intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn bằng tinh trùng lấy từ mào tinh trong điều trị vô sinh

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:138

47
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án mô tả đặc điểm và một số yếu tố liên quan đến vô sinh nam không có tinh trùng được chọc hút mào tinh tại Trung tâm Hỗ trợ sinh sản. Đánh giá hiệu quả và một số yếu tố ảnh hưởng kết quả thụ tinh trong ống nghiệm bằng phương pháp chọc hút tinh trùng từ mào tinh qua da/tiêm tinh trùng vào bào tương noãn các trường hợp vô sinh không có tinh trùng do tắc nghẽn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu hiệu quả phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn bằng tinh trùng lấy từ mào tinh trong điều trị vô sinh

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ Vô sinh  ảnh hưởng đến khoảng 80 triệu cặp vợ  chồng trên toàn   thế  giới (2006). Theo thống kê khoảng 15% các cặp vợ  chồng dù ít hay   nhiều đều có liên quan đến hiếm muộn, trong đó số  đó khoảng 40%  nguyên nhân do vợ, 40% nguyên nhân do chồng và 20% còn lại nguyên  nhân do cả hai người [1, 2]. Theo Tremellen (2008), cứ  20 người đàn ông thì có một người có  liên quan đến hiếm muộn. Nguyên nhân hiếm muộn do nam giơi có th ́ ể  do tinh trùng ít, bất thường hình thái tinh trùng, nhiễm khuẩn, xuất tinh   ngược dòng, hoặc không có tinh trùng (azoospermia). Trong đó vô sinh do  không có tinh trùng trong tinh dịch chiếm khoảng 5% ­ 13,8% các trường   hợp vô sinh do nam giới [3, 4, 5], và khoảng 2% không có tinh trùng trong  quần thể nam giới bình thường [6].  Trong khi các kỹ  thuật chẩn đoán và điều trị  vô sinh nữ  giới rất  phát triển thì các kỹ  thuật chân đoan va điêu tri cho nam gi ̉ ́ ̀ ̀ ̣ ới còn nhiều  hạn chế mặc dù nguyên nhân do nam giới cũng chiếm gần một nửa các   cặp vợ chồng vô sinh [7]. Không có tinh trùng trong tinh dịch là trường hợp không tìm thấy  tinh trùng trong mẫu tinh dịch đã được ly tâm. Để  kết luận một trường  hợp không có tinh trùng cần phải xét nghiệm hai lần cách nhau 3 đến 5  ngày, không sinh hoạt tình dục trước làm xét nghiệm tinh dịch đồ  từ 2­7  ngày [8]. Nguyên nhân của không có tinh trùng có thể là tắc nghẽn đường  dẫn tinh làm cho tinh trùng không di chuyển được từ  tinh hoàn qua mào  tinh đến ống dẫn tinh hoặc do bản thân tinh hoàn không sản sinh ra tinh   trùng.  Khoảng 10 năm trước đây, các trường hợp vô sinh do không có tinh   trùng thường chỉ dừng ở chẩn đoán xác định chứ chưa thể điều trị được.  1
  2. Điều trị  cho các cặp vợ  chồng vô sinh không có tinh trùng chủ  yếu là   bơm tinh trùng vào buồng tử  cung (IUI) với tinh trùng của người hiến   tặng (IAD) hoặc xin con nuôi [9].  Cùng sự tiến bộ của các kỹ thuật trong hỗ trợ sinh sản mà đầu tiên  là kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (Intra Cytoplasmic Sperm   Injection­ICSI) đã giải quyết được rất nhiều các trường hợp vô sinh do  nam giới. Sự hiểu biết sâu hơn về cơ chê bênh sinh cua vô sinh không có ́ ̣ ̉   tinh trùng do tắc nghẽn và không do tắc nghẽn sẽ giup điêu tri thanh công ́ ̀ ̣ ̀   ́ ường hợp vô sinh không có tinh trùng. cho cac tr Trên thế  giới phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn  bằng tinh trùng lấy từ  mào tinh hoặc tinh hoàn đã được một số  tác giả  báo cáo với kết quả  khả  quan. Có nhiều phương pháp lấy tinh trùng  trong   trường   hợp   không   có   tinh   trùng   trong   mẫu   tinh   dịch   trong   đó   phương pháp trích xuất tinh trùng bằng chọc hút từ mào tinh qua da được  nhiều tác giả  kết luận an toàn và hiệu quả  để  lấy tinh trùng thực hiện  ICSI. Tại Việt Nam, lĩnh vực Hỗ  trợ  sinh sản  đang còn non trẻ, các   nghiên cứu về tiêm tinh trùng vào bào tương noãn bằng tinh trùng lấy từ  mào tinh cũng còn mới, kết quả chỉ là bước đầu, số liệu còn ít, đặc biệt  chưa có một nghiên cứu tiến cứu với thiết kế  chặt chẽ  nên chưa đánh  giá được hiệu quả  cũng như  các yếu tố   ảnh hưởng đến kết quả  của   phương pháp này. Chính vì các vấn đề  trên đây, chúng tôi thực hiện đề  tài “ Nghiên  cứu hiệu quả phương pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn băng ̀   tinh trung lây t ̀ ́ ừ mao tinh trong điêu tri vô sinh ̀ ̀ ̣ ” với hai mục tiêu: Muc tiêu nghiên c ̣ ưu: ́ 2
  3. ̉ ặc điểm và môt sô yêu tô liên quan đên vô sinh nam không 1. Mô ta đ ̣ ́ ́ ́ ́   co tinh trung đ ́ ̀ ược chọc hút mào tinh tại Trung tâm Hỗ  trợ  sinh  sản. ́ ̣ ̉ 2. Đanh gia hiêu qua và m ́ ột số  yếu tố   ảnh hưởng kết quả  thu tinh ̣   ́ ̣ trong ông nghiêm băng ph ̀ ương pháp choc hut tinh trùng t ̣ ́ ừ mao tinh ̀   ̀ ̀ ương noan cac tr qua da/tiêm tinh trung vao bao t ̀ ̃ ́ ương h ̀ ợp vô sinh  không co tinh trung do t ́ ̀ ắc nghẽn. Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Một số khái niệm về vô sinh Vô sinh là tình trạng một cặp vợ chồng không có thai sau một năm  chung sống, sinh hoạt tình dục thường xuyên, không dùng bất cứ  một  biện pháp tránh thai nào [10, 11, 12]. Trong trường hợp nguyên nhân vô  sinh đã rõ ràng thì việc tính thời gian không được đặt ra nữa. Đối với các  cặp vợ  chồng đã lớn tuổi hoặc có các yếu tố  nguy cơ  thì nên thăm dò  sớm để  co kê hoach can thi ́ ́ ̣ ệp điều trị, tiết kiệm thời gian vì khi người   phụ nữ càng lớn tuổi thì khả năng có thai càng khó khăn [13]. Vô sinh nguyên phát hay còn gọi là vô sinh I là trường hợp người  phụ nữ chưa có thai lần nào, còn vô sinh thứ phát hay còn gọi là vô sinh   II là trươc đo ng ́ ́ ười phụ nữ đã có thai ít nhất một lần. Vô sinh nữ  là vô sinh mà nguyên nhân hoàn toàn do người vợ  còn  vô sinh nam là vô sinh mà nguyên nhân hoàn toàn do người chồng. Vô  sinh không rõ nguyên nhân là trường hợp cặp vợ chồng đã được làm tất  cả  các xét nghiệm thăm dò hiên co nh ̣ ́ ưng không tìm được nguyên nhân  vô sinh. 1.2. Tình hình vô sinh trên thế giới và Việt Nam. 3
  4. Tỷ lệ vô sinh trên thế giới thay đổi theo từng nước và từng nghiên  cứu nhưng nhìn chung đều có xu hướng tăng lên trong những năm gần  đây. Oakley và cộng sự nghiên cứu 60.000 phụ nữ tại Anh (2008) có tới  16% phụ  nữ  đã từng phải đi khám vì lý do hiếm muộn trong đó có 8%   cần phải điều trị mới có khả năng có thai [14]. Nghiên cứu của Safarinnejad và cộng sự năm 2008 trên 12.285 cặp  vợ  chồng tại Iran, tỷ  lệ  vô sinh là 8%, trong đó vô sinh nguyên phát là  4,6%, và tỷ  lệ  vô sinh nguyên phát tăng dần từ  2,6% trong giai đoạn   1985­1989 đến 5,5% trong giai đoạn 1995­2000 [15]. Theo báo cáo của Karl và cộng sự  về  tỷ  lệ  vô sinh của các nước  đang phát triển tại hội nghị thường niên Hội nội tiết sinh sản người châu   Âu (2008), tỷ lệ vô sinh dao động từ 5% đến 25,7% tuỳ từng nước [16]. Vahidi và cộng sự (2009) nghiên cứu trên 10.783 phụ nữ ở lứa tuổi   19­49 tuổi tại Iran cho thấy tỷ lệ vô sinh nguyên phát là 24,9% [17]. Theo  ̀ ̣ Wilkes va công sự (2009), ty lê vô sinh tai Anh la 9%, tuôi trung binh cua ̉ ̣ ̣ ̀ ̉ ̀ ̉   ngươi v ̀ ợ la 31 tuôi va th ̀ ̉ ̀ ời gian vô sinh trung binh la 18 thang [18]. ̀ ̀ ́ ̀ ̣ Theo Bovin va công sự (2007), ty lê vô sinh cua cac n ̉ ̣ ̉ ́ ươc kem phat ́ ́ ́  ̉ ̣ triên dao đông từ 6,9 đên 9,3% [ ́ ̉ ̣ ̉ ́ ươc châu Phi 19]. Ty lê vô sinh cua cac n ́   cao hơn nhiêu t ̀ ừ 9% đên 21,2%, ca biêt  ́ ́ ̣ ở Nigeria ty lê vô sinh lên t ̉ ̣ ới 20­ 30% [20]. ̀ ̣ Theo Bhattacharya va công sự (2009) điêu tra 4.466 phu n ̀ ̣ ữ ở miên ̀  ́ ́ ̉ ̣ đông băc Scotland cho thây ty lê vô sinh la 19,3% [21]. Theo Adeniji và ̀   Ikechebelu nghiên cưu tai Nigeria (2003), ty lê vô sinh nam dao đông t ́ ̣ ̉ ̣ ̣ ừ 23  ̀ ừng vùng tiến hành nghiên cứu [22, 23]. đên 46% tuy t ́ Tại Việt Nam theo điều tra dân số  trên toàn quốc năm 1982 thì tỷ  lệ  vô sinh là 13%. Theo Nguyễn Khắc Liêu tại Viện Bảo vệ  bà mẹ  và   trẻ sơ  sinh (1993­1997) thì vô sinh nữ là 55,4%, vô sinh nam là 35,6% và  4
  5. vô sinh không rõ nguyên nhân là 10% [24]. Theo Nguyễn Thành Như  tại  bệnh viện Bình dân (2001) thì vô sinh nam chiếm 30% các trường hợp  [25], còn theo Văn Thị Kim Huệ tại bệnh viện Phụ sản trung  ương Huế  (2002) thì tỷ  lệ  vô sinh nam là 30%, nữ  là 51,81% và do cả  hai người là  16,36% [26]. Tuy nhiên các nghiên cứu này chủ yếu tiến hành tại các cơ  sở  y tế  chư  không phải trên cộng đồng nên các tỷ  lệ  này chỉ  mang tính   chất tương đối, không đại diện được cho cả nước. Năm 2010, đề tài nghiên cứu cấp nhà nước của Nguyễn Viết Tiến  và cộng sự điều tra trên 14.396 cặp vợ chồng trên cả nước, trong độ tuổi   sinh đẻ cho thấy tỷ lệ vô sinh ở Việt nam là 7,7%, trong đó 3,9% vô sinh  nguyên phát và 3,8% vô sinh thứ phát  [27].  Các nghiên cứu cả trong và ngoài nước đều cho thấy tỷ lệ vô sinh   khá cao trong đó tỷ  lệ  vô sinh nam cũng tương đương với tỷ  lệ  vô sinh   nữ. Để  hiểu  được rõ hơn cơ  chế  bệnh sinh của vô sinh nam chúng tôi   trình bày một số nội dung về giải phẫu và sinh lý cơ quan sinh dục nam   có liên quan đến vô sinh nam, đặc biệt là vô sinh nam không có tinh trùng. 1.3. Giải phẫu và sinh lý cơ quan sinh dục nam. 1.3.1. Đặc điểm giải phẫu cơ quan sinh dục nam  Cơ  quan sinh dục nam gồm hai tinh hoàn nằm trong bìu, đường  dẫn tinh, các tuyến của đường dẫn tinh và dương vật. Tinh hoàn hình  trứng có chiều dài 4,1 ­ 5,2cm và chiều rộng 2,5 ­ 3,3cm. Tre m ̉ ơi đe, thê ́ ̉ ̉  ́ ̀ ̉ ̀ ươi tr tich tinh hoan khoang 3ml va ng ̀ ưởng thanh là 15ml đên 30ml [28]. ̀ ́   Mỗi tinh hoàn có khoảng 150 đến 200 tiểu thuỳ được ngăn cách bằng các  vách xơ, mỗi tiểu thuỳ  được cấu tạo từ  3 đến 4 ống sinh tinh, có chức   năng sản xuất ra tinh trùng. Ống sinh tinh có chiều dài khoảng 30cm đến  150cm với đường kính 150 đến 200 micromet xếp lại với nhau. Xen giữa   các  ống sinh tinh là các tế  bào Leydig có chức năng bài tiết testosteron.  5
  6. Ống   sinh   tinh   chiêm ́   tơí   99%   thể   tich ́   tinh   hoan, ̀   trong   khi   cać   tế  bao ̀  ̉ Leydig chiêm khoang 1% th ́ ể tích [28]. Các  ống sinh tinh sẽ  đổ  vào các  ống thẳng, tiếp đến là lưới tinh   hay còn gọi là lưới Haller nằm trong trung thất của tinh hoàn. Lưới tinh   đổ  vào khoảng 20  ống ra, các  ống ra tiến vào đoạn đầu mào tinh tạo   thành các ống mào tinh. Các ống mào tinh hợp dần với nhau để tạo thành   một  ống dẫn tinh duy nhất nằm trong thừng tinh cung v ̀ ơi mach mau, ́ ̣ ́   thân kinh và mô liên k ̀ ết [29]. Các ống mào tinh có chiều dài lên tới 5 đến  6 mét trong khi mao tinh ch ̀ ỉ dai khoang 4 đên 5cm nên các  ̀ ̉ ́ ống này phải  bện chặt với nhau.  ̀ ̀ ̀ ̀ ́ ̀ ́ ơi day năm Mào tinh gôm ba phân, đâu mao tinh co hinh tam giac, h ̀ ̀   ở sat c ́ ực trên cua tinh hoan, thân mao tinh năm doc theo tinh hoan va đuôi ̉ ̀ ̀ ̀ ̣ ̀ ̀   ̉ ̀ ̣ mao tinh nho [30]. Theo Clavert va công s ̀ ự (1995), mao tinh rât it co kha ̀ ́ ́ ́ ̉  ̀ ́ ̣ ́ ̃ ̣ ́ năng đê khang do vây rât dê bi cac nhiêm trung th ̃ ̀ ứ phat sau viêm nhiêm ́ ̃   đường tiêt niêu và khi b ́ ̣ ị viêm tắc đường dẫn tinh sẽ dẫn đến vô sinh do  không có tinh trùng do tắc nghẽn [31]. 6
  7. Hình 1.1. Cấu tạo tinh hoàn và mào tinh [32] Các tuyến phụ  của đường dẫn tinh bao gồm túi tinh, tuyến tiền  liệt, tuyến hành niệu đạo và các tuyến niệu đạo. Nhiệm vụ  của các   tuyến này là bài tiết các dịch hoà lẫn với tinh trùng để  tạo thành tinh  dịch. 1.3.2. Sinh ly qua trinh sinh tinh ́ ́ ̀  [33, 34]. Quá trình sinh tinh diễn ra liên tục từ lúc bắt đầu dậy thì cho đến  tận cuối đời  và được chia ra bốn giai đoạn: tinh nguyên bào, tinh bào,  tinh tử và tinh trùng trưởng thành.  1.3.2.1. Giai đoạn tinh nguyên bào. Các tế bào mầm sinh dục trong ống sinh tinh sẽ biệt hoá thành các  tinh nguyên bào, tinh nguyên bào phân chia gián phân để tăng nhanh về số  lượng. Một số tinh nguyên bào biệt hoá thành tinh bào I. Tinh nguyên bào  được chia làm 3 loại dựa vào đặc điểm của nhân tế bào: Loại A sẫm màu: (tinh nguyên bào chủng): tinh nguyên bào A là  những  tế   bào  mầm  nằm  trong  ống  sinh   tinh,  có   khả   năng  gián  phân  thường xuyên để tạo ra hai tế bào con: một tế bào có khả năng gián phân   để  làm nguồn dự  trữ  sinh tinh vô hạn, tế  bào còn lại sẽ  biệt hoá thành  tinh nguyên bào loại A nhạt màu. Loại A nhạt màu (tinh nguyên bào bụi): sau vài lần phân chia, tinh  nguyên bào bụi biệt hoá thành tinh nguyên bào loại B. Loại B (tinh nguyên bào vảy): loại này gián phân để tăng số lượng  tế  bào. Tinh nguyên bào vảy biệt hoá thành tinh bào I có bộ  nhiễm sắc  thể lưỡng bội 2n = 46. 1.3.2.2. Giai đoạn tinh bào. Ở  giai đoạn này, tinh bào I tiến hành giảm phân lần 1 tạo nên 2   tinh bào II, mỗi tinh bào II có bộ  nhiễm sắc thể  đơn bội n = 23. Các  7
  8. nhiễm sắc thể giới tính X và Y cũng phân ly cho hai tinh bào. Tinh bào II   vừa được sinh ra sẽ  tiến hành giảm phân lần 2 ngay để  thành tinh tử  (tiền tinh trùng). Mỗi tinh tử  mang bộ  nhiễm sắc thể   đơn bội. Giảm   phân lần 1 thường diễn ra trong khoảng 24 ngày, trong khi đó giảm phân  lần 2 chỉ xảy ra trong vài giờ, do vậy trên phiến đồ cắt ngang tinh hoàn ít  khi tìm thấy tinh bào II. 1.3.2.3. Giai đoạn tinh tử. Tinh   tử   được   hay   tiền   tinh   trùng   sinh   ra   sau   giảm   phân   có   bộ  nhiễm sắc thể đơn bội n = 23. Có hai loại tinh tử: loại mang nhiễm sắc   thể  X và loại mang nhiễm sắc thể  Y.   Tinh tử  không phân chia mà trải  qua quá trình biệt hoá để trở thành tinh trùng, quá trình này gồm bốn hiện  tượng chính liên quan đến những biến đổi hình thái của tinh tử. 8
  9. Hình 1.2. Quá trình hình thành tinh trùng [32] Tạo túi cực đầu: Bộ  Golgi biến đổi tạo thanh túi cực đầu, các hạt giàu  glycoprotein xuất hiện trong những túi của bộ  Golgi. Các túi này hợp  thành một túi duy nhất nằm sát với cực trên của nhân.  Tạo mũ cực đầu: đặc trưng của giai đoạn này là nhân cô đặc, dẹt ra, túi   cực đầu trải rộng ôm lấy nửa cực trước của nhân tạo ra “mũ cực đầu”. Tạo đoạn cổ và dây trục: nhờ những biến đổi của hai tiểu thể trung tâm  gần và xa di chuyển về  phía cực của nhân đối lập với cực có túi cực   đầu.   9
  10. Loại bỏ bào tương: bào tương lan dần về phía sau đuôi tinh trùng, để lại   một  lớp mỏng xung quanh túi cực đầu, nhân và đoạn cổ tinh trùng. Khối   bào tương hơi phình lên, gọi là “giọt bào tương”. Tinh tử trưởng thành (tinh trùng chưa trưởng thành) không còn dính  với nhau mà tách ra và đi vào lòng  ống sinh tinh. Các thành phần không  cần thiết sẽ bị loại bỏ trong quá trình biệt hoá và được các tế bào Sertoli   thực bào. Dấu hiệu để nhận biết tinh trùng chưa trưởng thành hoàn toàn  là còn giọt bào tương còn bám quanh cổ tinh trùng.  Hình 1.3. Các giai đoạn biệt hoá từ tinh tử thành tinh trùng [32]. 1.3.2.4. Giai đoạn trưởng thành tinh trùng. Thời gian để  hoàn tất một chu kỳ  tạo tinh trùng khoảng 64 – 72   ngày. Tinh trùng chưa trưởng thành không có khả  năng tự  thụ  tinh. Do   10
  11. đó, tinh trùng lấy ra từ ống sinh tinh và phần đầu của mào tinh không có   khả năng di động và không thể tự thụ tinh được với noãn.  Tinh trùng sẽ trưởng thành trong khi di chuyển ở mào tinh (khoảng  20 ngày). Tuy vậy, sự trưởng thành này chỉ  về  mặt hình thái. Để  có thể  thụ tinh tự nhiên với noãn, tinh trùng trưởng thành còn phải tiếp tục hoàn  thiện về mặt chức năng. Các bước hoàn thiện bao gồm sự trưởng thành  về  sinh lý, sinh hoá cũng như  chuyển hoá. Khi di chuyển trong đường  sinh dục nữ, chức năng của tinh trùng sẽ được hoạt hoá. Trong thụ  tinh   ống nghiệm, hiện tượng hoạt hóa này xảy ra khi tinh trùng gặp môi  trường nuôi cấy thuận lợi và được tách bỏ  khỏi tinh tương có chứa  những yếu tố ức chế hoạt hóa tinh trùng.    Khi   chọc   hút   tinh   hoàn  hay   mào  tinh   để   lấy   tinh  trùng  (TESA,  PESA, MESA…), người ta thấy rằng tinh trùng lấy ở  tinh hoàn thụ  tinh  kém kể  cả  khi cho thụ  tinh bằng phương pháp tiêm tinh trùng vào bào  tương noãn [35], và nếu có thai thì tỷ lệ sảy thai cũng cao hơn so với tinh  trùng từ  mào tinh [36, 37]. Tỷ  lệ  thụ  tinh sau tiêm vào bào tương noãn   bằng tinh trùng lấy từ mào tinh cũng gần tương đương so với tinh trùng   lấy từ mẫu mẫu xuất tinh [38]. Những trường hợp cho tinh trùng từ mào  tinh thụ  tinh với noãn bằng phương pháp thụ  tinh  ống nghiệm thông   thường thì khả  năng thụ  tinh cũng rất kém. Đây là cơ  sở  của phương  pháp tiêm tinh trùng vào bào tương noãn cho các trường hợp chọc hút tinh   trùng từ mào tinh. 11
  12. Hình 1.4. Tinh trùng trưởng thành [39] 1.3.3. Điều hoà nội tiết nam giới  Vùng dưới đồi bài tiết hormon GnRH theo dạng xung có tác dụng  kích thích tuyến yên tổng hợp và bài tiết ra hormon FSH và LH. Cũng  giống như vùng dưới đồi, tuyến yên bài tiết hai hormon này dưới dạng   xung. Tại tinh hoàn FSH gắn vào các thụ thể trên bề mặt tế bào Sertoli,   kích thích sản xuất tinh trùng, ngoài ra trên tế bào Sertoli còn có các thụ  thể tiêp nhân testosteron, c ́ ̣ ả FSH và testostosteron đều cần thiết cho quá  trình sản sinh tinh trùng [40]. Các tế  bào Leydig có  tác dụng tổng hợp và bài tiết ra hormon  testosteron.   Ở   nam   giới   bình   thường,   mỗi   ngày   bài   tiết   khoảng   6mg   testosterone, trong đó khoảng 98% tồn tại dưới dạng gắn kết với SHBG   và albumin, chỉ  có môt phân nho testosterone  ̣ ̀ ̉ ở  dạng tự  do mới có hoạt  tính sinh học. Hormon LH của vùng dưới đồi kích thích các tế bào Leydig  tổng hợp và bài tiết testosterone. 1.4. Nguyên nhân vô sinh nam Nguyên nhân chính vô sinh nam là do giảm sinh tinh mà nguyên   nhân có thể do di truyền, do biến chứng của các bệnh làm suy giảm chức  12
  13. năng sinh tinh của tinh hoàn hoặc các biến chứng gây viêm tắc đường  dẫn tinh [41]. Theo nghiên cứu của Aribary (1995), có tới 35,2% vô sinh  nam do bất thường tinh dịch đồ  [42]. Theo Trần Đức Phấn (2001), các  cặp vợ  chồng vô sinh có 44% tinh dịch đồ  bất thường [43], còn theo  Phạm Như  Thảo (2003) tỷ  lệ  này là 54,4% [44]. Theo Kuku va Osegbe ̀   (1989), nam giới vô sinh phân l ̀ ơn co tiên s ́ ́ ̀ ử nhiêm khu ̃ ẩn đường tiêt niêu ́ ̣   ̣ sinh duc [45].  1.4.1. Nguyên nhân trước tinh hoàn 1.4.1.1. Nguyên nhân suy vùng dưới đồi tuyến yên Cũng tương tự  như  vô sinh do suy vùng dưới đồi tuyến yên ở  nữ  giới, vô sinh do suy vùng dưới đồi tuyến yên  ở  nam giới rất hiếm gặp,  nhưng có thể điều trị được bằng liệu pháp hỗ trợ hormon. Suy vùng dưới đồi bẩm sinh thường gặp là hội chứng Kallmann,  bệnh nhân không dậy thì, tinh hoàn nhỏ  và hệ  thống lông không phát   triển, có thể kèm theo dị tật sứt môi hở hàm ếch, teo thận, cử động nhãn   cầu bất thường, sa mi mắt, và đôi khi cơ  quan thính giác cũng có thể  bị  ảnh hưởng, nồng độ  hormon gonadotropin và steroid sinh dục thấp, kèm  theo tổn thương khứu giác. 30% các trường hợp do nguyên nhân đột biến   gen KAL1, FGFR1, PROK2, PROKR2 và gen FGF8 [46]. Suy tuyến yên có thể  gặp suy toàn bộ  hoặc suy từng phần của   thuỳ trước tuyến yên. Khi phần tuyến bài tiết FSH và LH bị tổn thương   sẽ biểu hiện bệnh cảnh của suy sinh dục. Nguyên nhân suy tuyến yên có  thể  gặp trước dậy thì hoặc sau đẻ  do mất máu gây hoại tử  tuyến yên  (hội chứng Sheehan). U vùng sọ hầu, khối u cạnh tuyến yên, tổn thương   não, tia xạ  vùng não, nhồi máu tuyến yên sau bệnh lý nặng toàn thân,   chảy máu não thất, nhiễm khuẩn...là các nguyên nhân gây ra suy tuyến  yên. 13
  14. 1.4.1.2. Nguyên nhân do tăng prolactin máu. Tăng prolactin máu chiếm 11% các trường hợp nam giới vô sinh do  ít tinh trùng và chiếm 16% các trường hợp có rối loạn cương dương. Là  nguyên nhân hay gặp nhất trong số  các nguyên nhân rối loạn nội tiết  vùng dưới đồi tuyến yên [47, 48]. Khi nồng độ prolactin máu tăng cao sẽ  ức   chế   tuyến   yên   bài   tiết   FSH   và   LH,   ức   chế   tinh   hoàn   bài   tiết  testosterone và ức chế sản xuất tinh trùng, biểu hiện lâm sang la vô sinh ̀ ̀   do giảm mật độ tinh trùng [49]. Tăng prolactin máu có thể găp trong suy gan, s ̣ ử dụng một số thuốc   gây tăng tiết prolactin (thuốc chẹn beta, phenothiazine, leuroleptic, thuốc   chống   trầm   cảm   loại   tricyclic,   verapamil,   methyl   dopa,   reserpin,   metoclopramid, opiat, cocain, chẹn H2, estrogen) hoăc do kh ̣ ối u tuyến  yên (microadenome hoặc macroadenome) gây bài tiết prolactin. Các bệnh  nhân   tăng   prolactin   thường   giảm   nhu   cầu   tình   dục,   rối   loạn   cương  dương, tuyến vú to, bài tiết sữa, đau đầu, nhìn mờ  do khối u tuyến yên   chèn ép [50]. 1.4.1.3. Nguyên nhân do bệnh lý tuyến giáp. Hormon tuyến giáp có liên quan chặt chẽ đến chức năng sinh dục,  giảm hormon tuyến giáp trong bệnh lý suy giáp trạng dẫn đến suy giảm   ham muốn tình dục và giảm cương dương. Nồng độ  hormon T4 cũng  liên quan mật thiết đến mật độ  tinh trùng, do vậy các bệnh nhân bị  suy  tuyến giáp cần điều trị bổ sung hormon tuyến giáp. Ngược lại bệnh nhân cường giáp mật độ  và tỷ  lệ  tinh trùng di  động cũng giảm do nồng độ  testosterone giảm, tăng globulin gắn kết   hormon sinh dục và tăng hormon LH. Một số  nghiên cứu ghi nhận tinh   dịch đồ  trở  về  bình thường 9­12 tháng sau khi chức năng tuyến giáp trở  14
  15. về  bình thường. Khoảng 0,5% nam giới vô sinh do rối loạn chức năng  tuyến giáp [51]. 1.4.1.4. Nguyên nhân do tăng hormon tuyến thượng thận. Bệnh lý  tuyến thượng thận thường gặp là hội chứng Cushing,  nguyên nhân do tuyến yên tăng tiết ACTH, do đó kích thích tuyến thượng  thận tăng bài tiết cortisol. Cushing thường gặp  ở nữ giới hơn nam giới,   với   tỷ   lệ   8   nữ/1   nam.   Trên   nam   giới   bị   mắc   bệnh   này   thì   nồng   độ  hormon LH và testosterone giảm thấp. Có rất ít nghiên cứu về  liên quan  giữa bệnh này với suy tinh hoàn nhưng một số  ít nam giới biểu hiện   giảm mật độ  tinh trùng khi bị  Cushing. Nếu sinh thiết tinh hoàn thì sẽ  thấy biểu hiện giảm quá trình sản sinh tinh trùng, màng đáy của ống sinh   tinh dày lên và giảm số lượng tế bào Leydig [52]. 1.4.1.5. Nguyên nhân do đái tháo đường. Bệnh   đái   tháo   đường   có   thể   gây   vô   sinh   do   bệnh   nhân   bị   liệt  dương. Có tơi 50% b ́ ệnh nhân đái tháo đường bị liệt dương, ngoài ra các  bệnh nhân đái tháo đường cũng biểu hiện rối loạn xuất tinh. Ngoài ra  chức   năng   sinh   tinh   của   các   bệnh   nhân   đái   tháo   đường   cũng   bị   ảnh  hưởng, tuy nhiên người ta chưa biết chính xác cơ chế đái tháo đường gây  giảm sinh tinh. 1.4.1.6. Nguyên nhân do đột biến di truyền. Hội chứng Klinerfelter là một bất thường do đột biến hay gặp với   tỷ lệ khoảng 1/600 trường hợp thai bình thường và 1/300 trường hợp sảy  thai và cũng rất hay gặp trên các bệnh nhân vô sinh không có tinh trùng.  Khoảng 80% bệnh nhân mang bộ  nhiễm sắc thể  47XXY và 20% thể  khảm 47XXY/46XY. 1.4.2. Nguyên nhân tại tinh hoàn. 1.4.2.1. Tinh hoàn lạc chỗ. 15
  16. Tinh hoàn lạc chỗ  là một bất thường bẩm sinh cơ  quan sinh dục  nam chiếm khoảng 2­5% trẻ mới sinh, trẻ non tháng gặp nhiều hơn trẻ  đủ tháng. Các bất thường có thể gây ra khi tinh hoàn lạc chỗ  là thoái hoá tế  bào mầm, tỷ lệ tế bào thoái hoá nhiều hay ít phụ thuộc vào vị trí lac chỗ ̣   của tinh hoàn ở  trong  ổ bụng hay trong  ống bẹn. Nếu tinh hoàn lạc chỗ  thì bắt đầu từ năm thứ hai sau đẻ trở đi số lượng tế bào mầm trong tinh   hoàn bắt đầu giảm đi đáng kể, chính vì vậy các tác giả khuyến cáo cần   phải điều trị sớm cho bệnh nhân trước thời điểm này. Phẫu thuật hạ tinh hoàn trước tuổi dậy thì sẽ giảm được nguy cơ  này, tuy nhiên cần phẫu thuật sớm mới bảo toàn được chức năng sinh   tinh [53]. 1.4.2.2. Suy tinh hoàn. Suy tinh hoàn đơn thuần hiếm gặp, mà thường gặp sau điều trị  ung thư bằng tia xạ hoặc hoá chất. Có thể  suy chức năng tế  bào Leydig  mà biểu hiện tăng nồng độ  hormon LH kèm theo giảm testosterone, tuy   nhiên do các tế bào sinh tinh dễ nhạy cảm hơn so với tế bào Leydig nên  các bệnh nhân này thường bị  vô sinh hơn, biểu hiện bằng giảm các chỉ  số trên xét nghiệm tinh dịch đồ [54]. 1.4.2.3. Quai bị biến chứng teo tinh hoàn. Quai bị biến chứng viêm tinh hoàn là nguyên nhân viêm nhiễm hay   gặp nhất. Bệnh ít khi xảy ra trươc tu ́ ổi dậy thì nhưng lại khá phổ  biến  sau tuổi dậy thì. Viêm tinh hoàn hai bên gặp khoảng 25% các trường hợp  bệnh nhân bị quai bị. Tràn dịch màng tinh hoàn, phù nề, chèn ép gây thiếu   máu nuôi dưỡng là nguyên nhân gây ảnh hưởng đến chức năng sinh tinh  trùng.  16
  17. Trước đây người ta phòng thiếu máu tinh hoàn khi bị quai bị bằng  cách rạch bao xơ  tinh hoàn để  giải phóng độ  căng, tuy nhiên thiếu máu  ̉ đã xay ra t ừ trước khi bệnh nhân đến viện do vậy dù có rạch cũng không  giúp phòng ngưa đ ̀ ược biến chứng này.  1.4.2.4. Giãn tĩnh mạch thừng tinh. Cơ  chế  sinh bệnh của giãn tĩnh mạch thừng tinh gây ra vô sinh  chưa được biết một cách chính xác. Tỷ lệ giãn tĩnh mạch thừng tinh cũng  thay đổi tuỳ theo nhóm tuổi,  ở trẻ 2­6 tuổi tỷ lệ này là 0,79%; 7­10 tuổi   là 0,96%; 11­14 tuổi là 7,8% và 15­19 tuổi là 14,1%. Người ta ước tính tỷ  lệ  giãn tĩnh mạch thừng tinh chiếm khoảng 20% trong nhóm nam giới  bình thường còn trong nhóm vô sinh thì  tỷ  lệ  này là 40% [55]. Theo   nghiên cứu của Tổ  chức Y tế  Thế  Giới trên 9.034 nam giới, có 25,6%  nam giới xét nghiệm tinh dịch đồ bất thường có bị giãn tĩnh mạch thừng   tinh [56]. Cấu tạo giải phẫu của tĩnh mạch thừng tinh có thể là nguyên nhân  gây ra giãn tĩnh mạch thừng tinh, sự không hoàn chỉnh của van tĩnh mạch  gây ra dòng máu tĩnh mạch phản hồi lại gây ra tăng áp lực thuỷ tĩnh cũng  là nguyên nhân chủ  yếu gây giãn tĩnh mạch thừng tinh. Chẩn đoán giãn  tĩnh mạch thừng tinh chủ yếu dựa vào khám lâm sàng  ­ Giãn tĩnh mạch độ 0 (tiền lâm sàng) chỉ có thể phát hiện bằng siêu âm  doppler khi thăm khám lâm sàng nghi ngờ giãn tĩnh mạch thừng tinh [57].  Giãn tĩnh mạch thừng tinh độ  0 không liên quan đến vô sinh và cũng   không có chỉ định điều trị [58]. ­ Giãn độ  I: khó quan sát nhưng có thể  sờ  thấy búi tĩnh mạch giãn khi  bệnh nhân làm nghiệm pháp Valsalva. ­ Giãn độ II: có thể nhìn thấy búi giãn và sờ thấy búi tĩnh mạch giãn mà   không cần làm nghiệm pháp Valsalva. 17
  18. ­ Giãn độ  III: nhìn thấy búi tĩnh mạch giãn một cách dễ  dàng, búi tĩnh  mạch giãn to. Về  mặt tế  bào học thì các bệnh nhân giãn tĩnh mạch thừng tinh   biểu hiện mất liên kết các tế  bào trong  ống sinh tinh, tinh trùng dừng  ở  các giai đoạn phát triển khác nhau, thành  ống sinh tinh mỏng nên lòng  ống rộng ra [59]. Nghiên cứu của WHO cho thấy  ở  các bệnh nhân giãn  tĩnh mạch thừng tinh có nồng độ testosterone thấp hơn so vơi ng ́ ười bình  thường, do vậy sẽ  ảnh hưởng đến quá trình sinh tinh mà biểu hiện trên  tinh dịch đồ  là giảm mật độ  tinh trùng, giảm tỷ  lệ  tinh trùng di động  cũng như tỷ lệ  tinh trùng bình thường [56]. Ngoài ra người ta cũng thấy   ở các bệnh nhân bị giãn tĩnh mạch thừng tinh thì khả năng bám của tinh   trùng vào màng zona của noãn cũng kém hơn so với các tinh trùng bình  thường [60]. Cơ chế bệnh sinh của giãn tĩnh mạch thừng tinh gây ra bất thường  tinh dịch đồ được cho rằng tăng nhiệt độ tai biu là y ̣ ̀ ếu tố chinh gây ra.  ́ 1.4.2.5. Xoắn tinh hoàn. Xoắn tinh hoàn có thể  làm giảm hoặc mất hoàn toàn chức năng  sản xuất tinh trùng, dẫn đến giảm số  lượng tinh trùng hoặc không có  tinh trùng nếu xoắn cả hai bên. Khi tinh hoàn bị xoắn thì đầu tiên làm cắt   đứt nguồn máu trở về qua tĩnh mạch và sau đó là cắt đứt nguồn máu đến  nuôi dưỡng qua đường động mạch, kết quả là biểu mô sinh tinh bị thiếu   máu, hoại tử. Bệnh nhân biểu hiện đau nhiều vùng tinh hoàn, tinh hoàn  có thể  căng, xung huyết, doppler có thể  thấy biểu hiện giảm dòng máu  đến tinh hoàn. Xoắn có thể một hoặc hai bên tinh hoàn nhưng trong một   số  trường hợp xoắn một bên nhưng sau đó sinh ra kháng thể  kháng tinh  trùng gây vô sinh cho bệnh nhân. 1.4.2.6. Chấn thương tinh hoàn. 18
  19. Chấn thương tinh hoàn thường gặp  ở  trẻ  nhỏ, tuy nhiên y văn có  ghi nhận một số  nguyên nhân như  đỡ  đẻ  ngôi mông  ở  trẻ  trai, chấn   thương của các vận động viên. Sang chấn có thể  bị  phù nề  hoặc bị  tụ  máu, vì vỏ bao tinh hoàn chắc và không có tinh chất đàn hồi nên trong cả  hai trường hợp phù nề  hay tụ  máu đều làm tăng áp lực trong tinh hoàn,  dẫn đến làm giảm dòng máu đến nuôi dưỡng tinh hoàn, thiếu máu dẫn   đến làm tổn thương biểu mô sinh tinh. Chấn thương tinh hoàn đôi khi  cũng làm chấn thương mào tinh gây đứt ống dẫn tinh, làm không có tinh   trùng. Sang chấn tinh hoàn làm cho tinh trùng tiếp xúc với hệ thống miễn  dịch của cơ thể, gây ra kháng thể kháng tinh trùng. 1.4.2.7. Khối u tế bào Leydig. Khối u tế  bào Leydig rất hiếm gặp nhưng cũng được mô tả  chi  tiết về nguyên nhân của suy tuyến yên có nồng độ androgen bình thường   và tăng nồng độ  estrogen. Bệnh nhân biểu hiện giảm sinh tinh trùng,  cương đau vú do tăng chuyển hoá testosterone thành estradiol. Điều trị có  thể  bằng cách cắt bỏ  tinh hoàn hoặc nếu là khối u lành tính thì chỉ  cần   cắt bỏ  khối u thì cũng có thể  hồi phục được chức năng sản sinh tinh  trùng. 1.4.3. Nguyên nhân sau tinh hoàn. 1.4.3.1. Teo ống dẫn tinh bẩm sinh. Ống dẫn tinh có đường kính khoảng 3mm, nằm trong thừng tinh.  Chẩn đoán teo  ống dẫn tinh bằng thăm khám lâm sàng. Khoảng 25%  bệnh nhân teo ống dẫn tinh một bên và 10% bệnh nhân teo ống dẫn tinh  hai bên có kèm theo teo một bên thận [61]. Teo ống dẫn tinh thường kèm   theo   teo   túi   tinh.   Các   bệnh   nhân   teo   ống   dẫn   bẩm   sinh   tinh   hai   bên  19
  20. thường biểu hiện giảm thể tích tinh dịch, giảm lượng fructose cũng như  độ pH trong tinh dịch. 1.4.3.2. Thắt ống dẫn tinh. Thắt  ống dẫn tinh là phương pháp triệt sản vĩnh viễn, khoảng 2­ 6% nam giới thắt ống dẫn tinh có nguyện vọng nối lại ống dẫn tinh [62].   Điều trị có thể bằng cách nối lại ống dẫn tinh hoặc cũng có thể áp dụng   phương pháp hỗ  trợ sinh sản tuỳ thuộc vào bệnh cảnh của từng cặp vợ  chồng. 1.4.3.3. Tắc ống phóng tinh. Tắc  ống phóng tinh chiếm khoảng 1­5% các trường hợp vô sinh  không có tinh trùng [63], còn theo Jequier thì tỷ lệ này chỉ là 2% các bệnh  nhân tắc nghẽn đường dẫn tinh [64]. Tắc  ống phóng tinh có thể  tắc  ở  đoạn xa hoặc tắc toàn bộ   ống phóng tinh.  Đặc  điểm các bệnh nhân  không có tinh trùng do tắc  ống phóng tinh là thể  tích tinh dịch ít, xét  nghiệm tinh dịch đồ có thể là không có tinh trùng hoặc tinh trùng ít, nồng   độ fructose trong tinh dịch thấp, nồng độ FSH huyết thanh bình thường.  1.4.3.4. Xuất tinh ngược dòng. Xuất tinh ngược dòng là hậu quả  của đóng cổ  bàng quang không   hoàn toàn vào thời điểm xuất tinh làm cho tinh dịch không phóng ra ngoài  được mà chảy vào bàng quang. Trên lâm sàng bệnh nhân vẫn có cảm   giác xuất tinh nhưng thể tích tinh dịch ít, xét nghiệm tinh dịch đồ mật độ  ít hoặc không có tinh trùng. Nếu lấy mẫu nước tiểu xét nghiệm sẽ  tìm  thấy tinh trùng. Xuất tinh ngược dòng có thể là hoàn toàn khi toàn bộ tinh  dịch xuất ngược vào bàng quang hoặc không hoàn toàn khi vẫn có một  lượng tinh dịch được xuất ra ngoài. Xuất tinh ngược dòng là một bất   thường hay gặp nhất trong số các rối loạn xuất tinh, chiếm khoảng 0,3   đến 2% các trường hợp vô sinh do nam giới [65].  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2