intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Triết học: Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

Chia sẻ: Phong Tỉ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:194

97
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án phân tích những thành tựu, hạn chế của các DNNN ở Việt Nam trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của quá trình hội nhập quốc tế; Đề xuất, luận giải những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và hiệu quả thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Triết học: Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay

  1. HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH MAI PHÚ HỢP TR¸CH NHIÖM X· HéI CñA C¸C DOANH NGHIÖP NHµ N¦íC ë VIÖT NAM TRONG QU¸ TR×NH HéI NHËP QUèC TÕ HIÖN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ Mã số: 62 22 03 02 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ HỒNG SƠN HÀ NỘI - 2018
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Mai Phú Hợp
  3. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước trong quá trình hội nhập quốc tế 6 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và giải pháp thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 19 1.3. Giá trị của các công trình đã nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ thêm 22 Chương 2: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 24 2.1. Trách nhiệm xã hội, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và vai trò của việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp 24 2.2. Hội nhập quốc tế và những yêu cầu của hội nhập quốc tế đối với việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay 44 2.3. Những nhân tố tác động đến việc thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 59 Chương 3: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 73 3.1. Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay - thành tựu và nguyên nhân 73 3.2. Thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay - hạn chế và nguyên nhân 98 Chương 4: NHỮNG NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY 123 4.1. Hoàn thiện khung pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho điều kiện kinh doanh và thực hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 126 4.2. Doanh nghiệp Nhà nước cần nâng cao nhận thức và biện pháp thực hiện trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 142 4.3. Nâng cao vai trò của các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp nhằm tác động thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 148 4.4. Nâng cao vai trò của người lao động và người tiêu dùng nhằm tác động thúc đẩy các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện tốt trách nhiệm xã hội trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay 151 KẾT LUẬN 156 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 157 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158 PHỤ LỤC 172
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ANQP : An ninh quốc phòng ASXH : An sinh xã hội CT1TV : Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên DNNN : Doanh nghiệp nhà nước NN : Nhà nước Nxb : Nhà xuất bản TNXH : Trách nhiệm xã hội TNXHDN : Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp TNXHDNNN : Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp nhà nước
  5. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH Trang Biểu đồ 3.1: Thống kê số lượng doanh nghiệp nhà nước 76 Biểu đồ 3.2: Tốc độ phát triển vốn của doanh nghiệp 77 Biểu đồ 3.3: Đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vào ngân sách 77 Biểu đồ 3.4: Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của doanh nghiệp nhà nước 89 Biểu đồ 3.5: Thu nhập bình quân 89 Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ tham gia các loại hình bảo hiểm 89 Biểu đồ 3.7: Cơ cấu vốn đầu tư và đóng góp GDP của các thành phần kinh tế 98 Biểu đồ 3.8: Hiệu quả đầu tư trung bình theo khối doanh nghiệp của Bảng xếp hạng VNR500 năm 2014 99 Biểu đồ 3.9: Tốc độ tăng trưởng kinh tế 99 Biểu đồ 3.10: Giảm lượng lao động trong các doanh nghiệp nhà nước 103 Biểu đồ 3.11: Tỷ lệ tạo ra việc làm mới 104 Biểu đồ 3.12: Mức độ người tiêu dùng hiểu quyền của mình 120 Hình 2.1: Mô hình kim tự tháp trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp của Carroll 31
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thuật ngữ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) ra đời vào những năm 1950 của thế kỷ 20, và kể từ đó cho đến nay đã có nhiều cách định nghĩa của các học giả khác nhau về thuật ngữ này. Tuy nhiên, dù cách thể hiện, hình thức diễn đạt ngôn từ có khác nhau, song nội hàm phản ánh của TNXHDN về cơ bản có điểm chung là nhằm tuyên truyền và kêu gọi các doanh nhân bên cạnh lợi nhuận không làm tổn hại đến các quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi lòng từ thiện nhằm bồi hoàn những thiệt hại mà các doanh nghiệp (DN) gây ra cho xã hội cũng như môi trường, thực hiện tốt trách nhiệm xã hội (TNXH) sẽ góp phần bảo đảm cho DN và xã hội cùng phát triển bền vững. Ngày nay, TNXHDN đã trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết mà hầu hết các quốc gia và DN trên thế giới phải tuân thủ. Đối với các nước phát triển, TNXHDN được xem là một trong những chiến lược quan trọng cho sự phát triển bền vững, là cơ sở giảm chi phí và tăng năng suất; Tăng doanh thu, nâng cao giá trị thương hiệu và uy tín của DN; Thu hút được nguồn lao động giỏi; Sản phẩm và hàng hóa dịch vụ dễ tiếp cận được với thị trường thế giới; Bảo vệ tốt môi trường tự nhiên, môi trường xã hội... và nó cũng được xem là "triết lý" kinh doanh của các DN. Chính lý do đó, áp dụng TNXH đối với các DN là nguyên tắc bắt buộc. Đồng thời, những nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì mỗi DN trong hoạt động kinh doanh luôn là một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế xã hội, những hành vi quyết định hướng kinh doanh cũng như phương thức kinh doanh của họ đều tuân theo những tiêu chuẩn và quy định của xã hội trên cả phương diện luật pháp cũng như đạo đức. Trong đó, chuẩn mực đạo đức trở thành phẩm chất không thể thiếu đối với mỗi người kinh doanh và đối với từng DN. Bên cạnh các chuẩn đạo đức, là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đã giữ vai trò chủ yếu trong việc ngăn chặn hoạt động kinh doanh vi phạm những chuẩn mực đạo đức. Hệ thống các thể chế, cùng đạo đức kinh doanh hoàn chỉnh và việc tuân thủ nghiêm túc chính là điều kiện để các DN dễ dàng thực hiện TNXH. Trong khi đó tại các nước đang phát triển, do hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện nên cơ hội phát triển kinh tế và xã hội bị hạn chế bởi độc quyền, tham nhũng và những lợi ích nhóm... Vì lẽ đó, nên từ nhận thức cho đến thực hiện trách nhiệm đối với xã hội của các DN không phải là việc dễ dàng. Với Việt Nam, tuy là quốc gia đi sau trong việc
  7. 2 tiếp cận vấn đề TNXHDN của thế giới. Mặc dù đã có những thay đổi ngày càng tích cực hơn, tuy nhiên cả về nhận thức lẫn thực tiễn thể hiện, cần thấy đây vẫn là vấn đề còn khá mới mẻ đối với không ít DN. Phần nhiều DN nhận thức sai ý nghĩa và thực chất về TNXHDN - TNXH chỉ đơn giản là xây dựng hình ảnh của DN để thu hút các nhà đầu tư, khách hàng hoặc làm từ thiện. Quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam phải tuân thủ những "luật chơi" nhất định, nếu không sẽ bị loại, trong đó TNXHDN là một trong những luật chơi mà các DN cần phải tuân thủ. Các DN Việt Nam nói chung, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói riêng buộc phải đáp ứng được những yêu cầu khắc khe về quan hệ lao động, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường… Nếu DN không thực hiện thì các đối tác - khách hàng sẽ tẩy chay. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế, các hàng rào thuế quan được bãi bỏ thay vào đó là những hàng rào phi thuế quan như kỹ thuật, an ninh, con người,… được các nước lập ra nhằm bảo hộ cho hàng nội địa. DN Việt Nam phải vượt qua để xuất khẩu hàng hóa sang các nước đó, cũng là điều kiện để cạnh tranh ngay trên "sân nhà". Đó là xu thế tất yếu, nếu không thực hiện tốt, không vượt qua được thì Việt Nam sẽ bị lệ thuộc cả về kinh tế cho đến các vấn đề khác của xã hội. Với vai trò chủ đạo trong sự phát triển kinh tế, mang đến thịnh vượng của Việt Nam, hơn bao giờ hết, DNNN đang có những cơ hội và trách nhiệm chứng tỏ vị thế của mình như một thiết chế kinh tế, một thực thể, một chủ thể quan trọng trong xã hội để tăng GDP, giải quyết những vấn đề của xã hội, tạo ra việc làm, cùng với đó là đem lại cho nó sự phồn vinh. Tuy nhiên, nhận thức sai về TNXH, cố tình vi phạm TNXH - với những hành vi kinh doanh thiếu trách nhiệm của nhiều DNNN thời gian qua đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng như: Hiệu quả kinh doanh thấp, còn nhiều DN thua lỗ làm thất thoát nguồn vốn rất lớn đã đẩy nợ công tăng cao; Khai thác thiếu khoa học làm kiệt quệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường; Nhiều quyền lợi của người lao động không được bảo đảm; Gian lận kinh doanh, không rõ ràng trong báo cáo tài chánh… Đó là những vấn nạn ở Việt Nam, gây mất lòng tin trong nhân dân. Những thành tựu đạt được, cùng bên cạnh đó với những hạn chế yếu kém của các DNNN đã đặt ra nhiều vấn đề khách quan cần phải nghiên cứu, bên cạnh những vấn đề chung về DNNN cũng rất cần một cách nhìn định vị xem DNNN đã thực hiện được những trách nhiệm gì cho xã hội. TNXHDN đã được tiếp cận từ các góc nhìn kinh tế
  8. 3 học, luật học, đạo đức học, khoa học về môi trường… Song vẫn rất cần một tiếp cận triết học để khái quát hóa vấn đề trên ở tầm nhận thức xã hội, xây dựng định hướng thực hiện TNXHDN một cách hệ thống. Do vậy, lựa chọn "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay" cho Luận án tiến sỹ triết học của mình nó có ý nghĩa lý luận cũng như cả về thực tiễn đang đặt ra. Chính vì tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu đã thôi thúc tác giả chọn nội dung này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Luận án phân tích những thành tựu, hạn chế của các DNNN ở Việt Nam trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của quá trình hội nhập quốc tế; Đề xuất, luận giải những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và hiệu quả thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan các công trình nghiên cứu về TNXHDN và TNXHDNNN. - Phân tích những vấn đề lý luận về TNXHDN và TNXHDNNN. - Phân tích những thành tựu, hạn chế trong thực hiện trách nhiệm đối với xã hội của các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam và chỉ ra các nguyên nhân của chúng. - Đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: TNXHDNNN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về thời gian: Từ 2011 đến nay. - Phạm vi về không gian: Ở Việt Nam. - Phạm vi về nội dung: Từ cách tiếp cận và luận giải TNXHDNNN dưới góc nhìn triết học, luận án phân tích kết quả, hạn chế trong việc thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam, từ đó đề xuất một số định hướng, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian tới. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận Mác - Lênin
  9. 4 nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. Trong đó, phép biện chứng duy vật cũng như phép biện chứng duy vật về lịch sử, mà chủ yếu là biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đồng thời, quán triệt chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của NN Việt Nam về phát triển đất nước, nhất là về xây dựng NN pháp quyền dựa trên nền tảng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập quốc tế. Luận án cũng được thực hiện trên cơ sở tiếp thu kết quả của những công trình trong và ngoài nước thời gian qua có liên quan đến vấn đề TNXHDN nói chung và TNXHDNNN nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận biện chứng duy vật với việc sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Thống nhất lịch sử - logic, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, so sánh - đối chiếu, khái quát hóa, thống kê,… 5. Những đóng góp mới của luận án Luận án trình bày cơ sở lý luận về TNXH và TNXHDNNN, những yêu cầu bắt buộc các DNNN thực hiện TNXH. Mô tả những TNXHDNNN, trên cơ sở đó phân tích những thành tựu và hạn chế về việc thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay dưới góc độ Triết học. Từ phân tích chỉ ra những hạn chế, luận án đề xuất một số khuyến nghị đối với NN, DN, các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp, người lao động và người tiêu dùng phải thực hiện để góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện TNXHDNNN trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa về lý luận Luận án đã cụ thể hóa những vấn đề TNXHDN nói chung và TNXHDNNN nói riêng trong quá trình hội nhập quốc tế. Làm sáng tỏa các ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân ưu điểm, hạn chế trong việc thực hiện TNXHDNNN. Đề xuất một số định hướng, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện TNXHDNNN ở Việt Nam trong thời gian tới. 6.2. Ý nghĩa về thực tiễn Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy và
  10. 5 nghiên cứu về đạo đức và văn hóa kinh doanh trong DN ở các trường đại học, cao đẳng. Luận án cũng đưa ra một số kiến nghị là tài liệu tham khảo cho cán bộ quản lý kinh tế, các chủ DN, các hội tổ chức xã hội - nghề nghiệp, người lao động và người tiêu dùng quan tâm đến vấn đề TNXHDN. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 12 tiết.
  11. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VÀ TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ 1.1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp * Những công trình nghiên cứu liên quan đến khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nghiên cứu về khái niệm TNXHDN tại Việt Nam cũng khá phong phú bởi nhiều tác giả dưới những góc độ khác nhau như: "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế" của Lê Thanh Hà [61]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Michel Capron và Françoise Quairel-Lanoizelée (Dịch giả: Lê Minh Tiến, Phạm Như Hồ) [27]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Nguyễn Ngọc Thắng [118]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước ở Việt Nam" của Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức [39]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhận thức và thực tế ở Việt Nam" của Trần Hồng Minh [92]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam theo khung tham chiếu của Hiệp ước Toàn cầu (Global Compact)" của Nguyễn Văn Thắng [122]; "Trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cá thể đối với người lao động: Nghiên cứu trường hợp ở thành phố Hồ Chí Minh" của Nguyễn Thị Minh Châu [30]; "Đạo đức kinh doanh và Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Nguyễn Thị Lan Hương [72]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Hãy hành động, thôi hô "khẩu hiệu"" của Hà Tôn Vinh [165]; "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam" của Trương Nam Thắng, Margaret Mckee [116]… Những tác giả trên chưa đưa ra khái niệm riêng của mình về TNXHDN, họ chỉ dẫn giải những khái niệm phổ biến nhất hiện nay của các đơn vị, tổ chức, cá nhân như: Hội đồng thương mại thế giới, Ngân hàng thế giới, Liên hiệp quốc, Tổ chức
  12. 7 hợp tác và phát triển kinh tế (OEDC), Ủy ban Thương mại thế giới về phát triển bền vững (WBCSD), một số tổ chức phi chính phủ (NGO), một số công ty đa quốc gia… Điểm chung của các tác giả đều cho là khái niệm TNXHDN được hiểu theo nhiều cách khác nhau, do: Phụ thuộc vào truyền thống, điều kiện văn hóa của quốc gia yêu cầu đối với các DN; Do không gian, thời gian tranh luận. Và các tác giả đều thống nhất là nội hàm khái niệm TNXHDN bao gồm nhiều khía cạnh liên quan đến ứng xử của DN đối với các chủ thể và đối tượng có liên quan trong quá trình hoạt động. Các ứng xử bao gồm: Trách nhiệm với khách hàng; Trách nhiệm với nhân viên; Trách nhiệm với đối tác kinh doanh; Trách nhiệm với môi trường; Trách nhiệm với cộng đồng; Trách nhiệm với các nhà đầu tư. Có thể nói, đó là những công trình tham khảo có ý nghĩa quan trọng đối với tác giả luận án trong việc nghiên cứu lịch sử và nội hàm của khái niệm TNXHDN. - "Một số vấn đề về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam" của Lê Đăng Doanh [45] đã cho rằng, TNXHDN được coi là thước đo cơ bản của các DN tại các quốc gia phát triển, và phần lớn các DN thực hiện phong trào này một cách tình nguyện và luôn chủ động. Còn ở Việt Nam, TNXHDN được nhận thức và bước đầu thực hiện đã mang lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, còn nhiều hạn chế đòi hỏi các DN phải tiếp tục nhận thức và hoạt động thực tiễn tích cực. Từ việc dẫn giải nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm TNXHDN, tác giả cho rằng: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp có thể được định nghĩa ngắn gọn như một sự cam kết của công ty trong ứng xử phù hợp với lợi ích của xã hội trong các hoạt động liên quan đến lợi ích của khách hàng nhờ cung ứng nhân viên, cổ đông, cộng đồng, môi trường. Trong đó trách nhiệm xã hội được coi là một phạm trù của đạo đức kinh doanh có liên quan đến mọi hoạt động kinh doanh của DN [45, tr.202]. - "Trách nhiệm doanh nghiệp ở Việt Nam: Sự thách thức đối với doanh nghiệp, chính phủ và xã hội dân sự" của Gerd Mutz [57] cho là, sự phát triển của xã hội sẽ dần xóa bỏ ranh giới giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội, kinh tế và xã hội không thể xem là những lĩnh vực độc lập và không liên hệ gì với nhau. Những yêu cầu về tính công bằng trong thương mại, điều kiện lao động và nền sản xuất thân thiện với môi trường đã trở thành những nội dung trọng tâm TNXHDN. Từ đó tác giả cho rằng:
  13. 8 Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp bao gồm cả trách nhiệm xã hội lẫn trách nhiệm với môi trường, đề cập tới các hoạt động được tiến hành trong phạm vi kinh doanh cốt lõi (trọng tâm) của doanh nghiệp - đó là các hoạt động kinh tế của DN, bao gồm các lĩnh vực xã hội, như công bằng thương mại, cải thiện các điều kiện làm việc, kiểm soát chuỗi giá trị gia tăng và những vấn đề như (quy trình) sản xuất thân thiện với môi trường ở các cơ sở trong và ngoài nước [57]. - "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam" của Phạm Văn Đức [55] đã cho rằng, thuật ngữ TNXHDN đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng nhìn chung có hai quan điểm đối lập nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, DN không có trách nhiệm gì đối với xã hội mà chỉ có trách nhiệm với cổ đông và người lao động của DN, còn NN phải có trách nhiệm với xã hội, DN đã có trách nhiệm nộp thuế cho NN. Quan điểm thứ hai cho rằng, với tư cách là một trong những chủ thể của nền kinh tế thị trường, các DN đã sử dụng các nguồn lực của xã hội, khai thác các nguồn lực tự nhiên và trong quá trình đó, họ gây ra những tổn hại không tốt đối với môi trường tự nhiên. Vì vậy, ngoài việc đóng thuế, DN còn có trách nhiệm bảo vệ môi trường, cộng đồng, người lao động, v.v… Tác giả cho là, ở Việt Nam trong những năm gần đây, người ta thường sử dụng định nghĩa của Nhóm phát triển kinh tế tư nhân của Ngân hàng Thế giới về TNXHDN. Theo đó, Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, là sự cam kết của doanh nghiệp đóng góp vào việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua những hoạt động nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người lao động và các thành viên trong gia đình họ, cho cộng đồng và toàn xã hội, theo cách có lợi cho cả doanh nghiệp cũng như sự phát triển chung của xã hội. Nói cách khác, doanh nghiệp muốn phát triển bền vững luôn phải tuân theo những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên và phát triển cộng đồng [55, tr.18-19]. Từ phân tích các định nghĩa thì ông đã kết luận, TNXHDN thể hiện ở các yếu tố: 1, bảo vệ môi trường; 2, đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3, thực hiện trách nhiệm cho nhà cung cấp; 4, bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5, quan hệ tốt với người lao động; 6, đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong DN [55, tr.19].
  14. 9 Có thể nói đây là bài viết khá phong phú về lịch sử hình thành và phát triển khái niệm TNXHDN, tác giả cũng đã dẫn giải nhiều khái niệm về TNXHDN của các nhà khoa học, các tổ chức kinh tế. Và nội dung khái niệm của ông nội hàm cũng rất rộng và bao quát những vấn đề xã hội mong muốn các DN thực hiện trách nhiệm của mình đối với xã hội. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam và những vấn đề còn bất cập" của Võ Khắc Thường [137] đã nhận định, ở Việt Nam đa phần các học giả đều đồng ý TNXHDN có hai ý chính: Một là, phát triển kinh doanh của chính DN để tạo ra giá trị thặng dư lớn cho xã hội; Hai là, có trách nhiệm với xã hội, cụ thể là môi trường xung quanh. Từ đó tác giả cho rằng "TNXHDN là nghĩa vụ của DN vừa phải hành động, bảo vệ cải thiện phúc lợi cho xã hội cũng như lợi ích của DN" [137, tr.77]. * Những công trình nghiên cứu liên quan đến cấu trúc TNXHDN - "Vai trò của Nhà nước và vấn đề Trách nhiệm xã hội" của Nguyễn Văn Thức [136] đã cho rằng, TNXH bao gồm ba nội dung cơ bản: 1, quan hệ giữa người với người cùng chung sống, hợp tác khoan dung với nhau trong xã hội; 2, sự gắn bó (đoàn kết, cấu kết) giữa cá nhân với cộng đồng xã hội; 3, đóng góp vào bảo vệ và phát triển của cộng đồng và xã hội. Sự đóng góp này thể hiện ở 3 mức độ "Tự nhiên, tự nguyện và nghĩa vụ" [136, tr.17]. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhận thức và thực tế ở Việt Nam" của Trần Hồng Minh [92] đã cho rằng, DN hiện đại chỉ được xem là có TNXH khi: Đảm bảo hoạt động của mình không gây ra những tác hại đối với môi trường sinh thái, tức là phải thể hiện sự thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất, đây là một tiêu chí rất quan trọng đối với người tiêu dùng; Phải biết quan tâm đến người lao động, người làm công cho mình không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần, buộc người lao động làm việc đến kiệt sức hoặc không có giải pháp giúp họ tái tạo sức lao động là điều hoàn toàn xa lạ với TNXHDN; Phải tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ, không được phân biệt đối xử về mặt giới tính trong tuyển dụng lao động và trả lương mà phải dựa trên sự công bằng về năng lực của mỗi người; Không được phân biệt đối xử, từ chối hoặc trả lương thấp giữa người bình thường và người bị khiếm khuyết về mặt cơ thể hoặc quá khứ của họ; Phải cung cấp những sản phẩm có chất lượng tốt, không gây tổn hại đến sức khoẻ người tiêu dùng, đây cũng là một tiêu chí rất
  15. 10 quan trọng thể hiện trách nhiệm của DN đối với người tiêu dùng; Dành một phần lợi nhuận của mình đóng góp cho các hoạt động trợ giúp cộng đồng. Vì cộng đồng và san sẻ gánh nặng với cộng đồng đang là một mục tiêu mà các DN có TNXH đang hướng tới bên cạnh mục tiêu phát triển lợi nhuận của mình, như các chương trình hỗ trợ châu Phi, châu Á trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe của nhà tỷ phú Bill Gates là một ví dụ tiêu biểu. Quả thực, sẽ có nhiều trẻ em được cứu sống hơn, nhiều trẻ em được đến trường hơn,… nếu các DN sẵn sàng chia sẻ lợi ích với cộng đồng. - "Ô nhiễm môi trường - Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nam" của Phạm Thị Tuyết [153] cho là, ở Việt Nam có không ít DN hiểu chưa đúng về TNXHDN. Họ thường hiểu TNXH theo nghĩa "truyền thống", tức là DN thực hiện TNXH như là một hoạt động tham gia "giải quyết các vấn đề xã hội" mang tính nhân đạo, từ thiện. Với cách hiểu này, TNXHDN không mang tính bắt buộc mà là DN "tự nguyện" thực hiện. Từ đó tác giả cho rằng DN có TNXH thể hiện trên các phương diện: Đóng thuế đầy đủ; Đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho người lao động; Bình đẳng trong đối xử với người lao động; Thực hiện tốt vấn đề vệ sinh, an toàn thực phẩm; Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Thực hiện nghiêm túc vấn đề bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên; Tham gia vào các hoạt động từ thiện và trợ giúp xã hội [153, tr.49]. - "Từ thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp tiến tới tạo lập giá trị chung trong hội nhập kinh tế toàn cầu" của Bùi Loan Thùy [134] đã cho rằng, việc thực hiện TNXH là yêu cầu tất yếu đối với những DN muốn xây dựng, giữ vững thương hiệu, khẳng định vị thế của mình trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt. DN muốn phát triển bền vững luôn phải tuân thủ những chuẩn mực về bảo vệ môi trường, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo, phát triển nhân lực và đóng góp phát triển cộng đồng [134, tr.55]. - "Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường" của Đặng Hữu Toàn [139] đã viết: Phát triển kinh tế thị trường với tư tưởng làm giàu bằng mọi giá, khi lợi nhuận và tiền bạc có sức hấp dẫn đến mức như C.Mác nói không có tội ác nào mà con người không dám phạm, dù có nguy cơ bị treo cổ, thì chính lợi nhuận,
  16. 11 tiền bạc đó, đã trở thành chất kích thích mạnh mẽ, không gì cưỡng nổi khiến cho các thói hư, tật xấu, vô đạo đức, vô trách nhiệm, vô cảm trước đồng loại ngày càng nảy nở, phát sinh và phát triển. Do vậy, trong phát triển kinh tế thị trường, khi mọi người đều lấy người khác làm phương tiện để lợi dụng cho mục đích cá nhân, vị kỷ, như C.Mác đã nói, lợi ích cá nhân đó đã khiến cho lương tâm con người trở nên lu mờ, trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức bị che khuất, nghĩa vụ và TNXH bị lãng quên. Và mỗi khi con người trở nên vô cảm, vô tâm, vô đạo đức, vô trách nhiệm trước những hiểm họa đang đe dọa trực tiếp đến sự sống, sự an nguy tính mạng con người, họ sẵn sàng sản xuất, kinh doanh những sản phẩm, những hàng hóa không chỉ bất chấp sự hủy hoại môi trường sống, mà còn bất chấp cả tiêu chuẩn an toàn vệ sinh, dẫu vẫn biết đó là cái cần thiết cho sức khỏe con người [139, tr.37-38]. - "Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường" của Đỗ Hoài Nam [94] cho là, TNXHDN được thể hiện một cách cụ thể trên các yếu tố, các mặt, như: 1, bảo vệ môi trường; 2, đóng góp cho cộng đồng xã hội; 3, thực hiện tốt trách nhiệm với nhà cung cấp; 4, bảo đảm lợi ích và an toàn cho người tiêu dùng; 5, quan hệ tốt với người lao động; 6, đảm bảo lợi ích cho cổ đông và người lao động trong DN. Trong đó, bốn yếu tố đầu tiên thể hiện trách nhiệm bên ngoài DN, còn hai yếu tố cuối thể hiện trách nhiệm bên trong, nội tại của DN [94, tr.22]. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp về vấn đề sinh thái và ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay" của Trần Nguyên Việt [162] đã viết: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương đúng đắn của Đảng và NN, song việc thực hiện nó như thế nào lại đòi hỏi các cấp các ngành phải hướng tới sự đồng bộ và hài hòa của ba mục tiêu: Tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường và giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với trách nhiệm của DN, bất kể đó là DN lớn, nhỏ hay vừa, với ba nội dung cơ bản sau: 1, trách nhiệm về kinh tế, tức là bảo đảm cho việc sản xuất kinh doanh của DN có lãi; 2, trách nhiệm trả công cho người lao động thỏa đáng, đồng thời đóng góp phần mình vào việc giải quyết các vấn đề ASXH và sự phát triển phồn vinh của xã hội; 3, trách nhiệm sinh thái, tức là hoạt động của DN không dẫn đến khủng hoảng và những thảm họa sinh thái [162, tr.305]. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và Nhà nước trong việc bảo đảm công bằng xã hội" của Nguyễn Ngọc Hà [59] đã viết: Những lợi nhuận chỉ chính
  17. 12 đáng khi DN không gây ra sự bất công bằng. Các DN cần phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm về mặt pháp luật đối với NN và đối với người lao động trong DN. Trên thực tế, không phải DN nào cũng hoàn thành trách nhiệm về mặt pháp luật của mình và không phải mọi DN trốn tránh trách nhiệm về mặt pháp luật đều bị pháp luật trừng phạt. Đó là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây ra sự bất công bằng. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm bắt buộc về mặt pháp luật, thì DN vẫn chưa thực hiện đầy đủ TNXH của mình trong việc bảo đảm công bằng. Bên cạnh việc phải hoàn thành trách nhiệm về mặt pháp luật để bảo đảm công bằng, DN còn phải thực hiện trách nhiệm mà pháp luật không bắt buộc đối với người lao động trong DN và đối với xã hội. Những việc làm thể hiện trách nhiệm đó là tăng lương, giảm giờ làm, trợ cấp cho người lao động trong DN [59, tr.139]. - "Doanh nghiệp xã hội sẽ là giải pháp vững bền cho các vấn đề toàn cầu" của Richard Welford [110] đã cho rằng, TNXHDN không chỉ là một ý tưởng được chào đón về khía cạnh đạo đức. TNXH còn giúp tăng cường sức mạnh của thương hiệu, danh tiếng, sự nhận biết và lòng trung thành. Khởi điểm từ khía cạnh cơ bản như người lao động, với những chính sách tạo dựng môi trường làm việc tốt, an toàn, đảm bảo sức khỏe và bảo vệ quyền lợi, DN không khó có được sự chung thủy của công nhân viên trong ngành, qua đó còn cải thiện hình ảnh DN, thu hút đầu tư, tạo dựng quan hệ đối tác. Việc tiết kiệm năng lượng, tài nguyên sẽ giúp cắt giảm chi phí, tăng uy tín cạnh tranh, hướng đến gia tăng tính bền vững trong phát triển DN. Tóm lại, dù có nhiều cách luận giải khác nhau về cấu trúc TNXHDN, thế nhưng điểm chung của các tác giả thì cấu trúc đó bao hàm 7 vấn đề DN phải thực hiện như sau: 1, DN phải đảm bảo hoạt động của mình không gây ra những tác hại đối với môi trường sinh thái, thân thiện với môi trường trong quá trình sản xuất, hoạt động kinh doanh của mình; 2, phải biết quan tâm đến người làm công cho mình và người thân của họ không chỉ về mặt vật chất mà còn về mặt tinh thần; 3, phải tôn trọng quyền bình đẳng giới tính, không được phân biệt đối xử về mặt giới tính trong tuyển dụng lao động và trả lương mà phải dựa trên sự công bằng về năng lực của mỗi người; 4, không được phân biệt đối xử về mặt sắc tộc, giữa người bình thường và người bị khiếm khuyết về mặt cơ thể hoặc quá khứ của họ; 5, phải cung cấp những sản phẩm có chất lượng tốt, không gây tổn hại đến sức khỏe người tiêu
  18. 13 dùng; 6, phải biết dành một phần lợi nhuận đóng góp cho các hoạt động trợ giúp cộng đồng, bởi DN luôn tồn tại trong lòng một cộng đồng nào đó nên không thể chỉ biết có bản thân mình; 7, phải tham gia kiến tạo hòa bình và an ninh của quốc gia cũng như thế giới. * Những nghiên cứu liên quan đến tầm quan trọng của việc thực hiện TNXHDN - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế" của Lê Thanh Hà [61] đã cho rằng: Cần thiết phải thực hiện TNXHDN trong bối cảnh Việt Nam là thành viên chính thức của WTO với những lý do như: TNXH là yêu cầu bắt buộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; Thực hiện TNXH mang lại nhiều lợi ích cho cả DN, người lao động, khách hàng, cộng đồng và xã hội; Thực hiện TNXH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực thi hệ thống pháp luật quốc gia; Thực hiện TNXH sẽ góp phần làm giảm thiểu các yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bền vững của đất nước [61, tr.59]. - "Kinh tế thị trường và trách nhiệm xã hội" của Nguyễn Trọng Chuẩn [36] đã cho rằng, kinh tế thị trường trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay đã tạo cho nhân loại một lực lượng sản xuất khổng lồ mà các thế kỷ trước người ta chưa thể mường tượng được. Những luật lệ của kinh tế toàn cầu được nhiều nước chấp nhận, tuân thủ và do vậy chúng hạn chế bớt được phần nào mặt trái do kinh tế thị trường gây ra. Tác giả làm rõ vai trò của việc thực hiện TNXH để hạn chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, ông đã viết: Tuy nhiên, không vì thế mà có thể coi kinh tế thị trường với các luật lệ của nó là chiếc đũa thần vạn năng có thể loại bỏ được tất cả những gì là tiêu cực ẩn chứa trong nó. Cho nên, cùng với trách nhiệm về mặt luật pháp thì trách nhiệm đạo đức hay nói rộng hơn là trách nhiệm xã hội của những người tham gia kinh tế thị trường có vai trò không nhỏ. Chính tinh thần, trách nhiệm xã hội của các chủ thể sản xuất, kinh doanh và nói chung là của những người tham gia thị trường sẽ góp phần hạn chế và giảm bớt những tác động tiêu cực, hay mặt trái của kinh tế thị trường, qua đó thúc đẩy sự phát triển và làm lành mạnh các quan hệ xã hội [36, tr.43]. Tác giả khẳng định: "Ý thức về TNXH sẽ giúp những người sản xuất, kinh doanh tự điều chỉnh các hoạt động của mình sao cho phù hợp với những đòi hỏi của chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực đạo đức để hướng tới cái lợi, cái thiện và cái đẹp" [36, tr.44].
  19. 14 - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý luận và yêu cầu đổi mới trong quản lý nhà nước ở Việt Nam" của Nguyễn Đình Cung, Lưu Minh Đức [39] cho là, khi DN thực hiện tốt TNXH không những hình ảnh công ty được cải thiện trong mắt công chúng và người dân địa phương giúp công ty tăng doanh số bán hàng hay thực hiện các thủ tục đầu tư được thuận lợi hơn, mà ngay trong nội bộ công ty, sự hài lòng và gắn bó của nhân viên với công ty cũng tăng lên, cũng như các chương trình tiết kiệm giúp giảm chi phí hoạt động cho công ty không nhỏ [39, tr.6]. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Nhận thức và thực tế ở Việt Nam" của Trần Hồng Minh [92] đã viết: TNXHDN đang trở thành một nội dung được quan tâm, nó sẽ đem lại cho các DN những lợi ích và cơ hội như: Khả năng gia tăng các hợp đồng mới và hợp đồng gia hạn từ các công ty đặt hàng nước ngoài; Năng suất lao động của các công ty tăng lên do công nhân có sức khỏe tốt hơn và hài lòng với công việc hơn. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp" của Đặng Đình Cung [40] đã cho rằng, những DN chú trọng nhiều đến TNXH cũng là những DN có mức lợi nhuận cao hơn trung bình. Sau khi nghiên cứu một số DN, một số nhà nghiên cứu của trường Đại học Sydney - Úc, Đại học Iowa - Mỹ đã nhận thấy kết quả tài chính một DN tỷ lệ thuận với thành tựu về TNXHDN đó. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp ở Việt Nam: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách" của Phạm Văn Đức [56] cho là, DN nào thực hiện tốt TNXH thì lợi ích của họ không những không giảm đi mà còn tăng thêm. Những lợi ích đó bao gồm: Giảm chi phí, tăng doanh thu, tăng giá trị thương hiệu, giảm tỷ lệ nhân viên thôi việc, tăng năng suất và thêm cơ hội tiếp cận những thị trường mới. - "Kế toán quản trị - Từ khía cạnh lợi ích doanh nghiệp đến khía cạnh Trách nhiệm xã hội" của Hoàng Tùng [154] đã cho rằng, TNXHDN là một yếu tố khá quan trọng, góp phần vào sự phát triển bền vững của các DN, đồng thời mang lại lợi ích cho xã hội, nâng cao sức cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế. TNXHDN được lồng ghép vào chiến lược kinh doanh của DN và trở thành điều kiện để DN phát triển, nâng cao và duy trì lợi thế cạnh tranh. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: Một số vấn đề lý thuyết và gợi ý chiến lược cho doanh nghiệp Việt Nam" của Nguyễn Ngọc Thắng [117] đã phân tích:
  20. 15 DN không những cần quan tâm đến lợi ích của các cổ đông mà còn phải làm thỏa mãn lợi ích của xã hội, nhiều DN đã xem TNXH là chìa khóa giúp DN trên con đường hội nhập và hướng tới phát triển bền vững. TNXHDN là một yếu tố quan trọng trong chiến lược của DN và nó có thể mang lại cho DN những lợi thế cạnh tranh bền vững. Nhưng nếu thực hiện không đúng hoặc bỏ qua, thì có thể ảnh hưởng tệ hại đến lợi thế so sánh mà DN có được. Tuy nhiên, DN khi thực hiện TNXH phải tập trung vào các hoạt động đem lại lợi thế cho DN. TNXHDN không phải là việc cứu loài cá voi, chấm dứt đói nghèo, hoặc các mục tiêu quan trọng khác không liên quan đến hoạt động của DN. Thay vào đó, TNXHDN là vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện mà các bên liên quan trực tiếp đến kế hoạch và hành động của DN. - "Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, niềm tin và sự gắn kết với tổ chức của nhân viên ngân hàng" của Hoàng Thị Phương Thảo, Huỳnh Long Hồ [126] đã cho rằng, TNXHDN được xem như là một trong những triết lý kinh doanh cơ bản và luôn song hành với chiến lược phát triển, góp phần quan trọng vào sự thành công vững chắc, giúp DN thực hiện được tầm nhìn, sứ mệnh của mình. Bên cạnh đó DN nào muốn đạt được sự thành công và phát triển bền vững cũng không thể không đặt niềm tin và sự gắn kết của nhân viên vào chiến lược kinh doanh của DN [126, tr.38]. - "Nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Việt Nan hiện nay" của Lê Thị Thơm [129] cho là, TNXHDN không phải mánh khóe marketing để quảng cáo hình ảnh DN, trong một phạm vi nào đó khi DN thực hiện tốt TNXH thì hình ảnh thương hiệu của DN sẽ đưa lại nhiều thiện cảm đối với khách hàng và những khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên, nếu chỉ đặt mục đích là trục lợi và thực hiện TNXH một cách hời hợt, sáo rỗng và giả tạo, thì khách hàng sẽ nhanh chóng được chứng kiến sự thật dưới sự làm việc của giới truyền thông. Khi ấy, niềm tin của khách hàng còn bị đổ vỡ nhiều hơn là khi DN không thực hiện hành động TNXH nào [129, tr.74]. TNXHDN không phải chỉ là làm từ thiện như nhiều người lầm tưởng mà còn là sự tổng hợp của rất nhiều những tiêu chuẩn khác nữa mà DN cần phải thực hiện để trở thành một DN kinh doanh có đạo đức và có tầm nhìn phát triển chiến lược bền vững [129, tr.75]. Tóm lại, dù được luận giải khác nhau nhưng nhìn chung các tác giả đều cho là khi thực hiện tốt TNXH sẽ mang lại những lợi ích thiết thực cho các DN trên các mặt: Tăng doanh thu, đóng góp thiết thực vào xây dựng thương hiệu DN; Đảm bảo
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2