intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu kết quả của phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc có sử dụng đèn soi nội nhãn

Chia sẻ: Co Ti Thanh | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:185

28
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận án nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng của những mắt mất thể thủy tinh và cấu trúc bao sau. Đánh giá kết quả của phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc có sử dụng đèn soi nội nhãn. Phân tích các yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu kết quả của phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc có sử dụng đèn soi nội nhãn

  1. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Nhãn cầu là một hệ  thống quang học cấu tạo rất tinh vi, trong  đó  những thành phần quang học của hệ thống này có chiết suất khác nhau bao  gồm phim nước mắt, giác mạc, thể  thủy tinh, dịch kính.Trên mắt chấn  thương và do các nguyên nhân khác mà một hoặc nhiều cấu trúc này không  còn nguyên vẹn sẽ  dẫn đến sự  khiếm khuyết trong hệ  thống quang học   của nhãn cầu và chức năng thị giác suy giảm.  Trong trường hợp nhãn cầu không còn thể thủy tinh, đeo kính gọng,   đặt thể thủy tinh nhân tạo tiền phòng, hậu phòng là các phương pháp được  đề  xuất nhằm khôi phục hệ  thống quang học của nhãn cầu, trong đó đặt  thể thủy tinh nhân tạo hậu phòng vào vị trí sinh lý của thể thủy tinh là rãnh  thể  mi là mong muốn của các phẫu thuật viên. Thực tế  cho thấy, trên  những bệnh nhân mất thể  thủy tinh, không còn cấu trúc bao sau hoặc cấu  trúc bao sau không còn khả năng đỡ  thể thủy tinh nhân tạo, phẫu thuật cố  định thể thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc với vị trí càng của thể thủy  tinh nhân tạo đặt trong rãnh thể mi,là vị trí gần với vị trí giải phẫu tự nhiên   của thể thủy tinh, giúp khôi phục cấu trúc sinh lý của nhãn cầu, do vậy cho  kết quả giải phẫu cũng như kết quả thị lực tốt nhất. Rãnh thể  mi là một cấu trúc của nhãn cầu không thể  quan sát được   với các phương tiện khám bệnh thông thường như sinh hiển vi khám bệnh,  kính hiển vi gián tiếp, kính hiển vi phẫu thuật. Đèn soi nội nhãn là một dụng cụ  mới cho phép bác sỹ  nhãn khoa   quan sát các cấu trúc bên trong nhãn cầu một cách chi tiết, đặc biệt là   những cấu trúc nằm  ở  vùng ngoại vi xa như  võng mạc ngoại vi, pars  plana, thể  mi và khe thể  mi. Phương ti ện này là cách thức duy nhất để 
  2. 2 tiếp cận các cấu trúc ở bán phần sau trong nh ững điều kiện đặc biệt như  trong các bệnh lý bán phần trước như giác mạc mờ đục, đồng tử co nhỏ,  bất thường thể  thủy tinh, giúp phẫu thuật viên có thể  quan sát và thực  hiện   các   phẫu   thuật   nội   nhãn   dễ   dàng,   chính   xác   hơn,   nâng   cao   chất  lượ ng phẫu thuật và hiệu quả điều trị đối với bệnh nhân. Vì vậy chúng tôi tiến hành thực hiện đề  tài “Nghiên cứu kết quả   của phẫu thuật cố  định thể  thủy tinh nhân tạo vào thành củng mạc   có sử  dụng đèn soi nội nhãn” kết hợp kỹ thuật khâu dấu chỉ trong lòng  củng mạc nhằm nâng cao tính chính xác của phẫu thuật, hạn chế  bi ến   chứng sau phẫu thuật t ừ đó nâng cao hiệu quả điều trị, tối ưu hóa thị lực   cho bệnh nhân với các mục tiêu sau: 1. Mô tả  đặc điểm lâm sàng của những mắt mất thể  thủy tinh và   cấu trúc bao sau. 2. Đánh giá kết quả của phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo   vào thành củng mạc có sử dụng đèn soi nội nhãn. 3. Phân tích các yếu tố liên quan đến kết quả phẫu thuật.
  3. 3
  4. 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Đặc điểm giải phẫu và sinh lý các cấu trúc giải phẫu của nhãn  cầu liên quan đến phẫu thuật, nguyên nhân mất bao sau của thể thủy   tinh 1.1.1. Thể thủy tinh Thể thủy tinh một cấu trúc lồi 2 mặt nằm giữa mống mắt  ở trước và   dịch kính ở sau. Mặt sau TTT cong hơn mặt trước.  Ở người trưởng thành,  TTT có đường kính khoảng 10mm và dày 4mm. Cách xích đạo TTT một  khoảng 0,5mm là các tua thể  mi của thể  mi. Bao trước TTT dày hơn bao  sau và tăng chiều dày trong suốt cuộc đời. Ở xích đạo TTT, các dây chằng  cố  định (dây Zinn), xuất phát từ  thể  mi, bám vào bao TTT theo một vùng   rộng 2,5mm. Các sợi dây chằng chia thành 2 phần, phần sau xuất phát từ  chỗ lõm của pars plana và phần trước xuất phát từ thung lũng giữa các tua  thể mi và từ các tua thể mi đến TTT.  Hình 1.1. Giải phẫu vi thể thủy tinh thể [1] Chiết suất TTT thay đổi từ  1.406  ở  vùng trung tâm đến 1.386  ở  vùng   ngoại vi. Nguyên nhân là do những sợi tế  bào gần bề  mặt có chiết suất  khúc xạ thấp hơn những sợi nằm  ở sâu, vì vậy làm giảm quang sai cầu và 
  5. 5 tăng chất lượng tập trung ánh sáng. TTT ngăn cản phần lớn tia cực tím có   bước sóng dao động 300­400nm. Những ánh sáng có bước sóng ngắn hơn  sẽ bị ngăn lại bởi giác mạc. Ánh sáng có mật độ tia cực tím cao có thể gây  tổn hại võng mạc, vì vậy TTT nhân tạo được thiết kế để ngăn chặn những   tia cực tím này [1]. Trên những người không có TTT (do nhiều nguyên nhân  khác nhau), tia cực tím sẽ đi vào nhãn cầu giống các ánh sáng có bước sóng  dài hơn như  ánh sáng trắng, do vậy gây tổn hại cho các cấu trúc nội nhãn  [2]. 1.1.2. Khe thể mi 1.1.2.1. Thể mi Thể  mi chạy vòng quanh mặt trong nhãn cầu và có hình tam giác  ở  mặt cắt ngang. Cạnh trước của thể  mi là cựa củng mạc, nằm lui về  phía  sau vùng rìa khoảng 1,5mm  ở kinh tuyến ngang và 2mm ở  kinh tuyến dọc.  Nơi tận hết của thể mi tiếp nối với vùng ora serrata, cách vùng rìa 7,5­8mm  phía thái dương, 6,5 ­ 7mm phía mũi, 7mm phía dưới và phía trên. Đây cũng   gần tương ứng với vị trí bám của các cơ  trực. Ở phía trước và phía ngoài,  thể mi tạo nên phần sau của góc tiền phòng. Mống mắt bám vào mặt trước   và trong của thể  mi.  Ở  phía trong, thể  mi nằm tự  do và hơi  ở  phía trước  xích đạo thể  thủy tinh.  Ở  phía ngoài, nó liền kề  với củng mạc với sự  có  mặt của khoang thượng hắc mạc ngăn cách giữa 2 cấu trúc này. Mặt trong  của thể mi tiếp xúc với dịch kính. Khoang trống được tạo bởi mặt sau của   mống mắt và mặt trước trong chỗ  lồi ra của tua thể mi được gọi là rãnh   thể mi, hơi hướng ra trước. 1.1.2.2. Khe thể mi Khe thể  mi được tạo nên bởi mặt sau chân mống mắt từ  vị  trí xuất   phát  ở  thể  mi. Khe này được giới hạn  ở  phía sau bởi các tua thể  mi và  ở 
  6. 6 phía trong bởi dây chằng Zinn và hai mặt của thể thủy tinh ở vị trí xích đạo  [3]. Các yếu tố  giải phẫu này làm cho khe thể  mi trở  thành một vị  trí phù   hợp để  đặt càng của thể thủy tinh nhân tạo. Cho dù vị  trí lý tưởng để  đặt   thể thủy tinh nhân tạo là trong túi bao, nhưng điều này không thể thực hiện   được nếu nhãn cầu không còn cấu trúc bao hoặc hệ thống dây chằng Zinn   tổn thương rộng, không đủ  chắc chắn để  nâng đỡ  thể  thủy tinh nhân tạo,  ví dụ như trong hội chứng giả bong bao.  Hình 1.2. Giải phẫu khe thể mi[4] Năm 1993, Orgul S.I và cộng sự đã sử dụng siêu âm xác định chính xác  ranh giới khe thể mi trên mắt tử  thi, nghiên cứu được thực hiện trên tổng   số  44  mắt, kết   quả  thu  được  ghi  nhận trục nhãn  cầu trung bình  trong   nghiên cứu là 22,87 ± 0,86mm, đường kính khe thể  mi dao động 10,56 –   11,90 mm, trong đó đường kính trung bình khe thể mi tại kinh tuyến ngang  là 11,08 ± 0,37mm, kinh tuyến đứng 11,39 ± 0,42mm, sự khác biệt không có  ý nghĩa thống kê. Chiều dài trục nhãn cầu có tương quan tuyến tính thuận  với đường kính khe thể mi. Đường kính thể mi rất dao động phù hợp nhiều   nhóm kích thước nhãn cầu khác nhau, nhãn cầu có trục ngắn hơn thì đường  kính thể mi nhỏ hơn [4].  Blum và cộng sự  (1997) đã nghiên cứu sự  thay đổi giải phẫu khe thể  mi liên quan đến tuổi trên nhóm 64 mắt tử thi của người từ 40 đến 80 tuổi. 
  7. 7 Kết quả nghiên cứu cho thấy những đường kính đo được từ bên ngoài nhãn  cầu không có tương quan với độ tuổi. Ngược lại, theo tuổi kích thước thể  thủy tinh tăng dần và đường kính khe thể  mi giảm dần  ở  các kinh tuyến.   Cụ   thể   đường   kính   đứng   giảm   từ   12,02   ±   0,12mm   xuống   còn   10,71   ±  0,91mm; đường kính ngang giảm từ  11,36 ± 0,21mm xuống còn 10,33 ±  0,67mm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở tất cả các nhóm tuổi. Nhóm tác  giả đi đến kết luận ngoài hiểu biết đã được ghi nhận về sự khác biệt giữa   đường kính kinh tuyến đứng và kinh tuyến ngang thì tuổi cũng là một yếu   tố cần cân nhắc để lựa chọn thể thủy tinh nhân tạo có kích thước phù hợp  khi thực hiện phẫu thuật cố định thể thủy tinh nhân tạo vào củng mạc [5]. Để xác định mối tương quan giữa khoảng cách vùng rìa củng giác mạc  với đường kính tiền phòng và đường kính khe thể  mi trên những mắt còn   thể thủy tinh, Werner L và cộng sự (2004) đo các chỉ số trên 22 mắt tử thi ở  kinh tuyến 6­12 giờ (nhóm 1) và 3­9 giờ (nhóm 2). Kết quả cho thấy có mối   tương quan tuyến tính chặt chẽ giữa khoảng cách vùng rìa củng giác mạc  và đường kính tiền phòng ở nhóm 1 (kinh tuyến 6­12 giờ), nhưng không có  liên quan tuyến tính  ở  nhóm 2 (kinh tuyến 3­9 giờ). Hơn nữa không tìm ra  mối liên quan giữa khoảng cách vùng rìa và đường kính thể  mi  ở  cả  hai   kinh tuyến. Từ  đó các tác giả  đi đến kết luận rằng việc  ước lượng kích  thước khe thể mi thông qua đo rìa củng mạc là không đầy đủ vì chỉ với kích  thước vùng rìa đơn độc thì không đủ để tính toán kích thước khe thể mi [6]. Rãnh thể  mi là một vùng vô mạch và khi càng thể  thủy tinh nhân tạo  tựa vào đây thì thường  ổn định tại vị  trí này do cấu trúc vòng quanh mặt  trong nhãn cầu của rãnh. Duffey và cộng sự (1989) khi nghiên cứu cấu trúc  giải phẫu trên mắt của tử thi đã cho thấy khoảng cách trung bình giữa rãnh  thể mi so với vùng rìa giác mạc khoảng 0,94mm tính theo kinh tuyến đứng 
  8. 8 và 0,5mm tính theo kinh tuyến ngang [7]. Kết quả  này được khẳng định trong một nghiên cứu được thực hiện  bởi Kim KH và cộng sự  (2008). Tác giả  sử  dụng máy siêu âm sinh hiển vi   (UBM) với độ  phân giải cao để  nghiên cứu mối tương quan giữa đường  kính khe thể  mi với các số  đo sinh học khác nhau của nhãn cầu như  độ  cong giác mạc, khoảng cách rìa củng mạc, độ  sâu tiền phòng trên 34 mắt   của 17 người bình thường không mắc các bệnh về mắt. Kết quả cho thấy   đường kính khe thể mi trung bình có tương quan tuyến tính nghịch chặt chẽ  với   độ   cong   giác   m ạc   (r = ­0,865), trong khi đó độ sâu tiền phòng có tương quan tuyến tính thuận  nhưng không chặt chẽ, còn khoảng cách rìa củng mạc lại không có tương  quan tuyến tính với đường kính khe thể mi [8]. Davis RM và cộng sự (1991) thực hiện một nghiên cứu trên mắt tử thi,   đo được đường kính khe thể  mi trung bình là 11 ± 0.37 mm, hơi nhỏ  hơn   đường kính giác mạc trung bình (11.32 ± 0.29 mm) trên cùng những mắt đó.  Các tác giả  đo được khoảng cách từ  khe thể  mi đến vùng rìa giác mạc  ở  thành ngoài nhãn cầu khoảng 0,9mm, chỉ số này rất có ý nghĩa trong phẫu   thuật cố định TTTNT vào củng mạc [9]. Sự  không đồng đều của vùng khe thể  mi cũng được nhắc đến, đặc   biệt sự  hẹp lại của khe thể mi  ở một số vị trí nhất định là do sự  cuộn lại  của các tua thể mi về phía mặt sau mống mắt [ 10, 11]. Điều này có thể có  nguồn gốc từ sự phát triển không hoàn toàn của các tua thể mi từ ngoại vi   mống mắt và có thể  khiến càng TTT nhân tạo bị  lạc chỗ, gây ra thủng   mống mắt hoặc tổn thương thể  mi trong quá trình phẫu thuật. Những lo  ngại này đã dẫn đến quyết định dùng TTT nhân tạo với tổng đường kính  nhỏ hơn để tránh gây tổn thương màng bồ đào, thậm chí tắc mạch.
  9. 9 1.1.2.3. Mô bệnh học khe thể mi sau phẫu thuật Năm 1981, Hoffer K.J là người đầu tiên tiến hành nghiên cứu về giải   phẫu bệnh học vùng khe thể mi được cài đặt thể  thủy tinh nhân tạo cứng  có càng hình chữ J đã tồn tại 11 tháng trên mắt của một tử thi sau 5 giờ bị  tử vong không rõ nguyên nhân nhằm phản bác những quan điểm mà các tác   giả có chủ trương đặt thể thủy tinh nhân tạo trong túi bao cho rằng đặt thể  thủy tinh nhân tạo vào khe thể mi có thể gây biến chứng về nhãn áp kéo dài  do càng cứng tựa trên một mô là màng bồ  đào dễ  nhạy cảm. Kết quả cho   thấy khe thể mi nơi mà càng thể thủy tinh nhân tạo được tựa lên cũng như  những vùng còn lại như  mống mắt, chân mống mắt, nếp thể  mi, biểu mô  sắc tố  màng bồ  đào, không thấy sự  thay đổi về  cấu trúc cũng như  những  vùng liên quan xa như  góc tiền phòng, giác mạc, võng mạc,thị  thần kinh,   đều không tìm thấy một bằng chứng nào về  những phản ứng viêm nhiễm   cấp và mãn tính hay bất cứ một bất thường nào về  giải phẫu có liên quan  đến vị trí của càng đã tồn tại suốt 1 1 tháng sau phẫu thuật. T ừ nghiên cứu  này, tác giả  đã đưa ra những nhận xét việc đặt thể  thủy tinh nhân tạo  hậu phòng mà càng nằm trong khe th ể  mi là an toàn và dễ  dàng hơn so  với vị  trí trong túi bao đối với những trường hợp khó có thể  thực hiện  được những thao tác đặt đượ c trong túi bao khi đồng tử không giãn, hoặc  dây Zinn bị  đứt nhiều, hoặc những mắt không còn cấu trúc bao sau. Tác  giả  còn cho rằng khi mà toàn bộ  thể  thủy tinh nhân tạo đượ c nằm trong   một bao mạch vùng khe thể  mi có thể  là điều có lợi nếu tất cả  các thao  tác trong lúc phẫu thuật hoàn toàn không gặp phải bất kỳ  một trắc tr ở  nào [12  ],[13  ]. Tương tự, Reynolds J.D (1882), Lubniewski A.J (1990) khi nghiên cứu  mô bệnh học trên mắt tử  thi của bệnh nhân được đặt thể  thủy tinh nhân 
  10. 10 tạo hậu phòng có càng nằm  ở  khe thể  mi nhận thấy không có hiện tượng  viêm ở vùng mống mắt thể mi, cũng như hiện tượng xơ hoá tăng sinh xung  quanh càng và biến dạng mống mắt thể mi [14]. 1.1.3. Đặc điểm mắt mất thể  thủy tinh và mất cấu trúc bao sau của   thể thủy tinh do các nguyên nhân 1.1.3.1 Đặc điểm chung mắt mất thể thủy tinh và mất cấu trúc bao sau   của thể thủy tinh ­ Viễn thị cao: khi mắt không còn TTT, lực khúc xạ còn lại của mắt  chỉ còn lại lực khúc xạ của giác mạc, khi đó mắt sẽ bị viễn thị rất cao ­ Mất khả  năng điều tiết: khả  năng điều tiết của mắt nhờ  vào sự  biến đổi độ  cong của hai mặt bao trước, sau của TTT để  nhìn rõ vật, khi   không còn TTT, mắt sẽ mất khả năng này. ­ TTT có vai trò như một phim lọc các tia ngoại tím, các tia hồng ngoại,  khi không có TTT mắt sẽ  có rối loạn về  màu sắt, thường nghiêng về  màu   tím[1]. ­ Loạn thị: thường là hậu quả  của phẫu thuật lấy TTT, tổn thương   sẹo giác mạc sau chấn thương. ­ Biến đổi hình ảnh của võng mạc: Do một mắt có TTT, mắt kia không  có TTT nên độ  phóng đại của hình  ảnh sẽ  khác nhau giữa hai mắt, do vậy  hình ảnh trên võng mạc của hai mắt sẽ khác nhau và sẽ không còn thị giác hai  mắt. - Trên những bệnh nhân đã phẫu thuật lấy TTT, tua mi có xu hướng co   lại và xoay về phía trước nên rãnh thể mi thường hẹp lại. Khi nhãn cầu mở  hoặc nhãn áp thấp, rãnh thể mi thường bị xẹp, các tua mi tiếp xúc trực tiếp   với mặt sau mống mắt. Thậm chí khi kim đã xuyên chính xác nào rãnh thì 
  11. 11 khả năng xuyên qua tua mi cũng rất cao. Khi đặt chỉ cố định TTT nhân tạo,   để  TTT nhân tạo sau phẫu thuật nằm trong rãnh thể  mi, quá trình đặt chỉ  phải được thực hiện khi nhãn cầu phải hoàn toàn kín và phải sử dụng TTT   nhân tạo có kính thước phù hợp. Nghiên cứu của Althaus và cộng sự đã chỉ  ra TTT nhân tạo với đường kính 12mm, thường có vị  trí ổn định hơn TTT  nhân tạo đường kính 13,5mm. TTT nhân tạo có càng cứng, kích thước rộng  thường đẩy tựa vào rãnh thể mi nên có thể gây lệch TTT nhân tạo [15]. 1.1.3.2. Nguyên nhân gây mất thể thủy tinh và mất cấu trúc bao sau ­ Chấn thương Thể thủy tinh có thể bị chấn thương dưới tác động lực của rất nhiều   nguyên nhân khác nhau như nguyên nhân vật lý, điện, nhiệt, hóa chất. Chấn  thương đụng dập và chấn thương xuyên là hai nguyên nhân chấn thương   chính gây tổn thương bao TTT dẫn đến hậu quả không chỉ đục TTT mà còn  có những phản  ứng kèm theo như  phản  ứng chất nhân gây viêm màng bồ  đào, thậm chí gây tăng nhãn áp. Nhiều nghiên cứu đã chỉ  ra rằng chấn   thương đụng dập là nguyên nhân chủ yếu gây tổn thương bao TTT [16]. Trong chấn thương xuyên, bao TTT thường bị tổn thương do tác động  trực tiếp của vật gây chấn thương [17]. Ngoài ra vết thương xuyên nhãn  cầu làm liên thông môi trường mắt với bên ngoài gây hiện tượng phòi các   tổ chức nội nhãn, rối loạn các môi trường trong suốt, đặc biệt tạo nên các   sẹo giác mạc gây  ảnh hưởng đến trục thị  giác, phá hủy các cấu trúc nội   nhãn, tổn thương mống mắt  ảnh hưởng đến đồng tử méo, giãn ảnh hưởng  đến thị  lực, hoặc gây nhiễm khuẩn càng làm trầm trọng hơn tổn thương   bao sau. Dù chấn thương bao sau TTT do nguyên nhân chấn thương đụng dập  hay chấn thương xuyên thì sau chấn thương bao rách càng ngày càng có xu 
  12. 12 hướng mở rộng do sự co kéo của dây Zinn, của tổ chức nội nhãn cũng như  sự  chun giãn của bản thân bao TTT, hơn nữa vết rách bao TTT còn có xu  hướng rách rộng hơn nữa trong quá trình phẫu thuật gây thoát dịch kính.  Như vậy việc đặt TTT nhân tạo có thể gặp vấn đề do cấu trúc bao không   đủ khả năng đỡ TTT nhân tạo [18]. ­ Biến chứng của phẫu thuật đục thể thủy tinh Trong phẫu thuật lấy TTT trong bao phẫu thuật viên lấy toàn bộ TTT   đục do vậy mắt sau phẫu thuật không còn cấu trúc bao sau. Cũng như vậy  trong phẫu thuật lấy TTT đục ngoài bao, bao TTT có thể mất hoàn toàn do   tác động lực trực tiếp trong quá trình phẫu thuật hoặc do bệnh lý đục cực  sau của TTT [19]. Bao sau TTT có thể  bị  rách trong bất kỳ  giai đoạn nào  của quá trình phẫu thuật TTT  đục bằng phương pháp tán nhuyễn nhân  TTT.  ­ Bệnh đục thể thủy tinh bẩm sinh, bệnh yếu dây Zinn Nguyên nhân hay gặp những bệnh có tính chất di truyền gây yếu dây  Zinn dẫn đến lệch TTT như  hội chứng Marfan, có tính chất gia đình, hội  chứng lệch TTT vô căn, hội chứng homocystin niệu, rất may mắn các hội  chứng này có tỷ  lệ  mắc thấp. Một nguyên nhân thương gặp gây yếu dây  Zinn đó là hội chứng giả bong bao, tỷ lệ chính xác của bệnh này còn chưa  được biết [20]. Nhiều nguyên nhân khác cũng có thể gây yếu dây Zinn như viêm màng  bồ đào mãn tính, đục TTT quá chín, lồi mắt trâu do bệnh glôcôm bẩm sinh,   cận thị  cao. Ngoài ra, bơm dầu silicone nội nhãn lâu ngày cũng có thể  làm  thoái hóa dây Zinn [21]. 1.2. Ứng dụng đèn soi nội nhãn trong nhãn khoa 1.2.1. Lịch sử đèn soi nội nhãn
  13. 13 Từ  những năm đầu thế  kỷ  20, các phẫu thuật viên đã sử  dụng các   phương tiện có hình ảnh trong phẫu thuật nhãn khoa. Năm 1934, Thorpe sử  dụng ống kính Galilean để lấy dị vật trong nội nhãn bằng panh với đường  mở nhãn cầu khoảng 6mm [22]. Năm 1981, Norris và Cleaseby sử dụng hình  ảnh đem lại từ đũa thủy tinh đường kính 1,7mm trong phẫu thuật cắt dịch   kính, lấy dị vật nội nhãn và làm sinh thiết nội nhãn [23]. Tiếp theo sự ra đời của đầu laser nội nhãn xuyên qua củng mạc, năm  1985 Shield chế  tạo đầu laser nội nhãn với đũa thủy tinh có đường kính  1,7mm cho mục đích laser thể  mi trên những bệnh nhân bị  glôcôm nguyên  phát. Sự sáng chế các loại đầu đèn soi nội nhãn mềm và cứng được các tác   giả sáng chế trong 6 năm tiếp theo. Năm 1990, bác sỹ Leon công bố những   hình  ảnh  ứng dụng đèn soi nội nhãn trong phẫu thuật nhãn khoa vi phẫu  cũng như  ứng dụng của đèn soi nội nhãn trong phẫu thuật bán phần trước  và bán phần sau nhãn cầu [24]. Năm 1991, sự ra đời của đầu laser nội nhãn 20G (0,89mm đường kính  đánh dấu bước đột phá, sự phát triển kết hợp đèn soi nội nhãn và laser nội  nhãn đã mở rộng ứng dụng của phẫu thuật nội soi nhãn cầu [25]. Ngày nay,  những tiến bộ trong phát triển hệ thống quang học đã giải quyết được vấn  đề  liên quan đến kích thước của đầu đèn soi nội nhãn, hình ảnh nội nhãn   với chất lượng tốt, độ phân giải cao được ghi lại với đầu đèn soi nội nhãn  có đường kính nhỏ hơn 1mm. Sự tích hợp laser trong cùng một đường dẫn  của đèn nội soi nhãn càng làm tăng tính ứng dụng của thiết bị này, cho phép   phát triển những phẫu thuật mới, an toàn, hiệu quả.  Năm 2011, đèn soi nội nhãn 23 gauge đã được thiết kế để phù hợp với  troca 23 gauge. Thiết bị này cho độ  phân giải 6000 pixels với trường quan   sát 90 độ và nguồn sáng Xenon 300 Watt [26]. 1.2.2. Ứng dụng của đèn nội soi nhãn
  14. 14 1.2.2.1. Chỉ định của đèn soi nội nhãn * Bệnh lý cần can thiệp bán phần sau nhãn cầu có kè các tổn thương cản   trở sự quan sát bằng thấu kính hiển vi không tiếp xúc[27].  + Phù giác mạc, đục giác mạc + Các tổn thương liên quan giác mạc, mống măt, tiền phòng: dính  mống mắt, hội chứng giác mạc, mống mắt, xuất huyết tiền phòng + Mắt đã phẫu thuật đặt thể  thủy tinh nhân tạo nhân tạo kẹt mống   mắt, các biến đổi do thể thủy tinh nhân tạo. + Các bệnh lý thể  thủy tinh: đục thể  thủy tinh, đục dưới bao sau thể  thủy tinh do cortisone + Các bất thường trong phẫu thuật: Khí trong tiền phòng, lệch thể  thủy tinh, lệch thể thủy tinh nhân tạo. * Điều trị các bệnh lý nhãn cầu  + Bong võng mạc nguyên phát có rách võng mạc chu biên Trong bong võng mạc nguyên phát, một yếu tố dẫn đến thất bại sau  phẫu thuật là không phát hiện hết các vết rách võng mạc trước phẫu  thuật, vết rách nhỏ  khu trú  ở  võng mạc chu biên thường khó phát hiện,  việc sử dụng đèn soi nội nhãn cho phép phẫu thuật viên quan sát toàn bộ  võng mạc để phát hiện những vết rách võng mạc chu biên, góp phần tăng  tỷ lệ thành công sau phẫu thuật. + Chấn thương Trong  những  chấn  thương  xuyên   nặng,   đèn   soi  nội  nhãn  cho  phép  phẫu thuật viên qua sát các cấu trúc nội nhãn, mặc dù môi trường nội nhãn   bị cản trở quan sát bởi rất nhiều các yếu tố như  xuất huyết dịch kính, tổn  thương giác mạc… Đèn soi nội nhãn giúp phát hiện và xử  trí hết các vết  thương võng mạc nặng do chấn thương [28], [29].
  15. 15 + Viêm nội nhãn. Trong viêm nội nhãn, cắt dịch kính sử  dụng đèn soi nội nhãn là chỉ  định bắt buộc. Đồng tử nhỏ, dính đồng tử, các tổn thương, các tế bào viêm  lắng đọng vào mặt sau giác mạc gây mờ  đục giác mạc, dính mống mắt,   viêm mủ TTT là các yếu tố mà phẫu thuât viên bắt buộc phải sử dụng đèn  soi nội nhãn để giảm thiểu các biến chứng trong phẫu thuật [28], [30]. + Chấn thương rách củng mạc có kẹt dịch kính. Khi bong võng mạc mà có kẹt dịch kính hoặc kẹt võng mạc vào vết   rách củng mạc do chấn thương hoặc trocar, việc  ấn củng mạc để quan sát   kỹ tổn thương qua sinh hiển vi là rất nguy hiểm. Trong những trường hợp   này giải phóng dịch kính hoặc võng mạc bị  kẹt dưới  đèn soi nội nhãn   không cần ấn độn củng mạc giúp cho phẫu thuật an toàn [28], [29]. + Giác mạc nhỏ Giác mạc nhỏ là một bất thường có tính chất di truyền của nhãn cầu,  trong những trường hợp sẹo giác mạc, đèn soi nội nhãn có lợi cho phẫu   thuật viên có thể  quan sát của các tổn thương cấu trúc nội nhãn như  bong  võng mạc. + Không có thể thủy tinh, lệch thể hủy tinh nhân tạo Trên những mắt không còn cấu trúc bao sau và TTT, mắt bị lệch TTT   nhân tạo, phẫu thuật cố định TTT nhân tạo tại rãnh thể mi là một lựa chọn   tối  ưu. Đèn soi nội nhãn cung cấp hình  ảnh chi tiết rãnh thể  mi, cho phép   phẫu thuật viên xác định chính xác vị trí đặt chỉ để cố định càng TTT nhân  tạo, tăng khả  năng thành công phẫu thuật, giảm thiểu các biến chứng, tối  ưu hóa thị lực cho bệnh nhân. + Glôcôm khó điều trị Glôcôm   khó   điều   trị   có   thể   gặp   nhiều   hình   thái   như   glôcôm   tân  mạch, glôcôm đã phẫu thuật nhiều lần, glôcôm sau chấn thương hoặc sau  các phẫu thuật nội nhãn mà nhãn áp không điều chỉnh cần được laser quang  
  16. 16 đông thể mi để làm giảm tiết thủy dịch, hạ nhãn áp. Phẫu thuật này có thể  được thực hiện bằng laser Diode quang đông thể  mi hoặc laser nội nhãn.  Trong trường hợp này phẫu thuật viên quan sát rõ ràng các tua thể mi, chùm  dẫn tia laser và hiệu  ứng laser trên các tua thể  mi. Do vậy có thể  định  lượng liều điều trị  phù hợp cho phép đạt hiệu quả  hạ  nhãn áp đến mức  mong muốn [31],[32]. 1.2.2.1.  Ứng dụng đèn soi nội nhãn trong cố  định thể  thủy tinh nhân tạo   thành củng mạc Đèn soi nội nhãn được ứng dụng trong phẫu thuật bán phần sau nhờ 2   ưu điểm: Thứ nhất, thiết bị này cho phép quan sát bán phần sau khi có bất   thường  ở  bán phần trước gây che lấp tầm nhìn phía sau như  sẹo đục giác  mạc, xuất huyết tiền phòng, co đồng tử, đục thủy tinh thể  hay đục bao  thủy tinh thể… Thứ hai là đèn soi nội nhãn có khả  năng quan sát được các  cấu trúc nội nhãn mà các thiết bị khác không làm được, như mặt sau mống  mắt, rãnh thể mi, thể mi, vùng pars plana và võng mạc ở ngoại vi xa [33]. Rãnh thể  mi là vùng phía trong của mắt giới hạn nằm gi ữa phía sau  của mống mắt và vùng pars plicata. Rãnh thể mi là một vùng vô mạch và  khi càng TTT nhân tạo tựa vào đây thì TTT nhân tạo thường  ổn định tại   vị   trí   này   do   cấu   trúc   hình   vòng   quanh   mặt   trong   nhãn   cầu   của   rãnh.  Duffey và cộng sự (1989) khi nghiên cứu cấu trúc giải phẫu trên mắt của  tử  thi đã cho thấy khoảng cách trung bình giữa rãnh thể  mi so với vùng  rìa giác mạc khoảng 0,94mm tính theo kinh tuyến  đứng và 0,5mm tính  theo kinh tuyến ngang [ 34  ], [35  ].  Trong phương pháp cố định TTT nhân tạo thành củng mạc sử dụng kỹ  thuật xuyên kim từ  ngoài nhãn cầu vào trong nhãn cầu, việc xuyên kim  đúng rãnh thể  mi phụ  thuộc rất nhiều vào vị  trí lựa chọn khi xuyên kim.  Ngoài sự  lựa chọn khoảng cách tính từ  vùng rìa, độ  nghiêng của kim khi  chọc vào nội nhãn, biến đổi giải phẫu trên những mắt đã lấy TTT cũng 
  17. 17 đóng vai trò quan trọng trong việc đặt được chính xác kim vào rãnh thể mi  hay không.  Belluci và cộng sự  (1995) sử  dụng siêu âm bán phần trước đánh giá vị  trí càng TTT nhân tạo sau phẫu thuật trên 18 mắt của 12 bệnh nhân cho thấy,  trong số 18 càng TTT nhân tạo với vị trí đặt chỉ cố định từ 2­3mm sau vùng  rìa thì có 16 càng có vị trí ở  sau rãnh thể mi [36], [37], khi vị trí chỉ cố  định  giảm bớt khoảng cách so với vùng rìa từ 1,5­2mm, có 6 càng TTT nhân tạo  trong rãnh thể  mi, 6 càng TTT có vị  trí  ở  pars plana. Điều này cho thấy sự  khó khăn trong lựa chọn vị trí xuyên kim từ phía ngoài nhãn cầu để đúng rãnh   thể mi.  Horiguchi và cộng sự (1993) sử dụng nguồn sáng soi nội nhãn để quan  sát vị  trí của rãnh thể  mi. Nguồn sáng được đưa vào trong mắt qua đường   vào vùng pars plana hoặc qua đường rạch giác mạc rìa, tác giả quan sát rãnh  thể mi thông qua vùng sáng xuất hiện gần vùng rìa trên nền tối của thể mi   [38]. Sau khi xác định được vị  trí rãnh thể  mi, phẫu thuật viên mới xuyên   kim từ  ngoài nhãn cầu vào trong nhãn cầu để  cố  định càng TTT nhân tạo.  Như vậy mới có thể  đảm bảo phần nào càng TTT nhân tạo sẽ  nằm trong   khe thể mi. Đèn soi nội nhãn là một phát minh quan trọng trong lĩnh vực nhãn  khoa. Trong phẫu thuật cố định TTT nhân tạo vào thành củng mạc để điều  trị những mắt không còn thể thủy tinh và cấu trúc bao sau, đèn soi nội nhãn  cho phép quan sát rõ rãnh thể mi, giúp đặt chỉ chính xác vào vị trí này. Tuy   nhiên phẫu thuật này đòi hỏi phải có đầy đủ phương tiện, phẫu thuật viên  phải có kinh nghiệm do đây là một kỹ  thuật khó, đòi hỏi phẫu thuật viên   phải sử dụng hai tay trong quá trình phẫu thuật. Đèn soi nội nhãn cầu có sự kết hợp giữa nguồn sáng và ống kính trong  cùng một đường dẫn do vậy phẫu thuật viên có thể  quan sát được tất cả  các cấu trúc nội nhãn trong quầng ánh sáng chiếu được [39, 40]. Do vậy, 
  18. 18 đèn soi nội nhãn cho phép phẫu thuật viên có thể quan sát các phần cấu trúc   nội nhãn mà không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như sẹo giác mạc, sự  cản trở của bờ thể thủy tinh nhân tạo, đục bao thể thủy tinh, đục dịch kính,  giúp phẫu thuật viên tiếp tục phẫu thuật một cách linh hoạt, chính xác và   an toàn. Tuy nhiên kỹ  thuật sử  dụng đèn soi nội nhãn không dễ  dàng để  thực hiện, trừ khi phẫu thuật viên đã thành thạo việc sử  dụng đèn soi nội   nhãn để  quan sát võng mạc, lúc này phẫu thuật viên có thể  quan sát được  những vùng mong muốn. Ví dụ, phẫu thuật bóc màng trước võng mạc sử  dụng đèn soi nội nhãn có thể gặp khó khăn vì không có hình ảnh nổi. Phẫu   thuật viên phải có cảm giác tốt về  vị  trí chính xác của các dụng cụ  trong   mắt. Khả năng này chỉ có được khi đã có nền tảng cơ bản về lý thuyết và   thực hành lâm sàng tốt. Trên thực tế, rất nhiều tình huống đòi hỏi phẫu thuật viên phải quan  sát được những gì đang diễn ra xung quanh vị trí mình đang thao tác, hơn là  chỉ  tập trung một phẫu trường nhỏ  với hình  ảnh nổi. Trừ  những phẫu  thuật đơn giản được thực hiện trong thời gian ngắn, những phẫu thuật kéo  dài thường dẫn đến sự  mờ  đục của các môi trường trong suốt làm giảm   chất lượng của hình  ảnh 3 chiều. Trong trường hợp này, hệ  thống quang  học không tiếp xúc với trường quan sát rộng không làm tăng chất lượng  hình  ảnh 3 chiều. Bên cạnh đó, hệ  thống quan sát sử  dụng thấu kính tiếp  xúc cồng kềnh và khó sử dụng hơn. Những thao tác được thực hiện ở võng   mạc chu biên, đặc biệt khi đồng tử giãn không tốt hoặc đồng tử co nhỏ thì  ít có khả  năng có được hình  ảnh 3 chiều với hệ  thống sinh hiển vi phẫu   thuật.
  19. 19 Hình 1.3. Hình ảnh thể mi và khe thể mi dưới đèn soi nội nhãn [40] * Sử dụng đèn soi nội nhãn trong cố định thể thủy tinh nhân tạo vào rãnh thể   mi. Những tiến bộ của đèn soi nội nhãn trong những năm của thập kỷ 90   đã cho phép phẫu thuật viên quan sát được những vùng không quan sát   được nằm phía sau mống mắt đặc biệt vùng rãnh thể mi, đánh giá một cách  chính xác những nguyên nhân dẫn đến lệch TTT nhân tạo sau phẫu thuật.  Năm 2009, Carvalho và cộng sự công bố kỹ thuật sử dụng đèn soi nội nhãn  trong   phẫu   thuật   cố   định   TTTNT   vào   thành   củng   mạc   (Finger   Crafted  Technique). Trong kỹ thuật, một tay phẫu thuật viên cầm đèn soi nội nhãn  quan sát rãnh thể mi, tay kia dùng kim xuyên qua củng mạc sát rìa vào nhãn   cầu tại rãnh thể  mi, đèn soi nội nhãn cho phép phẫu thuật viên biết chính  xác kim có xuyên qua đúng rãnh thể mi hay không, đồng thời kiểm soát tốt  các biến chứng có thể  xảy ra trong phẫu thuật như  xuất huyết, bong hắc   mạc [41].
  20. 20 Hình 1.4: Xuyên chỉ qua kim 30G và đầu nội soi vào nhãn cầu [41] Hình 1.5: Các bước dấu nút chỉ cố định trong lòng củng mạc[41] 1.3.   Các   phương   pháp   điều   trị   bệnh   nhân   không   có   thể   thủy   tinh  không còn cấu trúc bao sau Có rất nhiều phương pháp phẫu thuật đặt thể  thủy tinh nhân tạo trên  những mắt không có thủy tinh thể không còn cấu trúc bao sau như: đặt thể  thủy tinh  nhân tạo tiền phòng, thể  thủy tinh nhân tạo tựa góc tiền phòng, 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2