intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Y học: Đánh giá kết quả điều trị hỗ trợ suy đa tạng bằng lọc máu liên tục tĩnh mạch – tĩnh mạch bù dịch đồng thời trước và sau quả lọc

Chia sẻ: Co Ti Thanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:127

27
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận án nhằm đánh giá kết quả điều trị hỗ trợ suy đa tạng bằng lọc máu liên tục tĩnh mạch – tĩnh mạch bù dịch đồng thời trước và sau quả lọc so với bù dịch sau quả lọc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Y học: Đánh giá kết quả điều trị hỗ trợ suy đa tạng bằng lọc máu liên tục tĩnh mạch – tĩnh mạch bù dịch đồng thời trước và sau quả lọc

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Suy đa  tạng (SĐT) là bệnh cảnh thường gặp tại các khoa hồi sức  với suy cùng lúc hoặc liên tiếp ít nhất 2 tạng. Đây la môt qua trinh bênh tiên ̀ ̣ ́ ̀ ̣ ́  ̉ triên năng v ̣ ới cơ chế tổn thương phức tạp, cả nhiễm khuẩn và không  nhiễm khuẩn đều có thể kích hoạt đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Co nhiêu ́ ̀  ́ ́ ́ ̉ yêu tô thuc đây SĐT nh ư nhiêm khu ̃ ẩn, chấn thương, viêm tuy, ngô đôc,  ̣ ̣ ̣ ̉ ̉ bong,...  Giam oxy mô, đap  ́ ứng viêm quá mức va s ̀ ự hinh thanh cac gôc t ̀ ̀ ́ ́ ự  do được xem la cac yêu tô dân đên tôn th ̀ ́ ́ ́ ̃ ́ ̉ ương mô va rôi loan ch ̀ ́ ̣ ức năng cac  ́ tạng. Trong đó, phản ứng viêm quá mức giữ vai trò quan trọng trong tiến  triển rối loạn chức năng các tạng [1]. Mặc dù có nhiều tiến bộ trong điều  trị nhưng tỷ lệ tử vong do SĐT vẫn còn rất cao, từ 22% khi suy 1 tạng tăng  lên đến 83% khi suy ≥ 4 tạng [2]. Tỷ lệ tử vong của bệnh nhân SĐT có liên  quan chặt chẽ với tuổi của bệnh nhân, bệnh nền và tình trạng nhiễm  khuẩn [3],[4]. Số tạng suy càng nhiều và mức độ tạng suy càng nặng thì tỷ  lệ tử vong càng cao, do đó mục tiêu điều trị là hỗ trợ chức năng các tạng và  phong ng ̀ ừa cac biên ch ́ ́ ứng do điêu tri cho đ ̀ ̣ ến khi các tang hôi phuc. ̣ ̀ ̣ Lọc máu liên tục là kỹ thuật đã được áp dụng tại Việt Nam trong  hơn 10 năm và ngày nay được xem là công cụ hữu hiệu hỗ trợ điều trị  SĐT. Trong các phương thức lọc máu liên tục thì siêu lọc tĩnh mạch ­ tĩnh  mạch có khả năng đào thải nước và các chất trung gian gây viêm bằng cách  sử dụng dịch thay thế đưa vào trước quả lọc (bù dịch trước quả) hoặc sau  quả lọc (bù dịch sau quả). Trong phương thức bù dịch sau quả, khả năng  thanh thải chất tan liên quan trực tiếp với tốc độ siêu lọc và là phương  thức đối lưu hoàn toàn [5],[6]. Khi dich thay thê đ ̣ ́ ược đưa vao sau qu ̀ ả lọc,  nồng độ các chất tan trong máu đi qua quả lọc cao nhờ vậy hiệu quả lọc  tăng, nhưng do mau cô đăc nên qua loc dê bi đông t ́ ̣ ̉ ̣ ̃ ̣ ắc. Bù dịch trước qua ̉ lam giam đô nh ̀ ̉ ̣ ơt cua mau khi đi qua qua loc; vi vây giup han chê đông qu ́ ̉ ́ ̉ ̣ ̀ ̣ ́ ̣ ́ ả  lọc, có thể kéo dài đời sống quả lọc; nhưng kha năng thanh thai cac chât  ̉ ̉ ́ ́ hoa tan gi ̀ ảm và để đat đ ̣ ược cung hiêu qua loc nh ̀ ̣ ̉ ̣ ư bù dịch sau quả thi t ̀ ốc  độ dòng máu cần phải lớn và theo đó là lượng dich thay thê c ̣ ́ ần nhiều hơn  [5],[6]. Đê l ̉ ựa chon hiêu qua cung nh ̣ ̣ ̉ ̃ ư han chê nh ̣ ́ ững nhược điểm cua hai  ̉ phương phap trên, ADQI (Acute Dialysis Quality Initiative) khuyên cao co  ́ ́ ́ ́ ̉ thê phôi h ́ ợp hai phương phap trên băng cach bù d ́ ̀ ́ ịch đông th ̀ ời trước va sau ̀   qua loc  ̉ ̣ [7]. Nhiều nghiên cứu ngoài nước đã áp dụng phương thức bù dịch  này trên các bệnh nhân SĐT và ghi nhận hiệu quả trong giảm mức độ suy  tạng và tử vong. Tại Việt Nam, trong nghiên cứu đạt giải thưởng Nhà  nước, Nguyễn Gia Bình và cộng sự cũng sử dụng phương thức bù dịch  trước và sau quả trên các bệnh nhân SĐT và cho thấy phương thức này 
  2. 2 giúp cải thiện toan chuyển hóa, cải thiện trao đổi khí ở phổi, giảm mức độ  suy tạng và tử vong [8],[9], [10], [11]. Tuy nhiên, còn một số vấn đề chưa được nhiều nghiên cứu đề cập,  đó là so với phương thức bù dịch sau quả thì bù dịch đồng thời trước và sau  quả có giúp kéo dài đời sống quả lọc không? Có khác biệt gì trong hỗ trợ  chức năng các tạng? Khả năng thanh thải đối với các chất tan của bù dịch  đồng thời trước và sau quả như thế nào? Để trả lời các câu hỏi này, chung ́ tôi thực hiên nghiên c ̣ ́ Đanh gia k ưu “ ́ ́ ết qua điêu tri hô tr ̉ ̀ ̣ ̃ ợ suy đa tang  ̣ băng loc mau liên tuc tinh mach – tinh mach bu dich đông th ̀ ̣ ́ ̣ ̃ ̣ ̃ ̣ ̀ ̣ ̀ ời trước va ̀ sau qua loc̉ ̣ ” với 2 mục tiêu sau: ̉ ̣ ̣ ̣ 1. Khao sat lâm sang, cân lâm sang bênh nhân suy đa tang có suy th ́ ̀ ̀ ận  cấp, chỉ định loc mau liên tuc tĩnh m ̣ ́ ̣ ạch ­ tĩnh mạch tai khoa H ̣ ồi sức  tích cực ­ Chống độc Bệnh viện Nhân dân 115. 2. Đánh giá kết qua đi ̉ ều trị hỗ trợ suy đa tạng bằng loc mau liên tuc  ̣ ́ ̣ ̣ ̣ ̀ ̣ tinh mach – tinh mach bu dich đông th ̃ ̃ ̀ ời trước va sau qua loc so v ̀ ̉ ̣ ới  bù dịch sau quả lọc.  CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN 1.1. SUY ĐA TẠNG 1.1.1. Khái niệm  Suy tạng được mô tả lần đầu tiên vào đầu thế chiến thứ II, trong đó  hệ thống tim mạch và sốc là nguyên nhân gây tử vong chính. Nhiều tác giả  sau đó tiếp tục mô tả về suy các tạng nhưng mãi cho đến năm 1973 Tilney  N.L. và cộng sự (CS) lần đầu tiên mô tả suy hệ thống liên tiếp xảy ra sau  phẫu thuật vỡ phình động mạch chủ bụng [12]. Đây được xem là khái  niệm về SĐT đầu tiên trong y văn. Vào năm 1975, Baue A.E. xác nhận suy nhiều tạng tiến triển liên tục  là hội chứng của những bệnh nhân (BN) nặng có từ những năm 1970 [13].  Đến năm 1977, Eiseman và CS mô tả BN suy tạng, nhấn mạnh đến suy gan  [14]. Họ là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ tiếng Anh "multiple  organ failure" để dùng cho BN SĐT và chúng được sử dụng phổ biến cho  đến ngày nay [4]. Trong khoảng 2 thập niên tiếp theo, các tác giả tập trung  nghiên cứu về nguyên nhân và cơ chế tiến triển SĐT và xác định rằng  phản ứng viêm, hay tình trạng viêm không có nhiễm khuẩn huyết chiếm  gần một nửa nguyên nhân gây SĐT. Sự sản xuất yếu tố hoại tử mô α 
  3. 3 (Tumor Necrosis Factor­alpha   TNF­α), Interlekin­1  (IL­1 ) và IL­6 gây  hạ huyết áp, nhiễm toan lactic, và suy hô hấp. IL­6 là yếu tố dự báo tốt  nhất cho sự hồi phục hoặc tiến triển đến SĐT sau sốc [15]. Năm 1992, Hội Hồi sức và Hội Thầy thuốc Lồng ngực các Trường  Đại học Hoa Kỳ đã đưa ra định nghĩa về SĐT và tiêu chuẩn định nghĩa này  đã được áp dụng trong y văn cho đến nay. SĐT là rối loạn chức năng ít  nhất 02 hệ thống cơ quan ở BN có bệnh lý cấp tính mà không thể duy trì  sự cân bằng nội môi nếu không có can thiệp điều trị [16]. 1.1.2. Dịch tễ Nhiều nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa tỷ lệ mắc bệnh và tỷ  lệ tử vong với độ tuổi. Tuổi càng cao thì tử vong càng tăng, nguy cơ tử  vong cao nhất ở BN > 60 tuổi [17],[18]. Nhiễm khuẩn thường chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nguyên nhân thúc  đẩy SĐT. Tại Mỹ từ năm 1979 đến 2000, tỷ lệ mắc nhiễm khuẩn đã  tăng gấp 3 lần, từ 83 lên 240 trường hợp/100.000 dân/năm [19]. Có  nhiều lý do giải thích tỷ lệ nhiễm khuẩn ngày càng tăng, đầu tiên là tuổi  trung bình của dân số ngày càng cao, tiếp theo là tỷ lệ mắc bệnh mạn  tính ngày càng tăng, sử dụng nhiều kỹ thuật xâm lấn, ghép tạng, các  thuốc ức chế miễn dịch, hóa liệu pháp do đó làm tăng nguy cơ mắc  nhiễm khuẩn.  Elizabeth B. và CS tiến hành nghiên cứu hồi cứu trên 249 BN nằm  điều trị tại các khoa hồi sức trong 4 tháng vào năm 1999, trong đó tần suất  nhiễm khuẩn là 54/249 BN (chiếm tỷ lệ 22%). Tỷ lệ tử vong là 18% khi suy  1 tạng, suy 2 hoặc 3 tạng có tỷ lệ tử vong là 52% và tăng lên 88% khi suy từ  4 tạng trở lên [20]. Năm 2012, Ayman E.M. và CS tổng hợp các nghiên cứu  về SĐT từ năm 1980 đến 1996, ghi nhận tỷ lệ BN bị SĐT sau chấn thương  và phẫu thuật từ 7% đến 25%. Tỷ lệ tử vong dao động từ 24% đến 100%  tùy theo số lượng tạng tổn thương [21]. Nghiên cứu của Nazir I.L. và CS  năm 2012 trên 872 BN tại 10 khoa HSTC của Scotland cho thấy tỷ lệ tử  vong do SĐT là 34,4% trong vòng 28 ngày và tăng lên 58,2% sau 5 năm [22].  Nghiên cứu tại Anh trên 290 BN viêm tụy cấp nặng tại 18 trung tâm  cho thấy suy tạng sớm chiếm tỷ lệ 60% và kết luận rằng suy tạng trong  vòng 48 giờ có tiên lượng tốt hơn sau 48 giờ [23]. Nghiên cứu tại Scotland  trên 1.024 BN viêm tụy cấp cho thấy 63% BN tử vong có suy ít nhất 2 tạng  [24]. Tại Việt Nam, Trần Hữu Thông và CS năm 2012 báo cáo kết quả  nghiên cứu căn nguyên gây viêm phổi liên quan thở máy tại khoa Cấp cứu  và Hồi sức tích cực (HSTC) Bệnh viện Bạch Mai cho thấy vi khuẩn gặp  nhiều nhất là Acinetobacter baumanii (40%), tiếp đến là Pseudomonas 
  4. 4 aeruginosa (26,7%) [25]. Nghiên cứu của Phạm Thị Lan và CS (2017) cho  thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết liên quan đường truyền tĩnh mạch trung tâm  là 6,9/1000 ngày­catheter và chủ yếu là vi khuẩn gram âm với 76,6% [26].  Nghiên cứu của Hoàng Văn Quang (2009) trên 82 BN nhiễm khuẩn huyết  nặng ghi nhận tỷ lệ BN có biến chứng SĐT là 54,9% và tỷ lệ tử vong do  SĐT là 55% [27]. Trong nghiên cứu đạt giải thưởng Nhà nước của Nguyễn  Gia Bình và CS (2013) trên 65 BN SĐT, các tác giả cho thấy số lượng tạng  suy trung bình là 3,12 ± 0,96 tạng và tỷ lệ tử vong là 67,7% [8].  1.1.3. Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân tham gia vào quá trình khởi phát và tiến triển  SĐT, trong đó 4 nhóm nguyên nhân thường gặp nhất tại các khoa Hồi sức  nội là nhiễm khuẩn, sốc, viêm tụy cấp và ngộ độc. Nhiễm khuẩn Sự xâm nhập của bất kỳ loại vi sinh nào (vi khuẩn, nấm, ký sinh  trùng, virus,...) cũng có thể tạo ra tình trạng viêm nhiễm ở người, diễn tiến  nặng thành nhiễm khuẩn huyết. Tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết nặng tăng từ  23,5% năm 1996 lên 28,7% năm 2004 tại Anh, xứ Wales và Bắc Ailen [28].  Nghiên cứu của Takesi U. và CS trên 112 bệnh viện tại Nhật Bản năm  2008 cho thấy nhiễm khuẩn nặng biến chứng SĐT có tỷ lệ tử vong nhiều  hơn gấp 2,2 lần so với các BN nhiễm khuẩn nặng chỉ suy 1 tạng [29].  Nghiên cứu trên 287 trường hợp nhiễm khuẩn huyết do Acinetobacter  baumanii tại 6 bệnh viện Việt Nam, tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà và CS  cho thấy các yếu tố nguy cơ gia tăng tử vong gồm: nằm khoa HSTC, sốc,  điểm APACHE II ≥ 20 và tổn thương đa cơ quan [30]. Các nghiên cứu  trong nước cho thấy nhiễm khuẩn chiếm tỷ lệ 66,5% đến 93,8% các  nguyên nhân dẫn đến SĐT [8],[9]. Số tạng suy trung bình là 3,0 ± 0,6 tạng  ở nhóm sống và 4,1 ± 0,9 tạng ở nhóm tử vong trên các BN sốc nhiễm  khuẩn trong nghiên cứu của Lê Thị Việt Hoa và CS (2017) [31]. Sốc Sốc là một hội chứng lâm sàng gây ra bởi tưới máu mô không đẩy  đủ. Sự mất cân bằng giữa cung và cầu oxy cũng như chất dinh dưỡng dẫn  đến rối loạn chức năng tế bào. Tổn thương tế bào tạo ra các mẫu phân tử  gây hại (DAMP = damage­associated molecular pattern) và các chất trung  gian gây viêm, từ đó làm xấu hơn nữa tình trạng tưới máu qua việc làm  thay đổi cấu trúc và chức năng hệ thống vi tuần hoàn. Điều này tạo ra một  chu trình nguy hiểm, mà trong đó tổn thương tế bào do giảm tưới máu làm  cho việc phân phối máu không thích hợp, hậu quả là làm tổn thương tế bào  nhiều hơn nữa và cuối cùng dẫn đến SĐT. Nếu chu trình này không được  cắt đứt sẽ dẫn tới tử vong. Trên lâm sàng, sốc nhiễm khuẩn là nguyên nhân 
  5. 5 hàng đầu dẫn đến SĐT, tỷ lệ tử vong do sốc nhiễm khuẩn lên tới 79%  trong nghiên cứu của Elizabeth B. và CS [20]. Tác giả Trần Quế Sơn và CS  (2016) nghiên cứu 124 BN chấn thương gan cho thấy tỷ lệ tử vong trong 24  giờ đầu là 23,4%, trong đó tử vong do sốc mất máu chiếm 11,3% [32]. Viêm tụy cấp Về cơ chế bệnh sinh, viêm tụy tiến triển qua 3 giai đoạn, trong đó  giai đoạn khởi đầu đặc trưng bởi hoạt động của các men tiêu pretein bên  trong tuyến tụy và gây tổn thương tế bào nhu mô tụy; giai đoạn thứ hai có  sự hoạt hóa, hóa hướng động bạch cầu và đại thực bào làm gia tăng phản  ứng viêm trong tuyến tụy. Ở giai đoạn thứ ba, mô tụy và các cơ quan ở xa  phóng thích các men tiêu protein và cytokin làm cho tình trạng viêm tụy  nặng nề hơn; hậu quả là tiêu hủy màng tế bào, hủy cơ, phù, xuất huyết mô  kẽ, tổn thương mạch máu, hoại tử đông máu, hoại tử mỡ, hoại tử tế bào  nhu mô. Hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (Systemic Inflamatory Response  Syndrome   SIRS), hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (Acute Respiratory  Distress Syndrome   ARDS) và SĐT có thể xuất hiện và là hậu quả của  dòng thác các tác động trên [33]. Tần suất mắc viêm tụy cấp là 5­ 35/100.000 ca mới mỗi năm trên toàn thế giới với tỷ lệ tử vong chiếm  khoảng 3% [34]. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong ở BN viêm tụy cấp biến chứng  SĐT lên đến 63% khi BN suy ít nhất 2 tạng [24]. Trong một nghiên cứu  của Comstedt B. và CS, tỷ lệ tử vong vào ngày 28 ở BN có SIRS cao hơn  gấp 6,9 lần so với BN không có SIRS [35]. Ngộ độc Có rất nhiều tạng bị tác động bởi độc chất đưa vào cơ thể và tiến  triển của tổn thương tạng cũng chịu tác động một phần bởi điều trị. Hạ  huyết áp trên BN ngộ độc thường gây bởi tình trạng ức chế cơ tim hoặc  dãn mạch do thuốc. Suy hô hấp thường là do tác động ức chế hô hấp hoặc  thần kinh của thuốc, cũng có thể là do quá tải dịch khi bù dịch quá mức.  Suy thận cấp thường do giảm thể tích dịch ngoại bào và giảm tưới máu  thận gây ra bởi tình trạng dãn mạch, ức chế cơ tim, hoặc hủy cơ vân. Co  giật kéo dài 30 đến 60 giây có thể làm cho pH máu giảm đến 7,17 sau 30  phút và 7,2 sau 60 phút chấm dứt cơn [36]. Nghiên cứu của Vũ Đình Thắng  (2016) trên 74 BN ngộ độc cấp Parqaquat được lọc máu hấp phụ kết hợp  thẩm tách máu ngắt quãng cho thấy tỷ lệ tử vong là 52,7% [37]. 1.1.4. Cơ chế bệnh sinh Sự hình thành SĐT chịu tác động của nhiều nguyên nhân và có cơ  chế bệnh sinh phức tạp. Các yếu tố đóng vai trò chính trong cơ chế bệnh  sinh gồm: đáp ứng miễn dịch, thiếu oxy mô, chết tế bào theo chương trình 
  6. 6 và thuyết "2 tác động"; trong đó quan trọng nhất là đáp ứng miễn dịch của  chủ thể đối với tác nhân gây bệnh. 1.1.4.1. Đáp ứng miễn dịch Các cytokin như TNF­α và IL­1  được phóng thích từ đại thực bào  và tế bào CD4 trong giờ đầu tiên sau viêm nhiễm. Sau đó, chúng tiếp tục  phóng thích các chất trung gian khác như IL­1, IL­6, Il­8, IL­12, IL­15, IL­ 18,... Lớp đường trên bề mặt vi khuẩn và các nội độc tố hoạt hóa hệ thống  bổ thể và khuếch đại phản ứng viêm. C5a xuất hiện khoảng 2 giờ sau  nhiễm khuẩn và kích thích đại thực bào sản xuất các chất trung gian gây  viêm. Yếu tố ức chế di chuyển đại thực bào xuất hiện khoảng 8 giờ sau  nhiễm khuẩn, hoạt hóa tế bào T và đại thực bào sản xuất các chất trung  gian tiền viêm [1]. TNF­α và IL­1  được sản xuất từ đại thực bào ngay lập tức sau  chấn thương và sốc; chúng gây hạ HA, nhiễm toan lactic, và suy hô hấp.  IL­6 cũng được sản xuất bởi đại thực bào, có đáp ứng đỉnh muộn hơn  nhưng là yếu tố dự báo tốt nhất cho sự hồi phục hoặc tiến triển đến SĐT  sau sốc [15]. Bạch cầu đa nhân trung tính, đại thực bào và tiểu cầu còn  tham gia quá trình tổn thương thứ phát sau sốc. HMGB1 là một protein gắn  kết nhân tế bào, xuất hiện khoảng 24 giờ sau nhiễm khuẩn gây hoạt hóa  yếu tố nhân kappa  , kích hoạt chất hoạt hóa gene, phóng thích cytokin và  các chất trung gian tiền viêm khác. Bình thường, sự cân bằng của quá trình  viêm giúp cơ thể vượt qua viêm nhiễm. Tuy nhiên, trong một số tình  huống, sự khuếch đại phản ứng viêm không bị giới hạn, đáp ứng viêm trở  nên quá mức và được gọi là SIRS [1].  1.1.4.2. Thiếu oxy mô Đáp ứng chủ thể đối với nhiễm khuẩn nặng gây rối loạn chức năng  tim mạch, mất điều hòa mạch máu tại chỗ và toàn thân, và gây tổn thương  vi tuần hoàn [1]. Bình thường khi cung lượng tim giảm, kháng lực mạch  máu hệ thống sẽ tăng để duy trì áp lực tưới máu cho tim và não, và bù trừ  tưới máu này bằng cách giảm lượng máu đến cơ, da, và ống tiêu hóa. Tuy  nhiên, khi huyết áp trung bình (HATB) ≤ 60 mmHg thì tưới máu cho tất các  các cơ quan đều giảm, hậu quả là suy giảm chức năng các tạng [15].  Trong những điều kiện sinh lý, tế bào nội mạc nhận cảm những thay  đổi về sinh lý cũng như chuyển hóa và đáp ứng bằng cách điều chỉnh lưu  lượng vi tuần hoàn thông qua phóng thích các chất dãn mạch như Nitric  Oxic (NO) [38]. Khi sốc, có sự gia tăng nồng độ các chất gây dãn mạch  như angiotensin II, vasopressin, endothelin 1, thromboxane A2, prostaglandin  I2, NO, và adenosin. Norepinephrin và epinephrin được phóng thích từ tủy 
  7. 7 thượng thận và gia tăng trong máu. Sự mất cân bằng giữa co và dãn mạch  trong sốc ảnh hưởng đến vi tuần hoàn và làm giảm tưới máu tại chỗ, làm  thay đổi chuyển hóa tế bào và suy tạng [15]. Vận chuyển các chất dinh  dưỡng qua khoảng kẽ giảm gây giảm kho dự trữ phosphat năng lượng cao  trong tế bào và gây giảm adenosin triphosphat (ATP). Kết quả là làm tăng  ion hydrogen, lactate, các gốc oxy tự do và các sản phẩm của chuyển hóa  yếm khí. Khi sốc tiếp diễn, các chất dãn mạch tiếp tục tăng gây hạ HA và  giảm tưới máu nhiều hơn; đồng thời tăng sự vận chuyển natri và nước  xuyên màng dẫn đến phù tế bào làm cho tưới máu vi tuần hoàn càng kém  [15]. 1.1.4.3. Chết tế bào theo chương trình Chết tế bào là cơ chế sinh lý tạo ta sự hủy tế bào nhờ hoạt động của  các cơ chế chuyên biệt bên trong tế bào. Đó là một quá trình điều hòa sự  tăng sinh và phân hủy tế bào. Trong các bệnh lý nặng, rối loạn quá trình  chết tế bào theo chương trình tạo ra bởi cả 2 con đường nội sinh và ngoại  sinh. Con đường ngoại sinh bị kích hoạt bởi thụ thể Fas (CD95) và TNF.  Con đường nội sinh là do tổn thương DNA làm thay đổi màng ty thể, đặc  biệt ở các tế bào biểu mô ruột sau chấn thương [1]. Rối loạn chức năng tế  bào được xem là cơ chế sinh lý bệnh giai đoạn cuối trong sốc [15]. Như  vậy các cytokin có thể tham gia quá trình chết tế bào và rối loạn chức năng  các cơ quan trong SĐT.  1.1.4.4. Thuyết “2­tác động” (the "two­hit" theory) Chấn thương hoặc tổn thương nặng trong phẫu thuật, hoặc sốc kéo  dài có thể trực tiếp gây ra SĐT; đó là do thiếu máu, tổn thương cơ chế tái  tưới máu hoặc phá hủy mô do chấn thương. Đây là “tác động đầu tiên”,  chúng gây ra đáp ứng viêm hệ thống, rối loạn chức năng hệ tim mạch và tế  bào. Khi tác động đầu tiên không gây ra SĐT tiên phát, thì “tác động thứ  hai” như tình trạng nhiễm khuẩn (viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết từ  catheter,…) có thể kích hoạt thêm nữa rối loạn của hệ thống miễn dịch để  gây ra SĐT thứ phát [1]. Đặc trưng của đáp ứng này là phóng thích nhiều  cytokin dẫn đến rối loạn huyết động và tiến triển thành SĐT. 
  8. 8 Sơ đồ 1.1. Sinh lý bệnh của suy đa tạng *Nguồn: theo Kondrad R. và CS ( 2011) [1] 1.1.5. Biểu hiện lâm sàng của suy đa tạng Là sự  phối  hợp rối loạn chức năng của nhiều cơ  quan, trong  đó  thường gặp nhất là tuần hoàn, hô hấp, thận, gan, đông máu và thần kinh. Rối loạn chức năng tim mạch Có nhiều nguyên nhân gây ra suy tuần hoàn như: giảm thể tích tuần  hoàn, mất chức năng tim, tắc nghẽn (thuyên tắc phổi, chèn ép tim cấp, co  thắt mạch máu, nhồi máu mạc treo) hoặc tái phân bố. Tùy theo mức độ rối  loạn chức năng ở tim, mạch máu và tình trạng thể tích tuần hoàn của BN,  biểu hiện lâm sàng có thể là da lạnh ­ ẩm, giảm tưới máu đầu chi, hạ HA,  thiểu niệu, rối loạn tri giác. Sốc được định nghĩa là tình trạng giảm oxy ở  mô và tế bào do giảm cung cấp và/hoặc tăng tiêu thụ oxy, thường xuất hiện  khi có suy tuần hoàn biểu hiện với hạ HA. Các tác động của sốc có thể đảo  ngược được ở giai đoạn đầu, nhưng khi tiến triển nhanh thì rất khó hồi  phục, gây SĐT và tử vong. Khi một BN có biểu hiện sốc, các nhà lâm sàng  cần ngay lập tức tiến hành điều trị trong khi nhanh chóng xác định nguyên  nhân nhằm mục đích đảo ngược sốc, phòng ngừa SĐT và tử vong. NC của  Elizabeth B. và CS ghi nhận tỷ lệ suy tuần hoàn và tử vong lần lượt là  70,4% và 79% [20]. NC của Trương Ngọc Hải cho thấy suy tuần hoàn  chiếm tỷ lệ 73,5% và tỷ lệ tử vong khi suy tuần hoàn là 66,7% ở các BN  SĐT [9]. Rối loạn chức năng hô hấp Tổn thương phổi thường xuất hiện sớm do nhiễm khuẩn, đụng dập  phổi, ngạt nước, hít khói độc, đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính 
  9. 9 (Chronic Obstructive Pulmonary Disease   COPD), thuyên tắc phổi hoặc  sốc. Tổn thương phổi cấp tính (Acute Lung Injury   ALI) hoặc ARDS là  những biến chứng nghiêm trọng trên các BN nặng [39]. Nhiễm khuẩn là  nguyên nhân gây ra ARDS thường gặp nhất, chiếm 45,1% trong NC của  Maureen và CS (2008) [39]. Tỷ lệ tử vong khi ARDS nhẹ là 27%, tăng lên  32% ở mức trung bình và 45% khi ARDS nặng [40]. Vào năm 1994, tại Hội nghị đồng thuận Hoa Kỳ ­ Châu Âu, tiêu  chuẩn chẩn đoán ALI và ARDS đã được đưa ra và vẫn đang được chấp  nhận rộng rãi [41].  Tiêu chuẩn chẩn đoán ALI:  Khởi phát bệnh cấp tính.  Thâm nhiễm lan tỏa hai bên phổi trên phim X­quang lồng ngực.  Tỉ số PaO2/ FiO2 ≤  300 mmHg, với bất kỳ mức PEEP.  Áp lực mao mạch phổi bít ≤  18 mmHg, hoặc không có biểu hiện của  tăng áp nhĩ trái.  Tiêu chuẩn chẩn đoán ARDS cũng tương tự tiêu chuẩn chẩn đoán  ALI, nhưng với tỉ số PaO2/ FiO2 ≤  200 mmHg, với bất kỳ mức PEEP.  Rối loạn chức năng thận ̉ Tôn th ương thân câp la tinh trang sut giam đôt ngôt ch ̣ ́ ̀ ̀ ̣ ̣ ̉ ̣ ̣ ức năng thân, ̣   biểu hiện từ  mức độ  nhẹ  đến nặng và có thể  gây ra mât kha năng duy tri ́ ̉ ̀  ̣ ̣ ̉ cân băng toan ­ kiêm, dich ­ điên giai; cung nh ̀ ̀ ̃ ư  mât kha năng bai tiêt cac ́ ̉ ̀ ́ ́  ̉ chât thai nitrogene. Bi ́ ểu hiện tiểu ít, tăng creatinin máu là bệnh cảnh của  tổn thương thận thường gặp.  ̣ ̣ ̀ ̣ ́ ́ ̀ ứ hai của ADQI  Năm 2004, trong hôi nghi đông thuân quôc tê lân th ́ ̀ ̣ ́ ̃ ̀ ́ ̣ [42], cac nha loc mau đa đê xuât phân loai RIFLE (Risk, Injury, Failure, Loss,   ̉ Endstage kidney disease) cho tôn thương thân câp  ̣ ́ ở BN hôi s ̀ ưc. Tiêu chuân ́ ̉   ́ ̣ RIFLE xac đinh 3 m ưc đô tiên triên tôn th ́ ̣ ́ ̉ ̉ ương thân câp va 2 nhom tiên ̣ ́ ̀ ́   lượng. Theo đó, chẩn đoán tổn thương thận cấp khi nồng độ creatinin máu  tăng 2 lần so với mức bình thường hoặc lượng nước tiểu 
  10. 10 nằm điều trị tại khoa HSTC có tỷ lệ tử vong lên đến 62%. BN tổn thương   thận cấp không cần điều trị thay thế thận có tỷ lệ tử vong là 15% trong khi   các BN cần phải lọc thận thì tỷ  lệ  tử  vong là 62%  [43]. Trong NC của  Bagshaw S.M. và CS, tỷ  lệ  tổn thương thận cấp  ở  BN nhiễm khuẩn là  42,1% và tổn thương thận cấp do nhiễm khuẩn nặng nề hơn cũng như  có  tỷ lệ tử vong cao hơn (19,8% so với 13,4%, p 
  11. 11 bạch cầu hoặc tăng bạch cầu không được xem là dấu chứng đặc hiệu của  rối loạn chức năng đông máu, mặc dù những bất thường này có thể gặp  trong bệnh lý nặng. Giảm tiểu cầu có thể qua trung gian miễn dịch, do  biến chứng nặng của bệnh, và do thuốc [50],[51]. Như vậy, giảm tiểu cầu  là một yếu tố tiên lượng tử vong cho nhiễm khuẩn nặng và sốc nhiễm  khuẩn. Đông máu rãi rác nội mạch (Disseminated Intravascular Coagulation   DIC) có thể do nhiều bệnh nền khác nhau gây ra như nhiễm khuẩn, bệnh  lý ác tính, bệnh gan. Cơ chế gây ra DIC cũng khác nhau tùy thuộc vào bệnh  nền. BN SĐT có lượng tiểu cầu   15.000/µL hoặc bạch cầu đa nhân > 1500/µL. Giảm Hemoglobin là một  trong những yếu tố tiên tượng tiến triển SĐT trên các BN chấn thương  nặng hoặc đa chấn thương, do đó cần chú ý giữ nồng độ Hemoglobin ở  mức 7­9g/dL nhằm đảm bảo phân phối oxy khi BN có sốc [55].
  12. 12 Đo nồng độ điện giải đồ, magne, calcium, phosphat, đường huyết  với khoảng cách đều đặn. Đánh giá chức năng gan thận gồm urê, creatinin,  AST, ALT, Bilirubin, alkaline phosphatase. Chú ý tình trạng đông máu (INR,  aPTT) đặc biệt khi BN có chỉ định lọc máu liên tục. Khi BN có tình trạng  tăng đông thì cần xét nghiệm định kỳ để xác định có đông máu rãi rác trong  lòng mạch hay không. Hạ đường huyết là yếu tố nguy cơ làm gia tăng tỷ lệ  tử vong, vì vậy khuyến cáo của Hội nghị đồng thuận hướng dẫn điều trị  nhiễm khuẩn (Surviving Sepsis Campagne – SSC) năm 2016 là nên giữ  đường huyết ở mức ≤ 180mg/dL hơn là ở mức ≤ 110mg/dL trên các BN  nặng và nên theo dõi đường huyết mỗi 1­2 giờ cho đến khi mức đường  huyết và tốc độ truyền Insulin ổn định thì theo dõi mỗi 4 giờ [55].  Cần xét nghiệm khí máu động mạch và nồng độ lactate máu để đánh  giá tình trạng giảm tưới máu mô. Lactate tăng nghĩa là có giảm tưới máu  mô có ý nghĩa, chuyển hoá thay đổi từ hiếu khí sang kỵ khí. Nồng độ cao  dự báo khả năng sốc nặng và tăng tỷ lệ tử vong [56]. Cấy máu khi nghi ngờ có nhiễm khuẩn huyết hoặc nhiễm khuẩn từ  các thiết bị đặt trong lòng mạch, đặc biệt chú ý đến những BN dùng thuốc  đường tĩnh mạch hoặc van tim nhân tạo, đó là những đối tượng có nguy cơ  cao bị viêm nội tâm mạc. Những BN có nguy cơ nhiễm khuẩn thường có  sốt và bạch cầu tăng hoặc giảm. Tổng phân tích nước tiểu và cấy nước  tiểu cũng nên làm khi thấy BN có các biểu hiện nhiễm khuẩn. Đây là  nguồn nhiễm khuẩn thường gặp, đặc biệt ở BN lớn tuổi. Thực hiện việc  cấy dịch hoặc mô tại ổ nhiễm nghi ngờ giữ vai trò quan trọng trong việc  xác định tác nhân gây bệnh và quyết định kháng sinh điều trị. Nhuộm Gram hoặc cấy dịch tiết hoăc mô nên thực hiện tại vị trí nghi  ngờ nhiêm khu ̃ ẩn. Nói chung, nhuộm Gram là một xét nghiệm sẵn có giúp  định hướng nhiễm khuẩn và chọn lựa kháng sinh ban đầu. Khi BN có  nhiễm khuẩn nặng, nên chụp Xquang phổi vì đôi khi các dấu hiệu lâm sàng  có thể không giúp phát hiện được viêm phổi. Các BN có sốt và bạch cầu  tăng hoặc giảm mà không có dấu hiệu của nhiễm trùng phổi hoặc các vị trí  nhiễm khuẩn khác thì nên chụp Xquang phổi thường qui để phát hiện thâm  nhiễm phổi.  Derek C.A. và CS (2001) khi nghiên cứu dịch tể học nhiễm khuẩn  nặng trên 192.980 BN thì thấy nhiễm khuẩn hô hấp chiếm 44%, tiếp sau đó  là nhiễm khuẩn huyết (17,3%), nhiễm khuẩn niệu sinh dục (9,1%), ổ bụng  (8,6%), da/mô mềm (6,6%), thần kinh trung ương (0,8%) [57]. Tại Việt  Nam, Nguyễn Gia Bình và CS (2008) nghiên cứu trên 65 BN SĐT cho thấy,  nhiễm khuẩn hô hấp chiếm tỷ lệ cao nhất (50,8%), nhiễm khuẩn tiêu hóa  24,6%, nhiễm khuẩn bệnh viện chiếm một tỷ lệ đáng chú ý là 19,6% [8].
  13. 13 Các cận lâm sàng khác: Điện tim, siêu âm tim nếu nghi ngờ sốc tim;  Xquang bụng tư thế ngửa, sấp, hoặc nghiêng khi nghi ngờ nhiễm khuẩn ổ  bụng; siêu âm bụng khi nghi ngờ nhiễm khuẩn đường mật; CT scan bụng  nhằm loại trừ áp xe trong ổ bụng hoặc nhiễm khuẩn sau phúc mạc đồng  thời cũng giúp chẩn đoán xác định viên tụy cấp hoại tử và các biến chứng;  CT scan nao khi có b ̃ ằng chứng của tăng áp lực nội sọ hoặc khi BN có chọc  dò tuỷ sống trước đó và nghi ngờ viêm màng não. 1.1.7. Chẩn đoán suy đa tạng SĐT là rối loạn chức năng ít nhất 02 hệ thống cơ quan  ở bệnh nhân   có bệnh lý cấp tính mà không thể duy trì sự cân bằng nội môi nếu không có  can thiệp điều trị.  Suy tạng sớm hoặc muộn thay đổi theo từng bệnh lý.  Đối với bệnh nhân vào viện mà sau vài ngày xuất hiện suy các tạng, đó  thường là hậu quả của nhiễm trùng nặng hoặc phẫu thuật. Thời điểm xác  định suy tạng sớm hay muộn cũng thay đổi theo từng nghiên cứu trên các  nhóm BN khác nhau, nhưng có một điểm chung là suy tạng muộn luôn có   thời gian nằm viện kéo dài hơn và tỷ lệ tử vong cao hơn. Nhiều tác giả đã đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn chức năng  tạng, trong đó tiêu chuẩn Knaus được sử  dụng khá phổ  biến. Tuy nhiên,   tiêu chuẩn này chỉ đánh giá trên 5 tạng gồm tim mạch, hô hấp, thận, huyết   học, thần kinh. Hiện nay, tiêu chuẩn này ít được sử  dụng trong thực hành  lâm sàng vì thiếu tiêu chuẩn của suy gan. Marshall J.C. trong tài liệu y văn "Multiple Organ Failure" năm 2000  đưa ra tiêu chuẩn chẩn đoán suy tạng [58], và Textbook of Critical Care năm  2011 sử dụng thang điểm SOFA (phụ lục) đánh giá suy đa tạng với 6 tạng  là tim mạch, hô hấp, thận, gan, đông máu và thần kinh [1]. Năm 2004, cać   ̀ ̣ nha loc mau đê xuât tiêu chu ́ ̀ ́ ẩn RIFLE (bảng  2.5) xac đinh 3 m ́ ̣ ưc đô tiên ́ ̣ ́  ̉ ̉ triên tôn th ương thân câp va 2 nhom tiên l ̣ ́ ̀ ́ ượng với tiêu chí chẩn đoán và  điều trị sớm tình trạng tổn thương thận nhằm cải thiện tiên lượng và giảm   tỷ  lệ  tử  vong [42]. Đối với suy gan cấp, các hệ  thống thang điểm và tiêu 
  14. 14 chuẩn chẩn đoán trước đây hầu hết chỉ  sử  dụng Bilirubin toàn phần, tuy  nhiên theo Hiệp hội nghiên cứu bệnh gan Mỹ (American Association for the  Study of Liver Disease – AASLD) thì cần có đủ  3 yếu tố là thời gian khởi  phát 
  15. 15 1.2.2.1. Chống suy hô hấp Trường hợp suy hô hấp nhẹ thì cho bệnh nhân thở oxy bằng mặt nạ  hít lại hoặc không hít lại, khi suy hô hấp nặng phải thở máy xâm lấn.  Trong trường hợp diễn tiến nặng thành ARDS thì theo chiến lược thông  khí bảo vệ phổi của ARDS network với mục tiêu tối ưu là thể tích khí lưu  thông (tidal Volume   Vt) 6mL/kg, Pplat ≤ 30 cmH2O, SpO2 88­95% và pH  7,3­7,45 [62]. Sử dụng PEEP từ 5 cmH2O giúp phòng ngừa xẹp phổi cuối  thì thở ra và giúp cải thiện trao đổi khí, giảm tổn thương phổi do thở máy.  Khi cần phải sử dụng FiO2 > 50% để duy trì SpO2 88­95% thì có thể dùng  PEPP > 5 cmH2O để cải thiện oxy hóa máu động mạch và giảm FiO2 đến  giới hạn an toàn hơn. Tuy nhiên, việc tăng PEEP có thể làm giảm cung  lượng tim, và nếu mục tiêu tăng PEEP là để duy trì cùng một giá trị SpO2  với mức FiO2 thấp hơn, thì việc giảm cung lượng tim sẽ dẫn đến giảm  cung cấp Oxy cho cơ thể [63]. Thông khí với Vt thấp có thể gây tăng CO2 máu và toan hô hấp. Các  dữ liệu từ các thử nghiệm lâm sàng cho thấy pCO2 60 ­ 70 mmHg và pH 7,2  ­ 7,25 an toàn cho hầu hết các BN. Thông khí bảo vệ phổi với Vt thấp cải  thiện tỷ lệ sống cho các BN ARDS. Nghiên cứu lớn nhất về chiến lược  thở máy hạn chế áp lực và thể tích cho thấy khi sử dụng Vt 6 mL/kg làm  giảm tỷ lệ tử vong 9% so với dùng Vt 12 mL/kg [55]. Cần đặt tư thế đầu cao 30­45o nhăm tranh nguy c ̀ ́ ơ hit săc va phong  ́ ̣ ̀ ̀ ngừa viêm phổi do thở máy. Ngừng thở máy khi huyết động ổn định, nhu  câu thông khi va PEEP th ̀ ́ ̀ ấp, BN tự thở được với Oxy qua mặt nạ mặt hoặc  mũi vơi FiO ́ 2 thâp.   ́ 1.2.2.2. Chống suy tuần hoàn Bù dịch Khi BN bị tụt HA thì nên bù dịch đường tĩnh mạch ít nhất 30 mL/kg  trong vòng 3 giờ đầu tiên và theo dõi huyết động để quyết định việc bù 
  16. 16 dịch tiếp tục. Mục tiêu trong 6 giờ đầu hồi sức các BN tụt HA do nhiễm  khuẩn là đảm bảo áp lực tĩnh mạch trung tâm (Central Venous Pressure    CVP) từ 8­12 mmHg, HATB ≥ 65 mmHg, lượng nước tiểu 0,5 mL/kg/giờ  và độ bão hòa oxy trong máu tĩnh mạch trộn (Saturation of mixed venous  oxygen   SvO2) là 70%. Dung dịch muối đẳng trương là lựa chọn hàng đầu  trong hồi sức những BN nhiễm khuẩn nặng và sốc nhiễm khuẩn [55],[64]. Việc bù dịch nên được thực hiện sớm trên những BN có giảm tưới  máu mô do nhiễm khuẩn mà nghi ngờ do giảm thể tích và nên làm test dịch  truyền bằng cách truyền tối thiểu 30 mL/kg dung dịch muối đẳng trương  [64]. Trong 24 giờ đầu, truyền dịch nhiều hơn có thể đề phòng tiến triển  suy tuần hoàn và suy thận cấp. Cung lượng tim tăng 12 ­ 15% sau test  truyền dịch là bằng chứng của đáp ứng điều trị. 52,9% các BN nặng có đáp  ứng với test truyền dịch [65].  Thuốc vận mạch Sử  dụng vận mạch khi huyết động không  ổn định, nhằm đạt được  HATB ≥ 65 mmHg để  đảm bảo tưới máu mô. Theo SSC 2016, liều  thuốc  vận mạch nên được điều chỉnh để đạt được hiệu quả tưới máu mong muốn,   và nên giảm hoặc ngưng dùng khi tình trạng tụt HA nặng hơn hoặc xuất hiện  rối loạn nhịp [55  ].  Khi HATB giảm thấp, cơ  chế  tự  điều hòa của giường mạch máu bị  mất và do vậy tưới máu mô phụ  thuộc vào áp lực. Thuốc vận mạch được  lựa chọn hàng đầu là norepinephrine (NE), điều chỉnh liều lượng mỗi giờ.   NE làm tăng HATB nhờ  vào tác động co mạch của thuốc, ít làm thay đổi  nhịp tim và ít làm tăng thể  tích nhát bóp so với dopamin. Khi không đạt   được   HA   mục   tiêu   thì   có   thể   thêm   Vasopressin   0,03   đơn   vị/phút   hoặc  epinephrine kết hợp với NE nhằm làm tăng HATB và giảm liều NE. Liều  
  17. 17 thấp Vasopressin có thể  làm tăng HA  ở  một số  BN kháng trị  với các vận   mạch khác, trong khi liều cao làm tăng thiếu máu cho tim và lách. Chính vì  vậy, Vasopressin không được xem là thuốc vận mạch hàng đầu và nên thận  trọng khi sử dụng với liều > 0,03 đơn vị/phút [64]. Dopamin là thuốc vận mạch thay thế cho NE chỉ trong một số trường   hợp (BN ít có nguy cơ  rối loạn nhịp nhanh, BN có nhịp chậm tương đối  hoặc hoàn toàn). Một phân tích gộp so sánh sử dụng dopamin liều thấp với   giả  dược thì thấy không có sự  khác biệt về  nồng độ  creatinin máu, cung  lượng nước tiểu, nhu cầu lọc máu, thời gian nằm viện  và các rối loạn nhịp  tim. Chính vì vậy, khuyến cáo của SSC 2016 cho rằng không nên sử  dụng  dopamine liều thấp như  là một thuốc bảo vệ thận. Dobutamin được thêm   vào với các thuốc vận mạch đang sử  dụng nếu có bằng chứng của giảm  tưới máu dai dẳng dù đã bù đủ dịch và sử dụng các thuốc vận mạch [55].  1.2.2.3. Điều trị hỗ trợ rối loạn chức năng thận Điều quan trọng là phải phòng ngừa nguy cơ suy thận cấp băng cach  ̀ ́ tránh dùng các kháng sinh độc với thận, tránh mất nước và có chế độ dinh  dưỡng thích hợp.  Suy thận cấp mức độ nặng gây rối loạn nội môi; mất cân bằng dịch,  điện giải, toan kiềm, và ứ đọng các sản phẩm đào thải; điều này có thể  gây ra các biến chứng đe dọa tính mạng. Các kỹ thuật lọc máu ngoài cơ thể  có thể được sử dụng để phòng ngừa các biến chứng này và cải thiện nội  môi. Có nhiều kỹ thuật thay thế thận như lọc máu tĩnh mạch ­ tĩnh mạch  liên tục, lọc máu ngắt quãng, và thẩm phân phúc mạc; mỗi kỹ thuật có cách  tiến hành khác nhau nhưng đều có chung nguyên tắc cơ bản là lấy bỏ nước  và các chất hòa tan qua các màng bán thấm. Ronco C. va CS th ̀ ực hiên  ̣ nghiên cứu trên 425 BN suy thân câp thiêu niêu co hoăc không co nhiêm  ̣ ́ ̉ ̣ ́ ̣ ́ ̃ khuẩn, kết quả cho thấy ty lê sông vao ngay th ̉ ̣ ́ ̀ ̀ ứ 15 sau khi ngưng siêu loc  ̣ ̉ ̣ ́ ̃ ở nhom 1 (41%) so v giam môt cach co y nghia  ́ ́ ́ ới nhom 2 (57%) va nhom 3  ́ ̀ ́ (58%) [66]. Đối với sốc nhiễm khuẩn có suy thận cấp thì liệu pháp thay  thế thận được hội nghị đồng thuận quốc tế 2012 và 2016 khuyến cáo sử  dụng [55],[64]. 1.2.2.4. Điều trị hỗ trợ rối loạn chức năng huyết học
  18. 18 Cần truyền dịch trước để đảm bảo tưới máu mô, giải quyết được  thiếu máu cơ tim, giảm oxy nặng cũng như tình trạng tăng lactic. Truyền  máu chỉ thực hiện khi Hb 
  19. 19 Điều trị thay thế thận liên tục (Continuous Renal Replacement  Therapy – CRRT) và thẩm tách máu ngắt quãng (Intermittent HemoDialysis  – IHD) là các phương pháp chủ yếu trong điều trị suy thận cấp thiểu/vô  niệu và được SSC 2012 và 2016 khuyến cáo áp dụng khi BN sốc nhiễm  khuẩn có suy thận cấp [55],[64]. CRRT giúp dễ dàng kiểm soát dịch, điện  giải, toan kiềm trên các BN nặng có rối loạn huyết động hoặc suy tim  nặng. Ngoài khả năng loại bỏ urê và creatinin, lọc máu liên tục (LMLT) cho  phép thanh lọc các chất có trọng lượng phân tử trung bình và lớn như TNF­ α, IL­1, IL­6, IL­8, các eicosanoid và yếu tố hoạt hóa tiểu cầu bằng việc sử  dụng màng lọc có hệ số siêu lọc cao (lỗ lọc lớn). Phương pháp này có ưu  điểm là ít ảnh hưởng đến huyết động so với lọc máu ngắt quãng. 1.2.4. Tiên lượng Khoảng 10­15% BN tại các khoa HSTC tiến triển đến sốc nhiễm khuẩn  vào một thời điểm nào đó và tỷ lệ tử vong là 50­60%. Tử vong do SĐT thay  đổi tùy theo số lượng tạng suy, suy càng nhiều tạng thì tử vong càng cao,  tư 22% khi suy 1 t ̀ ạng lên đến 83% khi suy ≥ 4 tạng [2].  Tử vong muộn thường liên quan với kiểm soát nhiễm khuẩn kém, suy  giảm miễn dịch, các biến chứng trong săn sóc đặc biệt, hoặc các bệnh nền  của BN. Tần suất tử vong tương tự trong nhiễm khuẩn Gram (­) và Gram  (+). Hệ thống thang điểm tiên lượng như APACHE II cho thấy các yếu tố  như tuổi, tình trạng sức khỏe cơ bản, nhiều biến số thể chất khác có thể  được dùng để ước tính nguy cơ tử vong. Tuổi và tình trạng sức khỏe trước  đó là những yếu tố nguy cơ quan trọng nhất. Nghiên cứu của Derek C.A.  và CS cho thấy tỷ lệ tử vong ở nam cao hơn nữ (29,3% so với 27,9%, p 
  20. 20 Thẩm tách máu tĩnh mạch­tĩnh mạch liên tục (CVVHD): sử dụng cơ  chế khuếch tán và chỉ có hiệu quả lấy bỏ các phân tử có trọng lượng  phân tử từ nhỏ đến trung bình [71],[72]. Siêu lọc thẩm tách máu tĩnh mạch­tĩnh mạch liên tục (CVVHDF):  bao gồm hai cơ chế là khuếch tán và đối lưu nhằm kết hợp ưu điểm  của cả hai nên có thể lấy bỏ các chất có trọng lượng phân tử từ nhỏ  đến lớn [71],[72]. 1.3.1.2. Nhóm siêu lọc­đối lưu Siêu lọc liên tục chậm (Slow Continuous Ultrafiltration – SCUF): máu  được cho chạy qua quả lọc, không dùng dịch thẩm tách cũng như  dịch thay thế. Mục đích là kiểm soát thể tích trên những BN bị quá  tải dịch [71]. Siêu lọc máu tĩnh mạch­tĩnh mạch liên tục (Continuous Vevo­Venous  Hemofiltration – CVVH): phương thức này chỉ sử dụng cơ chế đối  lưu, máu chạy qua quả lọc với dịch thay thế được đưa vào phía  trước hoặc sau quả lọc, không dùng dịch thẩm tách. Nhờ cơ chế siêu  lọc và tốc độ dòng dịch thay thế đủ lớn mà CVVH có thể lọc bỏ đặc  biệt tốt đối với các chất có trọng lượng phân tử lớn như các chất  trung gian tiền viêm [71],[72].  1.3.1.3. Nhóm hấp phụ Lọc máu hấp phụ (Hemoperfusion): được áp dụng trên lâm sàng  trong điều trị nhiễm khuẩn huyết, suy gan cấp và ngộ độc cấp nặng  đặc biệt là ngộ độc Paraquat [73]. Lọc máu bằng hệ thống tái tuần hoàn các chất hấp phụ phân tử  (Molecular Adsorbents Recirculating System – MARS): là kỹ thuật hỗ  trợ gan nhân tạo, cho phép lấy bỏ các chất độc gắn kết với gan như  các acid mật, bilirubin, nitric oxide [74], [75]. 1.3.1.4. Nhóm thay huyết tương (plasmapheresis) Thay huyết tương là việc lấy bỏ huyết tương ra khỏi máu rồi tái tạo  lại các tế bào trong một môi trường không còn gây hại, được chỉ định trong  điều trị các bệnh như Guillain ­Barre, nhược cơ, hội chứng ure tán huyết,  xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, hội chứng tăng đông, chuyển hóa  (tăng triglyceride máu nghiêm trọng) và đặc biệt trong SĐT [76]. 1.3.2. Lựa chọn phương thức điều trị Khi BN có tổn thương thận cấp nghiêm trọng thì có thể áp dụng  nhiều phương thức thay thế thận như IHD, CRRT, thẩm tách máu duy trì  hiệu quả chậm (Slow Low Efficacy Dialysis   SLED), thẩm tách máu kéo  dài (Extended Daily Dialysis   EDD). Và mặc dù có nhiều phương thức  điều trị nhưng tỷ lệ tử vong do tổn thương thận cấp vẫn còn rất cao, dao 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0