Luận án tiến sĩ Triết học: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper. Những giá trị và hạn chế về mặt triết học
lượt xem 18
download
Mục đích của luận án là nghiên cứu phân tích một cách hệ thống để làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, từ đó chỉ ra những giá trị cùng những hạn chế về mặt triết học của nó để một mặt, bổ sung, phát triển lý luận triết học về chủ nghĩa xã hội, mặt khác vạch ra những sai trái trong các luận điệu phủ nhận triết học Mác.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Triết học: Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper. Những giá trị và hạn chế về mặt triết học
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ PHƯỢNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL RAIMUND POPPER. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - Năm 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG THỊ PHƯỢNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL RAIMUND POPPER. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC Chuyên ngành : Triết học Mã số : 92.29.001 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng HÀ NỘI - Năm 2019
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 7 1.1. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử, tiền đề lý luận, cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Karl Popper. ..................................................................... 8 1.2. Những công trình nghiên cứu có liên quan đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper ....................................................................................... 13 1.3. Những công trình đánh giá về những giá trị và những hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của karl popper ........................................... 21 1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu, đánh giá về Karl Popper ...... 24 Chương 2: BỐI CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER ................................... 28 2.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper ....................................................................................... 28 2.2. Những tiền đề khoa học tự nhiên cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper ......................................................................... 34 2.3. Những tiền đề triết học và lý luận xã hội cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper .................................................................... 41 2.4. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Karl Popper .................... 59 Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER ............................................. 65 3.1. Quan niệm của Karl Popper về chủ nghĩa tự do xã hội ................................. 66 3.2. Quan niệm triết học của Karl Popper về xã hội mở ...................................... 70 3.3. Sự phê phán của Karl Popper đối với chủ nghĩa lịch sử như là kẻ thù của xã hội mở ................................................................................................................... 84 Chương 4: NHỮNG ĐÓNG GÓP VÀ HẠN CHẾ VỀ MẶT TRIẾT HỌC TRONG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER ........... 105 4.1. Những đóng góp về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper ................................................................................................................. 105 4.2. Một số hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper ................................................................................................................. 127 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 14848 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LUẬN ÁN........... 1522 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 153
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Bên cạnh triết học và chính trị học Mác - Lênin, việc nghiên cứu về triết học và tư tưởng chính trị phương Tây hiện đại trong đó có triết học Karl Popper cũng được những người làm công tác lý luận ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây quan tâm. Tuy nhiên, trong thời kỳ trước đổi mới, việc nghiên cứu về các trào lưu này được tiến hành chỉ với mục đích vạch ra những sai lầm về mặt lý luận của các trào lưu này. Nhìn chung, trong thời kỳ trước đổi mới, chủ nghĩa xã hội mô hình Liên Xô chưa bộc lộ rõ nét những yếu kém của nó, chưa rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, do vậy khuynh hướng tán dương và bảo vệ chủ nghĩa xã hội mô hình này còn giữ vai trò chủ đạo trong giới nghiên cứu lý luận, tất cả những ý kiến phản biện đều bị coi là ‘xét lại’, ‘phản động’, ‘thù địch’. Trong bối cảnh lịch sử đó, việc nghiên cứu về triết học phương Tây hiện đại thường thiếu thái độ khách quan, cầu thị, kết quả nghiên cứu thường mang tính chủ quan, không phản ánh hết được những đóng góp có giá trị của các trào lưu này. Công cuộc đổi mới đất nước được Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức khởi xướng từ năm 1986 không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà là một cuộc đổi mới toàn diện, cả trong lĩnh vực chính trị - tư tưởng. Để đổi mới công tác lý luận, trước hết Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra một trong những khiếm khuyết, bất cập của nó là từ trước đến nay chúng ta chỉ bó hẹp việc nghiên cứu trong phạm vi chủ nghĩa Mác - Lênin và thiếu nghiên cứu về những thành tựu lý luận của các trào lưu tư tưởng khác. Nghị quyết của Bộ Chính trị (khóa VII), ngày 28 tháng 3 năm 1992 đã chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này như sau: “Trong nhiều năm qua, nội dung đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mác - Lênin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp nhận những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cán bộ lý luận thiếu hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó khả năng phát triển bị hạn chế” [17, tr. 20-21]. Hơn hai mươi năm sau, Bộ Chính trị (khóa XI) lại ban hành một Nghị quyết mới để thúc đẩy hơn nữa phong trào này. Đó là “Nghị quyết của Bộ chính trị ngày 9 1
- tháng 10 năm 2014 về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030”. Nghị quyết đánh giá: “Nghiên cứu những trào lưu tư tưởng, học thuyết mới, lý thuyết mới chưa được nhiều”. Từ đó, Nghị quyết đề ra phương hướng chỉ đạo: “Đối với những trào lưu tư tưởng, học thuyết, lý thuyết mới, tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ” [20]. Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Karl Popper là phù hợp với chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó sẽ có tác dụng hai mặt: một là, góp phần phát triển chuyên ngành lịch sử triết học, nhất là triết học phương Tây hiện đại; hai là, tiếp thu những giá trị tiến bộ trong các trào lưu triết học đó để phục cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, ngoài những khiếm khuyết có tính cực đoan, phiến diện của nó, còn có một số giá trị triết học có tính khoa học và tiến bộ mà chúng ta có thể tiếp thu được để phục vụ yêu cầu đổi mới về lý luận chủ nghĩa xã hội. Sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đặt ra câu hỏi về nguyên nhân đích thực của tình trạng này. Liệu có những khiếm khuyết trong lý luận về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản hay đây chỉ là những sai lầm về mặt thực tiễn? Mặt khác, các trào lưu tư tưởng chống cộng, trong đó có triết học của Karl Popper tìm cách phủ nhận hoàn toàn triết học Mác và chủ nghĩa cộng sản, đồng nhất triết học Mác với ‘chủ nghĩa lịch sử’, coi xã hội cộng sản là xã hội ‘đóng’, đối lập với xã hội mở. Ngoài ra, trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận hiện nay cũng đang tồn tại một khuynh hướng sai lầm là quá tán dương tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper để phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa Mác. Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper một mặt kế thừa một số điểm hợp lý để bổ sung, phát triển triết học Mác, mặt khác chỉ ra những sai lầm cực đoan trong tư tưởng của Karl Popper để bảo vệ những giá trị không thể chối bỏ được của triết học Mác và những thành tựu của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới ở nước ta gắn liền với chuyển đổi mô hình của chủ nghĩa xã hội từ kế hoạch hóa tập trung (cơ bản là ‘đóng’ ở nhiều mặt) sang mô hình chủ 2
- nghĩa xã hội dựa trên cơ chế thị trường (biểu hiện cơ bản của xã hội mở về kinh tế, văn hóa, giáo dục), với việc từng bước loại bỏ cơ chế xã hội bảo thủ, khép kín và thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập với thế giới bên ngoài, không chỉ trong kinh tế mà còn trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Chúng tôi nhận thấy rằng việc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Poppper, nhất là tư tưởng của ông về xã hội mở” sẽ có những đóng góp nhất định cho yêu cầu này của nước ta hiện nay. Việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận nhất là lý luận triết học, chính trị -xã hội, lịch sử ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong đó có nước ta, thường được tiến hành theo một mục đích và phương pháp giáo điều, bảo thủ, thiếu tinh thần khoa học thực sự, tức là chỉ tìm cách chứng minh cho tính đúng đắn tuyệt đối của chủ nghĩa Mác - Lênin và phê phán sai lầm của các quan điểm chống đối. Hiện nay, việc đổi mới công tác nghiên cứu và giảng dạy lý luận đòi hỏi phải nghiên cứu các trào lưu triết học với “quan điểm khách quan, biện chứng và tiếp thu những giá trị tiến bộ” để bổ sung lý luận của chúng ta. Do vậy, việc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper sẽ đáp ứng được phần nào cả hai mặt nói trên. Trong việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận, phương pháp tư duy phê phán hay phản biện từ trước đến nay chưa được áp dụng một cách thực sự đầy đủ. Tình hình này làm cho người học (học sinh, sinh viên) thiếu hứng thú trong việc học tập các môn lý luận chính trị, xã hội, lịch sử và tạo ra một thói quen chấp nhận một chiều, thiếu đào sâu suy nghĩ, phê phán. Do vậy, phương pháp tư duy phê phán mà Karl Popper đặc biệt nhấn mạnh trong các tác phẩm của ông cần được nghiên cứu và vận dụng nhằm đem lại một luồng sinh khí mới trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập và vận dụng các môn lý luận khoa học ở nước ta hiện nay với chất lượng, hiệu quả thật sự. Từ trước đến nay, việc nghiên cứu về triết học Karl Popper nói chung và tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của ông nói riêng ở Việt Nam còn khá khiêm tốn. Những công trình nghiên cứu về Karl Popper tuy đã xuất hiện, nhưng còn rất hạn chế. Trong thời gian gần đây tuy đã có một số công trình nghiên cứu mới về ông, nhưng chưa có một công trình nào đi sâu về chỉ ra những điểm hợp lý và những điểm không thỏa đáng của Karl Popper trong việc phê phán chủ nghĩa lịch sử và đề cập một cách toàn diện về quan điểm triết học về xã hội mở của ông. 3
- Tóm lại, việc nghiên cứu tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper, chỉ ra những đóng góp của nó sẽ góp phần đổi mới và phát triển công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta, trong đó có việc nghiên cứu lịch sử triết học; tìm ra những chỗ thiếu sót trong việc hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm hoàn thiện cách tiếp cận đối với nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập các bộ môn Mác - Lênin, phát huy vai trò của tư duy phê phán, mở rộng dân chủ và phát huy vai trò sáng tạo của mọi cá nhân trong xây dựng xã hội mở và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Đồng thời, việc vạch ra những hạn chế cực đoan, phiến diện trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper sẽ góp phần bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Raimund Popper. Những giá trị và hạn chế về mặt triết học” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án là nghiên cứu phân tích một cách hệ thống để làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, từ đó chỉ ra những giá trị cùng những hạn chế về mặt triết học của nó để một mặt, bổ sung, phát triển lý luận triết học về chủ nghĩa xã hội, mặt khác vạch ra những sai trái trong các luận điệu phủ nhận triết học Mác. Để thực hiện được mục đích nêu trên, những nhiệm vụ mà luận án phải thực hiện là: - Làm rõ cuộc đời, sự nghiệp lý luận khoa học, bối cảnh lịch sử và những tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. - Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, trong đó có quan niệm của ông về chủ nghĩa tự do; sự phê phán chủ nghĩa lịch sử; quan niệm và phương pháp của ông về xây dựng xã hội mở. - Phân tích những giá trị trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper để bổ sung, phát triển triết học Mác, kế thừa và vận dụng trong công tác lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời chỉ ra những hạn chế phiến diện, cực đoan của nó nhằm bảo vệ tính đúng đắn của triết học 4
- Mác, vạch trần những sai trái trong các luận điệu chống triết học Mác. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những nội dung tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. Phạm vi nghiên cứu của luận án là những tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper trong hai tác phẩm “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử” và “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Hai quyển sách này là những công trình nghiên cứu tương đối đồ sộ của Karl Popper, trong đó tác giả đề cập đến nhiều khía cạnh rất chi tiết của chủ nghĩa lịch sử và xã hội mở. Tuy nhiên, Luận án chỉ đi sâu vào khía cạnh triết học, tức khía cạnh chung nhất, mang tính bản chất của các vấn đề, những khía cạnh có vai trò thế giới quan và phương pháp luận cho toàn bộ quan điểm chính trị - xã hội của ông.. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên nền tảng lý luận của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề triết học, chính trị - xã hội và lịch sử. Cơ sở phương pháp luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, luận án còn sử dụng kết hợp một số phương pháp cụ thể, như phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử; so sánh, đối chiếu, hệ thống hóa, phương pháp thông diễn học hay chú giải học (phương pháp thông hiểu và diễn giải các văn bản), phương pháp tư duy phê phán, v.v.. 5. Cái mới của luận án - Về mặt nội dung. Nhờ dựa trên nguồn tài liệu phong phú và tương đối đầy đủ, luận án làm rõ được những khía cạnh quan trọng trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper, phân tích và rút ra được những giá trị và hạn chế của nó, chỉ ra khả năng liên hệ và vận dụng chúng trong lý luận và thực tiễn. - Về mặt phương pháp. Nhờ tiếp cận được một cách trực tiếp với những tác phẩm gốc, khắc phục được những hạn chế về tài liệu và ngôn ngữ đã từng có trước 5
- đây, luận án đưa ra một sự đánh giá khách quan cả hai mặt đóng góp và hạn chế của Karl Popper, khắc phục được thái độ phê phán, đánh giá một chiều như trước đây. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Về mặt lý luận, luận án góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng của các trường phái và triết gia phương Tây hiện đại, cụ thể là tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper với mục đích kế thừa những điểm hợp lý để bổ sung triết học Mác – Lênin, đồng thời phê phán những biểu hiện cực đoan của nó để bảo vệ tính đúng đắn của triết học Mác – Lênin. Đây là một vấn đề đang được đặt ra cấp thiết đối với nghiên cứu lịch sử triết học phương Tây ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn, luận án góp phần đổi mới cách tiếp cận đối với nhiều vấn đề xã hội, lịch sử; đóng góp ý kiến tham mưu cho các cấp Đảng và Nhà nước trong việc điều chỉnh một số quan niệm về xây dựng chủ nghĩa xã hội; thực hiện dân chủ, phát huy tối đa mọi tiềm năng sáng tạo của cá nhân và tập thể trong xây dựng xã hội mới ở nước ta hiện nay. Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập lịch sử triết học phương Tây hiện đại nói chung và triết học Karl Popper nói riêng ở Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung cơ bản của luận án bao gồm 4 chương, 13 tiết. Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án. Chương 2: Bối cảnh và tiền đề hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hộị của Karl Popper. Chương 3: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper. Chương 4: Những đóng góp và hạn chế về mặt triết học trong tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper. 6
- CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Karl Popper là một nhà triết học nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của ông chủ yếu được viết và xuất bản bằng tiếng Đức và tiếng Anh nên rất quen thuộc đối với các nhà nghiên cứu ở các nước như Đức, Áo, Mỹ, Anh, v.v.. Ở nước ta tuy đã có một số công trình dịch và nghiên cứu về Karl Popper nhưng vẫn còn rất hạn chế. Trên thế giới, đã có nhiều công trình chuyên khảo về Karl Popper như “The Philosophy of Karl Popper”(Triết học của Karl Popper) của nhà triết học Đức Herbert Keuth được dịch ra tiếng Anh do Nxb Cambridge University Press xuất bản năm 2005; “The Philosophy of Popper” (Triết học của Popper) của T.E. Burke do Nxb Manchester University Press xuất bản năm 1983. Đặc biệt là công trình “The Philosophy of Karl Popper” (Triết học của Karl Popper), do Paul A. Schilpp chủ biên với sự đóng góp của rất nhiều nhà triết học nổi tiếng nghiên cứu, nhận xét về Karl Popper, do The Open Court Publishing Company, Chicago, Illinois xuất bản thành hai tập năm 1974. Chuyên khảo về tư tưởng chính trị Karl Popper có tác phẩm “The Political Thought of Karl Popper” (Tư tưởng chính trị của Karl Popper), do Jeremy Shearmur, một người đã từng là trợ lý của Karl Popper trong 8 năm (1971-1979) được Routledge, New York xuất bản năm 1996. Ở nước ta, chưa có công trình nghiên cứu chuyên khảo nào về Karl Popper; phần lớn các sách chuyên khảo về Karl Popper bằng tiếng nước ngoài chưa được dịch ra tiếng Việt. Chúng tôi đã cố gắng sưu tầm nhưng chỉ có được trong tay hai cuốn sách chuyên khảo đã được dịch ra tiếng Việt, như cuốn “Triết học mở và xã hội mở”, do Đỗ Minh Hợp dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 (dịch từ cuốn“The Open Philosophy and the Open Society: A Reply to Dr. Karl Popper’s Refutation of Marxism” của Maurice Cornforth, một nhà mácxít Anh, Nxb Lawrence & Whishart, London, 1968), và cuốn “Karl Raimund Popper”của Lý Quốc Tú (Trung Quốc), do Đặng Lâm dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2005. 7
- Hiện nay ở nước ta, việc nghiên cứu về Karl Popper tuy có tăng hơn nhưng vẫn còn rất hạn chế. Hiện đã có ba trong số các tác phẩm của Karl Popper được dịch ra tiếng Việt, trong đó chỉ có hai cuốn được xuất bản thành sách: cuốn “Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” (‘'Thuyết sử luận’ là từ dịch không chính xác, đúng ra là ‘chủ nghĩa lịch sử’) và cuốn “Tri thức khách quan” do Chu Đình Lan dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2012. 'Cuốn “Xã hội mở và những kẻ thù của nó” đã được Nguyễn Quang A dịch và công bố trên mạng internet nhưng chưa được xuất bản thành sách in. Tuy đã được dịch nhưng việc chuyển ngữ từ tiếng Anh ra tiếng Việt chưa được tốt lắm, cho nên người đọc gặp nhiều khó khăn với các thuật ngữ trong các sách này. Tháng 11 năm 2012, một cuộc hội thảo quốc tế được tổ chức tại Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam có chủ đề “Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó”, trong đó có mấy bài tham luận về triết học của Karl Popper. Kỷ yếu Hội thảo đã được xuất bản thành sách do Phạm Văn Đức chủ biên [22]. Ở nước ta ngoài một số luận văn thạc sĩ, cho đến nay chưa có một luận án tiến sĩ nào đã được bảo vệ về tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper. Những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về tư tưởng chính trị - xã hội của Karl Popper có thể phân ra thành các loại như sau: 1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BỐI CẢNH LỊCH SỬ, TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP KHOA HỌC CỦA KARL POPPER 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về bối cảnh hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper Tác phẩm “Unended Quest: An Intellectual Autobiography” (Cuộc sưu tầm chưa kết thúc: Một Tự tiểu sử trí tuệ) [111] là một nguồn tài liệu quý (vì do chính ông kể lại) để nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Karl Popper. Ông dành 3 mục: 1) Ký ức tuổi thơ, 2) Những ảnh hưởng đầu tiên và 3) Chiến tranh thế giới lần thứ nhất [111, pp.2-11], để thuật lại khá đầy đủ bối cảnh xã hội ở thành phố Viên và hoàn cảnh gia đình ông lúc bấy giờ. Đó là tình trạng đói nghèo, chính trị rối ren và chính bối cảnh đó có nhiều thay đổi trong quan niệm của Karl Popper về triết học chính trị - xã hội. Đồng thời Karl Popper cũng phân tích những ảnh hưởng đầu tiên 8
- đến tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của ông, đó là ảnh hưởng tính cách của người cha, của tủ sách gia đình, nhất là ảnh hưởng của người bạn thân nhất (lớn hơn ông 20 tuổi) là Arthur Arndt một người mácxit kịch liệt chống chủ nghĩa dân tộc, người đã giới thiệu ông quyển sách về chủ nghĩa xã hội đầu tiên “Looking Backward”. Karl Popper lúc đó 12 tuổi rất chăm chú nghe Arndt nói về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, nhưng ông chỉ còn nhớ có một điều là ‘chấm dứt nghèo đói’ . Gilles Dostaler trong phần I của tác phẩm Chủ nghĩa tự do của Hayek (Nguyễn Đôn Phước dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2008) [8] trình bày khá chi tiết bối cảnh lịch sử, xã hội của nước Áo đầu thế kỷ XX. Nạn đói ở thủ đô Viên của nước Áo đã gây nên những cuộc bạo loạn. Cuộc cách mạng Bonsevich ở Nga năm 1917, sự thành lập của Cộng hòa Áo năm 1918, cuộc nổi dậy của phong trào Spartacus năm 1919 ở Đức kích thích các phong trào cực tả ở Áo. Giành thắng lợi trong các cuộc bầu cử năm 1919, Đảng Công nhân xã hội dân chủ Áo lên chấp chính cùng với Đảng xã hội Kitôgiáo. Bối cảnh này để lại dấu ấn trong sự hình thành tư tưởng của Hayek, đồng thời qua đó chúng ta có thể liên hệ để hiểu thêm về bối cảnh hình thành tư tưởng triết học chính trị của Karl Popper và mối quan hệ về tư tưởng giữa Hayek và Popper. Trong chương này có một phần tác giả nói về mối quan hệ giữa Hayek và Popper. Từ chỗ đồng hành với nhau về quan điểm, hai người trở thành bạn thân. Năm 1936, Hayek mời Popper đọc một tham luận khoa học trong một cuộc semina do Hayek tổ chức tại Trường Kinh tế London (LSE). Bài tham luận chính là một phần của công trình của Popper về sau được đăng trên tạp chí Economica của trường này trong các năm 1944-1945 với tiêu đề “The Poverty of Historicism” (Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử). Cũng chính nhờ Hayek giới thiệu mà Popper sang làm việc tại LSE từ năm 1946 và “Với sự hỗ trợ của Hayek, Popper được bổ nhiệm giáo sư tại LSE năm 1949” [26, tr.33]. Các trang web như Wikipedia, the free Encyclopedia (Bách khoa thư mở Wiki), Stanford Encyclopedia of Philosophy (Bách khoa thư triết học Stanford), cũng dành một phần trong bài viết về Karl Popper để nói về thời thơ ấu, hoàn cảnh gia đình và việc học hành, công việc xã hội đầu tiên của Popper. 9
- Lý Quốc Tú trong nội dung đầu tiên của chương IV tác phẩm “Karl Raimund Popper” [49], tác giả nói về sự mở rộng tầm mắt sang lĩnh vực triết học chính trị của Popper, tác giả cho rằng cuộc sống và công việc của Popper ở New Zealand rất dễ chịu, nhân dân ở đó rất khiêm nhường, niềm nở và hiếu khách, mọi người cảm thấy bình yên. Trong khi ở châu Âu lại đang khói lửa chiến tranh; Phát xít Đức tấn công điên cuồng ở trong nước. Và trong thời gian ở New Zealand, Popper đã hoàn thành hai cuốn sách triết học chính trị: “Sự nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử” và “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Tác giả trình bày rất kỹ bối cảnh ra đời của hai tác phẩm, và sự ảnh hưởng của hai tác phẩm đó đến xã hội phương Tây lúc bấy giờ. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu về tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị - xã hội của Karl Popper Gilles Dostaler trong “Chủ nghĩa tự do của Hayek”[8] nói về sự ảnh hưởng lẫn nhau về tư tưởng giữa F. Hayek và Karl Popper. Hayek kiên trì tiến hành một cuộc đấu tranh kép, một mặt chống lại sự can thiệp của nhà nước trong chủ nghĩa tự do xã hội của Keynes, mặt khác chống chủ nghĩa xã hội, hai mặt được ông xem là kết nối chặt chẽ với nhau và cuối cùng đều dẫn đến chủ nghĩa toàn trị. Công trình còn đề cập đến bối cảnh và điều kiện gặp nhau giữa hai nhà triết học của nước Áo là Hayek và Popper. Sau khi đọc xong các tác phẩm của Popper thì Hayek chấp nhận ngay triết học của Popper. Ông nói: “Nhận ra điều này đã là đủ cho tôi nhưng khi thấy Popper lập luận và biện minh một cách rõ ràng thì, một cách tự nhiên, tôi liền chấp nhận triết học của ông vì triết học ấy đã khai triển điều tôi hằng cảm nhận. Từ đó, tôi luôn đồng hành cùng với Popper. Cuối cùng, chúng tôi trở thành bạn rất thân. Nói chung, trên những vấn đề triết học, tôi đồng ý với ông hơn là với bất kì ai khác”. Như vậy công trình này cho chúng tôi thấy được Hayek là một trong những người đi đầu và là một trong những giáo chủ của cái được gọi là “chủ nghĩa tân tự do”. Và chính những tư tưởng này ảnh hưởng đến Popper sau này. Lý Quốc Tú trong “Karl Raimund Popper” đã dành một phần nhỏ trong chương II để nói về người có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành quan điểm triết học của ông. Tác giả cho rằng nhìn theo quan điểm lâu dài, thì có lẽ đó là ảnh 10
- hưởng quan trọng nhất. Đó là việc Popper tiếp xúc với lý luận của Einstein và nhận được sự khêu gợi trong thái độ của Einstein đối với lý luận khoa học. Vũ Mạnh Toàn trong “Triết học Bertrand Russell và ý nghĩa của nó” (Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011) [85], tác giả cho ta thấy được sự biến đổi mạnh mẽ của logic học và toán học vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự biến đổi này có ảnh hưởng lớn đến ra đời chủ nghĩa thực chứng mới. Khi đề cập đến những tiền đề triết học, tác giả trình bày chủ nghĩa thực chứng qua các thời kỳ: Chủ nghĩa thực chứng sơ kỳ đầu thế kỷ XIX với người sáng lập là Auguste Comte. Giai đoạn thứ hai là chủ nghĩa phê phán kinh nghiệm vào những năm 70 của thế kỷ XIX với hai đại diện là Ernst Mach và Richard Avenarius. Giai đoạn thứ ba là chủ nghĩa thực chứng mới (chủ nghĩa thực chứng lôgic). Có thể nói đây là một nguồn tư liệu cho chúng tôi trong việc trình bày các tiền đề tư tưởng lý luận cho sự hình thành tư tưởng triết học về chính trị – xã hội của Karl Popper. A.S. Bôgômôlôp, Ju.K. Menvin, I.S.Narơski với tác phẩm: “Chủ nghĩa thực chứng mới trong triết học tư sản hiện đại ”(Nxb Matsxcơva 1978 – Tư liệu dịch của Viện Triết học) [04]. Trong công trình này, các tác giả đã trình bày về quá trình xuất hiện, nguồn gốc và nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực chứng mới. Trong đó, các tác giả đã giành một phần để giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp triết học của Karl Popper trong nhiều lĩnh vực mà ông hoạt động. Đặc biệt các tác giả phân tích mối quan hệ giữa Karl Popper với chủ nghĩa thực chứng nhóm Viên. Tác giả Nguyễn Tấn Hùng trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại” [36] cho rằng quan điểm chính trị - xã hội của Karl Popper là kết quả của một quá trình đối chiếu, lựa chọn có cân nhắc kỹ lưỡng sau khi đã tiếp xúc với tất cả các trào lưu tư tưởng đang thịnh hành lúc bấy giờ ở Áo, không chỉ về lý luận mà còn có thời gian tham gia hoạt động thực tiễn với họ nữa. Karl Popper nghiên cứu Phân tâm học của Sigmund Freud và Alfred Adler, có thời gian ông tình nguyện làm việc trong một bệnh viện phân tâm học nhi khoa của Adler, nhưng cuối cùng, ông cũng phát hiện ra tính phi khoa học của học thuyết này. Karl Popper cũng có tiếp xúc với các nhà khoa học ‘nhóm Viên’, tham dự các 11
- cuộc thảo luận của nhóm dưới sự chủ trì của Moritz Schlick, với sự tham gia của Rudolf Carnap, Otto Neurath, Viktor Kraft, Hans Hahn và Herbert Feigl, v.v., nhưng ông cũng không trở thành hội viên chính thức của nhóm này; và do việc Karl Popper phê phán các luận điểm cơ bản của chủ nghĩa thực chứng lôgic nên về sau ông không còn được mời tham dự nữa. Karl Popper cũng đã tham gia các hoạt động chính trị của đảng xã hội và đảng cộng sản ở Áo, nhưng ông đã sớm phát hiện ra tính không tưởng (utopia) của chủ nghĩa cộng sản nên đã từ bỏ nó và đứng hẳn về phía chủ nghĩa tự do xã hội. 1.1.3. Những công trình nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp triết học và khoa học của Karl Popper Các từ điển và bách khoa thư như “Từ điển Bách khoa Việt Nam”; “The Internet Encyclopedia of Philosophy” (Bách khoa thư Triết học Internet); “Wikipedia, the free encyclopedia” (Bách khoa mở Wiki); “The Stanford Encyclopedia of Philosophy” (Bách khoa thư Triết học Stanford); “Encyclopædia Britanica” (Bách khoa thư Britanica), “Tân Bách khoa thư triết học” của Liên bang Nga (Новая Философская Энциклопедия) đều dành một phần quan trọng trong mục từ Popper để cung cấp những nét cơ bản về tiểu sử và sự nghiệp triết học và khoa học của ông. Các tài liệu này cũng nói về nguồn gốc tính cách của Karl Popper như là sự kế thừa truyền thống gia đình. Trong tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương tây đương đại”, tác giả Nguyễn Tấn Hùng trước khi đi vào phân tích tư tưởng triết học của Karl Popper đã điểm qua về tiểu sử và sự nghiệp khoa học của ông, như hoàn cảnh gia đình (cha, mẹ) của Karrl Popper từ lúc ông rời trường phổ thông 16 tuổi, đến khi học đại học Viên, tốt nghiệp tiến sĩ về Tâm lý năm 1928 và sau đó làm giáo viên ở một trường phổ thông, rồi trở thành giảng viên trường đại học và giáo sư Trường Kinh tế London. Tuy không nhiều nhưng ta cũng hình dung được tiểu sử của ông từ thơ ấu đến khi ông qua đời. Đặc biệt trong phần này, tác giả trình bày sự nghiệp khoa học của Popper. Ngoài việc hoàn thành những tác phẩm quan trọng như: “Lôgic của phát minh khoa học”, “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”; “Sự 12
- nghèo nàn của chủ nghĩa lịch sử”; “Phỏng định và bác bỏ: Sự tăng tiến của tri thức khoa học”; “Hai vấn đề căn bản của lý luận nhận thức”, Popper còn tham gia hoạt động khoa học trong một số hội nghiên cứu. Có thể nói Popper có những đóng góp xuất sắc trên phương diện triết học khoa học. Và chính những tư liệu của tác giả đã cho chúng ta thấy được điều này. Bách khoa thư Triết học Stanforth đề cập đến sự kiện có ý nghĩa quyết định đối với việc Karl Popper rời bỏ quê hương và di cư ra sinh sống ở nước ngoài, đó là sự tiên đoán chính xác của ông về nguy cơ nước Áo bị Đức Quốc xã thôn tính và sát nhập vào nước Đức phát xít [126]. 1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC VỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CỦA KARL POPPER 1.2.1. Những công trình liên quan đến lập trường tư tưởng tự do xã hội của Karl Popper Lập trường chính trị - xã hội của Karl Popper là “chủ nghĩa tự do xã hội” (social liberalism). Chủ nghĩa tự do xã hội khác với các biến thể khác, như chủ nghĩa tự do cổ điển (classical liberalism) và chủ nghĩa tân tự do (neo-liberalism) của Friedrich Hayek và một số biểu hiện cực đoan của chủ nghĩa tự do đang tồn tại trên thế giới như Đảng tự do (Liberitarian Party) ở Mỹ hiện nay. Chủ nghĩa tự do xã hội một mặt đề cao vai trò của tự do cá nhân, nhưng mặt khác phản đối tình trạng bất công xã hội, chủ trương giúp đỡ người nghèo khổ. Tư tưởng tự do xã hội của Karl Popper đã có mầm mống từ lúc nhỏ trong bối cảnh xã hội Áo lúc bấy giờ và nhất là do giáo dục và truyền thống của gia đình ông. Điều này được thể hiện trong ‘Tự tiểu sử’, trong đó Karl Popper nói rằng người cha của ông là người theo chủ nghĩa tự do xã hội không phải chỉ về mặt tư tưởng mà còn chủ động tổ chức những hoạt động giúp đỡ người nghèo nữa. Ý thức về giúp đỡ người nghèo đã đưa Popper đến với chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa tự do xã hội. Tác phẩm “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại” của Nguyễn Tấn Hùng cũng đã dành một phần nói về quan điểm triết học chính trị - xã hội của Karl Popper. Sau khi rời khỏi Đảng Cộng sản Áo, Karl Popper 13
- đứng hẳn về phía lập trường chủ nghĩa tự do xã hội. Tác giả điểm qua một vài đặc trưng của chủ nghĩa tự do nói chung và ‘chủ nghĩa tự do xã hội’ nói riêng. Chủ nghĩa tự do xã hội tuy cũng đề cao tự do cá nhân, phản đối gay gắt chế độ cai trị độc tài, nhưng lại ủng hộ một số biện pháp can thiệp cần thiết của nhà nước để giải quyết khủng hoảng kinh tế, đấu tranh chống bất công xã hội, tạo công ăn việc làm và tạo phúc lợi xã hội. John Stuart Mill là một nhà triết học Anh đã góp phần quan trọng vào việc phát triển hình thức mới này của chủ nghĩa tự do. Chính Karl Popper đã thừa nhận người cha của mình là một người tự do chủ nghĩa thuộc trường phái John Stuart Mill. Bách khoa mở Wikipedia [128] có nói về tác động của sự kiện năm 1919 (cuộc biểu tình do Đảng Cộng sản Áo tổ chức) đến sự thay đổi lập trường chính trị của Karrl Popper. Từ chủ nghĩa cộng sản, Karl Popper chuyển sang lập trường chủ nghĩa tự do xã hội. Đặc biệt trong Bách khoa thư triết học Internet (Internet Encyclopedia of Philosophy), mục từ “Karl Popper: Political Philosophy” (Karl Popper: Triết học chính trị), tác giả William Gorton (Đại học Alma, Michigan) đã phân tích và trích dẫn rất cụ thể về lập trường tự do xã hội của Karl Popper. Tác giả viết rằng Karl Popper đã cảnh báo những nguy hại của chủ nghĩa tư bản không được kiểm soát, thậm chí Popper còn tuyên bố rằng “Sự bất công và vô nhân đạo của ‘hệ thống tư bản không được kiềm chế’ đã được Mác mô tả thì không có gì phải bàn cãi cả”. Karl Popper yêu cầu “Chúng ta cần phải xây dựng những thiết chế xã hội được tăng cường bằng quyền lực nhà nước nhằm bảo vệ người yếu về kinh tế chống lại kẻ mạnh về kinh tế”. Cũng theo nhận xét của William Gorton, “Có lẽ những chính sách của Popper nếu được đem ra thực hiện sẽ tạo ra một xã hội giống như chế độ dân chủ xã hội ở Bắc Âu, với những chương trình phúc lợi quãng đại hơn và sự điều chỉnh nền công nghiệp tốt hơn là ở nước Mỹ với chế độ tư bản laissez-faire (để ai muốn làm gì thì làm) và phúc lợi xã hội không đáng kể” [125]. Một số bách khoa thư khác, như: ‘Stanford Encyclopedia of Philosophy’ cũng có đề cập đến tư tưởng tự do xã hội của Karl Popper. 14
- 1.2.2. Những công trình liên quan đến quan niệm về xã hội mở của Karl Popper Bách khoa mở Wikipedia trong mục từ ‘Open society’ khẳng định rằng khái niệm ‘xã hội mở’ được đưa ra lần đầu tiên bởi nhà triết học Pháp Henri Bergson và được Karl Popper phát triển trong hai tập sách của mình. Herbert Keuth dành phần II. Triết học xã hội (Social Philosophy) trong ba phần của nội dung cuốn sách “The Philosophy of Karl Popper” để phân tích tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Karl Popper trong đó có vấn đề xã hội mở và chủ nghĩa lịch sử. Tác giả trình bày tư tưởng của Karl Popper trong sự liên hệ với các nhà triết học từ Platon, Aristotle đến Hêghen, Mác [101, pp.193-248]. Các từ điển và bách khoa thư ở Liên Xô trước đây tuy có đề cập dến quan niệm về xã hội mở của Karl Popper nhưng lại quy lập trường của ông về sự biện hộ cho tự do tư sản. Còn Tân bách khoa thư triết học Nga [119] tuy có trình bày cụ thể quan niệm về xã hội mở của Karl Popper nhưng không có bình luận, phê phán. Nhà triết học Nga T.I. Oizerman (Т.И. Оизерман) trong một số bài viết và nhất là trong tác phẩm “Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa không tưởng” (Марксизм и утопизм) có nhiều chỗ đề cập đến tư tưởng về xã hội mở của Popper. Theo Oizerman, Karl Popper không hoàn toàn bác bỏ mà còn đề cao những đóng góp nhất định của Mác trong lý luận về giai cấp, trong sự phê phán của Mác đối với những bất công của chủ nghĩa tư bản [Xem: 118]. Người phê phán quan điểm xã hội mở của Karl Popper mạnh mẽ nhất là nhà mácxít Anh Maurice Cornforth với tác phẩm “The Open Philosophy and The Open Society: A Reply to Dr. Karl Popper’s Refutations of Marxism” (Lawrence & Whishart, London, 1968), được Đỗ Minh Hợp dịch từ tiếng Nga với tiêu đề “Triết học mở và xã hội mở” [06]. Trong lời giới thiệu cuốn sách, nhà triết học Nga I.S. Narxki viết: Cuốn sách này “dường như là kết quả hội ngộ của hai số phận trực tiếp đối lập với nhau: ‘nhà lý luận, kẻ chống cộng số một’ Karl Popper và nhà triết học, nhà mácxít nổi tiếng người Anh – M. Cornforth”. M. Cornforth viết tác phẩm này với mục đích bảo vệ triết học Mác bằng hình thức trả lời những vấn đề mà các nhà phê phán chủ nghĩa Mác đặt ra, và trong những người phê phán đó ông chọn Karl 15
- Popper. Vì quyển sách ra đời vào năm 1968, trong khi mô hình chủ nghĩa xã hội kế hoạch hóa tập trung đang thịnh hành, chưa gặp khủng hoảng, cho nên có nhiều điều mà M. Cornforth bảo vệ cho đến nay đã lỗi thời, nhưng phải nói rằng đây là nguồn tư liệu quý giá để chúng tôi tham khảo. Trong lời tựa, M. Cornforth nói: “Tôi muốn nhấn mạnh rằng, tôi không có ý định phê phán hay bác bỏ những gì ngài Popper đã nói về khoa học hay về xã hội. Ngược lại, tôi tiếp nhận nhiều điều và nhất trí với nhiều điều. Cuốn sách này không phải là sự luận chiến với ngài Popper, mà là câu trả lời cho cuộc luận chiến chống lại chủ nghĩa Mác của ông” [06, tr.35]. Trong phần III của cuốn sách của M. Cornforth có hai chương đáng lưu ý. Chương III nói về xã hội mở trong đó ông trả lời những vấn đề về quan hệ giữa xã hội mở và xã hội đóng và con đường tiến tới xã hội mở. Theo M. Cornforth, Karl Popper không đưa ra điều gì mới cả. Ông nói: “Nhưng nếu có ai muốn tìm trong đó những tri thức về cách thức tiến lên xã hội mở và những điều cần tránh, những hiểu biết ấu trĩ, những cái ngẫu nhiên mà chúng đã làm cho cá nhân phải đau khổ trước kia, thì người đó sẽ không thấy gì ngoài những lời nói ba hoa chung chung về trách nhiệm cá nhân” [06, tr.620]. Trong chương VI của tác phẩm, M. Cornforth trả lời cho Popper về kẻ thù của xã hội mở. Theo ông, chủ nghĩa cộng sản mới thực sự là xã hội mở, còn chủ nghĩa tư bản là xã hội đóng. Tiến tới xã hội mở chính là xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Vì vậy, kẻ thù của xã hội mở chính là chủ nghĩa chống cộng. Cách tiếp cận của M. Cornforth là đại diện cho những khuynh hướng tư tưởng bảo thủ thời kỳ trước đổi mới thể hiện trong hầu hết những tác phẩm được viết trong thời kỳ này về triết học phương Tây hiện đại, trong đó có triết học Karl Popper. Lý Quốc Tú, trong chương IV tác phẩm “Karl Raimund Popper” [49], đề cập đến quan niệm về xã hội mở trong tác phẩm “Xã hội mở và những kẻ thù của nó” của Karl Popper. Tác giả cho rằng trọng điểm của Popper là đả phá các quan điểm chính diện của Platon, Aristotle, Hêghen và Mác, còn quan niệm của ông về xã hội mở thì đề cập rất ít trong tác phẩm. Những nội dung mà ông công kích cùng với các nội dung mà ông tán dương và tích cực khởi xướng, hình thành các bộ phận hợp 16
- thành không thể chia cắt của tư tưởng triết học chính trị của ông. Tác giả khái quát hết sức cơ bản quan niệm của Popper về xã hội mở và xã hội đóng. Có thể nói, đây là nguồn tư liệu để chúng tôi đi vào nghiên cứu quan niệm của Popper về xã hội mở. Lưu Phóng Đồng trong “Triết học phương Tây hiện đại”, tập IV [48], tuy dành phần chủ yếu để phân tích tư tưởng triết học về khoa học của Karl Popper, nhưng cũng có một đoạn ngắn nói về tư tưởng triết học chính trị của Karl Popper. Theo Lưu Phóng Đồng, Karl Popper phản đối quyết định luận lịch sử. Ông cho rằng sự phát triển của lịch sử xã hội không có tính quy luật, mọi người cũng không thể dự định trước cho tương lai của xã hội. Theo ông, ‘Chủ nghĩa Utopia’ có liên hệ tự nhiên với quyết định luận lịch sử; chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là một loại công trình xã hội kiểu Utopia. Vì thế, ông đề xướng ‘công nghệ xã hội từng bước’, tức là tiến hành cải tạo từng bước, thiết thực, khả thi đối với xã hội, và lấy đó để phản đối lý luận cách mạng xã hội của chủ nghĩa Mác, ông nói, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản của chủ nghĩa Mác là ‘xã hội đóng’, xã hội mà ông cố gắng thực hiện lại là ‘xã hội mở’ [48, tr.240]. Sách “Một số trào lưu triết học và tư tưởng chính trị phương Tây đương đại” của Nguyễn Tấn Hùng phân tích và trích dẫn nhiều đoạn quan trọng trong tác phẩm của Popper “Xã hội mở và những kẻ thù của nó”. Kẻ thù của xã hội mở theo Popper chính là những xã hội đóng được xây dựng theo mô hình của các lý thuyết xã hội không tưởng (được Popper gọi là chủ nghĩa lịch sử). Tác giả khái quát những đặc trưng cơ bản của xã hội mở được Karl Popper nêu ra trong tác phẩm của mình bằng cách đối lập nó với những hình thức xã hội đóng. Một là, xã hội mở là xã hội do mọi người sáng tạo một cách tự do, không phụ thuộc vào tính tất yếu và quy luật lịch sử và tác giả đã đưa ra những nhận định và phê phán của mình về quan điểm đó của Popper. Hai là, Popper cho rằng xã hội mở được xây dựng theo một “công nghệ xã hội” nhất định được ông gọi là ‘kiến thiết xã hội từng phần’ đối lập với phương pháp kiến thiết ‘toàn phần’ hay ‘không tưởng’. Karl Popper còn so sánh hiệu quả của phương pháp cải biến xã hội toàn phần và xã hội từng phần, rồi từ đó chỉ ra tính ưu thế của phương pháp cải tạo xã hội từng phần so với phương pháp cải tạo toàn 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục - Đào tạo với việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay
195 p | 499 | 221
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
174 p | 580 | 101
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
177 p | 337 | 91
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trường kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái nước ta hiện nay
176 p | 275 | 83
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
155 p | 337 | 77
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
165 p | 246 | 55
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
27 p | 222 | 24
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
170 p | 158 | 20
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giá trị đạo đức truyền thống dân tộc với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
28 p | 184 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay
27 p | 170 | 19
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Thuyết tam tòng, tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay
29 p | 183 | 18
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên các trường chính trị tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay
177 p | 26 | 16
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Giáo dục Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho sinh viên trường Đại học Cảnh sát nhân dân hiện nay
26 p | 154 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Xây dựng hình ảnh văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay
220 p | 14 | 8
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó
32 p | 158 | 6
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Triết lý yêu nước Việt Nam và ý nghĩa của việc giáo dục triết lý đó cho sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay
151 p | 12 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Triết học: Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lãnh đạo phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với tỉnh Bôlykhămxay và Khămmuộn (CHDCND Lào) từ năm 1991 đến năm 2010
12 p | 112 | 3
-
Luận án Tiến sĩ Triết học: Phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội ở Tây Bắc hiện nay
27 p | 11 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn