intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Đẩy mạnh xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang thị trường EU

Chia sẻ: Nguyen Lon | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

79
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt trên nhiều phương diện, kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị - xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao, quan hệ quốc tế được mở rộng. Đặc biệt trong mười năm gần đây tăng trưởng GDP của nước ta đạt trung bình 7,5%/năm; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu nước ta từ 699 triệu USD vào năm 1986 đã tăng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đẩy mạnh xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang thị trường EU

  1. LUẬN VĂN: Đẩy mạnh xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang thị trường EU
  2. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt trên nhiều phương diện, kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị - xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao, quan hệ quốc tế được mở rộng. Đặc biệt trong mười năm gần đây tăng trưởng GDP của nước ta đạt trung bình 7,5%/năm; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu nước ta từ 699 triệu USD vào năm 1986 đã tăng hơn 90 lần lên gần 64 tỷ USD vào năm 2008. Đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu là mặt hàng TCMN, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu TCMN đạt trung bình 17,87%/năm trong vòng gần 10 năm (2000-2009). TCMN cũng góp phần giải quyết việc làm cho trên 1,4 triệu lao động, đặc biệt các lao động ở vùng nông thôn, từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, ngành TCMN là một trong mười ngành xuất khẩu mũi nhọn của nước ta, phấn đấu vào năm 2010, giá trị xuất khẩu của ngành đạt 1,5 tỷ USD. Cho đến nay, mặt hàng TCMN của nước ta đã xuất hiện trên 163 quốc gia trên thế giới, trong đó thị trường EU là thị trường quan trọng chiếm 54% tỷ trọng xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, cùng với những thành công to lớn, ngành TCMN vẫn còn nhiều hạn chế và chưa tương xứng với tiềm năng của ngành: sản xuất còn manh mún và chưa tập trung, giá thành còn cao, chất lượng và mẫu mã chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trên thế giới… Thị phần của nước ta trên thị trường TCMN quốc tế chiếm một phần rất nhỏ bé. Đối với EU, một thị trường quan trọng của Việt Nam, tuy nhiên chúng ta chỉ chiếm 5,4 % giá trị nhập khẩu TCMN của EU. Xuất phát từ thực tế của ngành TCMN đặt ra yêu cầu từ lý luận đến thực tiễn phải nghiên cứu để đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh giá trị xuất khẩu TCMN Việt Nam sang thị trường EU, góp phần phát triển ngành TCMN nước ta. Theo đó, tôi đã chọn đề tài “Đẩy mạnh xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang thị trường EU” 2. Mục đích nghiên cứu
  3. Thông qua việc nghiên cứu thị trường EU và phân tích thực trạng sản xuất xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang thị trường EU, bài viết đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang EU trong thời gian sắp tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tình hình xuất khẩu TCMN Việt Nam sang thị trường EU. - Phạm vi nghiên cứu: + Đề tài tập trung xem xét quan hệ thương mại mặt hàng TCMN Việt Nam – EU. + TCMN có sản phẩm rất đa dạng, nhưng đề tài giới hạn nghiên cứu ở một số mặt hàng TCMN đại diện, có kim ngạch xuất khẩu lớn trong những năm gần đây. 4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết nội dung của đề tài, bài nghiên cứu đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp thống kê, so sánh. - Phương pháp trao đổi, lấy ý kiến. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp tổng hợp và hệ thống hóa kinh nghiệm của một số nước xuất khẩu TCMN lớn của thế giới. 5. Kết cấu đề tài Bài viết ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục kèm theo, nội dung của đề tài này gồm 2 chương: Chương 1: Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào thị trường EU Chương 2: Định hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường EU trong thời gian tới
  4. CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU 1.1. Tình hình sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam trong thời gian qua (từ năm 2000 đến nay) 1.1.1. Khái quát về mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam 1.1.1.1. Giới thiệu đôi nét về thủ công mỹ nghệ Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài gắn với các làng nghề trong đó có làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN). Ban đầu, các sản phẩm TCMN chỉ đơn thuần phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong gia đình, sau đó để kiếm thêm thu nhập. Người nông dân thường làm các sản phẩm TCMN trong lúc nông nhàn. Dần dần, các làng sản xuất có hiệu quả hình thành nên làng nghề TCMN, duy trì và phát triển cho đến tận bây giờ như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ hay lụa Vạn Phúc… Mỗi sản phẩm TCMN tuy đến từ các vùng khác nhau nhưng đều toát lên một nét văn hoá đậm chất làng quê Việt Nam. Các hình ảnh làng quê như bờ tre, bến nước, cây đa, cổng làng, lễ hội,những dòng sông quê… đều được đưa vào trong các tác phẩm tạo nên nét văn hoá đặc sắc cho mỗi sản phẩm. Những lao động tạo ra sản phẩm TCMN được gọi là nghệ nhân. Các nguyên liệu của mặt hàng TCMN Việt Nam gần gũi với nông thôn Việt Nam, giản dị chân chất như chính con người Việt, như cây tre, cây mây, đất sét, cói, gỗ… Các nguyên liệu đó tuy rẻ nhưng khi qua bàn tay của các nghệ nhân làng nghề nó trở thành những sản phẩm có giá trị. Sản phẩm chủ yếu của TCMN Việt Nam rất đa dạng bao gồm những sản phẩm như gốm sứ, tranh sơn mài, mây tre đan, gỗ mỹ nghệ, các sản phẩm thêu thùa v.v… Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, ngành TCMN có cơ hội hơn nữa để sản xuất, mở rộng và phát triển. Tuy nhiên, ngành thủ công truyền thống này không thể thiếu được những đôi bàn tay khéo léo, cần cù của những nghệ nhân làng nghề, không thể thiếu được những nét văn hoá truyền thống của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Và ngành TCMN truyền thống của Việt Nam sẽ luôn được duy trì, phát triển, song hành cùng cuộc sống hiện đại như một đường uốn nghệ thuật tạo thêm đôi chút thi vị cho cuộc sống.
  5. 1.1.1.2. Đặc điểm của mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam Hàng TCMN truyền thống do chính tay những người nghệ nhân các làng nghề tạo ra. Khác với các sản phẩm công nghiệp có khuôn mẫu có sẵn và sai số trong khoảng cho phép, thì các sản phẩm TCMN vừa theo khuôn, vừa có những nét riêng do người thợ thủ công sáng tạo tự do theo cảm hứng và độ khéo léo của mỗi người. Chính vì thế, các sản phẩm TCMN có những đặc thù riêng: a. Các sản phẩm TCMN đều chứa trong nó giá trị văn hóa. Trên các sản phẩm gốm, sứ hay đồ gỗ mỹ nghệ thường được khắc, trạm trổ hình tứ linh như Long, Ly, Quy, Phượng, những con vật linh thiêng được người dân phương Đông trong đó có Việt Nam tôn sùng. Ngoài ra trên các sản phẩm dệt, thêu thùa, thổ cẩm đều có nét văn hoá đặc trưng thể hiện quan niệm của người Việt như trời tròn đất vuông, hay hàm chứa những quan điểm triết học và nhân sinh quan của người phương Đông. Trong mỗi sản phẩm TCMN đều hàm chứa tâm tư, tình cảm, quan niệm và triết lý sống của người dân Việt Nam, bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Khi xét đến giá trị của mỗi sản phẩm TCMN người ta luôn xét đến giá trị văn hoá kết tinh trong đó trước khi xét đến giá trị về mặt kĩ thuật và kinh tế. b. Các sản phẩm TCMN mang đậm nét phong cách của mỗi nghệ nhân, đặc trưng của từng địa phương, làng nghề và hoà quyện trong truyền thống dân tộc. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều có tính sáng tạo mỗi nghệ nhân. Các làng nghề khác nhau ở từng địa phương khác nhau có những phong tục tập quán riêng. Văn hoá, lịch sử của từng địa phương là môi trường tác động đến người nghệ nhân và sản phẩm do chính họ tạo ra. Mỗi nét trạm trổ, điêu khắc hay hoa văn trên mặt hàng thêu, dệt đều mang đậm chất của mỗi vùng quê. Phát triển qua thời gian, qua giao lưu giữa các vùng, qua chọn lọc tinh tuý tạo nên nét riêng đặc sắc cho các sản phẩm thủ công của từng địa phương, nhưng nằm trong bản sắc truyền thống của dân tộc Việt Nam. c. Sản phẩm TCMN là sản phẩm nghệ thuật kết hợp giữa truyền thống và thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, sự kết hợp này tạo nên những đặc tính: - Tính đơn chiếc, riêng hơn là tính đồng loạt. - Mang tính bí quyết gia truyền hơn là phổ biến rộng rãi.
  6. - Tính trí tuệ và tích luỹ lâu đời. - Vừa có tính sử dụng, vừa có tính nghệ thuật trong sản phẩm. Sản phẩm TCMN có tính đặc thù riêng nên khi nghiên cứu hoạch định chính sách phát triển ngành hàng cần lưu ý đến những nét đặc trưng đó. Phát huy được truyền thống trong sản phẩm và sáng tạo của nghệ nhân, mặt hàng TCMN của Việt Nam đang từng bước đứng vững ở thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. 1.1.1.3. Một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam Trải qua năm tháng, ngành hàng TCMN phát triển với đa dạng sản phẩm. Các nguyên liệu của mặt hàng này thường rẻ, dễ kiếm và gần gũi với nông thôn Việt Nam, khi qua những đôi bàn tay của người thợ thủ công nó trở thành những sản phẩm có giá trị cao và được đón nhận không chỉ ở thị trường trong nước mà còn ở thị trường quốc tế. Những sản phẩm TCMN rất đa dạng, nhưng với phạm vi của đề tài này, tôi xin được đề cập đến các mặt hàng được xuất khẩu chủ yếu những năm gần đây: a. Hàng gốm sứ Một trong những mặt hàng TCMN phổ biến trong cuộc sống là gốm sứ. Gốm sứ được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân Việt Nam như bát đĩa, ấm chén, bình lọ hoa hay chum vại, gốm sứ được dùng để làm đồ thờ như bát hương, tượng…, được dùng trong xây dựng như chân sứ, vật cách điện… Ngoài ra, gốm sứ được sử dụng để làm quà lưu niệm. Gốm sứ được sản xuất ở khắp vùng trên cả nước. Từ nam ra bắc đều có những làng gốm nổi tiếng như Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), làng Cậy (Hải Dương), Móng Cái (Quảng Ninh), Thanh Hoá, Phước Phú (Huế), Thanh Hà (Quảng Nam), Đồng Nai, Thủ Dầu Một… Mỗi làng nghề đều có một nét độc đáo riêng. Gốm sứ có nhiều loại men: men nâu có từ thời Lý, hoa lam có từ đời Trần, men ngọc, men rạn v.v. Ngày nay, các kĩ thuật truyền thống được lan toả đi nhiều nhưng mỗi làng nghề đều giữ được cho mình những bí quyết riêng. Nói đến men ngọc, men rạn ta không thể không nhớ đến làng gốm Bát Tràng, sành nâu ở Thổ Hà, gốm da lươn vẫn được lưu truyền ở Hương Canh, Phù Lãng, gốm Tức Mặc ở Nam Định được mệnh danh là “Thiên tường phủ chế”, ở Hải Dương vẫn giữ được men hoa lam.
  7. Để làm ra các sản phẩm gốm sứ ngoài nguyên liệu chính là đất, thì phải kể đến kỹ thuật gốm sứ là bàn xoay và lò nung. Bàn xoay thì có xoay tay va xoay điện. Lò nung xưa kia là lò vồng (nung củi) và lò hộp (nung bằng than) thì ngày nay còn có lò tunel đốt gas. Các sản phẩm bằng gốm không chỉ được ưa chuộng ở Việt Nam và các nước phương Đông mà còn được rất nhiều các nước phương Tây ưa chuộng. Đây cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu TCMN. b. Hàng mây tre đan Cây tre, cây song, cây mây rất quen thuộc với người dân Việt Nam. Từ bao đời nay, những người thợ thủ công đã sử dụng các thân của cây này để tạo ra các sản phẩm TCMN độc đáo. Từ những cây tre, mây, song có thể tạo ra giường, bàn ghế, giỏ hoa… Sản xuất hàng mây tre đan cũng tạo thành các làng nghề nổi tiếng trong cả nước như Phú Vinh, Yên Sở (Hà Tây), Nho Quan (Ninh Bình), Vĩnh Ba (Phú Yên)… Ở Phú Vinh (Hà Tây) có 8000 người làm nghề đan lát. Hàng mây tre đan ở đây có tới hơn 500 mẫu mã khác nhau. Có thể nói mây tre đan đã thu hút và giải quyết khá nhiều việc làm cho người lao động, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nơi đây. c. Mặt hàng gỗ mỹ nghệ Không chỉ đối với người dân Việt Nam mà còn với tất cả người dân ở khắp mọi nơi trên thế giới, gỗ và sản phẩm từ gỗ rất thông dụng. Ở Việt Nam, sản phẩm từ gỗ dùng trong cuộc sống hàng ngày như bàn ghế, giường tủ, sập cho đến đồ trang trí như tranh khảm, tượng… đến những sản phẩm dành cho đồ thờ cúng như bàn thờ, ống hương, câu đối, ngai, tượng… Nghê mộc là cái tên thân thuộc mà dân gian hay gọi cho nghề sản xuất các sản phẩm đồ gỗ. Các mặt hàng gỗ rất phong phú, có những sản phẩm giản đơn phục vụ mục đích sử dụng hàng ngày, nhưng cũng có những sản phẩm kết hợp điêu khắc, tạc, trổ cầu kì tạo nên giá trị nghệ thuật cao. Tính nghệ thuật, cầu kì của mỗi sản phẩm lại tuỳ vào đôi tay khéo léo của người thợ mộc. Với những sản phẩm gỗ khảm trai thì giá trị của sản phẩm đó tăng lên gấp bội. Chạm khắc gỗ nổi tiếng của Việt Nam có Đồng Kỵ, Phù Khê (Bắc Ninh), Bích Chu (Vĩnh Phú), Kim Bồng (Quảng Nam), Mỹ Xuyên (Huế)… Trong đó, cơ sở sản xuất gỗ mỹ nghệ lớn nhất nước ta phải kể đến Đồng Kỵ (Bắc Ninh). Ngày nay, nhu cầu về gỗ mỹ nghệ trên thế giới rất lớn, để cạnh tranh được với gỗ mỹ
  8. nghệ các nước khác các cơ sở sản xuất cần chú ý đến yếu tố nghệ thuật, tinh tế trong mỗi sản phẩm. d. Hàng thêu ren Thêu ren là một nghề truyền thống ở nước ta. Nguyên liệu và dụng cụ sản xuất thì đơn giản nhưng đòi hỏi người thợ thủ công phải có sự khéo léo, kiên trì và sáng tạo. Ngày nay, đã có máy thêu nhưng chỉ thêu được những sản phẩm chữ, biểu tượng, cờ… Đối với những sản phẩm cầu kì, sáng tạo riêng vẫn cần có đôi bàn tay khéo léo, cần mẫn của người thợ thủ công. Một số vùng có thêu ren nổi tiếng như Lý Nhân (Hà Nam), Minh Lãng (Thái Bình), Văn Lam (Ninh Bình)… và một số vùng dân tộc thiểu số. Ở nước ta, thêu ren xuất hiện sớm, nhưng phạm vi sản xuất còn nhỏ, chưa quy mô và chưa có thị trường nên khó khăn trong việc sản xuất và phát triển mặt hàng này. e. Mặt hàng thổ cẩm Mặt hàng này được sản xuất chủ yếu bởi đồng bào dân tộc thiểu số như dân tộc Mường, Khơ me, Thai, Tày, Dao, Lự… Ở miền Bắc nổi tiếng với làng nghề Nà Phồn, Xâm Khoè (Hoà Bình) của dân tộc Thái, hay làng nghề Mường Bí, Mường Vang, Mường Thành, Mường Đậu (Hoà Bình). Một số dân tộc ở miền Nam đều có nghề dệt gia đình. Hàng thổ cẩm rất đa dạng, có thể làm quần áo, túi xách, ví, hay tranh treo tường… với nhiều kiểu dáng và hoạ tiết độc đáo, đặc trưng cho văn hóa và quan niệm của người dân tộc. Mặt hàng thổ cẩm chủ yếu được bán tại các khu du lịch cho khách nước ngoài. 1.1.2. Tình hình sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ 1.1.2.1. Nguồn nguyên liệu Nguồn nguyên liệu đóng vai trò quan trọng trong sản xuất hàng hóa, nó quyết định sự tồn tại của mỗi ngành hàng. Nguyên liệu của ngành TCMN Việt Nam hiện nay đang đứng trước khó khăn suy giảm về số lượng và có chất lượng không ổn định. Theo đánh giá của Trung tâm nghiên cứu và Hỗ trợ phát triển các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam (HRPC), các làng nghề Việt Nam sẽ thực sự khủng hoảng về nguyên liệu trong vòng 10 năm tới nếu không có những giải pháp tích cực mang tính tổng thể ngay từ bây giờ.
  9. Mặt hàng TCMN sử dụng nguồn nguyên liệu chính được lấy từ thiên nhiên như: đất sét, tre, mây, giang, nứa, lá, đay, gỗ, cói, bông, dừa, vỏ ốc, vỏ trứng... Trước đây, nguồn nguyên liệu được coi là một lợi thế lớn đối với TCMN Việt Nam, vì những nguồn nguyên liệu này thường sẵn có trong tự nhiên và có thể trồng và kiếm được dễ dàng ở nông thôn Việt Nam. Hiện nay, nguồn nguyên liệu này đang bị giảm dần do khai thác bừa bãi và không có kế hoạch bù đắp. * Nguyên liệu họ tre (giang, luồng, nứa...): Vùng nguyên liệu họ tre của Việt Nam phục vụ cho sản xuất hàng TCMN như Hòa Bình (giang, nứa), Cao Bằng (trúc sào), Thanh Hóa (luồng), Yên Bái, Phú Thọ (vầu, bương), Nghệ An (lùng), Huế (lồ ô), Tây Ninh (tầm vông)... vùng nguyên liệu này đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng trong khi nhu cầu sử dụng lại tăng cao đã đẩy giá nguyên liệu tăng lên nhanh chóng. Tại Thanh Hóa, giá luồng đã gia tăng từ 7.000 đồng/cây (18 kg) năm 2005 lên đến 17.000 đồng/cây năm 2008, trong khi đó, tại Tây Ninh giá nguyên liệu tầm vông (loại có đường kính 3.5 cm, dài 7m) cũng đã tăng từ 7.000 đồng/cây (năm 2006) và đến năm 2008 là 15.000 đồng/cây. Diện tích tầm vông đã giảm nhanh chóng do người dân có xu hướng thay thế tầm vông bằng cây cao su đang được giá gần đây. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam (Hợp tác xã mành Phú Cát – Phú Thọ), Lào (Công ty Artex Tiến Động – Hà Tây), Cam-Pu-Chia (Công ty Hiệp Tiến – T.P Hồ Chí Minh)… đang phải nhập khẩu nguyên liệu họ tre từ Trung Quốc và một thực tế là giá nhập khẩu nguyên liệu họ tre từ tỉnh Hủa Phan (Lào) về Hà Tây rẻ hơn rất nhiều giá nguyên liệu họ tre được khai thác tại Việt Nam. * Nguyên liệu mây: Thực tế nhiều vùng nguyên liệu mây truyền thống như Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc và Phú Thọ), Thái Nguyên, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An… đã gần như cạn kiệt. Giá nguyên liệu mây tăng liên tục hàng năm, từ 4000 đồng/kg sợi (năm 2000) lên tới 9500 đồng/kg hiện nay. Mặc dù nhu cầu tiêu thụ rất lớn nhưng gần như không có vùng nguyên liệu mây lớn nào. Đầu năm 2007, hầu như các làng nghề mây và doanh nghiệp tại Hà Tây đã vỡ hợp đồng do thiếu nguyên liệu, mà tác động trực tiếp chỉ do một đơn đặt hàng lớn của công ty An Cô (Bình Dương) ký với đối tác nước ngoài và sự gom nguyên
  10. liệu mây của doanh nghiệp này cho đơn hàng đó. Sau khi đã khai thác với nhiều hình thức khác nhau vùng nguyên liệu mây tại Lào, rất nhiều doanh nghiệp đang nhập khẩu nguyên liệu mây từ Indonesia… * Nguyên liệu gỗ: Ngoài một số làng nghề chạm khắc gỗ như Du Dự, Võ Lăng (Hà Tây), Đồng Giao (Hải Dương)… sử dụng chủ yếu nguyên liệu gỗ rừng trồng, còn đa số các làng nghề làm hàng nội thất như Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Vân Hà (Hà Nội)…sử dụng một khối lượng rất lớn gỗ rừng tự nhiên được khai thác chủ yếu từ các nguồn trôi nổi trên thị trường, trong đó phần lớn gỗ được khai thác từ Lào và không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Trong xu thế tiêu dùng của khách hàng quốc tế yêu cầu chứng chỉ rừng (FSC), thì đây lại là trở ngại lớn nhất cho sự phát triển của các làng gỗ mỹ nghệ trong những năm tới. Rừng tự nhiên Việt Nam có xu hướng tăng về diện tích nhưng chất lượng rừng tăng rất chậm. Các làng nghề gỗ mỹ nghệ luôn chịu sức ép do không có vùng nguyên liệu cung cấp tập trung và ổn định. Hàng năm, các làng nghề cũng chưa có được hạn ngạch khai thác gỗ. Chi phí nguyên liệu tăng nhanh tác động mạnh đến tính cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế. *Nguyên liệu cói, lục bình, bẹ chuối, năng tượng, lá buông: Vùng nguyên liệu cói được trồng tập trung ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An… Nguyên liệu ở đây được Trung Quốc thu mua. Các địa phương làm nghề thủ công từ cói ở nhiều năm ở tình trạng thiếu nguyên liệu do không cạnh tranh được với các tư thương Trung Quốc, nhưng nếu năm nào tư thương Trung Quốc không mua thì các hộ gia đình trồng cói đứng trước nguy cơ thiếu đói hàng loạt. Tình trạng này không chỉ xảy ra với nguyên liệu cói mà còn xẩy ra với lục bình (bèo tây), bẹ chuối và gần đây là năng tượng. Nguyên liệu lá buông được cung cấp chủ yếu cho các làng nghề ở các tỉnh miền Trung như Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Thuận … Đây là loại nguyên liệu khá độc đáo của Việt Nam tạo ra nhiều sản phẩm thủ công khác nhau từ các loại hàng đan lát (rổ, rá, túi xách…), các loại tấm lót, mành treo… Những năm trước đây nguồn nguyên liệu này được cung cấp từ Khánh Hòa (huyện Khánh Vĩnh), Bình Thuận, Ninh Thuận… nhưng
  11. trong 3 năm trở lại đây đã phải nhập khẩu từ CamPuChia mặc dù tiềm năng đất trống để phát triển cây lá buông còn rất lớn. *Nguyên liệu gốm sứ: Nguyên liệu phục vụ sản xuất cho các làng nghề gốm sứ (đất sét, cao lanh, pensfat) được khai thác chủ yếu tại Hải Dương, Quảng Ninh, Phú Thọ… Ngoài việc nguồn nguyên liệu ngày càng trở nên khan hiếm thì việc quản lý chất lượng của nguyên liệu tại các khu vực khai thác là một trong những yếu tố then chốt làm giảm tính cạnh tranh của các làng nghề. Hiện tại ở Việt Nam chưa hình thành các nguồn cung cấp nguồn nguyên liệu được phân loại rõ ràng để sản xuất các mặt hàng có yêu cầu chất lượng khác nhau, chính vì vậy các sản phẩm gốm sứ của Việt Nam chỉ dừng lại ở mức độ giá thành thấp và trung bình *Nguyên liệu sợi (Tơ tằm, bông, lanh): Nguyên liệu sợi của Việt Nam hiện đang ở tình trạng vừa thừa (về số lượng), vừa thiếu (về chất lượng). Hiện các làng nghề dệt khăn tại làng Mẹo (xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là trung tâm dệt khăn thủ công xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đang phải nhập sợi bông từ Ấn Độ và Băng La Đét với giá tăng hàng năm Nguyên liệu lanh phát triển chủ yếu tại Hà Giang, Yên Bái, Hòa Bình, Lào Cai…(gắn bó mật thiết với cộng đồng người Mông). Sức tiêu dùng của loại nguyên liệu được đánh giá là bền nhất trong các loại sợi tự nhiên này gia tăng rất nhanh trong những năm gần đây và các địa phương hiện không cung cấp đủ nguyên liệu cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng hiện tại. Nhiều đơn hàng lớn, trong đó có cả yêu cầu từ hãng thời trang danh tiếng số 1 thế giới Victoria’s Secret đã đến làm việc thực tế tại Hà Giang tháng 4 năm 2008, đã không thể được thực hiện do thiếu nguyên liệu lanh. Nguyên liệu tơ được sản xuất chủ yếu ở Hà Tây,Thái Bình, Nam Định, Quảng Nam, Lâm Đồng…Nhìn chung trên 90% nguyên liệu tơ của Việt Nam ở phẩm cấp thấp với chi số sợi thường không đồng đều. Đây là nguyên nhân chính gây nên tình trạng các mặt hàng dệt lụa thấp cấp ở các làng nghề dệt lụa như Vạn Phúc, Nha Xá, Duy Xuyên… Nguyên nhân chủ yếu chính gây nên tình trạng sợi tơ phẩm chất cấp là phẩm chất trứng đầu vào, kỹ thuật phân loại kén, công nghệ kéo sợi…
  12. Vậy, nguyên liệu là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Dưới sự kết hợp khéo léo của người thợ thủ công, những nguyên liệu tốt, đủ tiêu chuẩn sẽ cho ra đời sản phẩm có giá trị rất cao. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu cho mặt hàng TCMN đang giảm sút nghiêm trọng cà về số lượng và chất lượng đòi hỏi phải có quy hoạch tổng thể về khai thác, bảo vệ và bù đắp nguyên liệu sản xuất. 1.1.2.2. Nguồn lao động cung cấp cho ngành thủ công mỹ nghệ Lao động trong sản xuất và xuất khẩu TCMN gồm có những người thợ thủ công: những lao động phổ thông, các nghệ nhân; những họa sĩ thiết kế mẫu... Thực tế, nguồn lao động cung cấp cho ngành TCMN không ổn định cả về số lượng và chất lượng. Đối với lao động thủ công ở Việt Nam hiện nay, chỉ có một số hộ gia đình, hợp tác xã chuyên theo sản xuất mặt hàng TCMN là sản xuất thường xuyên, còn lại phần lớn là lao động tranh thủ lúc nông nhàn không vào mùa vụ với giá nhân công tương đối rẻ. Tưởng như giá nhân công rẻ sẽ tạo ra lợi thế cho mặt hàng TCMN Việt Nam, nhưng thực tế thì ngược lại. Giá nhân công quá rẻ đã không thu hút được lao động, từ đó gây thiếu hụt lao động trầm trọng. Việc sử dụng lao động nông nhàn khiến cho lượng cung lao động không đều, theo thời vụ, ảnh hưởng đến nguồn cung hàng hóa TCMN Việt Nam trên thị trường cũng như những đơn đặt hàng lớn. Ngành TCMN không cần những lao động có chuyên môn cao, trình độ ngoại ngữ giỏi mà chỉ cần những lao động phổ thông thạo nghề, quen việc. Lao động trong ngành TCMN không qua đào tạo trường lớp mà học việc từ các hợp tác xã, kinh nghiệm của thế hệ đi trước và bí quyết gia truyền. Sản phẩm TCMN có đặc tính nghệ thuật nên ngoài đội ngũ lao động thủ công còn có các nghệ nhân, hoạ sĩ thiết kế mẫu sản phẩm. Những người này không những phải có sức sáng tạo mà phải tâm huyết với nghề để sao cho những sản phẩm TCMN mới mẻ, độc đáo, không chỉ đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng mà còn phải giữ được truyền thống dân tộc, mang cái “hồn” của Việt Nam. Ngoài ra lao động sản xuất mặt hàng TCMN còn có những lao động khác trong dịch vụ bán hàng và xuất khẩu hàng TCMN. Những người bán hàng hoặc xuất khẩu có thể là trung gian, các công ty thương mại dịch vụ hoặc cũng chính là làng nghề, hợp tác xã trực tiếp sản xuất.
  13. Lấy dẫn chứng như làng gốm Bát Tràng, lao động chủ yếu ở đây là lao động phổ thông, những người nông dân tranh thủ lúc nông nhàn. Ở các lò sản xuất vẫn có những thợ chính, tuy nhiên đến khi có đơn đặt hàng lớn thì vẫn cần huy động thêm người làm. Chủ lò có thể tìm được những lao động tạm thời này tại “chợ người” ở Bát Tràng. Để một mẻ gốm ra lò có rất nhiều công việc không tên cần thuê thợ như: trộn đất, nắm than, phơi, xếp than vào lò, dọn lò, đổ rót sản phẩm, phơi rồi sửa sản phẩm, chuốt, vẽ hoa văn, nhúng men, đưa sản phẩm vào lò, sắp xếp sản phẩm trong lò, đưa sản phẩm ra lò... Trong đó có chuốt và vẽ hoa văn là cần phải khéo tay hơn chút và được tiền công khá hơn. Tuy những người thợ làm công ở đây hầu hết là thất nghiệp hay nông dân kiếm thêm lúc nông nhàn nhưng họ đều là những thợ lành nghề, biết việc và thạo việc. Người chuyên in, người chuyên rót, người chuyên phụ lò, gánh hàng, dọn lò... Những người chưa biết thì theo người biết, đã từng làm để học nghề. Những công việc khó hơn như vẽ, chuốt, nặn... được đào tạo ngắn trong hai, ba tháng bởi các chủ lò với giá từ 2 triệu – 3 triệu / khóa. Nhìn chung, lao động TCMN Việt Nam chủ yếu là lao động thủ công. Những người thợ này truyền nhau học nghề, mà không được đào tạo bài bản. Số lượng cung ứng lao động cũng không được ổn định do tính chất mùa vụ. Hiện nay, các cơ quan Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ dạy và đào tạo nghề để bổ sung lao động còn thiếu cho ngành TCMN, từ người thợ thủ công đến những người thiết kế mẫu mã sản phẩm. 1.1.2.3. Trình độ công nghệ sản xuất Tên mặt hàng TCMN đã tự nó cho thấy tính thủ công là yếu tố chính tạo nên giá trị của sản phẩm. Tuy nhiên, để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm vẫn cần có sự hỗ trợ của khoa học công nghệ trong những khâu không nhất thiết phải làm thủ công. Trong ngành sản xuất gỗ có máy đa năng (cưa, đục, bào) làm nâng cao năng suất lao động, còn trong nghề gốm sứ, lo nung bằng gas đã thay thế cho lò nung bằng than và củi, nhào đất bằng tay được thay bằng nhào máy… Trong khâu sơ chế nguyên liệu mây tre đan, cần có những máy hấp sây khô nguyên liệu để tránh nấm, mốc hoặc các hóa chất tránh nấm mốc mà không gây hại cho người sử dụng. Yếu tố khoa học công nghệ còn có vai trò trong việc xử lý chất thải tránh gây ô nhiễm môi trường đối với các làng nghề. Thực tế ở các làng nghề sản xuất TCMN hiện
  14. nay, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng. Đây có thể sẽ là trở ngại lớn đối với xuất khẩu TCMN Việt Nam, trong xu hướng các bạn hàng quốc tế, đặc biệt là EU quy định về tiêu chuẩn ISO 14001 của hệ thống quản lý môi trường. Ở nước ta, khoa học kĩ thuật áp dụng trong sản xuất TCMN còn yếu kém, từ khâu sơ chế nguyên liệu, đến khâu sản xuất sản phẩm và cuối cùng là xử lý nước thải. Điều này không những ảnh hưởng lớn tới chất lượng sản phẩm, năng suất và hiệu quả sản xuất mà còn tác động không ít đến môi trường sống xung quanh. Bên cạnh đó các làng nghề TCMN còn xen kẽ với khu dân cư gây ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân trong vùng như nước thải của các cơ sở sản xuất, bụi than, khí CO2, hiệu ứng nhà kính. Nguyên nhân của tình hình trên là do sự manh mún, nhỏ lẻ trong sản xuất, thiếu hệ thống, doanh nghiệp sản xuất hạn chế về vốn, kĩ thuật và thiếu quy hoạch tổng thể từ chính quyền từ trung ương đến địa phương, việc đầu tư cho nghiên cứu triển khai chưa được đầu tư đúng mức. Ở làng gốm Bát Tràng, kĩ thuật đã được cải tiến tương đối nhiều so với những năm trước. Máy nhào bột thay cho tay, bàn xoay tay đã được thay thế bằng xoay điện với công suất lớn hơn rất nhiều, lò nung củi và than ngày xưa đã được thay thế bằng lò đốt gas... Trong sản xuất gốm sứ, công nghệ khác nhau chủ yếu được phân biệt ở khâu nung sản phẩm. Ba loại lò được sử dụng chủ yếu hiện nay: lò thủ công truyền thống, lò tuynel và lò gas con thoi. Nhiên liệu sử dụng chủ yếu là than, củi, điện, gas. Các doanh nghiệp nhỏ thường sử dụng lò nung truyền thống, các doanh nghiệp quy mô vừa thường sử dụng lò nung con thoi. Đầu tư, năng suất, chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, độ tiêu hao năng lương, tác động tới môi trường phụ thuộc vào lò nung. Ngày nay do nhu cầu chất lượng sản phẩm ngày càng cao của nhu cầu trong nước và xuất khẩu, các doanh nghiệp đã có xu hướng sử dụng nhiên liệu gas với lò nung con thoi. Nung bằng lò gas cho sản phẩm đồng đều, đạt chất lương cao, tỷ lệ thành phẩm cao. Tuy vậy, ở Bát Tràng hiện nay vẫn còn nhiều cơ sở sản xuất cụ thể là 600 lò than so với 320 lò gas. Sản xuất bằng lò truyền thống đốt than có thể sản xuất với sản phẩm đại trà, chi phí thấp có thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Một điều đáng chú ý là có nhiều cơ sở sản xuất gốm sứ Việt Nam nhập máy móc của Trung Quốc để sản xuất, mặc dù tiết kiệm được thời gian tuy nhiên
  15. các sản phẩm đó có chất lượng không cao, được bày bán tràn ngập thị trường, với giá rẻ, mẫu mã phong phú. Gốm Bát Tràng cũng như các làng gốm khác ở Việt Nam ngoài việc chạy theo số lượng cần chú ý đến giá trị thực sự của mỗi sản phẩm gốm sứ tạo ra. Chính những sản phẩm gốm sứ của các nghệ nhân làm bằng tay, mất thời gian công sức thậm chí cả tâm huyết lại là những sản phẩm mang tính nghệ thuật và có giá trị cao. 1.1.2.4. Hoạt động nghiên cứu phát triển mẫu mã Hiện nay, sức cạnh tranh của mặt hàng TCMN trên thị trường thế giới tương đối kém, ngoài lý do giá thành cao, chất lượng không đồng đều còn do mẫu mã sản phẩm TCMN của nước ta chưa đa dạng, độc đáo. Các mẫu mã của chúng ta thường theo sản phẩm quá truyền thống, không phù hợp với xu hướng tiêu dùng thay đổi của người dân thế giới. Nếu có những sản phẩm mới thì không được độc đáo và đặc sắc, để lại ẩn tượng cho người tiêu dùng. Một điều đáng buồn nữa, các mẫu mã phổ biến của Việt Nam hiện nay hầu hết là dập khuôn và theo mẫu của Trung Quốc. Từ thực tế phát triển mẫu mã cho thấy, Việt Nam rất khó xây dựng thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Chúng ta cũng có những người thiết kế, tuy nhiên chưa chuyên nghiệp. Đội ngũ chuyên viên thiết kế còn thiếu cả về số lượng lẫn kinh nghiệm. Gần đây, chúng ta cũng có những bộ thiết kế với mẫu mã có tính đặc sắc, nhưng khi đưa ra thị trường lập tức bị hàng Trung Quốc bắt trước tạo khó khăn cho sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt khi giá sản phẩm TCMN Việt Nam cao hơn hẳn mặt hàng Trung Quốc. Không chỉ bị nước ngoài nhái lại mẫu mã, các cơ sở sản xuất của Việt Nam cũng cạnh tranh và dập khuôn mẫu mã của nhau. Ở làng gốm Bát Tràng, nếu ta đi một dọc từ đầu làng đến cuối làng, từ các sản phẩm được bày bán trong gian hàng giới thiệu sản phẩm của công ty xuất khẩu gốm sứ đến chợ làng Bát Tràng có thể thấy kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm không khác nhau mấy. Sự phân biệt giá giữa các sản phẩm có kiểu dáng giống nhau dựa vào kiểu men tráng. Bản thân mỗi cơ sở sản xuất và xuất khẩu trong nước đã không tạo được thương hiệu riêng. Một vài chủ xưởng gốm xuất khẩu đã tâm sự, để nhận được nhiều đơn đặt hàng TCMN xuất khẩu và tránh sao chép mẫu mã, họ đã phải có đội ngũ thiết kế riêng, các sản phẩm độc đáo không được trưng bày ra ngoài mà được
  16. bày kín đáo trong hầm. Hầm này chỉ dành cho khách nước ngoài, bạn hàng lớn có nhu cầu thực sự viếng thăm. Từ ví dụ thực tế trên cho thấy để hàng TCMN Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường quốc tế thì điều bức thiết là phải triển khai nghiên cứu phát triển mẫu mã độc đáo riêng biệt để không lẫn với các mặt hàng TCMN đến từ nước khác. Việc thiết kế mẫu mã cũng phải dựa trên phân tích và tìm hiểu nhu cầu thị trường. 1.1.2.5. Quy mô sản xuất Những năm qua, các làng nghề truyền thống sản xuất TCMN của Việt Nam có tốc độ phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên phân tán, tự phát và manh mún. Nguyên nhân chính là do chưa có quy hoạch cụ thể trong phát triển làng nghề. Vấn đề khó khăn của làng nghề TCMN hiện nay là tiếp cận nguồn vốn, tìm kiếm thị trường, khả năng sáng tạo mẫu mã và cải tiến công nghệ. Vấn đề tiếp cận vốn dẫn đến quy mô sản xuất của các làng nghề chỉ mang tính thời vụ, chộp giật, không bứt phá tạo thương hiệu riêng cho mình. Việc không tạo dựng được thương hiệu riêng làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có được những đơn đặt hàng lớn, những đơn đặt hàng thường xuyên. Điều đó tác động ngược trở lại khiến các doanh nghiệp sản xuất không mở rộng quy mô sản xuất, tạo nên vòng luẩn quẩn của TCMN Việt Nam. Việc sản xuất với quy mô nhỏ lẻ cũng do thói quen sản xuất nhỏ lẻ, theo mùa vụ của nông thôn Việt Nam. Ngoài một số hợp tác xã của làng nghề thì các cơ sở sản xuất chủ yếu là hộ gia đình, các xưởng tư nhân mà không có xưởng sản xuất với quy mô lớn. Sản xuất nhỏ lẻ, vốn ít gây khó khăn trong việc đổi mới công nghệ. Mỗi một đơn vị nhỏ sản xuất đổi mới công nghệ, mua dây truyền của nước ngoài, chi phí cao nhưng hiệu quả đem lại chưa tương xứng vì quy mô sản xuất nhỏ. Nhìn chung, muốn mở rộng quy mô sản xuất cần phải có quy hoạch tổng thể, sự kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất với nhau. Chỉ có kết hợp, mở rộng quy mô sản xuất một cách hợp lý thì TCMN Việt Nam mới có thể thu hút vốn đầu tư, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã, từ đó nâng cao thương hiệu của TCMN Việt Nam.
  17. 1.2. Thị trường thủ công mỹ nghệ EU và một số lưu ý khi xuất khẩu vào thị trường này 1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế EU và quan hệ thương mại Việt Nam – EU. 1.2.1.1. Tổng quan về tình hính phát triển kinh tế của EU Liên minh châu Âu tên tiếng Anh là European Union viết tắt là EU được hình thành từ năm 1952 với tiền thân là cộng đồng than thép bao gồm 6 quốc gia thành viên. Trải qua quá trình phát triển kinh tế, hiện nay EU đã có 27 quốc gia thành viên với diện tích là 4.422.773 km² với dân số hơn 500 triệu người chiếm 7% dân số thế giới, chiếm 30% GDP danh nghĩa (18,4 tỉ đô la Mỹ năm 2008) và khoảng 22% GDP sức mua tương đương của thế giới (15,2 tỉ đô la Mỹ năm 2008). Đây có thể được coi là thị trường tiềm năng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta. EU tự miêu tả mình là gia đình của các nước châu Âu dân chủ, muốn hợp tác vì hoà bình và phồn vinh. Tổ chức này giám sát việc hợp tác giữa các nước thành viên trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại, môi trường, giao thông và lao động. Hiệp ước về Liên minh châu Âu, được ký tại Maastricht năm 1991 đặt ra thời gian biểu để thiết lập liên minh kinh tế và tiền tệ. Nó định ra các tiêu chuẩn kinh tế và ngân sách, để quyết định khi nào các quốc gia có đủ điều kiện tham gia liên minh này. Maastricht cũng nêu các hình phạt cho những nước thành viên không kiểm soát được thâm hụt ngân sách. EU cũng đã có đồng tiền chung Euro, đồng Euro chiếm vị trí thứ hai trên thế giới. EU đóng vai trò ngày càng lớn và có ảnh hưởng ngày càng quan trọng đến tình hình kinh tế và chính trị thế giới.
  18. Nguồn:IMF(2009) Năm 2010*: ước tính Hình 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP và chỉ số giá tiêu dùng CPI của EU So với thế giới, EU là khu vực có nền kinh tế phát triển và ổn định, tỉ lệ lạm phát thấp. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 -2009 vừa qua, EU cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Đây là sự giảm sút tăng trưởng nghiêm trọng nhất sau 5 năm tăng trưởng kinh tế liên tục của châu Âu và cũng là sự suy giảm tăng trưởng kinh tế lần thứ hai sau sự đình trệ kinh tế EU 2001- 2002. Tuy nhiên, vào quý III năm 2009 nền kinh tế của EU đã có dấu hiệu hồi phục trở lại. Hiện nay, kinh tế EU đang trong giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng hoảng. 1.2.1.2. Quan hệ thương mại giữa EU và Việt Nam Việt Nam và EU đã chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại giao từ tháng 11 năm 1990. Vào ngày 17/7/1995 hai bên đã kí kết Hiệp định khung về hợp tác, thiết lập các nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai bên. Chiếm tới 45% tổng kim ngạch nhập khẩu và 46% tổng kim ngạch trên toàn thế giới, EU là khối thương mại lớn hàng đầu thế giới. Theo Sách xanh của EU, năm 2008, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất, và được đánh giá là thị trường truyền thống và tiềm năng của
  19. Việt Nam. Hai bên đã dành cho nhau quy chế tối huệ quốc, và EU đã dành cho Việt Nam cơ chế GSP (ưu đãi thương mại dành cho các nước đang phát triển). Trong 10 năm trở lại đây, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU tăng trung bình hàng năm 15-20%; EU là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, chiếm 17% tổng giao dịch thương mại. Năm 2002, kim ngạch hai chiều tăng gấp 20 lần so với năm 1990; năm 2004 đạt trên 6,2 tỷ euro, tăng 20% so với năm 2003. Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tăng mạnh, nhất là vào Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Hà Lan; trong đó hàng công nghiệp nhẹ, hàng nông sản và thủy sản chiếm tỷ trọng trên 85% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam nhập khẩu từ thị trường EU chủ yếu là máy móc thiết bị, hóa chất, nguyên phụ liệu dệt may, da, sắt thép, thuốc, phân bón. Sáu tháng đầu năm 2005, quan hệ thương mại Việt Nam - EU tiếp tục tiến triển tốt, đặc biệt EU bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam từ ngày 1/1/2005. Theo số liệu công bố tại Sách xanh của EU, năm 2008, tiêu thụ khoảng 12,2 tỷ USD hàng xuất khẩu của Việt Nam, vượt cả thị trường Mỹ. Quan hệ giữa EU - Việt Nam trên quy mô lớn có lợi cho Việt Nam với mức thặng dư thương mại Việt Nam được hưởng khoảng 5,41 tỷ USD. Trong năm 2009 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng 3,48% so với năm 2008, trong đó xuất khẩu tăng 3,34%. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang EU là các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như mặt hàng giầy dép, dệt may, thủy sản, đồ gỗ, cà phê. Ngược lại Việt Nam nhập khẩu chủ yếu máy móc, thuốc, đồ nhựa... Việt Nam và EU đã cùng nhau đưa ra các chương trình hành động để hỗ trợ doanh nghiệp hai bên để từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại song phương 1.2.2. Quan niệm và thị hiếu tiêu dùng của EU Mặc dù EU là thị trường quan trọng đối với Việt Nam và có quan hệ thương mại lâu năm, tuy nhiên, các việc xâm nhập vào thị trường này vẫn còn nhiều khó khăn với các doanh nghiệp Việt Nam. Một trong lý do chủ yếu đó là doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt kịp nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của người dân EU. Trên thực tế, chính người tiêu dùng EU quyết định việc tiêu dùng sản phẩm chứ không phải là nhà nhập khẩu hay người bán hàng.
  20. Dân số ở EU đang có xu hướng già đi với 45% số người ở độ tuổi 50 trở lên. Nhóm người này sẵn sang trả giá cao với điều kiện chất lượng tốt. Trong may mặc thì người dân Tây Âu đang chuyển dần từ phong cách cổ điển sang phong cách thoải mái, tự nhiên còn phía Đông Âu thì theo phong cách trang trọng. Xu hướng mua sắm của người dân EU có chu kỳ mua sắm giảm dần. Để thay đổi mốt, mẫu mã, các nhà nhập khẩu thay vì đặt số lượng lớn cho mỗi lô hàng như trước đây chuyển sang đặt với số lượng nhỏ. Điều này phù hợp với điều kiện và quy mô sản xuất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, chất liệu, đồng thời dự báo xu hướng thời trang ở EU. Quy mô gia đình ở EU đang có sự thay đổi. Gia đình chỉ có từ 1- 2 người đang ngày càng tăng. Thêm vào đó, số gia đình có 2 người cùng đi làm nhưng không có con cũng có xu hướng tăng. Những gia đình này có nhu cầu sử dụng sản phẩm có chất lượng tốt, có khả năng mua những sản phẩm đắt tiền. Bản thân EU đã là một liên minh bao gồm 27 quốc gia khác nhau, hơn thế nữa, người dân sinh sống ở EU nhập cư từ nơi khác đến cũng tương đối. Các nhà xuất khẩu cũng cần tìm hiểu thói quen tiêu dùng và nhu cầu của những nhóm khác nhau để tìm ra được mặt hàng xuất khẩu tiềm năng. Liên minh châu Âu (EU) được coi như không có biên giới giữa các quốc gia trong cộng đồng EU. Nhờ có giao thông thuận tiện mà họ đi du lich rất nhiểu. Nhu cầu đối với các sản phẩm ngoại nhập cũng tăng lên. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nắm rõ được nhu cầu và thị hiếu của người dân, từ đó đưa ra những sản phẩm, cách tiếp cận thị trường một cách có hiệu quả. 1.2.3. Những quy định của EU với mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhập khẩu * Quy tắc xuất xứ của EU: Bất cứ sản phẩm nào khi xuất khẩu sang thị trường EU đều phải có chứng nhận xuất xứ rõ ràng. Hầu hết các nguyên liệu của sản xuất TCMN của Việt Nam lấy từ các nguồn trong nước.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1