, một số quốc gia cần và có thể đưa chất lượng nguồn nhân lực vượt trước trình độ phát triển của cơ sở vật chất trong nước để sẵn sàng đón nhận tiến bộ kỹ thuật công nghệ, hòa nhập với nhịp độ phát triển của nhân loại. Chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá thông qua các tiêu chí về trạng thái thể lực, trí lực, đạo đức và phẩm chất. Trình độ học vấn của nguồn nhân lực nước ta liên tục được cải thiện qua từng năm. Kết quả của giáo dục – đào tạo được thể hiện ở trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực. Giáo dục – đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sẽ thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, hiệu quả công việc. Chất lượng của nguồn nhân lực cao có
  19. 14 tác động đến năng suất lao động; khoa học và công nghệ có tác động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, làm thay đổi quá trình tổ chức, trình độ chuyên môn và là động lực thúc đẩy người lao động không ngừng học hỏi, tự đào tạo, tự trao đổi kiến thức. Vũ Thanh Sơn (2021) có bài viết “Thực hiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng” (đăng trên https://www.tapchicongsan.org.vn ngày 20/9/2021) [109]. Tác giả cho rằng, quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đặc điểm quan trọng của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN “là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền XHCN, do đảng cộng sản lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Quan hệ phân phối nằm trong sự thống nhất hữu cơ của ba mặt QHSX, phù hợp với mô hình KTTT ở Việt Nam. Các mặt này có quan hệ biện chứng với nhau. Quan hệ phân phối là mặt cơ bản của QHSX; phản ánh quan hệ xã hội trong việc phân chia các nguồn lực, của cải xã hội. Phân phối là khâu quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội, bao gồm sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Sự thống nhất, liên thông các khâu bảo đảm cho quá trình tái sản xuất xã hội diễn ra không ngừng và liên tục. Lê Quân (2021) có bài “Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô giai đoạn 2020 – 2025, định hướng đến 2030 và tầm nhìn phát triển Thủ đô đến 2045” (in trong “Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vận dụng sáng tạo vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại”, Hà Nội, 2021) [100]. Trong bài viết này, tác giả nhận định giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Ba mục tiêu mà sự nghiệp giáo dục, đào tạo phải đạt tới là nâng cao dân trí, phát triển nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, trong đó phát triển nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa quan trọng và được ưu
  20. 15 tiên hơn. Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng lao động, thái độ và phong cách làm việc, kinh nghiệm sống, đạo đức, lý tưởng, chất lượng văn hóa, năng lực chuyên môn, tính năng động trong công việc mà bản thân con người và xã hội có thể huy động vào cuộc sống lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm tạo ra sự tăng trưởng về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực; đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng để nguồn lực này đáp ứng ngày càng tốt hơn sự phát triển bền vững của đất nước. Nguyễn Vũ Bích Hiền (2021) có bài viết: “Giáo dục – đào tạo trước yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đô giai đoạn 2021-2025, định hướng 2030”, (in trong “Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vận dụng sáng tạo vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại”, Hà Nội, 2021) [64]. Trong bài này, tác giả đã nêu tổng quan về đổi mới giáo dục và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; nguồn nhân lực là nguồn lực con người bao gồm cả thể lực, trí lực và tâm lực. Theo tác giả, nguồn nhân lực có tác động trực tiếp và lâu dài tới sự phát triển của mỗi cá nhân, gia đình và cộng đồng xã hội. Cho nên, đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững; phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đang trở thành nhiệm vụ cấp bách của mọi quốc gia. Sở Văn hóa – Thể thao Hà Nội (2021) có bài viết, “Phát huy giá trị văn hóa và con người Hà Nội, khơi dậy ý chí, niềm tự hào, khát vọng của nhân dân Thủ đô” (in trong “Kỷ yếu Hội thảo khoa học Vận dụng sáng tạo vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Hà Nội, 2021) [144]. Trong bài viết này, các tác giả cho rằng, văn hóa ngày nay không chỉ là nền tảng tinh thần, mục đích, động lực, là sự điều tiết của sự phát triển xã hội, mà còn là nguồn lực của sự phát triển. Văn hóa có mặt trong mọi quan hệ của con người, quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với lịch sử, với chính mình. Văn hóa trong chính trị, chính trị trong văn hóa; văn hóa trong kinh tế, kinh tế trong văn hóa; văn hóa là yếu tố nội
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2