intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm kỹ thuật và đánh giá kết quả phẫu thuật ghép thận lấy từ người cho sống tại Bệnh viện Việt Đức

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:212

18
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu chính của luận án là: Mô tả đặc điểm kỹ thuật của phẫu thuật ghép thận lấy từ người cho sống tại Bệnh viện Việt Đức. Đánh giá kết quả phẫu thuật ghép thận lấy từ người cho sống tại Bệnh viện Việt Đức (giai đoạn 2011-2013). Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu đặc điểm kỹ thuật và đánh giá kết quả phẫu thuật ghép thận lấy từ người cho sống tại Bệnh viện Việt Đức

  1. BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO                       BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN QUÂN Y ĐỖ NGỌC SƠN NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM KỸ THUẬT VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT GHÉP THẬN  LẤY TỪ NGƯỜI CHO SỐNG TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC Chuyên ngành : Ngoại khoa Mã số : 9720104 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Nguyễn Tiến Quyết 2. PGS.TS. Hoàng Long
  2. HÀ NỘI ­ 2019
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết  quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố  trong  bất kỳ một công trình nào trước đây. Hà Nội, ngày       tháng     năm 2019 Tác giả luận án    Đỗ Ngọc Sơn
  4. LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành cảm  ơn Ban giám đốc, Phòng Sau đại học Học viện   Quân Y đã dành cho tôi sự giúp đỡ tận tình trong thời gian học tập và nghiên   cứu. Tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám đốc, Phòng kế hoạch   tổng hợp, Bộ  môn Ngoại tiết niệu đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để  tôi   hoàn thành nghiên cứu của mình. Tôi xin chân thành cảm  ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận án   các cấp đã đóng góp những ý kiến sâu sắc, tỷ mỷ, cụ thể cho bản luận án   của tôi được ngày càng hoàn thiện. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ  lòng biết  ơn sâu sắc và sự  kính trọng với   PGS.TS Nguyễn Tiến Quyết và PGS.TS. Hoàng Long ­ hai người thầy đã   tận tâm giúp đỡ, chỉ bảo đóng góp cho tôi những ý kiến quý báu từ khi xây   dựng đề cương đến khi hoàn thiện luận án. Tôi xin cảm ơn tất cả những người bệnh và người tình nguyện đã gửi   gắm lòng tin đối với đội ngũ thầy thuốc chúng tôi. Những người bệnh vừa   là đối tượng, mục tiêu và là động lực cho mọi nghiên cứu của y học. Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm  ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và   bạn bè đã luôn dành cho tôi sự động viên giúp đỡ trong quá trình thực hiện   đề tài nghiên cứu. Hà Nội, ngày       tháng     năm 2019 Đỗ Ngọc Sơn
  5. MỤC LỤC Trang PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TT Phần viết tắt Phần viết đầy đủ 1 BN Bệnh nhân 2 BMI Body Mass Index (Chỉ số khối cơ thể) 3 BQ Bàng quang       4 cs Cộng sự 5 CT Computed tomography (Chụp cắt lớp vi tính) 6 CTNT Chạy thận nhân tạo 7 ĐK Đường kính 8 ĐM Động mạch 9 ĐMCC Động mạch chậu chung   10 ĐMCB Động mạch chủ bụng 11 ĐMCN Động mạch chậu ngoài  12 ĐMCT Động mạch chậu trong  13 ĐMMTTT Động mạch mạc treo tràng trên 14 ĐMT Động mạch thận     15 HCP Hố chậu phải 16 HLA Human Leucocyte antigen  (Kháng nguyên bạch cầu người) 17 HT Huyết thống 18 KQ Kết quả 19 NQ Niệu quản        20 SD Standard Deviation (Độ lệch chuẩn) 21 TH Trường hợp 22 THA Tăng huyết áp 23 TM Tĩnh mạch 24 TMCB Tĩnh mạch chủ bụng 25 TMCC Tĩnh mạch chậu chung 26 TMCD Tĩnh mạch chủ dưới 27 TMCN Tĩnh mạch chậu ngoài 28 TMCT Tĩnh mạch chậu trong 29 TMT Tĩnh mạch thận     30 TPEE Thermoplastic Polyether Ester Elastomer  (Tên gọi chung của vật liệu đàn hồi nhiệt dẻo) 31 RI Resistive Index (Chỉ số kháng trở động mạch) 32 XQ X­quang
  7. DANH MỤC BẢNG Bảng Tên bảng Trang
  8. DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ Tên biểu đồ Trang DANH MỤC HÌNH Hình Tên hình Trang 7,9,10,19,20,21,23,24,26,27,29,31,36,41,49,52­60,62,71,73,75­7
  9. 9 ĐẶT VẤN ĐỀ Ghép thận là phương pháp phẫu thuật thay thế thận cơ bản, hiện đại  trong điều trị  cho những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối và được  coi là một thành tựu lớn của y học hiện đại. Người bệnh có thể  trở  về  cuộc sống bình thường, tham gia lao động sản xuất mà chỉ cần uống thuốc,   theo dõi định kỳ  1 tháng 1 lần là điểm vượt trội của ghép thận so với các   phương pháp điều trị  suy thận mạn giai đoạn cuối khác. Ngày 23/12/1954  Josep Murray và Jonh Merril đã ghi dấu mốc ca ghép thận thành công đầu  tiên tại Boston (Hoa Kỳ) [1], [2]. Đến nay ghép thận đã đạt được những  kết quả  đáng khích lệ, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống rõ rệt cho  người bệnh.  Tại Việt Nam, ca ghép thận lấy từ  người cho sống thành công đầu   tiên được thực hiện năm 1992 tại Bệnh viện Quân y 103 ­ Học viện Quân y   [3], [4], [5].  Cho tới nay ghép thận đã được thực hiện thành công và trở  thành phẫu thuật thường quy tại nhiều bệnh viện trên cả nước. Trên thế  giới, nguồn thận ghép chủ  yếu lấy từ  người cho chết não  nhưng cho tới nay ghép thận  ở  nước ta chủ  yếu vẫn lấy từ  nguồn người  cho sống. Kỹ  thuật ghép thận lấy từ  người cho sống có một số  đặc điểm   khác so với ghép thận từ  người cho chết não do bị   ảnh hưởng bởi giải   phẫu thận lấy ghép cũng như  kỹ  thuật lấy thận ghép từ  người cho sống.  Nguyên tắc lựa chọn bên thận lấy ghép là “bảo đảm an toàn cho người   hiến tạng”: lấy thận có chức năng kém hơn dựa xạ  hình thận, để  lại thận  có chức năng tốt hơn cho người hiến. Do vậy thận lấy để  ghép có thể  là  bên phải hay bên trái và cũng có thể có bất thường về giải phẫu mạch máu  hay đường bài tiết nước tiểu. Gần đây lấy thận ghép nội soi đang phát  triển do đó số  lượng thận ghép lấy từ  người cho sống có tĩnh mạch ngắn  
  10. 10 (đặc biệt là thận phải) sẽ  gặp ngày một nhiều lên. Thêm vào đó, hố  chậu   phải luôn là lựa chọn  ưu tiên trong ghép thận nên tỷ  lệ  ghép thận phải có   tĩnh mạch ngắn vào hố chậu phải sẽ gặp nhiều hơn. Trong phẫu thuật ghép thận, các kỹ  thuật ngoại khoa được sử  dụng   gồm: kỹ  thuật khâu nối tĩnh mạch, kỹ  thuật khâu nối động mạch và kỹ  thuật cắm niệu quản­bàng quang [6]. Các kỹ thuật này đều đã thống nhất  theo quy trình kỹ thuật ghép thận lấy từ người cho sống của Bộ Y tế năm  2006 nhưng đa số  các trung tâm ghép trong nước thời gian đầu thường  ưu  tiên thực hiện miệng nối động mạch thận ghép tận­tận với động mạch   chậu trong người nhận  [6],  [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13].  Duy chỉ  có  viện Nhi Trung  Ương thực hiện kỹ  thuật nối động mạch thận ghép tận­ bên với động mạch chậu ngoài, động mạch chủ  trong ghép thận do đặc  điểm ghép thận  ở  trẻ  em tuy nhiên chưa có báo cáo nào đánh giá kết quả  ghép thận  khi  thực hiện  miệng  nối  động  mạch thận tận­bên với  động  mạch chậu người nhận được công bố. Các trường hợp ghép thận có tĩnh mạch ngắn thường phải áp dụng  các kỹ thuật xử lý mạch máu trước ghép như: kéo dài tĩnh mạch thận, can  thiệp chuyển vị mạch máu vùng rốn thận, vùng hố chậu [8], [14], [15], [16],  [17]. Các kỹ thuật này sẽ làm kéo dài thời gian thiếu máu thận ghép, đồng  thời làm tăng nguy cơ xảy ra tai biến, biến chứng  ảnh hưởng tới đời sống  lâu dài thận ghép. Vậy có kỹ  thuật nào đơn giản áp dụng khi ghép làm  giảm tỷ lệ xử lý mạch máu trước ghép đồng thời không làm tăng tai biến,   biến chứng khi ghép thận phải vào hố  chậu phải không (đặc biệt khi tĩnh  mạch thận phải ngắn)? Một giải pháp đơn giản có thể  áp dụng khi ghép   thận phải vào hố  chậu phải thuận lợi ngay cả  khi tĩnh mạch ngắn đó là  ghép thận đảo cực. Năm 1972, Hamburger J. và cs đã báo cáo các trường  
  11. 11 hợp ghép thận phải đảo cực mà không có biến chứng nghiêm trọng  [18].  Nghiên cứu ghi nhận tĩnh mạch thận phải ngắn nằm  ở  phía trước và đặt  thận đảo cực cho phép khâu nối mạch máu thuận tiện hơn. Sau đó ghép  thận đảo cực được ghi nhận hồi cứu trong hai báo cáo của Webb J. và cs  (2003) với 3/1270 trường hợp và Danier E.K. và cs (2006) với 4/167 trường  hợp  [19], [20]. Tất cả  các trường hợp trên đều không có biến chứng và  chức năng thận tốt. Năm 2007 Simforoosh N. và cs đã thực hiện chủ  động  ghép thận phải đảo cực cho 32 trường hợp lấy nội soi và ghi nhận: không   có biến chứng về mạch máu, biến chứng tiết niệu gặp 2 trường hợp (1 rò   niệu quản, 1 hẹp niệu quản) và thận tốt đạt 97% sau 14 tháng [21]. Trong  báo cáo ông có ghi nhận ghép thận đảo cực thành công cho 3 trường hợp   lấy thận phải mổ  mở  trước đó. Tới năm 2016, chính Simforoosh N. và cs   lại tổng kết 79 trường hợp ghép thận phải đảo cực từ  năm 2004 đến năm  2009 và nhận định: ghép thận đảo cực là một phương pháp dễ  dàng, an  toàn và điều chỉnh đơn giảm này làm giảm nhu cầu kéo dài tĩnh mạch thận  ngắn [22]. Tại Việt Nam, chưa có báo cáo nào trên cả  nước cũng như  quy   trình kỹ thuật ghép thận lấy từ người cho sống của Bộ Y  tế ban hành năm  2006 chưa đề cập tới vấn đề đảo cực thận ghép.  Do vậy với việc thực hiện quy trình ghép thận lấy từ người cho sống   tại Bệnh viện Việt Đức: ghép thận đều ưu tiên thực hiện nối động mạch   thận ghép tận­bên với động mạch chậu người nhận đồng thời chủ  động  thực hiện đảo cực thận khi ghép thận phải vào hố  chậu phải, chúng tôi  tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm kỹ thuật và đánh giá  kết quả  phẫu thuật ghép thận lấy từ  người cho sống tại Bệnh viện   Việt Đức” với các mục tiêu:
  12. 12 1. Mô tả  đặc điểm kỹ thuật của phẫu thuật ghép thận lấy từ  người   cho sống tại Bệnh viện Việt Đức. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật ghép thận lấy từ người cho sống tại   Bệnh viện Việt Đức (giai đoạn 2011­2013).
  13. 13 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Sơ lược lịch sử ghép thận 1.1.1. Trên thế giới 1.1.1.1. Lịch sử từ trước khi ghép thận thành công ở người Ghép   thận   tự   thân   cho   chó   đã   được   Emerich   Ullman   (Vienna,   Áo,1902) thực hiện thành công [23]. Cùng lúc đó Carrel, Briau và Villard đã  cải biên phương pháp khâu nối mạch máu và đứng đầu là kỹ  thuật khâu  nối mạch máu của Carrel. Vào năm 1912, Carrel đạt giải thưởng Nobel cho  những nghiên cứu của mình về ghép tạng dị loài trên người [2]. Năm 1933,  Voronoy lần đầu tiên thực hiện ghép thận đồng loại trên người và bệnh   nhân chết vào ngày thứ 4 mà không có huyết khối mạch ghép [2]. Năm 1952, Hamburger J. đã thực hiện thành công ca ghép thận trên  người đầu tiên tại Pháp nhưng thải ghép sau 3 tuần và năm 1953, Michon   L., Hamburger J. và cs thực hiện ghép thận từ  người cho sống có quan hệ  huyết thống [1], [2]. Nguyên nhân thất bại của giai đoạn này là chưa phát  hiện ra nguyên lý miễn dịch của ghép, cơ  chế  đáp  ứng miễn dịch dịch thể  hay miễn dịch tế bào cũng như việc lấy và bảo quản tạng. 1.1.1.2. Lịch sử kể từ khi thành công ca ghép thận sinh đôi cùng trứng Ngày 23/4/1954, Tại Boston, Murray J.E. và cs đã ghép thận thành  công cho cặp ghép thận sinh đôi cùng trứng và sống được 8 năm [23]. Sau   nỗ  lực đó, cho đến năm 1956, 19 ca ghép đôi khác đã thực hiện thành công   với tỷ lệ tái phát 30% của bệnh viêm cầu thận mạn. Năm 1960, các nhà y học nắm rõ được quy luật thải loại của hệ  miễn   dịch.   Với   các   chất   ức   chế   miễn   dịch   như   cortisone,   azathioprine,  immutran serum antilymphocytaire, các nhà phẫu thuật Mỹ  đã có thể  tiến 
  14. 14 hành ghép thận từ  người cho không cùng huyết thống và từ  thận cho của   người chết. Năm   1962,   Hamburger   J.   thành   công   trong   ghép   thận   cùng   huyết  thống  và Kuss R. cũng thành công trong ghép thận không cùng huyết thống  [1], [2]. Khi đó có dùng thuốc ức chế  miễn dịch tỷ  lệ thành công ghép thận   cùng huyết thống là 70% còn không cùng huyết thống là 20%. Ghép không  cùng huyết thống, không dùng thuốc ức chế miễn dịch, cơ hội sống sót chỉ là  1%. Năm 1974 cyclosporin ra đời làm tỷ  lệ  sống trên 1 năm của người  ghép thận tăng lên 80 – 90% so với 20% trước đó.  Năm 1985, Thomas Starzl sử  dụng thuốc  ức chế  miễn dịch mới FK   506 của Nhật sau ghép và không có một trường hợp nào phản ứng thải loại  [24].   Sau   này,   phản   ứng   thải   loại   hầu   như   được   khắc   phục   nhờ:  Mycophénolic 1985, Tacrolimus 1989, Ropamycin, Mizoribin, Mycophenolat  mophétil 2004... và nhờ  đó ghép thận đã trở  thành thường quy  ở  các nước  phát triển.  1.1.2. Tại Việt Nam Tại Việt Nam, ghép thận mới phát triển vào những năm 1990. Tuy  nhiên, ý tưởng ghép thận đã có từ  những năm 70 khi Lê Thế  Trung, Học  viện Quân y chuẩn bị  cơ  sở  vật chất và tiến hành ghép thận thực nghiệm  [3].  Ngày 4/6/1992, ca ghép thận đầu tiên từ  người cho sống cùng huyết   thống được thực hiện tại Học viện Quân y và sau đó nhiều trung tâm lớn  khác tại  Việt  Nam  bắt   đầu thực hiện  ghép thận: Bệnh  viện Chợ  Rẫy   (12/1992),   Bệnh   viện   Việt   Đức   (8/2000),   Bệnh   viện   Trung   Ương   Huế  (7/2001), Bệnh viện Nhân dân Gia Định (1/2002), Bệnh viện Nhân dân 115  (2/2004) và Bệnh viện Nhi Trung Ương (5/2004) [3], [4], [5].
  15. 15  “Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ  phận cơ  thể  người và hiến, lấy xác”  được Quốc hội nước cộng hoà Xã hội chủ  nghĩa Việt Nam thông qua và  thực hiện từ ngày 1 tháng 7 năm 2007 (luật số 75/2006/QH11). Ngày 23 tháng 4 năm 2008, ca ghép thận từ người cho chết não đầu  tiên tại Việt Nam được thực hiện tại Bệnh viện Chợ Rẫy và ngày 7 tháng   5 năm 2010 Bệnh viện Việt Đức lần đầu tiên thực hiện cùng lúc 2 trường  hợp ghép thận và 1 trường hợp ghép gan từ người cho chết não [25], [26]. Từ  11/2012 trở  về  trước có 900 ca ghép thận (847 ca từ  người cho   sống và 53 ca từ người cho chết não) được thực hiện tại 14 cơ sở y tế trên  cả nước. Đến hết năm 2016 tại Việt Nam đã có 18 cơ sở y tế được cấp phép   và thực hiện ghép thận thành công với tổng số thận ghép lên đến 2106 ca  [27].  Hiện nay nhiều cơ  sở  y tế  đã thực hiện ghép thận thường quy với nhiều  trường hợp ghép khác nhóm máu, ghép không cùng huyết thống nhờ ứng dụng  các loại thuốc ức chế miễn dịch mới mang lại hiệu quả tốt hơn. Kết quả theo   dõi sau ghép thận cho thấy tỉ  lệ  sống thêm sau ghép của bệnh nhân và của  thận ghép ngày càng gia tăng (trên 90%) [26]. Do vậy con số  thông báo mới  nhất tính đến 30/6/2018 nước ta đã tiến hành ghép thận cho 3047 ca, trong đó   2908 ca từ người cho sống, 137 ca từ người cho chết não và 2 ca từ người cho   chết tim [28]. 1.2. Những cơ sở giải phẫu học liên quan tới ghép thận  1.2.1. Giải phẫu thận liên quan tới ghép thận 1.2.1.1. Thận về đại thể Thận gồm hai mặt: mặt trước lồi, mặt sau phẳng; hai cực: cực trên  và cực dưới; hai bờ: bờ ngoài lồi, bờ trong lõm. Chỗ lõm ở bờ trong gọi là  rốn thận, rốn thận ở gần cực trên hơn là cực dưới và hơi lấn ra mặt trước. 1.2.1.2. Kích thước thận Theo Đỗ  Xuân Hợp và Nguyễn Quang Quyền chiều dài thận: 12cm,  chiều rộng: 6 cm và dầy: 3 cm [29], [30].
  16. 16 Theo Nguyễn Đình Mão nhận thấy kích thước thận ở  Nam: Thận phải: dài 9,37cm, rộng 4,49 cm và dầy 3,32 cm             Thận trái: dài 9,81 cm, rộng 4,55cm, và dầy 4,46cm  Nữ:     Thận phải: dài 9,16 cm, rộng 4,50cm và dầy 3,46 cm             Thận trái: dài 9,55 cm, rộng 4,14cm, và dầy 3,56cm [31]. 1.2.1.3. Hệ mạch máu chính của thận Cuống mạch thận được mô tả cổ điển gồm 1 động mạch (ĐM) và 1  tĩnh mạch (TM). TM thận nằm ở bình diện giải phẫu trước hơn so với ĐM  thận.   Động mạch thận Theo Nguyễn Quang Quyền, chiều dài của ĐM thận phải là 55mm,  ĐM thận trái là 48,36mm và đường kính của mỗi ĐM từ  4,2­4,34 mm. 8%   thận phải có ĐM cực trên, 4,8% thận trái có ĐM cực trên, 6,45% thận trái  có ĐM cực dưới và 4,8% cả 2 bên thận cùng lúc có ĐM cực dưới [30]. Trịnh Xuân Đàn (1999), nghiên cứu giải phẫu mạch máu thận của   người Việt Nam có ghi nhận 30,23% số thận có 2­3 ĐM, bên phải thay đổi  số lượng nhiều hơn bên trái [32]. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh   vực ghép thận, vì dễ thương tổn ĐM cực thận khi lấy thận ghép, đặc biệt  thương tổn ĐM cực dưới có thể gây hoại tử niệu quản chỗ nối [33].  Trần Văn Hinh và cs (2005) nghiên cứu sự phân bố mạch máu vùng cuống  thận trên tử thi để áp dụng trong ghép thận, nhận thấy 82,61% thận có 1 ĐM,   14,49% thận có 2 ĐM và 2,9% thận có 3 ĐM [33]. Theo Võ Văn Hải và cs (2011)  cho thấy 75,64% thận có 1 ĐM, 21,79% thận có 2 ĐM, 1,92% thận có 3 ĐM, và   0,64% thận có 4 ĐM [34]. Tỷ lệ ĐM cực trên khá cao (38,46%), ĐM cực dưới   thấp (5,77%) [34]. Nghiên cứu của Bùi Văn Mạnh (2015) cho thấy 83,85% thận  có 1 ĐM, 14,91% thận có 2 ĐM, 0,93% thận có 3 ĐM và 0,31% thận có 4 ĐM  [35].
  17. 17 Hình 1.1. Cấu trúc giải phẫu động mạch, tĩnh mạch thận nhìn  theo mặt phẳng đứng dọc * Nguồn: theo Netter F.H. (2008) [36]  Trịnh Xuân Đàn cũng ghi nhận chiều dài trung bình của ĐM thận trái   là từ  28,9 ± 11,6 mm, ĐM thận phải dài hơn ĐM thận trái khoảng 1 cm   (39,5 ± 10,2mm) [32]. Đường kính của ĐM thận người Việt nam trưởng  thành khoảng 4 ­ 7 mm trong 84,51% các trường hợp và ít thay đổi [32]. Một yếu tố quan trọng liên quan tới ghép thận là vị  trí sắp xếp bình  thường của mạch thận. Ta thấy vị  trí của TM cả  2 thận đều nằm  ở  mặt  phẳng phía trước, ĐM thận trái và phải đều nằm ở mặt phẳng phía sau và  cả ĐM và TM 2 thận đều nằm ở trước hệ thống bài xuất nước tiểu (hình  1.1) [36].   Tĩnh mạch thận TM thận bắt nguồn từ vùng vỏ và tuỷ thận. Các TM ở cả 2 vùng đều  đổ vào các TM cung, rồi tập trung về TM gian thùy, sau đó đổ ra các nhánh   trong xoang. TM thận cuối cùng đổ  về  TM chủ  dưới (TMCD) bằng một  thân duy nhất hoặc 2 hay 3 nhánh nhưng đều thông nhau nên có thể  khâu   thắt các TM ngay tại gốc mà vẫn không có vấn đề  nghiêm trọng [30].  Ngược lại đối với ĐM thận do không có nhánh nào nối với nhau trong thận 
  18. 18 nên nếu buộc một nhánh ĐM thì sẽ thiếu máu phần nhu mô thận do nhánh  ĐM đó nuôi dưỡng [30]. Đây cũng là một đặc điểm giải phẫu thận cần chú  ý trong ghép thận. Thận có thể  có nhiều TM dẫn máu về  TMCD tương tự  như  ĐM  thận. Số  lượng TM thận thường gặp có từ  2 ­ 3 nhánh TM với tỷ  lệ  thay   đổi từ 4,7 ­ 30,6% các trường hợp (TH) nghiên cứu. Theo Trịnh Xuân Đàn  thì thận có nhiều TM chiếm tỷ  lệ  19,44% và gặp chủ  yếu  ở  thận phải,  trong đó thận có 2 TM chiếm đa số (16,67%) và chỉ  có rất ít thận có 3 TM  (2,78%) [32]. Chiều dài TM thận ảnh hưởng đến việc lựa chọn bên thận lấy ghép,  vị trí đặt thận ghép ở người nhận cũng như chuẩn bị và lựa chọn kỹ thuật   khâu nối mạch máu khi ghép của các tác giả  trên thế  giới. Theo Anderson  K.J. và cs chiều dài TM thận phải trung bình từ  20­40mm, thận trái từ  60­ 100mm [37]. Tác giả  Janscheck E.C. và cs nghiên cứu 119 TH thận ghép  phải lấy từ người cho chết nhận thấy chiều dài TM từ  21­71mm và chiều  dài ĐM từ  44­111mm [38]. Nhìn chung đường kính TM thận dao động từ  0,6 ­ 1,8 cm. TM thận trái (0,8 ­ 1,8 cm) thường lớn hơn TM thận phải (0,6 ­  1,6 cm).  1.2.1.4. Niệu quản  Niệu quản (NQ) là 1  ống dẫn nước tiểu từ  thận xuống bàng quang  (BQ). Chiều dài trung bình NQ từ  25­28 cm và đường kính NQ khi căng  khoảng 5mm đều từ trên xuống trừ ba chỗ hẹp: khúc nối bể thận NQ, NQ  bắt chéo ĐM chậu, đoạn trong thành BQ [30].
  19. 19 Hình 1.2. Các động mạch nuôi niệu quản * Nguồn: theo Anderson J.K. và cs. (2007)[37]  ­ ĐM nuôi NQ: Bể thận và phần trên NQ được nuôi dưỡng bởi nhánh  của ĐM thận, nhánh của ĐM tinh hoàn (ở  nam) và nhánh của ĐM buồng  trứng (ở nữ). Phần dưới của đoạn NQ bụng được nuôi dưỡng bởi nhánh của   ĐM chậu chung (ĐMCC). Đoạn NQ chậu được cung cấp máu bởi nhánh của  ĐM bàng quang dưới hoặc đôi khi nhánh của ĐM trực tràng giữa (hình 1.2)  [37]. ­ Tĩnh mạch: Máu trở về từ NQ đổ vào các TM tương ứng đi kèm ĐM  [30]. Trong ghép thận, khi thận lấy ra cùng NQ thì ĐM nuôi NQ duy nhất  tách từ ĐM thận nên NQ được cấp máu tối đa tới vị  trí bắt chéo bó mạch   chậu. Nếu lấy NQ dài có nguy cơ  cao gây hoại tử  đầu xa nên trước khi  cắm NQ ­ BQ có thể  phải cắt ngắn NQ. Khi lấy NQ cần phải lấy cả lớp   mỡ  quanh NQ để  bảo vệ  ĐM nuôi NQ không bị  tổn thương [39]. Do vậy  khi phẫu tích NQ tránh sử dụng dao đốt điện vì có thể làm tổn thương thành  NQ dẫn đến nguy cơ  rò. Trần Ngọc Sinh và cs ghi nhận 2 TH rò NQ do 
  20. 20 nguyên nhân này [7]. Theo Shoskes D. và cs (2014) cùng nhiều tác giả  khác  nhấn mạnh: khi lấy và phẫu tích thận ghép phải tôn trọng tam giác vàng giữa  bờ dưới góc TMCD và TM thận, xoang thận và cực dưới thận vì vị trí này là   nơi xuất phát của ĐM nuôi NQ từ nhánh ĐM sau bể thận (hình 1.3) [40], [41].  Dinckan A. và cs cho rằng 70% các TH hoại tử đoạn xa NQ là do tổn thương  vị trí tam giác vàng này [42]. Hình 1.3. Tam giác vàng cần tôn trọng khi lấy, phẫu thích thận ghép * Nguồn: Theo Culty T. và cs (2014) [41] 1.2.2. Hệ thống mạch máu vùng chậu 1.2.2.1. Động mạch chậu chung Động  mạch  chậu  chung  (ĐMCC)   tách  ra  từ   động  mạch  chủ   bụng  (ĐMCB), chạy xuống dưới và ra ngoài rồi chia đôi thành động mạch chậu  ngoài (ĐMCN) và động mạch chậu trong (ĐMCT).  Động mạch chậu chung phải ĐMCC phải dài khoảng 5 cm [43], phía trước liên quan đến phúc mạc,  ruột non, NQ, phía sau liên quan với hai tĩnh mạch chậu chung (TMCC),   TMCD, phía ngoài với TMCD, TMCC phải và cơ thắt lưng lớn. Động mạch chậu chung trái
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2