intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng: Nghiên cứu giải pháp can thiệp nhằm giảm nguy cơ sốt xuất huyết Dengue tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu

Chia sẻ: Hoa La Hoa | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:152

395
lượt xem
128
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng: Nghiên cứu giải pháp can thiệp nhằm giảm nguy cơ sốt xuất huyết Dengue tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu do Phạm Thị Nhã Trúc thực hiện nhằm mục tiêu mô tả đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 2006 – 2012 và một số yếu tố liên quan; xây dựng và triển khai thử nghiệm giải pháp can thiệp tại cộng đồng góp phần hạn chế dịch sốt xuất huyết Dengue trên địa bàn huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu; đánh giá hiệu quả can thiệp và khả năng duy trì các giải pháp tại xã Phong Thạnh Đông A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu sau hai năm can thiệp.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng: Nghiên cứu giải pháp can thiệp nhằm giảm nguy cơ sốt xuất huyết Dengue tại huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu

  1. 1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG PHẠM THỊ NHàTRÚC NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP CAN THIỆP NHẰM  GIẢM NGUY CƠ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE  TẠI HUYỆN GIÁ RAI, TỈNH BẠC LIÊU CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG MàSỐ: 62 72 76 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS. PHẠM TRÍ DŨNG
  2. 2 Hà Nội ­ 2014
  3. 3 ĐẶT VẤN ĐỀ Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là một trong những bệnh truyền nhiễm do  virus Dengue được truyền từ  muỗi  Aedes aegypti  gây nên. Theo Tổ  chức Y tế  Thế  giới (WHO), bệnh xảy ra  ở  khắp mọi nơi từ  thành thị  đến nông thôn như  Châu Phi, Châu Mỹ, Tây Địa Trung Hải… Tuy nhiên, Đông Nam Á và Tây Thái  Bình Dương vẫn là hai nơi có tỷ  lệ  mắc bệnh cao nhất. Ngày nay SXHD có xu   hướng lan rộng ra nhiều vùng khác nhau trên thế  giới. Trong năm 2003 chỉ  có  8/10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á có lưu hành dịch SXHD. Tính đến năm  2006, 10/10 quốc gia trong khu vực đã xuất hiện dịch [167].  Bệnh SXHD có nhiều trường hợp diễn biến nhẹ  nhưng cũng có nhiều  trường hợp diễn biến rất phức tạp và nghiêm trọng. Trong vòng 20 năm (1980 ­   1999) số  trường hợp mắc đã tăng lên 5 lần so với 30 năm trước đó. Tại Việt  Nam, bệnh SXHD đã trở thành một bệnh dịch lan truyền rộng rãi, là vấn đề y tế  quan trọng vì tỉ lệ mắc và tử vong cao nếu chúng ta không phát hiện, xử trí đúng  và phòng chống kịp thời [36], [69], [124], [166]. Năm 1999, chương trình Quốc   gia phòng chống bệnh SXHD tại Việt Nam đã triển khai với mục tiêu giảm chết,  giảm mắc, không để  dịch xảy ra và xã hội hóa hoạt động phòng chống SXHD  [86]. Từ khi triển khai chương trình đến nay, thực trạng hoạt động phòng chống  SXHD cho thấy số  chết do SXHD có chiều hướng giảm nhưng số  mắc không  giảm nhiều. Do đó, trong những năm gần đây phòng chống SXHD là vấn đề y tế  được nước ta đặt lên hàng đầu, tỷ lệ mắc SXHD tập trung nhiều nhất ở khu vực   phía Nam, đặc biệt là tại các tỉnh  ở  khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, nơi   thường xuyên xuất hiện bệnh quanh năm gây nguy hiểm cho cộng đồng [86].  Cung cấp kiến thức ban đầu cho người dân để nhận biết được những yếu  tố nguy cơ gây ra bệnh SXHD sẽ rất có ích cho việc phòng bệnh tại cộng đồng.  Nhiều nghiên cứu về kiến thức, thái độ, thực hành phòng bệnh SXH đã thực hiện   ở nước ta trong nhiều năm qua cho thấy kiến thức, thái độ  của người dân trong  việc phòng bệnh là không thấp nhưng thực hành phòng chống bệnh của người   dân vẫn chưa cao và tỷ  lệ  này thay đổi  ở  từng địa phương. Từ  kết quả  nghiên 
  4. 4 cứu kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống SXHD của người dân tại một  huyện thuộc địa bàn tỉnh Bạc Liêu cho thấy thực hành phòng chống SXHD của  người dân vẫn chưa cao (chiếm 60,9%) và 91,7%  ổ  bọ  gậy tập trung trong các  DCCN trong và xung quanh nhà, thái độ  về  phòng bệnh chỉ  chiếm 53,6% [56].   Tại Bạc Liêu mặc dù đã triển khai nhiều hoạt động phòng bệnh của chương  trình PCSXH quốc gia nhưng số ca mắc SXHD vẫn còn trên 1.000 ca mắc hàng  năm [74], [75], [76], [77], [78], [79], cao điểm năm 2008 có 4.024 ca mắc [76].   Chính vì vậy, chúng tôi đã triển khai nghiên cứu được thực hiện tại địa phương   với mục tiêu tìm ra giải pháp can thiệp phù hợp nhằm giảm các chỉ  số  vectơ  truyền bệnh trong cộng đồng. Huyện Giá Rai là một trong các huyện của tỉnh  Bạc Liêu có tỷ  lệ  mắc SXHD cao nhất nhì trong các huyện của Bạc Liêu trong  nhiều năm liền [57]. Bên cạnh đó, Giá Rai là huyện có đặc điểm bán thành thị và  nông thôn nên rất dễ nhân rộng giải pháp can thiệp cho các huyện khác và thành   phố. Chính vì vậy, chúng tôi đã chọn huyện Giá Rai để thử nghiệm can thiệp. Câu hỏi đặt ra là tình hình dịch bệnh SXHD giai đoạn 2006 ­ 2012 đã diễn   ra như  thế  nào? Những yếu tố  nào liên quan đến tình hình gia tăng dịch bệnh   SXHD ở Bạc Liêu? Giải pháp can thiệp nào là phù hợp và được cộng đồng chấp  nhận trong công tác phòng chống bệnh SXHD? Sau can thiệp thử  nghiệm các  giải pháp tại cộng đồng thì chỉ số của giải pháp can thiệp nào đạt hiệu quả  can   thiệp   cao?   Làm   thế   nào  để   duy  trì   các   giải   pháp   can  thiệp   sau   khi   kết  thúc  chương trình nghiên cứu? Để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đã tiến  hành đưa ra thử  nghiệm các giải pháp can thiệp cho huyện Giá Rai nói riêng và  tỉnh Bạc Liêu nói chung. Với các lý do trên chúng tôi đã tiến hành:  “Nghiên cứu   giải pháp can thiệp nhằm giảm nguy cơ sốt xuất huyết Dengue tại huyện Giá   Rai, tỉnh Bạc Liêu”.
  5. 5 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1. Mô tả đặc điểm dịch tễ sốt xuất huyết Dengue tại tỉnh Bạc Liêu giai đoạn  2006 – 2012 và một số yếu tố liên quan. 2. Xây dựng và triển khai thử nghiệm giải pháp can thiệp tại cộng đồng  góp  phần hạn chế dịch sốt xuất huyết Dengue trên địa bàn huyện Giá Rai, tỉnh   Bạc Liêu. 3. Đánh giá hiệu quả can thiệp và khả năng duy trì các giải pháp tại xã Phong  Thạnh Đông A, huyện Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu sau hai năm can thiệp.
  6. 6 Chương I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Giới thiệu sốt xuất huyết Dengue (SXHD) Theo hướng dẫn giám sát và phòng chống sốt xuất huyết Dengue (SXHD),  Bộ Y tế đã định nghĩa bệnh SXHD là bệnh nhiễm virus Dengue cấp tính do muỗi   truyền và có thể  gây thành dịch lớn [18]. Nói cách khác, SXHD là một thể  bệnh  với những biểu hiện lâm sàng khác nhau và với sự  biến đổi không thể  dự  đoán   trước được về  lâm sàng và hậu quả  của nó [110], [161]. Bệnh được truyền qua  vết đốt của muỗi vằn Aedes aegypti. Virus Dengue thuộc nhóm Flaviviridae với 4  type huyết thanh DEN ­ 1, DEN ­ 2, DEN ­ 3, DEN ­ 4. Khi vào cơ thể, virus nhân  lên trong tế bào bạch cầu đơn nhân để  gây bệnh. Trước đây, SXHD chủ  yếu là  bệnh ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới nhưng ngày nay virus Dengue đã bắt đầu   lan tràn khắp nơi trên thế giới [173]. Vào những năm 1778 ­ 1780, những vụ dịch SXHD đầu tiên được ghi nhận  xảy ra ở Châu Á, Châu Phi và Bắc Mỹ. Sự xuất hiện gần như đồng thời của các  vụ  dịch trên ba lục địa khác nhau chứng tỏ rằng virus gây bệnh cũng như  vectơ  truyền bệnh đã phân bố  rộng rãi trên toàn thế  giới từ  hơn 200 năm trước. Vào   thời gian này SXHD chỉ được xem là một bệnh nhẹ. Một vụ đại dịch SXHD xuất  hiện  ở  Đông Nam Á sau Chiến tranh thế  giới thứ  II  và từ  đó lan rộng trên toàn  cầu [173].  Tại khu vực  Đông Nam Á, virus Dengue lần đầu tiên được phát hiện  ở  Philippines  vào năm 1950 nhưng đến năm 1970 bệnh đã trở  thành nguyên nhân  nhập viện và tử vong thường gặp ở trẻ em trong khu vực [110]. Tỷ lệ mắc bệnh  trên toàn thế  giới đã gia tăng mạnh mẽ  trong những năm gần đây. Trước năm  1970, trên thế giới chỉ có 9 quốc gia có dịch lưu hành. Con số này đã tăng lên hơn   4 lần vào năm 1995. Nhìn chung, trong hơn 50 năm qua, tỷ lệ mắc SXHD đã tăng  lên 30 lần và lan nhanh ra hơn 60 quốc gia trên thế  giới, bệnh xuất hiện  ở  cả  vùng thành thị và nông thôn [169]. 
  7. 7 Qua đánh giá của WHO,  ước tính hàng năm có khoảng 50 triệu người   nhiễm   virus   Dengue   và   2,5  tỷ   người   đang  sống  trong   vùng   lưu  hành  SXHD.   Không chỉ  có số  trường hợp mắc bệnh gia tăng mà khả  năng nhiễm nhiều loại  virus khác nhau cũng ngày càng đáng báo động. Hàng năm có khoảng 500.000   trường hợp SXHD cần nhập viện, phần lớn trong số đó là trẻ  em; tỷ lệ  tử vong  chung vào khoảng 2,5%. Nếu không được điều trị đúng và kịp thời, tỉ lệ tử vong   của SXHD có thể vượt quá 20%. Trong các vụ dịch, tỷ lệ mắc bệnh ở những đối   tượng nhạy cảm thường là 40 ­ 50% nhưng cũng có thể cao đến 80 ­ 90%  [142],   [161], [172]. Ngày nay, SXHD hiện đã trở  thành dịch trên 100  quốc gia  ở  Châu Phi,  Châu Mỹ, khu vực phía Đông  Địa Trung Hải,  Đông Nam Á  và  Tây Thái Bình  Dương, trong đó Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương là hai khu vực chịu  ảnh   hưởng nặng nề nhất [141]. 1.1.1. Tình hình sốt xuất huyết Dengue trên thế giới Năm 1987, tại Thái Lan báo cáo có 175.000 ca mắc và 1.000 ca tử  vong.   Đến năm 1996, tại Brazil có 180.000 ca mắc, tiếp theo là các nước như  Mỹ  Latinh, các nước Đông Nam Á và khu vực Tây Thái Bình Dương đã báo cáo có  1.300.000 ca mắc và 3.500 ca tử vong vào năm 1998 [122], [174]. Năm 2001, tại Brazil chu kỳ dịch đã lặp lại và tăng một cách đáng kể  so   với năm 1996 là gần 400.000 trường hợp mắc bệnh, đặc biệt đã thấy các trường   hợp xuất huyết nặng ở người lớn. Đến năm 2007, một vụ dịch lớn đã xảy ra tại  Singapore,   Campuchia,   Malaysia,   Philippines   và   Việt   Nam   với   hơn   133.000  trường hợp lâm sàng được báo cáo và 850 trường hợp tử vong [122], [174]. 
  8. 8 400 1.4 Số ca mắc (x1000) 350 1.2 Tỷ su ất t ử vong (%) 300 Tỷ su ất tử vong (%) 1 S ố ca mắc (x1000) 250 0.8 200 0.6 150 0.4 100 50 0.2 0 0 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Năm Biểu đồ 1.1. Số trường hợp mắc/chết SXHD ở khu vực Tây Thái Bình   Dương,  giai đoạn 1991 ­ 2011 (Nguồn: WHO Western Pacific Regional Office) [174] Đến năm 2011, các nước thuộc khu vực Tây Thái Bình Dương đã xảy ra  244.880 trường hợp mắc, trong đó 839 ca tử vong, tỷ lệ chết/mắc là 0,34%. Tại  Campuchia,  Indonesia,  Lào,  Malaysia,   Philippines,  Marshall,   Singapore   và  Việt  Nam có hơn 1.000 trường hợp mắc vào năm 2011, số trường hợp mắc cao hơn so  với năm 2010. Bên cạnh đó, có sự biến đổi lớn giữa các quốc gia trong khu vực  về  phân phối type huyết thanh. Tại Campuchia năm 2011 có 15.980 trường hợp  mắc và 73 trường hợp tử vong với cao điểm dịch vào tháng 7. Nhóm mắc bệnh là  nam vị thành niên và người lớn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ. Có sự phân bố đầy đủ 4  type huyết thanh qua kết quả  giám sát huyết thanh và phân lập virus: 77% type   DEN ­ 1; 19% type DEN ­ 2; 2% type DEN ­ 3 và 2% type DEN ­ 4. Tại Lào có số  mắc thấp hơn Campuchia với  3.905  trường hợp  mắc và  7 trường hợp tử  vong  với một đỉnh dịch xảy ra trong tháng chín. Riêng Philippine năm 2011 đã có số ca  mắc cao nhất trong khu vực với 125.975 trường hợp mắc và 654 ca tử vong, cao   điểm dịch xảy ra vào tháng 8. Số  trường hợp mắc  ở nam thanh niên cao hơn nữ  thanh niên. Không có sự phân bố đầy đủ  4 type huyết thanh  ở quốc gia này, chủ  yếu là DEN ­ 1 (44%),    DEN ­ 3 (43%) và DEN ­ 2 (13%)  [174].
  9. 9 Tại khu vực Đông Nam Á, từ năm 2000 đến nay SXH đã lan nhanh ra toàn  khu vực. Năm 2003, có 8 quốc gia trong khu vực có dịch SXH là: Bangladesh, Ấn   Độ, Indonesia, Maldives, Myanmar, Sri Lanka, Thái Lan và Timor ­ Leste. Tại   Nepal đã xuất hiện trường hợp SXH lần đầu tiên vào tháng 11/2006. Riêng Hàn   Quốc là nước duy nhất của khu vực Đông Nam Á là không có SXH. Các nước  nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa và xích đạo như  Indonesia, Myanmar, Sri  Lanka, Thái Lan và Timor ­ Leste xem dịch SXH là một vấn đề  y tế  công cộng  lớn [169]. 400000 2500 Số ca mắc 350000 Số ca chết 2000 300000 250000 S ố ca ch ết Số ca mắc 1500 200000 150000 1000 100000 500 50000 0 0 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Năm Biểu đồ 1.2. Số trường hợp mắc và chết ở khu vực Đông Nam Á [103] (Nguồn: WHO Regional Office for South ­ East Asia, New Delhi) Chu kỳ bùng phát dịch SXHD thường xuất hiện lặp lại 5 đến 6 năm một  lần. Mặc dù đã có những vụ  dịch xuất hiện, nhưng vẫn còn một số  lượng lớn   người cảm nhiễm luôn tồn tại trong quần thể, lý do là vì có tới 4 chủng virus gây  bệnh và vì số người cảm nhiễm mới luôn gia tăng trong quần thể, thông qua số  sinh mới và qua nhập cư từ nơi khác tới [35]. Công tác phòng chống dịch SXH đã được thực hiện thông qua Chiến Lược  Phòng Chống Dengue giai đoạn 2008 ­ 2015 của WHO tại khu vực Đông Nam Á   và khu vực Tây Thái Bình Dương. Chiến lược này nhằm chuẩn bị  đối phó với   các mối đe dọa ngày càng tăng của bệnh SXH với nguy cơ lan rộng đến các khu  vực địa lý mới và gây tử  vong cao trong giai đoạn đầu dịch [98]. Theo báo cáo   của WHO, năm 2010 đã xảy ra số  trường hợp mắc SXHD cao nhất  ở khu vực   Đông Nam Á tính từ năm 2003 đến nay, số trường hợp mắc cao nhất là 355.525  
  10. 10 trường hợp và tử  vong 1982 ca  (biểu đồ  1.2) [103]. Sau năm 2010 thì xu hướng  dịch giảm, có thể  do đây là năm chu kỳ dịch. Tuổi mắc SXHD có thay đổi, gặp  nhiều ở trẻ trên 15 tuổi, tuổi trung bình mắc SXHD là 31,59 đến 35,42 [155].  Theo WHO, mục tiêu của Chiến lược phòng chống SXHD toàn cầu là  giảm bùng phát dịch trên thế  giới. Đến năm 2020, giảm tỷ  lệ  mắc xuống thấp   nhất dưới 50% và tỷ lệ tử vong dưới 25% (tính từ năm 2010) [170]. Để làm được  điều này thì hiệu quả huy động cộng đồng là một chỉ số đánh giá đã được chứng   minh từ nhiều nghiên cứu trên thế  giới và Việt Nam về sự thay đổi hành vi của  người dân. 1.1.2. Tình hình sốt xuất huyết Dengue ở Việt Nam Gánh nặng bệnh truyền nhiễm luôn là mối đe dọa lớn đối với sức khỏe   cộng đồng  ở  tất cả  các nước trên thế  giới. Tại Việt Nam, bệnh SXHD là một   bệnh truyền nhiễm đã và đang tái nổi, tuy con số tử  vong do bệnh này là không   cao bằng các bệnh truyền nhiễm khác như HIV/AIDS... nhưng số mắc bệnh xảy   ra hàng năm là không nhỏ, khoản kinh phí hàng năm phải chi trả  cho công tác  phòng chống bệnh và dập dịch là rất lớn. Năm 2011, tổng ngân sách phải bỏ  ra  cho kế  hoạch hoạt động phòng chống bệnh và dập dịch SXHD là 105 tỷ  đồng   [15]. Chính vì vậy, có thể  xem bệnh SXHD là một trong những bệnh truyền  nhiễm mang lại gánh nặng rất lớn cho Y tế quốc gia.  Qua tài liệu của Đỗ Quang Hà, vụ dịch SXHD đầu tiên xảy ra ở miền Bắc   vào năm 1958 được Chu Văn Tường và Mihow thông báo vào năm 1959,  ở  miền  Nam vào năm 1960 với 60 bệnh nhân nhi tử  vong [27]. Từ  đó bệnh trở  thành dịch  lưu hành địa phương  ở  vùng châu thổ  sông Hồng, sông Cửu Long và dọc theo bờ  biển miền Trung. Bệnh không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả ở vùng nông thôn, nơi  có muỗi truyền bệnh SXHD [67]. Đây là bệnh gây tử  vong hàng đầu trong tổng  số 24 bệnh truyền nhiễm phải báo cáo theo qui định của Bộ Y tế Việt Nam. Sau  năm 1963, dịch SXHD đã xảy ra liên tiếp ở 19 tỉnh, thành khu vực phía Bắc. Từ  năm 1970 đến năm 1974, tại Hà Nội bắt đầu xuất hiện các vụ  dịch lẻ  tẻ ở một   số  điểm trong nội thành Hà Nội với số  bệnh nhân từ  vài chục tới hàng trăm   trường hợp phải vào bệnh viện để  điều trị. Trong thời gian đó dịch cũng lan  nhanh ra các thành phố, thị xã, thị trấn và cả vùng nông thôn. 
  11. 11 Trong những năm đầu, SXHD chỉ xuất hiện ở một vài địa phương với các  ổ dịch nhỏ, số người mắc bệnh ít nhưng tỷ  lệ  tử  vong cao. Nhưng về sau, dịch   càng lan rộng, với số người mắc bệnh ngày càng nhiều. Ðỉnh cao là vào các năm   1983, 1987 với qui mô toàn quốc. Tỷ  lệ  mắc bệnh chung cho cả  nước từ  năm  1981 đến 1987 là 41,02 ca mắc/100.000 dân đến 462,24 ca mắc/100.000 dân. Do  công tác điều trị  đạt được nhiều tiến bộ  nên tỷ  lệ  tử  vong bắt đầu giảm từ  2,7  ca/100.000 dân trong năm 1983 xuống còn 0,16 ca/100.000 dân vào 1994. Tỷ  lệ  mắc bệnh giữa các năm và giữa các vùng miền trong nước dao động rất khác  nhau. Tỷ lệ mắc bệnh ở miền Nam thường cao hơn nhiều lần so với miền Trung   và miền Bắc. Kết quả  theo dõi những năm có dịch lớn (1983, 1987, 1991) cho   thấy miền Nam có 87,2% số huyện thị xuất hiện bệnh; tỷ lệ này ở miền Bắc là  59,5%; miền Trung là 58,7%; Tây nguyên chỉ có 29,5%. Kết quả khảo sát những  vùng này đều thấy sự  hiện diện của trung gian truyền bệnh là muỗi vằn Aedes  aegypti  với mật độ  cao. Càng về  sau, bệnh tập trung chủ  yếu  ở  các tỉnh miền  Trung và Nam. Đến năm 1995 ­ 1996, tỷ lệ mắc bệnh ở miền Nam cao hơn miền   Bắc (66 ­ 67% so với 2 ­ 3%) [44].  Trước năm 1990, bệnh SXHD mang tính chất chu kỳ tương đối rõ rệt, với  khoảng cách trung bình 3 ­ 4 năm. Sau năm 1990, bệnh xảy ra liên tục với cường   độ và qui mô ngày một gia tăng, trung bình 10 năm lại xuất hiện cao điểm dịch.   Vụ  dịch lớn đã xảy ra vào năm 1998 với 234.920 trường hợp mắc, 377 trường   hợp  tử   vong,   tỷ   lệ  mắc  là   306,3  trường  hợp/100.000 dân,  tỷ   lệ  chết/mắc   là  0,19%. Từ  năm 2000 đến 2011, tình hình nhiễm SXHD  ở  Việt Nam không  ổn  định nhưng thời kỳ  cao điểm của dịch SXHD là từ  tháng 6 đến tháng 10 hàng   năm. Gần như  tất cả  các ca mắc SXHD và tử  vong đều  ở  các tỉnh phía Nam.   Trong giai đoạn từ  2001 đến 2011 có 76,9% ca mắc sốt xuất huyết và 83,3% ca  tử vong do sốt xuất huyết là ở 20 tỉnh phía Nam [96]. Khoảng 90% số ca tử vong   do SXHD là  ở  nhóm tuổi dưới 15. Chu kỳ  dịch SXHD có khoảng cách xảy ra  muộn hơn một năm so với giai đoạn trước năm 1990, thường xảy ra theo chu kỳ  từ 3 đến 5 năm một lần. Năm 2000, số trường hợp tử vong do SXHD  ở khu vực   phía Nam chiếm tỷ lệ trên 80% tổng số tử vong của cả nước [65]. Giai đoạn từ  năm 1999 ­ 2003, số mắc trung bình hàng năm đã giảm đi chỉ còn 36.826 trường  hợp và số tử vong là 66 trường hợp. Tuy nhiên từ  năm 2004 đến nay số mắc và  
  12. 12 số tử vong do SXHD có xu hướng gia tăng. Năm 2006 cả nước đã ghi nhận 77.818  trường hợp mắc SXHD, trong đó 68 ca tử vong, tỷ lệ mắc 88,6 trường hợp/100.000   dân và tỷ lệ chết/mắc là 0,09% [7], [8]. Đến năm 2010, số mắc SXHD của cả nước   tiếp tục tăng lên, ghi nhận có 128.710 ca mắc, trong đó 109 trường hợp tử vong, tỷ  lệ  mắc lên tới   146,69  trường hợp/100.000 dân và tỷ  lệ  chết/mắc là 0,85% [13].  Đến năm 2011, số trường hợp mắc bệnh đã giảm gần một nữa so với năm 2010,   nguyên nhân là có thể do số trường hợp mắc bệnh năm 2010 đã được miễn dịch ở  cộng đồng, mặt khác năm 2011 không còn nằm trong chu kỳ  dịch chung của cả  nước (biểu đồ 1.3). Nhìn chung, Việt Nam đã thành công trong việc kiểm soát tỷ  lệ  tử  vong do SXHD nhưng vẫn chưa  đạt được nhiều thành công trong việc   giảm số ca mắc SXHD [96]. 140000 200 120000 S ố trường h ợp ch ết SD/SXHD S ố trường h ợp mắc SD/SXHD 160 100000 80000 120 60000 80 40000 40 20000 0 0 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Số mắc Số chết Biểu đồ 1.3. Tình hình mắc và chết sốt xuất huyết ở Việt Nam, 2000 ­ 2012  [2], [3], [4], [5], [6], [7, 8],  [10], [11], [12], [13], [16], [19] (Nguồn: Niên giám thống kê các bệnh truyền nhiễm từ năm 2000 đến năm 2012) Bên cạnh đó, sự biến đổi của khí hậu cũng đã mang tới những thách thức  mới   trong   việc   kiểm   soát  các   bệnh   truyền   nhiễm  [160].   Đặc   tính   của   vectơ  truyền bệnh SXHD thích  ứng rất tốt với môi trường đô thị  và nó sinh sản trong  các DCCN sạch. SXHD là bệnh theo mùa và thường liên quan tới thời tiết nóng  và  ẩm  ướt. Tính chất mùa của SXHD đã được nghiên cứu  ở  nhiều nước trong 
  13. 13 khu vực Đông Nam Á chứng minh rằng số  trường hợp mắc SXHD  ở  khu vực   Đông Nam Á tăng theo lượng mưa và quần thể vectơ, trong đó số bệnh nhân tăng  sau lượng mưa khoảng một tháng [99], [156]. Do đó, ảnh hưởng của biến đổi khí  hậu lên bệnh SXHD phụ  thuộc vào cả  2 yếu tố: lượng mưa và nhiệt độ  [55],  [105], [128], [139]. Trong đó, nhiệt độ  đóng vai trò quan trọng trong việc lan   truyền virus Dengue bởi sự   ảnh hưởng của nó tới việc phân bố, khả  năng hút  máu của vectơ, giai đoạn  ủ  bệnh trong muỗi và đời sống muỗi trưởng thành.  Thời gian cần cho virus tới tuyến nước bọt muỗi thay đổi theo nhiệt độ  và có   tầm quan trọng trong việc gây nên sự lưu hành. Nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới sự  trưởng thành của muỗi, nhiệt độ cao trứng nở nhanh hơn. Nhiệt độ cao hơn muỗi  cần hút máu nhiều hơn để  cung cấp protein cho quá trình sản xuất trứng. Nhiệt   độ  từ  16oC đến 20oC bọ  gậy phát triển nhanh, song  ở 26oC là nhiệt độ  tốt nhất  cho sự phát triển. Còn đối với sự phát triển của virus, nhiệt độ  phù hợp là 22oC.  Chính điều này đã làm tăng số  lượng cá thể  bị  nhiễm và tăng khả  năng truyền   bệnh của vectơ theo mùa [117]. Theo nghiên cứu về  vectơ  truyền bệnh SXHD  ở  Argentina, mật độ  sinh  sản cao nhất của muỗi là sau hàng loạt tháng có nhiệt độ trung bình trên 20oC và  lượng mưa trên 150 mm [105]. Trong những năm gần đây, khí hậu Việt Nam  đang ấm dần lên tạo điều kiện cho sự truyền bệnh SXH càng gia tăng. Theo Bộ  Tài Nguyên Môi trường, từ năm 2010 ­ 2020, nhiệt độ  trung bình của Việt Nam  sẽ còn tiếp tục tăng trên 1,5oC. Qua đấy có thể thấy sự gia tăng nhiệt độ ở Việt   Nam tỷ lệ thuận với mật độ và khả năng phát triển của muỗi Aedes aegypti.  
  14. 14 8.5% 6.1% 84.4% 1.0% South Nam High land Tây nguyên Central Trung North Bắc Biểu đồ 1.4. Phân bố ca mắc SXHD theo vùng miền [43] (Nguồn: Báo cáo Tổng quan các bệnh truyền nhiễm mới nổi – Hội nghị Khoa   học  chuyên ngành YTCC tại trường ĐHYD TPHCM)  Bệnh SXHD ở Việt Nam phát triển theo mùa và cũng có sự khác biệt giữa   miền Bắc và miền Nam, 84,4% ca SXH xuất hiện  ở khu vực phía Nam. Ở miền   Bắc thuộc vùng khí hậu á nhiệt đới, bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 11,  những tháng khác bệnh ít xảy ra vì thời tiết lạnh, ít mưa, không thích hợp cho sự  sinh sản và hoạt động của muỗi  Aedes aegypti. Bệnh phát triển nhiều hơn từ  tháng 6 đến tháng 10 và đỉnh cao vào tháng 7, 8, 9 và 10.  Ở  miền Nam và Nam   Trung bộ  bệnh SXHD xuất hiện trong suốt năm với tần số  mắc nhiều hơn vào   tháng 4 đến tháng 11, đỉnh cao cũng vào các tháng 7, 8, 9 và 10 [52], [55].  Chỉ số  mật độ muỗi ở miền Nam cao hơn từ 4 ­ 9 lần so với khu vực miền Bắc . Chu kỳ  dịch trung bình khoảng từ 3 đến 5 năm, dịch có thể lan rộng và có thể ảnh hưởng  tới số đông dân cư. Qua số  liệu thống kê cho thấy, tuổi mắc bệnh có sự  khác biệt giữa các  miền. Ở miền Bắc Việt Nam, nơi có bệnh lưu hành thấp thì tất cả  các lứa tuổi   đều có thể bị mắc bệnh, 85% nhóm tuổi mắc bệnh trên 15 tuổi [114]. Ngược lại,   ở miền Nam bệnh lưu hành cao, lứa tuổi mắc bệnh phần lớn là trẻ  em dưới 15  
  15. 15 tuổi [52], [55]. Tỷ lệ mắc bệnh ở nhóm trẻ dưới 15 tuổi trong cả nước là 69,8%,  trong đó ở khu vực phía Nam tỷ lệ này là 86,7%, ở miền Trung là 71,6% và miền  Bắc là 41,1% [44].  1.2. Dịch tễ SXHD ở khu vực phía Nam Việt Nam 1.2.1. Đặc điểm dịch tễ SXHD theo thời gian và con người Mặc dù Việt Nam đã nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp nhưng SXHD vẫn  còn là một vấn đề  y tế  công cộng to lớn.  Số  tử  vong do SXHD  ở  khu vực phía  Nam chiếm tỉ lệ trên 80% tổng số tử vong của cả nước. Năm 1998, tại khu vực   miền Nam đã xảy ra nhiều vụ  dịch lớn với 455,7 ca mắc/100.000 dân và 347 ca   tử vong, tỷ lệ chết/mắc là 0,3%. Xu hướng gia tăng tỷ  lệ mới mắc bệnh SXHD   được ghi nhận kể từ  2005 cho đến nay. Tỷ  lệ  mắc/100.000 dân có giảm so với  năm 1998 (455,7/100.000 dân) và năm 1997 (319,9/100.000 dân) nhưng tăng so  với trung bình các giai đoạn 1996­2005 và giai đoạn 2000 ­ 2005; đặc biệt tăng   nhiều nhất là so với giai đoạn 5 năm gần đây nhất (2003 ­ 2007) là 31%. Điều   này   cho   thấy   mục   tiêu   mà   Dự   án   SXH   quốc   gia   đưa   ra   là   giảm   15%   tỷ   lệ  mắc/100.000 dân so với giai đoạn 2003 ­ 2010 đã là một thách thức lớn cho công  tác phòng chống SXH tại khu vực phía Nam [92].  Đặc biệt sau 10 năm (1998 ­  2007), cả  nước đã xuất hiện lại cao điểm dịch lớn, ghi nhận 104.464 trường hợp   mắc SXHD, trong đó 88 ca tử  vong, tỷ lệ  mắc lên tới 122,61 trường hợp/100.000  dân và tỷ lệ chết/mắc là 0,08% (biểu đồ 1.5) [25, 92], [9], [10], [12], [43], [89] ,[91].
  16. 16 500 400 450 số mắc/100000 350 400 Số ca mắc SXHD/100.000 dân số chết 300 350 Số ca chết do SXHD 300 250 250 200 200 150 150 100 100 50 50 0 0 1996 1998 2000 2003 2005 2008 2010 2011 1997 1999 2001 2002 2004 2006 2007 2009 2012 Năm Biểu đồ 1.5. Tình hình mắc, chết SXHD khu vực phía Nam , 1996 ­ 2012  Trong năm 2008, tại khu vực phía Nam số mắc SXHD là 12.533 ca, trong  đó trẻ dưới 15 tuổi chiếm 70% số mắc. Có 08/20 tỉnh có số ca mắc SXHD tăng  so với 2007 là Bạc Liêu, Bến Tre, Bình Dương, Bình Phước, Cà Mau, Đồng Nai,   Sóc Trăng, Tiền Giang và thành phố Hồ Chí Minh với hơn 3.000 trường hợp mắc  SXHD. Tỷ lệ chết/sốc (độ  III, IV) là 0,97% [92]. Tình hình mắc, chết do SXHD  giai đoạn 2005 ­ 2008 tại khu vực phía Nam cho thấy chưa có dấu hiệu khả quan.  Xu hướng số mắc và số tử vong vẫn còn cao. Năm 2008, tỷ lệ mắc/100.000 dân  toàn khu vực là 248/100.000 dân, tính từ  năm 1998 (giai đoạn bắt đầu triển khai  Chương   trình   mục   tiêu   phòng   chống   SXH   quốc   gia),   đây   là   năm   có   tỷ   lệ  mắc/100.000 dân khá cao, chỉ  đứng sau năm 2007.  Năm 2011, tổng số  ca mắc  SXHD được báo cáo là 60.596 ca, trung bình là 1.165 ca mắc/tuần [7], [10], [11],  [13], [22]. Kể từ sau tháng 8/2012 thì số ca mắc giảm  đều ở các tháng tiếp theo   và thấp hơn ngưỡng cảnh báo (đường cong chuẩn giai đoạn 2005 ­ 2010). Điều  này cho thấy hoạt động can thiệp và chống dịch tại khu vực phía nam trong năm  2012 đã được triển khai kịp thời và có tác động rõ rệt khiến đường cong dự báo  dịch  SXHD không tăng cao trong các tháng cao điểm tiếp theo.
  17. 17 Biểu đồ 1.6. Phân bố số ca mắc SXHD theo tháng tại các tỉnh khu vực phía   Nam năm 2012 so với năm 2011 và đường cong chuẩn 2005 ­ 2010 [91] Theo nhiều kết quả  nghiên cứu  ở  khu vực phía Nam cho thấy bệnh xuất   hiện vào tất cả  các tháng trong năm với tần suất thấp nhất  ở  các tháng 2, 3, 4  (chiếm 10,3% số  mắc cả  năm), có chiều hướng gia tăng từ  tháng 5, tăng dần   trong tháng 6 và cao điểm trong các tháng mưa nhiều: 7, 8, 9, 10. Điều này thể  hiện tính phân bố  theo mùa của SXHD cho đến nay vẫn không thay đổi   [31],   [46], [84]. Kết quả  này không khác biệt nhiều với khu vực phía Bắc. Tại Nghệ  An từ năm 2001 ­ 2010, dịch SXH thường xảy ra ở Nghệ An với chu kì 2 ­ 3 năm.   Dịch xuất hiện vào tháng 5, tăng mạnh  ở  tháng 7, đạt đỉnh cao tháng 8 ­ 9, giảm  dần vào tháng 10 ­ 11. Sự  xuất hiện bệnh SXH phụ  thuộc vào nhiệt độ, lượng   mưa, độ ẩm, các chỉ số về mật độ muỗi, mật độ bọ gậy [54]. Trong một nghiên cứu hồi cứu các trường hợp tử  vong do SXHD của 19  tỉnh thành phía Nam năm 2000 cho thấy: Lứa tuổi tử  vong tập trung chủ yếu  ở  trẻ dưới 15 tuổi (93%), đặc biệt ở trẻ 5 ­ 9 tuổi; 81,6% các ca tử vong thuộc các   tỉnh đồng bằng sông Cửu Long; 58,1% số  ca tử  vong diễn ra trong 24 giờ  đầu   nhập viện; 93% các trường hợp tử vong diễn ra trong ngày thứ 3 đến ngày thứ 6  của bệnh; đa số các ca tử vong xảy ra ở bệnh viện tỉnh (58,1%), kế đến là bệnh   viện huyện (37,2%) [65].  Năm 2005, một kết quả  nghiên cứu tại Khánh Hòa cũng đã chứng minh   cho thấy bệnh nhân mắc bệnh chủ  yếu dưới 15 tuổi (chiếm 77,2%), nhóm trên  
  18. 18 15 tuổi chỉ chiếm 22,9%, nhóm tuổi mắc cao nhất là 6 ­10 tuổi chiếm 32,5% [31].  Tuy nhiên, trong một nghiên cứu  dịch tễ  SXHD tại tỉnh Tiền Giang giai đoạn  2001 ­ 2006 cho thấy tỷ  lệ  mắc bệnh  ở  nhóm trên 15 tuổi có xu hướng tăng  chiếm 35,7% trong tổng số, so với giai đoạn 1996 ­ 2000 tỷ lệ này là 23,8% [46].   Kết quả này cho thấy từ năm 2000 đã có sự  biến động về type virus ở các vùng   khác nhau trong khu vực phía Nam.  Bảng 1.1. Đặc tính dịch tễ SXHD được chẩn đoán theo giới và tuổi [22] Sốt Dengue Sốt xuất huyết Dengue Tổng n % n % n % Giới       Nam 10 38,5 186 47,8 196 47,2       Nữ 16 61,5 203 52,2 219 52,8       Tổng 26 100 389 100 415 100 Tuổi       
  19. 19 là  Aedes  aegypti  ­  véctơ  giữ  vai  trò   trung  gian chính truyền  bệnh,  còn  Aedes  albopictus giữ  vai trò trung gian truyền bệnh thứ cấp của bệnh SXHD  (phụ lục   4). Muỗi Aedes aegypti và Aedes alpopictus trưởng thành có màu đen xen lẫn  những đám vẫy màu trắng trên khắp cơ  thể  muỗi tạo nên vằn trắng đen, do đó   được dân gian thường gọi là muỗi vằn. Khi đậu, thân hình muỗi nằm ngang với  bề  mặt mà nó đậu nghỉ.  Muỗi  Aedes aegypti có đặc điểm sinh học là rất thích  đậu ở độ cao từ 1 ­ 2 m (86%), dưới 1 hoặc 2 mét cũng có thể có nhưng hiếm (6 ­  8%).  Loại muỗi này sống gần người,  vật thể  chúng thích đậu nhất là đồ  vải  (71%) (thường đậu trên quần áo, đặc biệt là những quần áo có mùi mồ hôi), vật  dụng gia đình, đẻ  trứng nơi nước sạch,  ở  những vật chứa nước tự  nhiên hay  nhân tạo như chum, vại, phuy, hồ, bể chứa nước không đậy nắp, lọ hoa chậu cây  cảnh, chậu nước chống kiến dưới chân tủ thức ăn, lon đồ hộp, ve chai, gáo dừa,   vỏ xe hoặc bất kì một vật dụng chứa nước nào khác có thể  tích trữ  nước đến 7   ngày.  Hoạt   động   đốt   máu   của   muỗi  Aedes   aegypti  phụ   thuộc   nhiệt   độ   môi  trường   nếu   nhiệt   độ   dưới   23oC   muỗi   hầu   như   không  đốt   máu.   Muỗi  Aedes  aegypti đốt máu người và động vật để  sống. Muỗi hoàn thành vòng đời nhanh,   giao phối trong không gian nhỏ.  Muỗi  Aedes sp  đẻ  trứng riêng rẽ   ở  các thành  chứa nước  ẩm, phía trên mực nước của các DCCN. Trứng nở  sau khi bị  ngập  nước tự nhiên (mưa) hoặc nhân tạo (do người đổ nước vào để dự  trữ); trứng nở  khi các vật chứa ngập nước, nhưng không phải tất cả trứng nở cùng một lúc.  Khả năng chịu đựng khô hạn của trứng còn tùy thuộc vào khí hậu và điều  kiện tự  nhiên. Trong điều kiện khô hạn tự  nhiên trứng có thể  duy trì được sự  sống đến 1 năm. Do đó mùa mưa là điều kiện thuận lợi cho muỗi phát triển. 
  20. 20 Muỗi trưởng thành Cung quăng Trứng Bọ gậy Hình 1.1. Vòng đời của muỗi Aedes aegypti  (chu kỳ kéo dài từ 10 – 15 ngày) Muỗi phát triển qua 4 giai đoạn. Thời gian của sự phát triển còn tùy thuộc  vào nhiệt độ, tính sẵn có của nguồn thức ăn, mật độ bọ gậy. Trong điều kiện tối   ưu, thời gian từ  giai đoạn trứng đến khi phát triển thành muỗi trưởng thành mất  khoảng 7 ngày. Ở nhiệt độ thấp thì các giai đoạn có thể kéo dài hơn khoảng vài   tuần [162]. Muỗi Aedes sp cái trưởng thành giao phối và thực hiện hút máu lần  đầu tiên vào khoảng 48 giờ sau khi nở; thời gian từ khi hút máu đến khi đẻ trứng,  muỗi Aedes sp đẻ khoảng 60 ­ 100 trứng trong lần đẻ đầu tiên. Ở nhiệt độ 20oC,  độ ẩm 85% thì chu kì phát triển của muỗi là 10 ­ 15 ngày, nhiệt độ dưới 20 oC chu  kỳ  kéo dài trên 20 ngày [69]. Muỗi cái sống bằng cách hút máu và truyền bệnh.  Muỗi Aedes aegypti hút máu chủ yếu vào buổi sáng sớm và chiều tối. Sau khi hút   máu muỗi trú  ẩn trong nhà. Thời điểm hoạt động chủ  yếu của muỗi là vào ban  ngày, cao nhất là 24% vào lúc 7 ­ 8 giờ, và 29% vào lúc 17 ­ 18 giờ. Tỷ  lệ  hoạt  động thấp nhất của muỗi là     11 ­ 13 giờ  và từ  20 giờ  trở  về  khuya. Các giờ  khác còn lại trong ngày tỷ lệ hoạt động từ 10 ­ 17%.  Sau khi hút máu người bệnh, thì Aedes aegypti có thể  truyền bệnh ngay,  nếu không có cơ  hội truyền bệnh, máu sẽ  đọng lại và virus tiếp tục phát triển 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2