intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser điều trị glôcôm góc mở nguyên phát

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:167

12
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Y học "Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser điều trị glôcôm góc mở nguyên phát" trình bày đánh giá kết quả điều trị của phương pháp tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser trên người bệnh glôcôm góc mở nguyên phát tại khoa Glôcôm, bệnh viện Mắt trung ương; Phân tích các yếu tố liên quan đến kết quả của điều trị tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu ứng dụng phương pháp tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser điều trị glôcôm góc mở nguyên phát

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ  ĐÀO TẠO                                          BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI TRẦN MINH HÀ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP  TẠO HÌNH VÙNG BÈ CHỌN LỌC BẰNG LASER  ĐIỀU TRỊ GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
  2. HÀ NỘI – 2022 BỘ GIÁO DỤC VÀ  ĐÀO TẠO                                        BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI ======== TRẦN MINH HÀ NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP  TẠO HÌNH VÙNG BÈ CHỌN LỌC BẰNG LASER  ĐIỀU TRỊ GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT Chuyên ngành : Nhãn khoa Mã số : 9720157 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐÀO THỊ LÂM HƯỜNG
  3. HÀ NỘI ­ 2022 LỜI CAM ĐOAN Tôi là Trần Minh Hà, Nghiên cứu sinh khóa 34 chuyên ngành Nhãn khoa,   Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan: 1. Đây là luận án do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự  hướng  dẫn của PGS.TS. Đào Thị Lâm Hường. 2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ  nghiên cứu nào khác đã được   công bố tại Việt Nam. 3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực  và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về  những cam kết  này. Hà Nội, ngày      tháng     năm 2022 Người viết cam đoan Trần Minh Hà
  4. CÁC CHỮ VIẾT TẮT ALT Tạo hình vùng bè bằng laser argon  C/D Tỷ lệ lõm đĩa của đầu thị thần kinh MD Chỉ số độ lệch trung bình trên thị trường NA Nhãn áp NATB Nhãn áp trung bình Nghiên cứu LiGHT Nghiên cứu về tạo hình vùng bè chọn lọc bằng  laser trong điều trị nhãn áp cao đơn thuần và  glôcôm góc mở nguyên phát (Laser in Glaucoma  and Ocular Hypertension trial­ LiGHT study) OCT Chụp cắt lớp quang học  (Optical Coherence Tomography) PSD Chỉ số độ lệch khu trú trên thị trường SLT Tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser  (Selective laser trabeculoplasty)
  5. MỤC LỤC
  6. DANH MỤC BẢNG
  7. DANH MỤC BIỂU ĐỒ
  8. DANH MỤC HÌNH
  9. ĐẶT VẤN ĐỀ Glôcôm góc mở  nguyên phát là một bệnh lý của thần kinh thị  giác,  tiến triển mạn tính, đặc trưng bởi sự  mất dần các tế  bào hạch võng mạc,   biểu hiện bằng teo lõm đĩa thị giác, tổn hại thị trường đặc hiệu và thường  liên quan đến một tình trạng nhãn áp cao.1  Ở  Việt Nam, theo nghiên cứu  của tác giả  Đỗ  Thị  Thái Hà năm 2002, tỷ  lệ  glôcôm góc mở  nguyên phát   ước tính chiếm khoảng 20,2% số người bệnh bị glôcôm và đang ngày càng  tăng lên do sự tiến bộ của các phương tiện chẩn đoán và phát hiện sớm.2 Lựa chọn đầu  tay  trong việc điều trị  glôcôm góc mở   ở  nước ta và  nhiều nơi trên thế giới hiện nay vẫn là điều trị nội khoa sử dụng thuốc tra  hạ  nhãn áp  tại chỗ. Tuy nhiên điều  trị  thuốc có nhược điểm là giá thành  cao, nhiều tác dụng phụ và đòi hỏi người bệnh phải có sự tuân thủ điều trị  tốt thì mới đạt hiệu quả  tối đa. Phương pháp  tạo hình vùng bè chọn lọc  bằng laser (Selective Laser Trabeculoplasty ­ SLT) được hai tác giả  Latina  và Park giới thiệu lần đầu vào năm 1995.3  Phương pháp này được gọi là  “chọn lọc” vì nó chỉ tác động vào các tế bào sắc tố của vùng bè mà không  gây ra các tổn thương về  cấu trúc khác.  Năm  2001, SLT  được FDA (Cơ  quan quản lý thuốc và thực phẩm của Hoa Kỳ) phê duyệt,  từ  đó phương  pháp này đã trở thành một trong những lựa chọn hiệu quả để điều trị bệnh  glôcôm góc mở. Tác giả Wong và cộng sự (2014) đã phân tích kết quả của   nhiều nghiên cứu và kết luận  SLT  có hiệu quả  tương đương với nhóm  thuốc hạ nhãn áp mạnh nhất là prostaglandin. SLT chỉ cần được thực hiện  một lần và có hiệu quả  kéo dài đến vài năm do đó  giúp người bệnh  tiết  kiệm được chi phí để  mua thuốc tra hạ  nhãn áp hàng ngày. Phương pháp  này cũng rất  an toàn, ít biến chứng. Biến chứng thường gặp nhất là tăng  nhãn áp phản  ứng, phản  ứng viêm tiền phòng, nhức mắt… đều chỉ  ở  mức  
  10. độ  thoáng qua và không  ảnh hưởng đến thị  lực.  Ưu điểm quan trọng nhất   của SLT là khắc phục được vấn đề tuân thủ điều trị của người bệnh do đó  giúp bảo tồn chức năng thị  giác được tốt hơn.4  Với những  ưu điểm nay,  ngày càng có nhiều tác giả ủng hộ việc lựa chọn tạo hình vùng bè chọn lọc   bằng laser là phương pháp điều trị đầu tiên cho người bệnh glôcôm góc mở  nguyên phát. Tại Việt Nam, tháng 12 năm 2014, máy tạo hình vùng bè chọn lọc   bằng laser đầu tiên đã được đưa vào sử dụng tại khoa Glôcôm – Bệnh viện   Mắt Trung ương. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một báo cáo nào đánh  giá kết quả điều trị của phương pháp này trên các người bệnh glôcôm góc  mở  nguyên phát mới được chẩn đoán và chưa từng được điều trị. Đồng  thời, cũng cần có những bằng chứng so sánh giữa SLT với nhóm thuốc tra   hạ  nhãn áp thường được lựa chọn đầu tay là nhóm prostaglandin về  hiệu  quả  và độ  an toàn, từ  đó giúp các bác sĩ đưa ra được chỉ  định điều trị  phù   hợp.  Chính   vì   vậy  chúng   tôi  thực   hiện  đề   tài  “Nghiên   cứu   ứng   dụng  phương pháp tạo hình vùng bè chọn lọc bằng laser điều trị glôcôm góc  mở nguyên phát” với hai mục tiêu sau : 1. Đánh giá kết quả điều trị của phương pháp tạo hình vùng bè chọn   lọc bằng laser trên  người bệnh glôcôm góc mở  nguyên phát tại   khoa Glôcôm, bệnh viện Mắt trung ương. 2. Phân tích các yếu tố  liên quan đến kết quả  của điều trị  tạo hình   vùng bè chọn lọc bằng laser.
  11. Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. Bệnh glôcôm góc mở nguyên phát Glôcôm góc mở  nguyên phát là một tình trạng bệnh lý của thị  thần  kinh, tiến triển mãn tính, có sự tham gia của nhiều yếu tố, đặc trưng bởi sự  chết của các tế  bào hạch võng mạc, biểu hiện bằng tổn hại lớp sợi thần   kinh võng mạc, teo lõm đĩa thị giác và tổn thương thị trường điển hình. Cơ  chế  bệnh sinh của glôcôm góc mở  nguyên phát vẫn chưa thực sự  được  hiểu rõ nhưng thường thấy có sự liên quan với một tình trạng nhãn áp cao,   nguyên nhân là do việc thoát thủy dịch bị cản trở tại các cấu trúc của vùng   bè hoặc hệ thống tĩnh mạch màng bồ đào củng mạc.1  1.1.1. Đặc điểm giải phẫu và sinh lý của góc tiền phòng và vùng bè giác   củng mạc Góc tiền phòng là nơi nối tiếp giữa giác củng mạc phía trước, mống   mắt và thể mi  ở phía sau (còn gọi là góc mống mắt giác mạc). Đây là con  đường lưu thông chính của thủy dịch ra khỏi nhãn cầu.
  12. Hình 1.1: Cấu trúc giải phẫu của bán phần trước nhãn cầu và góc tiền   phòng Nguồn: https://ylamsang.net/tien­phong­va­hau­phong­cua­mat Các thành phần của góc tiền phòng bao gồm: Vòng Schwalbe: là nơi màng Descemet mỏng dần và kết thúc, tiếp  giáp giữa giác mạc và củng mạc, nơi chuyển tiếp giữa tế bào nội mô giác   mạc và tế bào vùng bè. Vùng bè (Trabecular Meshwork): một dải hình lăng trụ tam giác, nằm  trong chiều sâu của rìa củng – giác mạc, nối giữa vòng Schwalbe  ở  phía  trước với cựa củng mạc và đoạn nối giữa mống mắt và thể mi ở phía sau.  Mặt ngoài tiếp giáp với  ống Schlemm còn mặt trong là giới hạn của tiền   phòng. Angelo (2020) đã chỉ  ra rằng vùng bè gồm ba phần có cấu trúc và   chức năng khác nhau, từ trong ra ngoài lần lượt là: bè màng bồ đào, bè giác  – củng mạc (nối với cựa củng mạc) và bè cạnh  ống Schlemm (sát với   lớp tế  bào nội mô của  ống Schlemm, là vùng giàu tế  bào nhất). Các lỗ  của vùng bè càng ở các lớp bên ngoài thì kích thước càng nhỏ.5 
  13. Hình 1.2. Cấu trúc vùng bè củng giác mạc Nguồn: Karim (2010) 6 ­ Vùng bè màng bồ  đào: là phần nằm phía trong nhất của mạng lưới  bè. Bè màng bồ  đào có từ  2­4 lớp cách nhau khoảng 20 µm, tạo nên một  
  14. mạng lưới mà những mắt lưới  ở  đây còn khá thưa và tương đối rộng, từ  20­75 µm, dễ  dàng cho thủy dịch thấm qua. Như  vậy  ở  tình trạng bình   thường vùng này không phải là vị  trí cản trở  lưu thông thủy dịch. Lưới bè   dạng sợi của vùng bè màng bồ  đào trong nối với các sợi cơ  thể  mi  ở  phía  sau và hòa vào màng Descemet và vòng Schwalbe ở phía trước. Theo Ashok  và cộng sự (2006) thì do sự kết nối này mà cơ thể mi co sẽ làm mở các lỗ  bè màng bồ đào.7  ­ Vùng bè giác củng mạc: nằm sâu hơn so với bè màng bồ đào. Bè giác  củng mạc gồm những lá bè xếp chồng lên nhau. Trên những lá bè có những  lỗ  thủng có đường kính từ  2­12 µm. Gong và cộng sự  (1996) cho rằng   khoảng gian bè thay đổi theo áp lực nội nhãn. Ở chỗ tiếp xúc với bè màng  bồ   đào,   chúng   rộng   5­6   µm   nhưng   ở   chỗ   tiếp   xúc   với   bè   cạnh   ống  Schlemm, chúng chỉ  rộng khoảng 2 µm. Thủy dịch đi qua những lỗ  trên lá  bè sau đó qua khe gian bè rồi qua lỗ  của các lá bè khác.  Ở  tình trạng bình  thường, các khe, lỗ này còn tương đối rộng và lớp áo ngoại bào của các tế  bào cho phép thủy dịch thấm qua dễ dàng. Do đó, đây cũng không phải là vị  trí cản trở lưu thông thủy dịch bình thường. Vùng bè này chứa nhiều các tế  bào thực bào, được cho là có thực hiện các hoạt động tổng hợp (tiết ra các   chất nền laminar, collagen và glycosaminoglycans). Trong lớp này còn có  các mô đàn hồi giúp cho các lỗ bè co lại như cũ sau mỗi lần mở rộng.8 ­ Vùng bè cạnh  ống Schlemm: Vùng này còn được gọi là lớp dạng   sàng (cribriform layer). Theo Ethier (1986), lớp này được tạo bởi 2­5 lớp tế  bào bè tương đối biệt hóa, được sắp xếp thành một mạng lưới nhờ những   liên kết giữa chúng. Mạng lưới ngoại bào (extracellular matrix) của các tế  bào vùng bè  ở  vùng này dày đặc. Khuôn ngoại bào này bị gián đoạn và tạo   thành 200­300 lỗ có đường kính 1µm. Những lỗ này là những “đường ưu tiên”  cho thủy dịch đi qua và chúng làm cho vùng này có cấu trúc giống như một cái 
  15. sàng. Thủy dịch có thể chảy qua lỗ giữa các tế  bào để  đến lớp nội mô của  ống Schlemm. Các tác giả  cho rằng phần này đóng vai trò quan trọng trong   việc gây cản trở  đường thoát thủy dịch, do sự  hẹp và quanh co của các lỗ  thoát cũng như sự có mặt của các proteoglycan và glycoprotein ngoại bào. Các  khoảng mở ở vùng này có thể còn chứa các chất dạng gel mà góp phần gây  cản trở việc thoát dịch.9  Ống Schlemm: là  ống nằm trong rãnh củng mạc có dạng hình vòng  song song với chu vi của vùng rìa. Bron (1997) báo cáo cấu trúc của  ống   tương tự mạch máu, tạo nên sự thông giữa khoảng gian bào của vùng bè với  ống và là con đường chủ  yếu để  thủy dịch đi tới hệ  thống mạch củng   mạc.10   Cựa củng mạc: là chỗ nối tiếp giữa củng mạc và giác mạc. Mép sau  của cựa củng mạc tạo thành chỗ bám của các cơ thể mi.   Dải thể mi hay còn gọi là vùng bè màng bồ đào (Uveal meshwork): là  phần thể mi sát với chân mống mắt, thường có màu xám nâu hoặc nâu xẫm. Chức năng chủ  yếu của góc tiền phòng là lưu thông thủy dịch, trong  đó   80%   là   qua   vùng   bè.   Thủy   dịch   đi   qua   mạng   lưới   bè   vào   lòng   ống  Schlemm rồi qua hệ thống ống góp dẫn tới các tĩnh mạch trong củng mạc và   tĩnh mạch thượng củng mạc. Trong trường hợp bệnh lý, sự lưu thông này sẽ  bị cản trở chủ yếu do bất thường  ở các mô cạnh ống Schlemm. Phần thủy   dịch còn lại được thoát qua đường màng bồ  đào – củng mạc. Do không có  hàng rào biểu mô ngăn cách giữa tiền phòng và thể mi nên thủy dịch có thể đi  từ góc tiền phòng qua cơ thể mi đến khoang trên thể mi và thượng hắc mạc,  sau đó thoát ra ngoài củng mạc hoặc đi theo các dây thần kinh và mạch máu  xuyên củng mạc. 1.1.2. Sinh lý thủy dịch và sự thoát thủy dịch qua góc tiền phòng
  16. Thủy dịch là một loại dịch được chứa đầy trong tiền phòng và hậu phòng  với các chức năng chính: là duy trì nhãn áp và nuôi dưỡng các tổ chức không  có mạch máu như giác mạc, thể thủy tinh và vùng bè củng giác mạc. Thủy dịch thường xuyên được thay đổi. Ban đầu thủy dịch được tiết ra  bởi các nếp thể mi liên tục khoảng 2­3 µl/phút để đổ vào hậu phòng. Sau khi  được tiết ra, một phần nhỏ của thủy dịch đi vào dịch kính, nhưng phần lớn đi  vào hậu phòng rồi qua đồng tử  ra tiền phòng, trao đổi chất với giác mạc và   thể  thủy tinh. Cuối cùng thủy dịch được dẫn lưu khỏi tiền phòng, ra khỏi  nhãn cầu và đi vào hệ thống tuần hoàn.  Hình 1.3. Các đường thoát thủy dịch chính ở vùng góc tiền phòng Nguồn: Angelo (2020)5
  17. Có 2 đường thoát của thủy dịch và cả hai đều nằm ở góc tiền phòng:  • Phần lớn thủy dịch thoát ra ngoài nhãn cầu tại vùng góc tiền phòng:   thủy dịch đi qua các lớp của vùng bè củng giác mạc, từ đó vào ống Schlemm   rồi qua hệ thống các ống góp dẫn tới tĩnh mạch trong củng mạc và tĩnh mạch   thượng củng mạc, từ đó vào hệ thống tuần hoàn. Đây gọi là đường thoát thủy  dịch truyền thống, chiếm khoảng 70% lượng thủy dịch thoát ra khỏi nhãn cầu  ở người trẻ tuổi và tới 95% ở người lớn tuổi. 11 Con đường thoát dịch này phụ  thuộc vào nhãn áp và trở ngại chủ yếu nằm ở vùng bè cạnh ống Schlemm.  • Đường thoát thủy dịch thứ hai là qua màng bồ đào củng mạc, chiếm   khoảng 10%  đến 20% lượng thủy dịch thoát ra ngoài với lưu lượng ước tính  khoảng 0,8µl/phút ở  người trưởng thành. Theo Bill (1966), do không có hàng  rào biểu mô ngăn cách giữa tiền phòng và thể mi nên thủy dịch có thể thấm   qua khoảng gian bào giữa các sợi cơ  thể  mi vào khoang thượng thể  mi và   khoang thượng hắc mạc, từ đó thấm qua củng mạc đến các mạch máu xung   quanh. Ưu điểm của con đường này là không phụ thuộc vào áp lực.12   1.1.3. Những thay đổi bất thường về giải phẫu và sinh lý của vùng góc   tiền phòng trong bệnh glôcôm góc mở nguyên phát  Những thay đổi về mặt giải phẫu của góc tiền phòng : Nghiên cứu của Cha (2013) đã chỉ ra những thay đổi về mặt cấu trúc ở  vùng góc tiền phòng liên quan đến việc hình thành bệnh glôcôm góc mở  nguyên phát:13  ­ Cựa củng mạc ngắn hơn.  ­ Xẹp ống Schlemm. 
  18. ­ Thoát vị của thành ống Schlemm làm bít tắc các kênh thu thủy dịch. ­ Giảm số lượng các không bảo khổng lồ và lỗ thoát dịch.  ­ Giảm diện tích vùng thoát dịch. ­ Giảm số lượng tế bào vùng bè. Theo Maepea và Bill (1992), sự giảm  tế  bào vùng bè dẫn đến các hậu quả: thay đổi thành phần protein,   giảm khả năng bám giữ và khả năng thực bào của vùng bè.14   ­ Các chất lắng đọng bất thường  ở  mạng lưới ngoại bào làm nghẽn  những đường thủy dịch  ưu tiên trong vùng bè dạng sàng gây tăng trở  lưu   thủy dịch.15  Những thay đổi của đường thoát thủy dịch trên mắt bị  glôcôm góc  mở nguyên phát Những thay đổi về mặt cấu trúc giải phẫu của góc tiền phòng như  đã   trình bày ở phần trên có vai trò quan trọng dẫn đến sự  thay đổi chức năng  sinh lý trên đường thoát thủy dịch của các mắt bị  glôcôm góc mở  nguyên  phát. Sự  thay đổi chủ  yếu  ở  đây là tăng tính kháng trở  trên đường thoát  thủy dịch dẫn đến giảm lượng thủy dịch thoát ra ngoài và gây tăng nhãn áp.  Vị  trí và bản chất của trở  lưu bất thường trong bệnh glôcôm góc mở  nguyên   phát   hiện   vẫn   chưa   được   xác   định   chính   xác.   Tuy   nhiên   nhiều  nghiên cứu cho rằng nguyên nhân gây cản trở  sự thoát thủy dịch nằm chủ  yếu  ở  mạng lưới vùng bè, đặc biệt là vùng bè cạnh  ống Schlemm và sự  kháng trở này xảy ra qua cả cơ chế thoát dịch gian bào và cơ chế thoát dịch   nội bào. Nghiên cứu của Maepa và Bill (1992) đã chỉ  ra rằng vùng 14 µm   gần thành trong  ống Schlemm là vị  trí của 85% trở  lưu thủy dịch trong   glôcôm góc mở nguyên phát.14 Những sợi bè màng bồ đào và lá bè giác­củng  mạc dày lên làm hẹp các khoảng gian bè. Cuối cùng, sự dính hoàn toàn của  
  19. các lá bè làm tắc đường lưu thông thủy dịch trong bè màng bồ  đào và bè   giác củng mạc gây tăng nhãn áp.  Bên cạnh đó, Doucette (2015) cũng chỉ  ra rằng những bất thường về  genes tương tác với tuổi và các yếu tố môi trường đã dẫn đến thay đổi bất   thường về mặt sinh hóa tại vùng bè và sự có mặt của các chất bất thường   như  TGFβ2, VEGF, endothelin, PAI, CD44…  trên các mắt bị  glôcôm góc   mở nguyên phát cũng đóng vai trò quan trọng trong việc gây tăng kháng trở  thủy dịch.16  1.1.4. Cơ chế bệnh sinh của glôcôm góc mở nguyên phát Cơ  chế  của bệnh glôcôm góc mở  nguyên phát hiện vẫn chưa được  khẳng định chính xác, một số giả thuyết hiện đang được nhiều nghiên cứu  thừa nhận gồm có: Bất thường do gen  Nhiều trường hợp glôcôm góc mở  nguyên phát  ở  người trẻ  tuổi có  liên quan đến đột biến ở gen CYP1B1. Doucette (2015) khẳng định đột biến  này gây ra sự phát triển bất thường của vùng góc tiền phòng, biến đổi ở lá   sàng và vùng bè, dẫn đến cản trở  sự  dẫn lưu của thủy dịch và gây tăng  nhãn áp.16  Thuyết cơ học Hậu quả của tình trạng nhãn áp cao hoặc sự  chênh lệch áp lực giữa   trước và sau lá sàng gây ép lên lá sàng làm nghẽn sự lưu thông trong các sợi   trục của tế  bào hạch võng mạc làm rối loạn chuyển hoá bên trong tế  bào  gây chết tế  bào. Nhãn áp cao cũng cản trở  dòng máu đến võng mạc gây  thiếu nuôi dưỡng cho tế bào.1  Nguyên nhân gây ra hiện tượng này là do sự tăng trở lưu của thủy dịch   do những bất thường của vùng bè. Doucette (2015) cho rằng yếu tố TGF β 
  20. đóng vai trò quan trọng trong cơ chế này. Nồng độ TGF β tăng lên trong các  mô   vùng   bè   ở   những   mắt   bị   glôcôm   gây   giảm   sản   xuất   các   protein  fibronectin, collagen và elastin của lưới ngoại bào, từ đó giảm sự mềm dẻo   của tế bào vùng bè. Hiện tượng này kết hợp cùng với nhãn áp cao gây chết  tế bào hạch võng mạc.16  Thuyết tuần hoàn Sự thiếu dinh dưỡng do giảm lưu lượng tuần hoàn cũng là một nguyên  nhân gây tổn thương thị thần kinh. Theo Angelo (2020), những rối loạn vận   mạch sẽ gây thiếu máu đầu dây thần kinh thị giác và võng mạc làm chuyển  hoá trong các tế  bào hạch bị  rối loạn dẫn đến sự  tập trung của glutamate  (chất dẫn truyền thần kinh)  ở bên ngoài tế bào. Glutamate này sẽ  gắn với   các receptor tiếp nhận của chúng ở trên màng tế bào làm mở các kênh canxi  khiến cho ion Ca  ồ   ạt đi vào trong tế  bào gây kích hoạt các enzym phụ  thuộc Ca++  dẫn đến sự hình thành một lượng lớn những gốc tự do oxy hoá  có thể  gây hoại tử  tế  bào do ngộ  độc hoặc hoạt hoá gen mã hoá chương  trình gây chết tế bào, kết quả là làm chết các tế bào hạch.5  Nghiên cứu của Doucette (2015) nghiêng về  giả  thuyết rằng sự  chết  của tế bào hạch trong bệnh glôcôm là hậu quả phối hợp của tất cả những   cơ  chế  trên: bất thường về  gen, chèn ép về  mặt cơ  học do nhãn áp cao,  thiếu dinh dưỡng đầu thị thần kinh và ngộ độc tế bào.16  1.2.  Các phương pháp điều trị glôcôm góc mở nguyên phát 1.2.1. Điều trị nội khoa bằng thuốc tra hạ nhãn áp 1.2.1.1. Cơ chế tác dụng và hiệu quả hạ nhãn áp của các nhóm thuốc tra  Sử  dụng  thuốc  tra   tại  chỗ  là  sự  lựa  chọn  hàng   đầu  trong   điều   trị  glôcôm góc mở. Thuốc hạ nhãn áp được chỉ định cho hầu hết các giai đoạn 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1