intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

161
lượt xem
45
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh rằng, chính quyền trung ương yếu hay mạnh, đất nước thịnh hay suy, sự nghiệp thành hay bại đều có nguyên nhân từ thái độ đánh giá và năng lực tổ chức xây dựng chính quyền cơ sở. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định, chính quyền cơ sở là gốc của chính quyền cách mạng. Chính quyền cơ sở có vững vàng thì nhà nước và chế độ mới vững vàng. Quan điểm đó đến hôm nay vẫn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở

  1. LUẬN VĂN: Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh rằng, chính quyền trung ương yếu hay mạnh, đất nước thịnh hay suy, sự nghiệp thành hay bại đều có nguyên nhân từ thái độ đánh giá và năng lực tổ chức xây dựng chính quyền cơ sở. Trong quan điểm của Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định, chính quyền cơ sở là gốc của chính quyền cách mạng. Chính quyền cơ sở có vững vàng thì nhà nước và chế độ mới vững vàng. Quan điểm đó đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Chính quyền cơ sở (xã, phường, thị trấn) là nơi trực tiếp giải quyết công việc của người dân, là nơi thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Chính quyền cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị của nước ta. Vì vậy, xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống chính trị cấp cơ sở là đòi hỏi khách quan của chính sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, là điều kiện tất yếu đảm bảo cho sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong những năm qua, đặc biệt từ sau khi triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở phường, xã, thị trấn", các cấp chính quyền cơ sở thường xuyên được chăm lo củng cố, kiện toàn bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở, đem lại sự đồng thuận xã hội, ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ngày càng được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, được rèn luyện, thử thách và trưởng thành trong thực tiễn. Tuy nhiên, đứng trước nhu cầu, nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới, hệ thống chính trị cấp cơ sở bộc lộ nhiều hạn chế, trong đó vấn đề cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở là một hạn chế quan trọng làm chất lượng hoạt động của hệ thống chính quyền cơ sở bất cập trước đòi hỏi thực tiễn. Điều này khiến cho chính quyền cơ sở trở thành khâu yếu nhất trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
  3. Đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống chính quyền cơ sở có vai trò hết sức quan trọng, họ là những người thường xuyên tiếp xúc và trực tiếp quan hệ với nhân dân; tổ chức vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước và các hoạt động về đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ở địa phương. Tuy vậy, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở vẫn còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng đặc biệt là chất lượng, trình độ đào tạo; năng lực quản lý, điều hành chưa đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới. Để từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chính quyền cơ sở đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu; đảm bảo tính kế thừa, chuyển tiếp giữa các thế hệ một cách liên tục và vững chắc cần phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là: "Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp cơ sở có sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc sống đặt ra và nhân dân đòi hỏi ". Bên cạnh chính sách bồi dưỡng, đào tạo các cán bộ, công chức đang làm việc thì vấn đề thu hút đội ngũ trí thức được đào tạo cơ bản về làm việc ở chính quyền cơ sở là một giải pháp rất đáng quan tâm, đặc biệt là thu hút những sinh viên đã tốt nghiệp ở các trường đại học, một bộ phận đông đảo của đội ngũ trí thức, những người có trình độ, tuổi trẻ, nhiệt huyết và họ là những người đang có nhu cầu tìm kiếm việc làm. Thế nhưng, trong thực tế, để có một đội ngũ cán bộ công chức cấp cơ sở trẻ tuổi, có trình độ đại học không đơn giản. Hầu hết các sinh viên ra trường, kể cả sinh viên cử tuyển cũng tìm cách ở lại thành phố lập thân, lập nghiệp; một phần vì họ muốn tiến thân với những kiến thức đã được trang bị trong giảng đường đại học, một phần vì phần lớn sinh viên vẫn có quan niệm về làm việc ở phường, xã là không tương xứng với trình độ mà họ được đào tạo. Hơn nữa, sinh viên mới ra trường về công tác tại cơ sở thì dù có lý lịch tốt như thế nào, năng lực giỏi tới đâu cũng chỉ là nhân viên bình thường, rồi từng bước phấn đấu rất gian nan, ở nhiều địa phương sinh viên về làm việc ở chính quyền cơ sở không được phân công nhiệm vụ đúng với khả năng của họ, những kiến nghị, sáng kiến của sinh viên mới tốt
  4. nghiệp đại học không được coi trọng do định kiến "ngựa non háu đá", "trứng khôn hơn vịt"; trong khi đó công việc luôn đòi hỏi trách nhiệm cao do thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với dân nhưng chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức công tác ở chính quyền cơ sở còn chưa tương xứng. Qua quá trình phấn đấu, họ rất dễ nản lòng, vì trong môi trường ấy họ rất lạc lõng, thiệt thòi nên sẵn sàng bỏ việc đi tìm việc khác nhiều tiện nghi hơn, dễ tiến thân hơn. Cũng trong tình trạng chung đó của cả nước, hệ thống chính quyền cơ sở ở Nghệ An cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở ở đây chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Trong thời gian qua, để giải quyết vấn đề này, các cấp chính quyền ở Nghệ An cũng đã đưa ra nhiều giải pháp, chính sách để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở nhưng vẫn chưa có một chính sách nào để thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học. Trong khi đó, tại Hội nghị Trung ương chín khoá X, Đảng ta đã đưa ra chủ trương: " Nghiên cứu chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ học sinh, sinh viên xuất sắc, các nhà khoa học trẻ tuổi để bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực công tác" [33, tr.57]. Trước thực tiễn đó đặt ra nhu cầu cấp thiết phải hoạch định một chính sách cụ thể thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở nhằm trả lời cho câu hỏi: Làm thế nào để sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc, gắn bó lâu dài và phát huy hết khả năng, năng lực của họ ở hệ thống chính quyền cơ sở? Nhận thức được vấn đề này, tôi chọn đề tài " Chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở " làm luận văn thạc sĩ Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu chính sách nâng cao chất lượng và thu hút nguồn nhân lực có trình độ về làm việc ở chính quyền c ơ sở đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu d ưới những góc độ khác nhau: Xây dựng Đảng, Chủ nghĩa xã hội, Kinh tế chính trị, Chính t rị học... Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã được công bố dưới dạng đề tài khoa học, chuyên đề, khảo sát, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ và các bài báo đăng tải trên các sách, báo, tạp chí... Đáng chú ý là một số công trình nghiên cứu nh ư:
  5. - Đề tài khoa học do PGS, TS Nguyễn Phú Trọng chủ biên (2002): "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Đề tài khoa học Độc lập cấp Nhà nước do GS, TS Hoàng Chí Bảo chủ nhiệm: "Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố tăng cường hệ thống chính trị cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay". Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Kỷ yếu khoa học tập I,II,III. - Đề tài khoa học cấp Bộ do PGS, TS Nguyễn Đăng Thành chủ nhiệm (2002): "Chính sách và những vấn đề cơ bản chi phối việc hoạch định chính sách ở Việt Nam" Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Chính trị học. - GS, TS Hoàng Chí Bảo (2002) "Hệ thống chính trị cấp xã - hiện trạng và những vấn đề đặt ra", Thông tin chính trị học, (2) tr. 13 - 18. - Nguyễn Đặng (2004), Chính sách, chế độ đối với những cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Nxb Lao động Thương binh và xã hội. - Đề tài của TS Vũ Hoàng Công (2002) " Hệ thống chính trị cơ sở - Đặc điểm, xu hướng và giải pháp" - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Liên quan đến đề tài còn có luận văn: - "Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn hiện nay - vấn đề và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Cấn Thị Dung (2003). - "Chính sách đối với đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở tỉnh Nghệ An", Luận văn thạc sĩ Trần Ngọc Danh (2005) - "Hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn trên địa bàn tỉnh Kom Tum hiện nay", Luận văn thạc sĩ Võ Trọng Khoa (2007). - "Thực thi chính sách phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Hậu Giang hiện nay", Luận văn thạc sĩ Nguyễn Thị Ngọc Trang (2008)
  6. Ngoài ra còn có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết về vấn đề thu hút nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở đã được đăng tải trên các tạp chí, các kỷ yếu khoa học, trên mạng Internet... Nhìn chung, trên các bình diện khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu một cách cơ bản, đi sâu, làm rõ và đưa ra những luận cứ khoa học cùng với những kinh nghiệm thực tiễn nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị cơ sở; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó, một giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở chính quyền cơ sở là thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao; chu trình hoạch định chính sách và những quy định cụ thể về chính sách chế độ đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn... Đó là nguồn tư liệu quý giá và những gợi ý về phương pháp luận giúp tôi kế thừa trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về vấn đề chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở dưới góc độ chính trị học, đặc biệt là đối với một tỉnh có nhiều đặc thù như ở Nghệ An vẫn chưa có tác giả nào thực hiện. Vì vậy, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với mong muốn góp phần luận giải những vấn đề mà lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra từ đó đề xuất một chính sách mới giải quyết phần nào vấn đề đó. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích: Trên cơ sở làm rõ quy trình hoạch định chính sách công, phân tích nhu cầu lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở tỉnh Nghệ An, luận văn đề xuất việc xây dựng và ban hành, triển khai chính sách này nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó luận văn có nhiệm vụ đề xuất các quá trình cơ bản sau đây: - Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công. - Phân tích nhu cầu khách quan của việc lựa chọn chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở (qua thực tế ở Nghệ An).
  7. - Xác định nội dung, ban hành và đưa ra một số giải pháp có tính định hướng cho việc triển khai thực hiện chính sách đó. 3.3. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu nghiên cứu lý luận về vấn đề hoạch định chính sách; nghiên cứu thực trạng sinh viên tốt nghiệp đại học và chính quyền cơ sở ở Nghệ An từ sau Đại hội Đảng lần thứ X. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 4.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên lý thuyết về chính sách công; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách thu hút nguồn nhân lực cho chính quyền cơ sở, đồng thời tác giả cũng kế thừa có chọn lọc các phương pháp nghiên cứu của các công trình và những bài viết của nhiều tác giả khác đã được công bố. 4.2. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. - Phương pháp logic và lịch sử. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp phân tích và tổng hợp. - Kết hợp phương pháp xã hội học, đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Cung cấp luận chứng, luận cứ cho một sáng kiến chính sách về thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt lý luận - Góp phần hệ thống hoá những bước cơ bản trong quy trình hoạch định chính sách công - Góp phần nâng cao nhận thức lý luận về vai trò của hệ thống chính quyền cơ sở và vai trò của chính sách nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức làm việc ở chính quyền cơ sở.
  8. - Đề xuất những nội dung cơ bản và giải pháp nhằm thực thi chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc tại chính quyền cơ sở đạt hiệu quả cao. 6.2. Về mặt thực tiễn - Luận văn có thể được dùng tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, công tác nhân sự, công tác quản lý nhà nước; cung cấp những luận cứ khoa học cho các nghiên cứu hoặc hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. - Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy ở các Trung tâm Chính trị, Trường Chính trị tỉnh và trường đại học nước ta nói chung, ở Nghệ An nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, gồm có 2 ch ương và 5 tiết. Chương 1 cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoạch định chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học về làm việc ở chính quyền cơ sở 1.1. Một số vấn đề lý luận về hoạch định chính sách công 1.1.1. Các cách tiếp cận chính sách công 1.1.1.1. Quan niệm về chính sách công (Public Policy) Chính sách là khái niệm thường được đề cập trong khoa học hành chính nhưng thực sự nó còn là phạm trù của khoa học chính trị. Thuật ngữ "chính sách" được sử dụng rộng rãi trên sách báo, trên các ph ương tiện thông tin đại chúng và trong đời sống xã hội. Hiểu một cách đơn giản, chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Theo James Anderson: "Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm". Hay
  9. “Chính sách cũng là những hoạt động nên hay không nên làm do nhà nước quyết định lựa chọn”[50, tr.45]. William Jenkin: “Chính sách cũng là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được mục tiêu đó”. (William Jenkin, 1978) [50, tr.56]. Căn cứ từ hiện thực chính sách ở nước ta, từ góc độ nghiên cứu khác nhau các nhà nghiên cứu trong nước đã đưa ra một số quan niệm về chính sách: - Từ cách phân biệt "chính sách" theo "nghĩa rộn g" và "chính sách" theo "nghĩa hẹp". Các tác giả Nguyễn Hữu Đổng và Lê Minh Quân định nghĩa:" chính sách với nghĩa rộng (nghĩa chung nhất) là tổng thể các quan điểm, các biện pháp mà chủ thể lãnh đạo, quản lý (Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội ) tác động lên đối tượng quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định". Còn "chính sách" theo nghĩa hẹp, là một "quy định cụ thể nào đó nhằm thực hiện đường lối, nhiệm vụ trong một thời gian nhất định"[35, tr.45]. - Trong bài "Mấy khía cạnh lý luận về chính sách", tác giả Vũ Hoàng Công đưa ra định nghĩa: "chính sách là các tổng thể những quy định pháp lý có tính nhất quán, thể hiện thái độ quan điểm của nhà nước trong việc khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động nào đó trong các lĩnh vực nào đó của một số đối tượng nào đó của xã hội "[63, tr.200]. - Theo tác giả Nguyễn Đăng Thành, "chính sách là tập hợp những văn bản theo một hướng nhất định được quyết định bởi chủ thể cầm quyền nhằm quy định quá trình hành động của những đối tượng nào đó, để giải quyết những vấn đề mà nhóm chủ thể - đối tượng đó quan tâm theo một phương thức nhất định để phân bổ giá trị "[63, tr.12]. Về nghĩa hẹp, các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau: Chính sách của Liên hiệp quốc, chính sách của một đảng, chính sách của Chính phủ, chính sách của một bộ, chính sách của chính quyền địa phương, chính sách của một tổ chức, đoàn thể, hiệp hội... Các tổ chức, các hiệp hội, đoàn thể...có thể đề ra những chính sách riêng biệt để áp dụng trong phạm vi một tổ chức, hiệp hội hay đoàn thể đó. Các chính sách này nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức, chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ
  10. chức đó, vì vậy, chúng mang tính chất riêng biệt và được coi là những "chính sách tư", tuy trên thực tế khái niệm "chính sách tư" hầu như không được sử dụng. Những chính sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước ban hành nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng được gọi là chính sách công. Khoa học chính sách nghiên cứu các chính sách nói chung, nhưng chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu các chính sách công nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của nhà nước. Vậy chính sách công là gì? ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ "chính sách công" được sử dụng rất phổ biến. Cụ thể nêu ra một số quan điểm sau: Chính sách công là cái mà chính phủ lựa chọn làm hay không làm (Thomas R. Dye, 1985) [23, tr.103]. Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn có liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các cơ quan chức năng nhà nước đề ra (William N. Dunn, 1992) [36, tr.85]. Chính sách công bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội (Charle L. Cochran and Eloise F. Malone, 1995) [50, tr.158]. Nói cách đơn giản nhất, chính sách công là tổng hợp các hoạt động của chính phủ/ chính quyền, trực tiếp hoặc thông qua tác nhân bởi vì nó có ảnh hưởng tới đời sống của công dân. (B. Guy Peters, 1999) [50, tr.92]. Chính sách là một quá trình hành động có mục đích mà một cá nhân hoặc một nhóm theo đuổi một cách kiên định trong việc giải quyết vấn đề (James Anderson, 2003) [50, tr 109]. Chính sách công là một quá trình hành động hoặc không hành động của chính quyền để đáp lại một vấn đề công cộng. Nó được kết hợp với các cách thức và mục tiêu chính sách đã được chấp thuận một cách hình thức, cũng như các quy định và thông lệ của các cơ quan chức năng thực hiện những chương trình (Kraft and Furlong, 2004) [50, tr.95]
  11. B. Guy Peter: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân”. (B. Guy Peter, 1990) [50, tr.130]. Hoa Kỳ: Chính sách công là tất cả những công việc mà chính quyền thi hành đến dân [18, tr.183]. Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau: Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước. Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công thể hiện hoạt động cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cộng cho nền kinh tế. Thứ ba, một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để: Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hoá, dịch vụ công cho nền kinh tế, khuyến khích cả với khu vực công và khu vực tư; quản lý nguồn lực công một cách có hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác, chính sách công là một trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu, căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước. Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn đang là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi. Dưới đây chúng tôi muốn dẫn chứng một số định nghĩa chính sách công khá tiêu biểu của các học giả nước ngoài và trong nước để cùng tham khảo trước khi đi đến một định nghĩa thích hợp. William Jenkin cho rằng: " Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liề n với việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để đạt được các mục tiêu đó" [50, tr.75]. Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:
  12. - Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian dài. - Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành. Nói cách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công. - Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đã lựa chọn. Thomas R.Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, song định nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách công là cái mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm" [23, tr.45]. Ba mặt quan trọng của định nghĩa này là: Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó không bàn luận về "mục tiêu" hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương trình hành động riêng biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả những ai đồng tình với chính sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực tế, một số chính sách ra đời không phải vì sự nhất trí về mục tiêu mà bởi vì nhiều nhóm người khác nhau đồng tình với chính sách đó với nhiều nguyên do khác nhau (tuy nhiên, theo chúng tôi, dù các nhóm khác nhau có những mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính sách vẫn phản ánh những mục tiêu nhất định của Chính phủ). Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự lựa chọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan trọng như việc quyết định làm. Điều này hoàn toàn hợp lý trong trường hợp Chính phủ ra quyết định không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là những đề xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái được thực hiện trên thực tế. Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính phủ làm hoặc không làm, chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm. Wiliam N. Dunn cho rằng: "Chính sách công là một kết hợp phức tạp những lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra" [50, tr.123]. Ông dùng thuật ngữ "sự lựa chọn" - đây là
  13. điểm đáng lưu ý để tránh nhầm lẫn giữa chính sách với các khái niệm khác như các quyết định hành chính. Theo Peter Aucoin," Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do chính phủ tiến hành" [36, tr.134]. Aucoin cho rằng, chính sách có thể vừa là hành động riêng biệt của Chính phủ (quết định của chính quyền tỉnh về sự phát triển ở một vùng cụ thể) vừa là kết quả của hàng loạt quyết định đa dạng ( chính sách môi trường và quyết định không hành động của nhiều chính phủ). Thông thường, thuật ngữ "chính sách" được sử dụng theo nghĩa thứ hai - một chính sách được cấu thành từ một loại quyết định. B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân" [36, tr. 65]. Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách công là nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống của người dân với tư cách là một cộng đồng. Từ điển Bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm chính sách như sau: "Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá…."[46, tr. 105]. Định nghĩa này không làm rõ được thực chất của chính sách, chỉ đưa ra một cách chung chung là những chuẩn tắc (chuẩn tắc là gì?) để thực hiện đường lối, trong một thời gian nhất định và trên những lĩnh vực cụ thể. Định nghĩa như vậy không chỉ nói về chính sách, mà có thể hiểu là bất kỳ một kế hoạch, một hoạt động nào đó. Trong cuốn sách "Chính sách kinh tế - xã hội", các tác giả đồng nhất chính sách công với chính sách kinh tế - xã hội và đưa ra định nghĩa:"chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội ". Định nghĩa này tuy có cố gắng nêu lên một cách đầy đủ các yếu tố cấu thành chính sách kinh
  14. tế - xã hội nước ta, song lại có những sự trùng lặp như: quan điểm - tư tưởng, giải pháp - công cụ, đối tượng - khách thể quản lý. Tuy có rất nhiều các định nghĩa khác nhau về chính sách công như đã nêu trên, song điều đó không có nghĩa chính sách công mang những bản chất khác nhau. Thực ra, tuỳ theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công. Trên cơ sở nghiên cứu về chính sách công, chúng tôi thấy có những đặc trưng cơ bản nhất như sau: Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước. Nếu chủ thể ban hành các "chính sách tư" có thể là các tổ chức tư nhân, các đoàn thể chính trị - xã hội, cũng như các cơ quan trong bộ máy nhà nước để điều tiết hoạt động trong phạm vi tổ chức, đoàn thể hay cơ quan riêng biệt đó thì chủ thể ban hành chính sách công chỉ có thể là các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Vấn đề ở đây là các cơ quan trong bộ máy nhà nước vừa là chủ thể ban hành chính sách công , vừa là chủ thể ban hành "chính sách tư". Sự khác biệt là ở chỗ các "chính sách tư" do các cơ quan nhà nước ban hành là những chính sách chỉ nhằm giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ cơ quan đó, không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan. Chính sách công do nhà nước ban hành nên có thể coi chính sách công là chính sách của nhà nước. Nhà nước ở đây được hiểu là cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước, bao gồm Quốc hội, các bộ, chính quyền địa phương các cấp… ở nước ta, trên sách báo, chúng ta thường bắt gặp cụm từ "chính sách của Đảng và Nhà nước", vì vậy có ý kiến cho rằng, Đảng cũng là chủ thể ban hành chính sách công. Điều này có thể giải thích bằng thực tế đặc thù của nước ta. ở Việt Nam, Đảng cộng sản là lực lượng chính trị chủ yếu và duy nhất lãnh đạo nhà nước thông qua việc vạch ra cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính sách - đó chính là những căn cứ chỉ đạo để nhà nước ban hành các chính sách công. Như vậy, về thực chất, các chính sách công là do Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (chủ yếu là Chính phủ đề ra). Các
  15. chính sách này là sự cụ thể hoá về đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Thứ hai, các quyết định này là những quyết định hành động hoặc không hành động, có nghĩa là chúng bao gồm cả những hành vi thực tiễn. Chính sách công không chỉ thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách về một vấn đề nào đó, mà còn bao gồm những hành vi thực hiện các dự định nói trên. Chính sách công trước hết thể hiện dự định của nhà hoạch định chính sách nhằm làm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn bản thì nó vẫn chưa phải là một chính sách. chính sách công còn phải bao gồm các hành vi thực hiện những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế. Nhiều người hiểu chính sách công một cách đơn giản là những chủ trương của nhà nước ban hành, điều đó đúng nhưng chưa đủ. Nếu không có việc thực thi chính sách để đạt được kết quả nhất định thì những chủ trương đó chỉ là khẩu hiệu mà thôi. Thứ ba, chính sách công tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định. Chính sách công là một quá trình hành động nhằm giải quyết một vấn đề nhất định. Khác với các loại công cụ quản lý khác như chiến lược, kế hoạch của nhà nước là những chương trình hành động tổng quát, bao quát một hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc điểm của chính sách công là chúng được đề ra và được thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong xã hội. Chính sách công chỉ xuất hiện khi trước đó đã tồn tại hoặc có nguy cớ chắc chắn xuất hiện một vấn đề cần giải quyết. Vấn đề chính sách công được hiểu là một mâu thuẫn hoặc một nhu cầu thay đổi hiện trạng xuất hiện trong đời sống kinh tế - xã hội đòi hỏi nhà nước sử dụng quyền lực công để giải quyết. Có thể nói, vấn đề chính sách là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách (bao gồm các giai đoạn hoạch định, thực thi và đánh giá chính sách ). Việc giải quyết những vấn đề nói trên nhằm vào những mục tiêu mà nhà nước mong muốn đạt được. Thứ tư, chính sách công gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Trước hết, chúng ta không nên đồng nhất khái niệm quyết định ở đây với các quyết định hành
  16. chính, càng không thể coi đó chỉ là những văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước. Khái niệm quyết định ở đây có ý nghĩa rộng hơn, nó có thể được coi như một sự lựa chọn hành động của nhà nước. Các quyết định này có thể bao gồm cả luật, các quyết định dưới luật, thậm chí cả những tư tưởng của các nhà lãnh đạo thể hiện trong lời nói và hành động của họ. Song, chính sách không đồng nghĩa với một đạo luật riêng biệt hay một văn bản nào đó. Chính sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định cùng hướng vào việc giải quyết một vấn đề chính sách, do một hoặc nhiều cấp khác nhau trong bộ máy nhà nước ban hành và thực thi trong một thời gian dài. Một chính sách có thể được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc thực thi, song nó còn gồm những phương án hành động không mang tính bắt buộc mà có tính định hướng, kích thích phát triển. Trên thực tế, một chính sách thực sự của nhà nước được kết nối lại từ vô số các quyết định và các hành động riêng biệt. Chẳng hạn, chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ những nỗ lực cải cách các doanh nghiệp nhà nước, nó được chính thức đề cập đến trong Quyết định 217/HĐBT (14/11/1987) và được tiếp nối bằng một loạt các quyết định của nhà nước và các cấp, các ngành về vấn đề này. Nghị định 44/Chính phủ của Chính phủ ngày 29/6/1998 và việc thực thi Nghị định đó đã mở ra một chặng đường mới của chính sách cổ phần hoá ở nước ta. Chúng ta có thể thấy, chính sách này sẽ còn tiếp diễn lâu dài trong tương lai. Từ những phân tích trên, thuật ngữ chính sách công có thể hiểu như sau: "Chính sách công là thuật ngữ dùng để chỉ một chuỗi các quyết định hoạt động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang đặt ra trong một thời gian nhất định của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội theo mục tiêu xác định". Như vậy, chính sách công là một bộ phận của chiến lược, bao gồm những giải pháp và công cụ để thực hiện mục tiêu chiến lược. 1.1.1.2. Hoạch định chính sách công Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản của nhà nước sử dụng để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. ở mỗi giai đoạn phát triển, yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả các chính sách công luôn được đặt ra. Để làm được điều đó cần có sự hoàn thiện quy
  17. trình chính sách, trong đó quy trình hoạch định chính sách - bước khởi đầu đặc biệt quan trọng của quy trình chính sách. Chính sách công do nhà nước ban hành để giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan lẫn nhau đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo những mục tiêu xác định (tuy nhiên không phải vấn đề nào nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội cũng cần có chính sách điều chỉnh). Việc giải quyết nhằm thay đổi hoặc duy trì một hiện trạng nào đó. Khi nói tới chính sách công là bao gồm những dự định của nhà hoạch định chính sách và các hành vi thực hiện những dự định đưa lại kết quả thực tế. Vì vậy chính sách công được hiểu là "những quy định về sự ứng xử của nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng" [42, tr.21]. Hay chính sách công cũng chính là "một chuỗi các quyết định hành động của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chung đang được đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định" [44, tr.53]. ở nước ta, chính sách thể hiện như một công cụ quản lý của Nhà nước và được hiến định tại Điều 26 Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001: "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách…". Như vậy, chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được nhà nước sử dụng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước. Đối với một chu trình chính sách thường bắt đầu từ việc hoạch định chính sách, tiếp theo là thực thi chính sách và sau đó thực hiện phân tích chính sách để điều chỉnh, bổ sung chính sách. Như vậy, hoạch định chính sách là bước khởi đầu trong chu trình chính sách. Đây là bước đặc biệt quan trọng. Hoạch định chính sách đúng đắn, khoa học sẽ xây dựng được chính sách tốt, là tiền đề để chính sách đó đi vào cuộc sống và mang lại hiệu quả cao. Ngược lại, hoạch định sai cho ra đời chính sách không phù hợp với thực tế, thiếu tính khả thi sẽ mang lại hậu quả không mong muốn trong quá trình quản lý. Những tổn hại này không chỉ tạm thời, cục bộ mà nó ảnh hưởng lâu dài, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau.
  18. xác định vấn Hoạch định Thực thi đề chính sách chính sách chính sách phát duy hiện Phân tích tri chính sách mâu chính thuẫn sách đánh gía chính sách Sơ đồ 1.1: Chu trình chính sách công Hoạch định chính sách công là công việc thường xuyên của nhà nước và được xây dựng thành quy trình. Quy trình hoạch định chính sách công chính là trình tự, công đoạn để tạo ra một chính sách công. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách do nhà nước ban hành, theo tôi, được thực hiện theo sơ đồ dưới đây: các uỷ ban chín của Quốc quốc h hội hội các tổ sách vấn đề chức cơ kinh tế chính ban trị, Cơ chính tổ quan phủ vấn đề chức có ngoại chính thẩm giao trị - quyề chính sách xã n và và các biện hội, dự pháp thao xã hội cụ thể vấn đề kiến xã nghị hội.. ... Sơ đồ 1.2: Hệ thống các bước hoạch định chính sách
  19. Quy trình hoạch định chính sách ở nước ta được thực hiện tuần tự các bước như sau: Nêu lý do hoạch định chính sách, xây dựng dự thảo các phương án chính sách, lựa chọn phương án dự thảo tốt nhất, hoàn thiện phương án đã chọn, thẩm định phương án chính sách, quyết nghị ban hành chính sách, công bố chính sách. Trong thực tế, các chính sách công của nước ta chủ yếu được thể chế hoá bằng nghị quyết của Chính phủ nên quy trình hoạch định chính sách công được tiến hành theo quy định ban hành nghị quyết của Chính phủ tại các Điều 59, 60, 61, 62, 63, 64 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996, sửa đổi năm 2002. Thời gian qua, việc hoạch định chính sách công ở nước ta đã cho ra đời nhiều chính sách phù hợp với thực tế, thực thi đem lại hiệu quả mà biểu hiện cụ thể là đã góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, quy trình hoạch định chính sách công như nêu trên cũng bộc lộ một số tồn tại, đó là: các kiến nghị hoạch định chính sách chủ yếu xuất phát từ các cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước. Việc dự thảo chính sách thường do các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan đặc biệt của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, chính sách công được ban hành dựa trên suy xét, phân tích tình hình thực tế và trên cơ sở những mong muốn quản lý của từng cơ quan nhà nước. Sự tham gia đề xuất ý tưởng hoạch định chính sách, hoặc đóng góp vào xây dựng các phương án, biện pháp chính sách của các đối tượng bị ảnh hưởng bởi chính sách là rất hạn chế. Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng của những đối tượng bị chính sách chi phối, ảnh hưởng và các biện pháp thực hiện chính sách do những nhà quản lý xây dựng nên. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sách có tính khả thi thấp, hoặc thực thi không mang lại hiệu quả như nhà quản lý mong muốn. Bên cạnh đó, các ý tưởng hoạch định chính sách được đề xuất, và dự thảo chính sách chủ yếu do cơ quan nhà nước (chủ yếu do các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện) thì dễ nảy sinh tình trạng cục bộ, bản vị; đề xuất dựa trên mong muốn, mục đích quản lý của ngành, địa phương do mình quản lý mà không tính tới tổng thể chung. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và căn cứ vào tình hình quản lý, các bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố để đề xuất
  20. dự thảo chính sách trong lĩnh vực quản lý được giao cũng chính là cơ quan dự thảo, do đó thiếu sự phối hợp giữa các bộ, ngành nên chính sách thiếu tính toàn diện. Biểu hiện cụ thể của thực trạng này là có một vấn đề nhiều bộ, ngành ra chính sách thực hiện nhưng có những vấn đề lớn thì lại không có bộ, ngành nào tham gia đề xuất, xây dựng chính sách. Dẫn tới tình trạng tạo "khoảng trống" trong quản lý nhà nước không có chính sách để điều chỉnh. Việc hoạch định chính sách công của nhà nước hiện nay chủ yếu được tiến hành theo quy trình soạn thảo, ban hành nghị quyết của Chính phủ. Trong khi đó, nghị quyết của Chính phủ là văn bản quy phạm pháp luật mang tính bắt buộc thực hiện. Hiện nay, quy trình hoạch định chính sách công được thực hiện theo quy trình soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 sửa đổi 2002 còn mang tính chất khung chưa phân công rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và cả chế tài đối với tập thể hoặc cá nhân trong từng khâu, công đoạn từ soạn thảo, lựa chọn phương án, thẩm định, ban hành… Quy trình hoạch định chính sách còn khép kín; việc lấy ý kiến tham gia của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của chính sách còn ít, nếu có thì còn hình thức; việc tiếp thu ý kiến của các bộ, ngành ch ưa thể hiện tính chủ động. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể để huy động được trí tuệ của nhân dân, các chuyên gia, các nhà khoa học tham gia vào hoạch định chính sách là vô hình chung làm hạn chế cách nhìn nhận, giải quyết vấn đề. Chẳng hạn, trong hoạch định chính sách, việc dự báo chính sách rất quan trọng. Tuy nhiên, thời gian qua, ở n ước ta việc dự báo chính sách còn yếu kém. Dự báo chính sách phải dựa trên c ơ sở khoa học, thực tiễn. Nếu trong hoạch định chính sách không có sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học thì việc dự báo chính sách gặp rất nhiều khó kh ăn. Trong quá trình hoạch định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách. (Việc này ảnh h ưởng tới tính tự giác thực hiện chính sách…). Trong khi đó, chính sách không thể là ý muốn chủ quan của cơ quan nhà nước, càng không phải là ý chí áp đặt của cá nhân có thẩm quyền mà xuất phát từ hiện thực khách quan, từ việc tìm kiếm, phát hiện, nhận thức một cách biện chứng các vấn đề nảy sinh trong đời sống kinh tế - xã hội và có các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2