intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:157

11
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay" được hoàn thành với mục tiêu nhằm làm rõ thêm thực trạng phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay; đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HỒ THỊ DUNG PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY Ngành: CNDVBC & CNDVLS Mã số: 9.22.90.02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy HÀ NỘI - 2024
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đinh Ngọc Thạch và PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy. Những kết quả và nội dung nêu trong luận án là trung thực, các tài liệu tham khảo từ thực tế, số liệu sử dụng có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn theo quy định. HàNội, ngày tháng năm 2024 Tác giả Hồ Thị Dung
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................................. 6 1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân ...............6 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường tỉnh Đồng Nai ...............................................................15 1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai ....................................20 Tiểu kết chương 1 .............................................................................................26 Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA. NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG ........... 28 2.1. Quan niệm về dân chủ .................................................................................28 2.2. Chủ thể, nội dung, phương thức và tiêu chí đánh giá việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân .........................................................................................48 2.3. Một số nội dung cơ bản về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở phường, xã .................................................................................55 Tiểu kết chương 2 .............................................................................................66 Chương 3. THỰC TRẠNG PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY............................................................................................................................. 68 3.1. Khái quát về điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội và sự tác động của nó đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay ......................................................................................68 3.2. Thành tựu và nguyên nhân của nó trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay......................76 3.3. Hạn chế và nguyên nhân của nó trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường tỉnh Đồng Nai ...............................................................93 Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................106
  4. Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƯỜNG TỈNH ĐỒNG NAI TRONG THỜI GIAN TỚI..................................................... 108 4.1. Một số quan điểm nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới .........................108 4.2. Các giải pháp nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới ............................113 Tiểu kết chương 4 ...........................................................................................132 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 134 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ................................ 136 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 137 PHỤ LỤC ................................................................................................................. 147
  5. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BCH Ban Chấp hành BTV Ban Thường vụ CNH – HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNDV Chủ nghĩa duy vật DCCS Dân chủ cơ sở HĐND Hội đồng nhân dân HTCT Hệ thống chính trị KCN Khu công nghiệp MTTQ Mặt trận Tổ quốc QCDC Quy chế dân chủ UBMT Ủy ban Mặt trận UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa CNXH Chủ nghĩa xã hội
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu Dân chủ là một giá trị phổ biến của toàn nhân loại, là khát vọng chính đáng và là mục tiêu trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ vào điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Người đã đưa ra những tư tưởng sâu sắc, đúng đắn về dân chủ và thực hiện dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, nó được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, nó phản ánh mối quan hệ cơ bản giữa Nhà nước và nhân dân trong chế độ chính trị - xã hội nhất định. Luận điểm của Người cho đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và ý nghĩa nhân văn, là định hướng cho nhận thức hoạt động thực tiễn của Đảng và nhân dân ta trong công cuộc đổi mới. Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Thực hiện dân chủ là một trong những thành tố quan trọng của mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ở Việt Nam. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ... bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” [31, tr.172 -173]. Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật Việt Nam khẳng định rõ các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trên thực tế, ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân, ý thức về dân chủ trong xã hội đã được nâng lên. Việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có bước tiến bộ nhất định. Tuy nhiên, quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở nước ta chưa được phát huy 1
  7. đúng mức xét ở cả góc độ nhận thức cũng như góc độ thực tiễn. Trong suốt những năm đổi mới vừa qua, quá trình phát huy quyền làm chủ của nhân dân cơ bản vẫn còn dựa trên cơ sở từ thực tế, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Do vậy tính tổng thể, tính đồng bộ và hiệu quả của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân còn bị hạn chế. Đặc biệt tại địa bàn xã, phường, tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn khá phổ biến. Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, diện tích tự nhiên 5.907,2 km², có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố và 9 huyện, với 170 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 40 phường, 8 thị trấn và 122 xã. Tỉnh có diện tích lớn thứ nhì ở Đông Nam Bộ (sau Bình Phước). Tính đến năm 2019, dân số toàn tỉnh Đồng Nai đạt 3.097.107 người, mật độ dân số đạt 516,3 người/km², dân số thành thị chiếm 48.4%, dân số nông thôn chiếm 51.6%. Đây cũng là tỉnh đông dân nhất vùng Đông Nam Bộ với hơn 3 triệu dân (sau Thành phố Hồ Chí Minh). Đồng Nai là khu vực phát triển mạnh về kinh tế, chủ yếu là ngành công nghiệp và trở thành “thủ phủ công nghiệp” của vùng Đông Nam bộ. Bên cạnh thuận lợi về nguồn lực phát triển, những năm gần đây đang tiềm ẩn nguy cơ bất ổn trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa, sinh hoạt tôn giáo, nhiều vấn đề gắn với lợi ích của các tầng lớp nhân dân không được giải quyết một cách hiệu quả, trong đó có quyền làm chủ của nhân dân. Tại một số địa phương trong tỉnh, việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở phường xã vẫn còn mang tính hình thức, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu; ban thanh tra nhân dân chưa phát huy hết vai trò của mình, chưa chủ động kiểm tra, giám sát; nhiều người chưa nhận thức đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” tại xã, phường vẫn chưa có đủ những căn cứ pháp lý để đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Đảng và đảm bảo việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hạn chế đó đang tác động bất lợi đến phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường, đến giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong 2
  8. thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành CNDVBC & DVLS của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng của việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. Hai là, làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường hiện nay. Ba là, làm rõ thực trạng phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay. Bốn là, đề xuất quan điểm, và một số giải pháp nhằm phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến nay, tập trung vào 3 nội dung: thứ nhất, quyền làm chủ của nhân dân trong chính trị; thứ hai, quyền làm chủ của nhân dân trong kinh tế; thứ ba, quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống văn hóa - xã hội và các lĩnh vực khác. 3
  9. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về vai trò của quần chúng nhân dân và dân chủ. Đặc biệt là quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình thực hiện dân chủ cơ sở. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài luận án tác giả sử dungh các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội liên ngành như: Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phương pháp này nhằm xác định và phân tích các báo cáo số liệu, biểu mẫu thống kê về tình hình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nơi khảo sát, các các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát huy quyền làm chủ của người dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường. Phương pháp này dùng để nghiên cứu cả lý luận và thực trạng. Phương pháp chuyên gia: Phương pháp này nhằm lấy ý kiến của những người có kinh nghiệm, am hiểu cả lý luận và thực tiễn về lĩnh vực mà đề tài nghiên cứu: các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà hoạch định chính sách, nhà hoạt động thực tiễn tại địa phương. Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp này nhằm nhận diện cụ thể các lĩnh vực đã phát huy quyền làm chủ của người dân, hoặc đang có vấn đề đặt ra hay các yếu tố tác động đến việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của người dân ở các xã, phương tỉnh Đồng Nai; từ đó có thể khái quát bức tranh về hiện trạng phát huy quyền làm chủ của người dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phương pháp quan sát: Phương pháp này nhằm thu thập những dữ liệu về những khía cạnh khác nhau trong thực tế thực hiện phát huy quyền làm chủ của người dân tại cơ sở. Đôi khi những vấn đề của nhận thức nằm sâu trong tâm lý, phương cách giải quyết sự việc của người dân. Bên cạnh đó, yếu tố văn hóa địa 4
  10. phương cũng chi phối cách triển khai và thực hiện dân chủ ở xã, phường tại tỉnh Đồng Nai. Do vậy, phương pháp quan sát sẽ bổ sung nhằm nghiên cứu thực trạng phát huy quyền làm chủ của người dân ở xã, phường tỉnh Đồng Nai. 5. Những đóng góp mới của luận án Thứ nhất, bổ sung, phát triển lý thyết, lý luận về dân chủ và làm rõ thêm thực trạng phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay. Thứ hai, đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường tỉnh Đồng Nai hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án Thứ nhất, luận án góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường. Thứ hai, luận án góp phần cung cấp cơ sở lý luận, khoa học cho việc hoạch định chính sách, pháp luật về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực hiện dân chủ ở xã, phường của tỉnh Đồng Nai hiện nay nói riêng và ở Việt Nam hiện nay nói chung. Thứ ba, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy các chuyên đề liên quan đến vấn đề dân chủ, quyền làm chủ và thực hiện dân chủ ở xã, phường tại Đồng Nai nói riêng và Việt Nam nói chung. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các công trình của tác giả đã được công bố và bản phụ lục thì luận án gồm 4 chương, 12 tiết. 5
  11. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình nghiên cứu về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân Cùng với quá trình đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu phát huy dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội đặt ra hết sức cấp bách ở nước ta. Vì vậy, các hoạt động nghiên cứu để tìm ra các giải pháp hữu hiệu đảm bảo thực hiện dân chủ nói chung và dân chủ ở cơ sở nói riêng đã và đang được thực hiện ở nước ta trong những năm gần đây. Các nghiên cứu được công bố dưới nhiều dạng khác nhau: báo cáo tổng hợp và kiến nghị của các đề tài nghiên cứu các cấp, các bài báo khoa học, các luận án và luận văn trong các lĩnh vực, chuyên ngành Luật học, hành chính học, xã hội học, chính trị học, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các công trình ấy có liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án vì nó đề cập đến các vấn đề lý luận về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; lý luận về nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo đảm thực hiện quyền dân chủ của công dân. Đây là những vấn đề thu hút sự quan tâm rất lớn của các học giả nước ngoài - nơi có những tranh luận khoa học sôi nổi về dân chủ trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại. Vì vậy, luận án chỉ tổng quan một số công trình nghiên cứu mang cơ bản nằm trong khả năng thu thập tư liệu của tác giả như sau. Cuốn sách “Dân chủ” của Gioóc-giơ Mác-se - nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Pháp (Nxb. Sự thật, HN, 1992) [37] gồm 5 phần, có tính luận chiến những vấn đề nóng bỏng và thiết thực liên quan đến nhận thức và thực hiện dân chủ trên thế giới, nhận diện bản chất nền dân chủ tư sản hiện đại, những bài học từ cuộc khủng hoảng mô hình chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô và Đông Âu. Từ những thành công và thất bại của CNXH hiện thực, tác giả cho rằng, chủ nghĩa xã hội, nền dân chủ mới không được xác định một lần là xong, mà là một 6
  12. quá trình cải tạo xã hội lâu dài do nhân dân thúc đẩy nhằm sáng tạo những điều kiện của một nền văn minh thực sự của con người. Cuốn sách “Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại” của tác giả David Held (bản dịch của Phạm Nguyên Trường; Đinh Tuấn Minh hiệu đính, Nxb Tri Thức, Hà Nội, 2013) [23]. Cuốn sách đã trình bày, phân tích các mô hình dân chủ và những biến thể của nó. Tác giả cho rằng, dân chủ có một lịch sử phức tạp với nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, và mô hình dân chủ là rất đa dạng; chúng ta không thể hài lòng với những mô hình dân chủ hiện hữu tại các nước tự coi mình là hình mẫu, bản thân hình mẫu dân chủ cần được thẩm định bởi các tầng lớp xã hội, bởi nhân dân. Cuốn sách “Dân chủ trực tiếp, sổ tay IDEA quốc tế” của Viện quốc tế về dân chủ và hỗ trợ bầu cử (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014) [130]. Cuốn sách trình bày tổng quan về việc vận dụng dân chủ trực tiếp, nhất là trưng cầu ý dân, sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự và bãi miễn được thực hiện ở các vùng trên thế giới. Ở đây, dân chủ được tiếp cận theo nghĩa là chế độ chính trị, hệ thống tổ chức quyền lực và cơ chế, quy trình vận hành hệ thống dân chủ. Theo đó, dân chủ trực tiếp được xem là một cơ chế độc đáo khuyến khích sự tham gia của công dân và tự do ngôn luận để thúc đẩy xây dựng nền dân chủ trong các xã hội đang phát triển. Cuốn sách“Dân chủ và tiến bộ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội”của tác giả O.T. Bogomolov - Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) [97]. Trong công trình này, tác giả đã trình bày các nguyên tắc nền tảng của dân chủ; cuộc khủng hoảng của dân chủ Phương Tây; mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển ở các nước trên thế giới và ở Nga. Tác giả cho rằng, chính ảnh hưởng của Liên Xô và những thành tựu mà Liên Xô đạt được trong lĩnh vực xã hội đã thúc đẩy sự ra đời của mô hình nhà nước phúc lợi. Theo đó, ở Nga hiện nay, việc xây dựng nhà nước phúc lợi theo mô hình Bắc Âu là phù hợp với tâm lý của nhiều người và phù hợp với kinh nghiệm lịch sử của thời kỳ XHCN. 7
  13. Cuốn sách“Chế độ dân chủ, nhà nước và xã hội”( 2008) của N.M. Voskresenskaia, N.B. Davletshina, Nxb. Tri Thức, Hà Nội [98] trình bày nhiều vấn đề về dân chủ, trong đó phân tích các quan niệm khác nhau về dân chủ; giá trị dân chủ; cơ chế dân chủ; thể chế dân chủ, cấu trúc của chế độ dân chủ. Các tác giả cho rằng, dân chủ XHCN theo mô hình Xô Viết chỉ là một chế độ “toàn trị”, xa lạ với nguyên tắc, giá trị dân chủ nên nó đã thành quá khứ của nước Nga. Lập trường của cuốn sách này có điểm khác biệt với quan điểm phổ biến ở Việt Nam hiện nay, vì cuốn sách đề cao nền dân chủ đa nguyên, điều đó chỉ phù hợp với các nước phương Tây tư bản chủ nghĩa. Các tác giả cuốn “Dân chủ ở xã, phường, thị trấn với các quyền dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” (2003), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội [128] đã cho rằng, việc thực hiện dân chủ ở xã, phường và thị trấn vẫn còn gặp nhiều khó khăn; không phải nơi nào, lúc nào cũng thực hiện được dân chủ; vẫn còn nhiều điều bức xúc trong nhân dân; tình trạng khiếu kiện, tố cáo vẫn còn xuất hiện ở nhiều nơi. Nguyên nhân của tình trạng này bắt nguồn từ chỗ, ý thức làm chủ, tính tích cực, chủ động trong nhân dân ở nhiều nơi chưa cao; người dân thiếu thông tin về các vấn đề quan trọng ở địa phương, không hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình; nhiều cán bộ cấp xã còn hạn chế về chuyên môn, thiếu hiểu biết về pháp luật; sự công khai, minh bạch chưa được bảo đảm một cách vững chắc; nhân dân chưa thực hiện được quyền kiểm tra, giám sát. Các tác giả phần nào đã phản ánh một cách tổng thể về thành tựu và nguyên nhân yếu kém của việc thực hiện dân chủ và đề ra một số giải pháp cơ bản, nhưng những giải pháp đó là những giải pháp chung cho mọi loại hình dân chủ ở cơ sở. Cuốn sách “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn hiện nay” (2005), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội của Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông [111] phân tích cụ thể vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở nông thôn, lý luận chung về dân chủ và thực hiện dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Theo các tác giả, quá trình từ nghiên cứu lý luận sang thực hành dân chủ cho thấy yêu cầu 8
  14. khách quan của xã hội đang vận động trên lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời phản ánh một bước trưởng thành về ý thức xã hội, nhu cầu về dân chủ của dân chúng. Khi đề cập bản chất nhiều thứ bậc của phạm trù dân chủ và nội dung toàn diện của nó, các tác giả cho rằng, dân chủ với tư cách là một giá trị xã hội, dân chủ với tư cách là một thể chế, chúng không tách rời nhau trong các xã hội có phân chia giai cấp. Biện chứng của dân chủ thể hiện ở sự liên kết, thống nhất và chi phối nhau giữa tính giai cấp của dân chủ và yếu tố dân tộc, nhân loại. Nhất quán quan điểm “chính trị là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng làm nên và quần chúng quyết định”, các tác giả đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị; xây dựng ý thức và phát triển năng lực dân chủ của quần chúng. Bài viết “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển bền vững” (2007), Tạp chí Triết học số 7 (206) của tác giả Hoàng Chí Bảo [13] đã phân tích vai trò của dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong phát triển bền vững. Tác giả cho rằng, nền tảng văn hoá của phát triển bền vững là dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội; đó là những giá trị văn hoá trong phát triển bền vững; xây dựng và thực hành văn hoá phát triển phải theo hệ giá trị dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội. Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận có mối liên hệ logíc và lịch sử rất mật thiết với hòa bình, hợp tác và phát triển ở cấp độ toàn cầu. Mối liên hệ mật thiết này cũng hiển thị hết sức rõ ràng trong đời sống thực tiễn đổi mới và phát triển của từng dân tộc và quốc gia. Đó là liên hệ giữa dân chủ, đoàn kết và đồng thuận với đổi mới (cải cách), ổn định và phát triển. Thực tiễn và lý luận đều cho thấy một cách rõ ràng là, dân chủ đối lập với quan liêu, chuyên chế, độc tài mà tổn hại gây ra từ mặt đối lập này là tham nhũng. Nó chẳng những gây thiệt hại tới lợi ích của dân mà còn làm tổn thương và đe dọa xã hội về mọi mặt; nó đe dọa sự không bình yên của thể chế nhà nước và chế độ chính trị, phá hoại công bằng xã hội, làm suy đồi đạo đức, làm rạn nứt lòng tin của dân chúng, kìm hãm phát triển và dẫn tới nguy cơ phản phát triển. Sự phát triển yếu ớt của dân chủ là mảnh đất tốt dung dưỡng cho tham 9
  15. nhũng, cho những tha hóa của thể chế và quyền lực. Trong các trường hợp này, nhà nước không còn là đại biểu, đại diện cho quyền lực của nhân dân nữa; nó đã trở nên xa lạ và chống lại nhân dân trên thực tế, mặc dù vẫn có thể nhân danh xã hội và nhân dân trên danh nghĩa với cái vỏ pháp lý hình thức. Không chỉ thế, sự yếu kém và sự thiếu vắng giá trị dân chủ là một trong những lực cản lớn nhất của phát triển, là sự thiếu hụt chính trị - pháp lý và nhân văn lớn nhất của tiến bộ xã hội. Tác giả Ngọ Văn Nhân trong bài viết “Đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay”(2008) Tạp chí triết học, số 5/2008) [87] cho rằng, với tư cách là những hình thức của chế độ dân chủ, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện những hình thức này là điều kiện tiên quyết để nhân dân thực thi quyền làm chủ của họ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Để nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ của họ, chúng ta cần tạo môi trường pháp lý – xã hội thuận lợi để cho họ nói lên quan điểm, chính kiến của mình và chỉ trên cơ sở đó, đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay mới thực sự có hiệu quả. Thực trạng của công cuộc đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, bên cạnh những kết quả đạt được còn có những hạn chế. Việc thực hiện hình thức dân chủ trực tiếp ở nhiều lúc, nhiều nơi còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập, đòi hỏi đảng, nhà nước cần sớm có các biện pháp khắc phục, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện. Xung quanh hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay đang tồn tại những vấn đề, như Đảng ta đã nhận định: “Dân chủ ở nhiều nơi bị vi phạm, kỷ cương phép nước chưa nghiêm”. Điều đó đã và đang gây cản trở đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, làm hạn chế khả năng người dân nói lên quan điểm, chính kiến của mình đối với những vấn đề quan trọng của đất nước và của địa phương. Tác giả Lê Thi với bài viết “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức trách nhiệm của nhà nước” (2009), Tạp chí Triết học, số 08 [117; 10
  16. tr.17-22] chỉ ra rằng: Chính phủ tồn tại để phục vụ nhân dân, nhân dân là các công dân của nhà nước dân chủ, chứ không phải là đối tượng của nhà nước. Khi nhà nước bảo vệ quyền của công dân thì đáp lại, công dân trung thành với nhà nước của họ. Vị trí trung tâm của nhà nước đó là dân. Dân là chủ thể của quyền lực chính trị. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu vào các lĩnh vực của quyền dân chủ mà chỉ nghiên cứu chế độ dân chủ mang tính lý luận Các tác giả Nguyễn Văn Mạnh và Tào Thị Quyên trong cuốn “Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam lý luận và thực tiễn” (2010), Nhà xuất bản Hành chính, Hà Nội [75] đã làm sáng tỏ những lý luận và thực tiễn ở Việt Nam cũng như trên thế giới về vấn đề dân chủ trực tiếp; đánh giá những thực trạng, qua đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy các hình thức dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời các tác giả cũng nhấn mạnh những quan điểm khác nhau khi xem xét vai trò của hình thức dân chủ trực tiếp. Cuốn sách “Dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” (2011) của tác giả Lê Minh Quân, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [103] gồm 9 chương. Trong công trình này, tác giả tập trung phân tích những lý thuyết và mô hình chủ yếu, những xu hướng phát triển mới của thế giới với dân chủ hóa hiện nay, dân chủ hóa trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, mối quan hệ giữa xây dựng nhà nước pháp quyền với dân chủ hóa, vấn đề cơ chế kiểm soát quyền lực với dân chủ hóa. Tác giả dành một phần cuốn sách bàn về phát triển xã hội công dân với dân chủ hóa ở Việt Nam hiện nay, phân tích một số thành tựu và hạn chế trong việc phát huy sức dân, quyền lực của nhân dân. Theo tác giả, trong quá trình đổi mới, quyền lực trong thực tế ngày càng thuộc về nhân dân, nhờ đó tính tích cực chính trị được nâng lên đáng kể, song xét tổng thể, tình trạng thiếu dân chủ vẫn diễn biến phức tạp, những điều kiện và tiền đề cho dân chủ còn chưa vững chắc; thể chế, quy chế dân chủ còn chưa hoàn thiện và đồng bộ. Để nâng cao hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, vấn đề dân chủ và dân chủ hóa ở cơ sở phải được đảm bảo, theo đó phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở là yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới, là xu thế chung của 11
  17. nhiều nước trên thế giới. Dù cuốn sách ra đời cách đây đã lâu, nhưng một số phân tích về thực trạng và đề xuất giải pháp tăng cường dân chủ hóa và phát huy dân chủ của nhân dân vẫn còn ý nghĩa tham chiếu quan trọng. Riêng vấn đề “xã hội công dân” mà tác giả bàn đến, thực chất là các tổ chức quần chúng, các hiệp hội, liên minh chính trị - xã hội của nhân dân, mà việc phát huy vai trò của chúng trong đời sống chính trị - xã hội là nhân tố mang tính động lực cho quá trình phát triển đất nước. Cuốn sách “Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (2013), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [75] của tác giả Trần Ngọc Liêu cho rằng, nhà nước dân chủ là hình thức nhà nước cao nhất của nhân dân, nhà nước Việt Nam mới là nhà nước mà quyền lực và quyền lợi đều thuộc về nhân dân. Tác giả đề xuất một số phương hướng tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các thiết chế chính trị - xã hội nhằm bảo đảm thực thi quyền lực của nhân dân. Theo tác giả, một trong những điểm nhấn quan trọng là kết hợp dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, đồng thời hoàn thiện cơ chế kiểm sát quyền lực. Trong cơ chế kiểm soát quyền lực cần hoàn thiện các quyền của nhân dân, của từng công dân tham gia sự kiểm soát đó. Nhà nước sẽ chủ động bổ sung những điều khoản cần thiết, kịp thời uốn nắn những sơ hở, tạo ra một cơ chế kiểm soát quyền lực thực sự sắc bén, có hiệu quả. Các tác giả Mai Thị Quý, Nguyễn Thị Chinh trong bài viết “Quan điểm của Đảng về dân chủ và việc thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay” (2013), Tạp chí Triết học số 3, [105] cho rằng, việc thực hiện dân chủ là động lực để phát triển các mặt của đời sống của nhân dân. Với bài viết của mình, tác giả đã làm nổi bật một số nội dung cơ bản về bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan điểm của Đảng ta về dân chủ trong Văn kiện Đại hội XI, thực trạng về dân chủ và đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy dân chủ ở nước ta. Tác giả chỉ ra một số hạn chế trong quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay như: quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi 12
  18. phạm, thực hành dân chủ còn mang tính hình thức, có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội. Hiện tượng tham nhũng khá phổ biến. Hiện tượng đó làm thất thoát tài sản nhân dân, làm suy yếu bộ máy nhà nước, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý của nhà nước. Một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn chưa phù hợp với nhân dân, các chính sách đưa ra chưa thực hiện nghiêm túc. Trình độ văn hóa, hiểu biết về chính sách, pháp luật của một bộ phận nhân dân còn hạn chế. Tác giả chỉ ra các giải pháp cụ thể để thực hiện dân chủ mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, nguyên nhân của những yếu kém của việc thực hiện dân chủ chưa được tác giả làm rõ. Tác giả mới chỉ ra hạn chế trong quá trình thực hiện dân chủ. Tác giả chưa chỉ ra cách thức thực hiện dân chủ đầy đủ cho mọi đối tượng thực hiện. Tác giả Hồ Sĩ Quý (2014) có công trình “Dân chủ, độc tài và phát triển” Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội [106], đã chỉ ra nhiều gợi ý về mặt lý luận xung quanh mối quan hệ giữa dân chủ, độc tài và phát triển. Tác giả cho rằng: “Dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước mà trong đó, quyền lực thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và vì quyền lợi của nhân dân” còn có nhiều quan niệm về những khía cạnh khác nhau của dân chủ nhưng đôi khi người ta cũng xem khía cạnh này là định nghĩa khái niệm dân chủ” [106, tr.37-38]. Tác giả cũng nhấn mạnh: sự vận động phát triển của các nền dân chủ luôn phải trải qua những bước quanh co và không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, nhưng “dân chủ nếu có khiếm khuyết, nó sẽ được sửa chữa bằng một trình độ dân chủ cao hơn” [106, tr.256]. Bài viết “Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền và thực hiện dân chủ trực tiếp” (4-2014) Tạp chí Triết học, số 4 (275) [114]; “Dân chủ hóa và việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện hiện nay” (10-2016), Tạp chí Triết học, số 10 [115] của tác giả Đinh Ngọc Thạch và Nguyễn Thị Thanh Thủy cho rằng, nhận thức một cách sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa nhà nước pháp quyền và nền dân chủ là điều kiện tiên quyết để đẩy mạnh hơn nữa cải cách 13
  19. môi trường dân chủ, nâng cao tính pháp quyền của nhà nước, để khẳng định quyền lực của nhân dân các cơ quan quyền lực nhà nước cần phải xây dựng và thực hiện cơ chế đối thoại với nhân dân một cách chủ động, rộng rãi, thẳng thắn, công khai và cởi mở nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bài viết “Phát huy dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, đấu tranh phòng, chống tham nhũng: Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu”, Tạp chí Triết học, số 10 (305) năm 2016) của tác giả Phạm Văn Đức [36]. Tác giả cho rằng, phát huy dân chủ, giám sát và phản biện xã hội, đấu tranh phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa đặc biệt; phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát” có ý nghĩa quan trọng; điều cấp thiết hiện nay là nâng cao vai trò giám sát, phản biện của nhân dân đối với các cấp ủy đảng và chính quyền, để nâng cao hiệu quả đấu tranh chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy. Cuốn sách “Việt Nam 35 năm đổi mới (1986 – 2021)” (2021) của nhiều tác giả do Nhà xuất bản Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản [119]. Công trình có dung lượng 280 trang, 4 phần, tập hợp trên 50 bài viết, công bố dưới hình thức song ngữ Việt – Anh. Cuốn sách phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 35 năm đổi mới, trong đó có thành quả xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, rút ra những kinh nghiệm và bài học về nhận thức và thực hiện dân chủ. Trong cuốn sách có dẫn lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, rằng, “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Công trình“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (2021) của tác giả Nguyễn Phú Trọng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội [127], đã nhấn mạnh: Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu 14
  20. dài của cách mạng Việt Nam. Chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở xã, phường tỉnh Đồng Nai Cuốn sách “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2000), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội của tác giả Dương Xuân Ngọc [86] đã luận bàn một cách hệ thống về đặc điểm, quá trình hình thành, phát triển dân chủ cấp xã. Tác giả khẳng định rằng, xã là cơ sở xã hội của hệ thống chính trị, nơi đại đa số nông dân – lực lượng lao động nông nghiệp đông đảo nhất nước ta sinh sống. Vai trò và sức mạnh của lực lượng này chỉ được phát huy khi dân chủ ở cơ sở được mở rộng, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và phát huy. Cuốn sách “Thực hiện Quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay” (2003) do tác giả Nguyễn Văn Sáu và Hồ Văn Thông đồng chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội [113] đã phân tích nhiều vấn đề thiết thực về dân chủ cơ sở và quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Trong “Thay lời nói đầu”, các tác giả đề xuất một số giải pháp để giải quyết mối quan hệ giữa vai trò của chính quyền cơ sở và quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các giải pháp đó là: - Đảng cần phải không ngừng hoàn thiện chủ trương, đường lối và các chính sách cho phù hợp hơn nữa với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa; - Đảng cần tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, văn hóa cho quần chúng nhân dân; - Đảng cần tiếp tục nghiên cứu và phát triển hơn nữa những nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc tổ chức vận hành bộ máy của Đảng và Nhà nước. Cuốn sách còn dành một mục để sơ kết việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của một số tỉnh như Nghệ An, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Hưng Yên, Bắc Giang. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1