intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn đề tài: Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:30

125
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất bởi nó có quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng người trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm để đầu tư. Sự thay đổi của lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định của mỗi doanh nghiệp: vay để mở rộng sản xuất, hoặc đầu tư vào đâu có lợi nhất. Thông qua những quyết định của...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn đề tài: Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam
  2. Lời nói đầu Trong nền kinh tế thị trường lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất bởi nó có quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng người trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm để đầu tư. Sự thay đổi của lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định của mỗi doanh nghiệp: vay để mở rộng sản xuất, hoặc đầu tư vào đâu có lợi nhất. Thông qua những quyết định của cá nhân, doanh nghiệp lãi suất ảnh hưởng đến mức độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước. Công cuộc đổi mới toàn diện ở nước ta trong hơn mười năm qua đã tạo cho đất nước bộ mặt mới, sức sống mới. Những thành tựu đạt được trên các mặt đã đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới của đất nước - giai đoạn phát triển không chỉ theo chiều rộng mà còn hướng tới chiều sâu. Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, ý thức được lãi suất là công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước đã có những bước cải cách quan trọng về lãi suất để tiến dần tới tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở nước ta - đáp ứng đòi hỏi mang tính tất yếu của nền kinh tế thị trường. Lãi suất bước đầu đã điều chỉnh theo yêu cầu của thị trường, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần được nới lỏng, ngày càng trở nên linh hoạt. Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất tiến tới tự do hoá trên cơ sở vừa đảm bảo được sự kiểm soát của nhà nước đối với thị trường nhằm phù hợp với mục tiêu và diễn biến của các biến kinh tế vĩ mô, với thực trạng thị trường tài chính trong nước đang là một bài toán khó đối với các nhà hoạch định chính sách. Xuất phát từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “Lãi suất và vấn đề sử dụng các chính sách lãi suất trong việc điều tiết nền kinh tế ở Việt Nam”. Đề án gồm ba chương: Chương I: Lý thuyết chung về lãi suất. Chương II: Những chính sách lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: Giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam - Tự do hoá lãi suất.
  3. Thông qua việc sử dụng các kênh thông tin thứ cấp: sách, báo, tạp chí... với phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, tổng hợp, so sánh số liệu. Bằng cách kết hợp việc nghiờn cứu lý thuyết và thực tế, thực trạng của nền kinh tế, của chớnh sỏch lói suất ở Việt Nam. Mục đích của đề án là trình bày rõ lý luận về lãi suất trên phương diện chung, từ đó đi nghiên cứu các chính sách lãi suất đã sử dụng ở Việt Nam nhằm thấy rõ những ưu điểm và các mặt hạn chế của từng chính sách qua đó có thể rút ra những bài học để hoàn thiện chính sách lãi suất ở Việt Nam, giải pháp để tiến hành tự do hoá lãi suất. Chương I. Lý thuyết chung về lãi suất 1. Khái niệm về lãi suất. Khái niêm về lãi suât. * Theo quan điểm của K.Marx: “Lãi suất là phần giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê bị tư bản - chủ ngân hàng chiếm đoạt”. Như vậy theo K.Marx lãi suất có nguồn gốc từ lợi nhuận, là một bộ phận của lợi nhuận. Từ quan điểm của K.Marx cho thấy nhìn chung lãi suất  tỷ suất lợi nhuận bình quân. Tuy nhiên, ta thấy phạm vi đề cập của K.Marx chỉ ở phạm vi của quan hệ cho vay và đi vay do sự phát triển hạn chế của các quan hệ tài chính, tiền tệ ở thời kỳ đó. * Quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng:“Lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu tư bản”. lãi suất do đó còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìa với của cải, tiền tệ.” (J.M. Keynes). Nói một cách khác lãi suất chính là chi phí cơ hội của việc giữ tiền, là kết quả của hoạt động tiền tệ. Quan điểm coi lãi suất là kết quả của hoạt động tiền tệ, là chi phí cơ hội của việc giữ tiền có thể nói là một bước tiến lớn trong việc xác định các hình thức biểu hiện và những nhân tố tác động tới lãi suất. Tóm lại, lãi suất được hiểu theo một nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng-giá cả của quan hệ vay mượn hoặc cho thuê những dịch vụ về vốn dưới hình thức tiền tệ hoặc các dạng thức tài sản khác nhau. Khi đến hạn, người đi vay sẽ phải trả cho người cho
  4. vay một khoản tiền dôi ra ngoài số tiền vốn gọi là tiền lãi. Tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn gọi là lãi suất (World Bank). 1.2. Các loại lãi suất cơ bản và phương pháp đo lường. 1.2.1. Lãi suất đơn. Vay đơn là cung cấp cho người vay một khoản tiền vốn, vốn này phải được hoàn trả người cho vay vào ngày mãn hạn cùng với một khoản tiền phụ được gọi là tiền lãi. Đối với những khoản tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay đơn, lãi suất được gọi là lãi suất đơn. Phương pháp tính lãi suất đơn: Tiền lãi Lãi suất đơn = –––––––––– Tổng số vốn Như vậy ta thấy việc tính toán lãi suất đơn rất đơn giản và thông thường được áp dụng trong các món vay thương mại có thời hạn ngắn hơn một năm hay là thời hạn cho vay trùng khít với chu kỳ tính lãi. 1.2.2. Lãi suất tích họp. Từ việc xem xét lãi suất đơn ta thấy nảy sinh vấn đề: nếu chúng ta tham gia vào một quan hệ tín dụng dài hạn hơn, 2 hoặc nhiều năm, trong đó chu kỳ tính lãi lại thường là một năm hoặc thậm chí ít hơn, tức là chu kỳ tính lãi nhỏ hơn thời gian tín dụng mà lại áp dụng cách tính toán trên đây thì, một là mặc nhiên đã có sự thừa nhận một mức lãi suất giống nhau giữa các thời kỳ khác nhau, và hai là chúng ta đã không tính toán đầy đủ giá trị của việc sử dụng số tiền vốn dĩ đã lớn hơn số tiền gốc ban đầu do khoản tiền lãi của chu kỳ tính lãi hoặc năm trước đó đem lại. Chính vì lẽ đó lãi suất tích họp được coi là công bằng và chính xác hơn trong việc đo lường lãi suất đối với các món vay dài hạn. Lãi suất tích họp là loại lãi suất tính cho các khoản vay mà thời gian tín dụng chia làm nhiều chu kỳ tính lãi, ở chu kỳ tính lãi đầu tiên lãi suất tích họp được tính toán dựa
  5. trên cơ sở lãi suất đơn, nhưng từ chu kỳ tính lãi thứ hai trong thời hạn tín dụng do số vốn tín dụng thực tế đã được tích luỹ thêm phần tiền lãi của chu kỳ trước nên lãi suất đơn tính cho các chu kỳ sau sẽ lớn hơn chu kỳ đầu và “tích họp” lại chúng ta sẽ có một mức lãi suất cho suốt thời kỳ khác so với mức lãi suất đơn ban đầu. Một cách đơn giản, chúng ta có thể hiểu lãi suất tích họp là lãi suất có tính đến yếu tố “lãi mẹ đẻ lãi con”. Phương thức đo lường lãi suất tích họp: it = (1+i)1/t -1 Trong đó: - it là lãi suất tích họp tại chu kỳ tính lãi bất kỳ (t) nào đó. - i là lãi suất đơn hàng năm. Ưu điểm: - Lãi suất tích họp đã giải quyết được nhược điểm của lãi đơn, nó phản ánh được mức lãi suất phụ thuộc vào độ dài thời gian của tín dụng và chu kỳ tính lãi: độ dài thời gian tín dụng càng lớn hơn chu kỳ tính lãi, lãi suất tích họp càng lớn. - Lãi suất tích họp cho phép tính toán chính xác hơn số tiền lãi trong các khoản vay ngắn hạn thậm chí theo số ngày. Chính điều này đã làm cho thị trường tiền tệ với những món vay mượn nóng ngày càng trở nên sôi động hơn. 1.2.3. Lãi suất hoàn vốn. Lãi suất hoàn vốn là lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản tín dụng với giá trị hôm nay của khoản tín dụng đó. Lãi suất hoàn vốn thường được áp dụng đối với các khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả một khoản cố định theo định kỳ, chẳng hạn vay cố định hoặc trái phiếu coupon. Phương pháp tính: - Trường hợp thời hạn tín dụng là n năm ta có PV  (1+i)n =FVn hay PV=FVn/(1+i)n Trong đó - PV: giá trị hiện tại - FVn: giá trị tương lai sẽ được thanh toán của số tiền sau thời gian tín dụng.
  6. - Trường hợp những khoản tín dụng trả từng phần cố định vào thời điểm cuối mỗi năm trong suốt thời kỳ tín dụng thì ta có: PV=FP/(1+i)1+FP/(1+i)2+…+FP/(1+i)n Trong đó FP: khoản thanh toán hàng năm đã biết. Để tính lãi suất hoàn vốn (i) ta phải giải các phương trình trên. - Đối với trái phiếu Coupon, người sở hữu trái phiếu Coupon sẽ được thanh toán số lợi nhuận ở dạng tiền Coupon cố định hàng năm và đến năm cuối cùng của kỳ hạn sẽ nhận nốt số Coupon cuối cùng và toàn bộ tiền vốn. Do đó ta có: PV = C/(1+i)1 + C/(1+i)2 + … + C/(1+i)n + F/(1+i)n Trong đó: - C là số tiền coupon cố định nhận được hàng năm. - F là số tiền vốn nhận được vào năm cuối cùng của kỳ hạn. Giải phương trình trên ta được lãi suất hoàn vốn (i) của trái phiếu Coupon. Việc giải các phương trình trên được thực nhờ các phần mềm tính toán của máy tính hoặc tra bảng. Nhằm làm đơn giản việc tính toán lãi suất hoàn vốn của các trái phiếu trên thương trường một cách nhanh chóng, ngay cả khi không có máy tính cá nhân và bảng số, hai hình thức vận dụng lãi suất hoàn vốn là lãi suất hoàn vốn hiện hành và lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm. 1.2.3.1. Lãi suất hoàn vốn hiện hành. Phương pháp tính: bằng tỷ số giữa tiền thanh toán coupon hàng năm với giá của trái phiếu đó. ic = C/Pcb Trong đó: - ic là lãi suất hoàn vốn hiện hành của trái phiếu coupon. - Pcb là giá của trái phiếu coupon. -C là tiền coupon hàng năm. 1.2.3.2. Lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm.
  7. Sử dụng cho các loại trái phiếu chiết khấu hay tính giảm, tức là để trả thu nhập cho người mua người ta bán trái phiếu với giá thấp hơn mệnh giá của nó. Để đơn giản người ta tính tỷ suất lợi nhuận của trái phiếu và coi tỷ suất đó như là lãi suất hoàn vốn: itg = {(F - Ptg)/F}(360/N) Trong đó: - itg là lãi suất hoàn vốn trên cơ sở tính giảm. - F là mệnh giá của trái phiếu tính giảm. - Ptg là giá bán trái phiếu. - N số ngày tới khi đến hạn thanh toán của trái phiếu. 1.3. Một số phân biệt về lãi suất. 1.3.1. Lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa. Tỷ lệ lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa. Vì vậy, lãi suất thực luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên. - Trường hợp tỷ lệ lạm phát (ii) không lớn hơn 10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có liên hệ với nhau qua công thức: ir = in + ii Trong đó: - ir là lãi suất thực - in là lãi suất danh nghĩa - ii là tỷ lệ lạm phát - Trường hợp tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% thì lãi suất thực phải tính theo công thức sau: in - ii ir = ––– ii + 1 Ta thấy tỷ lệ lạm phát càng cao, lãi suất thực càng thấp. 1.3.2. Lãi suất và tỷ suất lợi tức.
  8. Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền lãi trên số tiền vốn cho vay. Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ phần trăm của số thu nhập của người có vốn trên tổng số vốn anh ta đã đưa vào sử dụng (đầu tư hay cho vay). - Ví dụ về lãi suất và tỷ suất lợi tức: Ông A mua một trái phiếu kho bạc có thời hạn là 1 năm, mệnh giá là 1.000.000 VND với lãi suất cố định là 6% năm. Nếu ông A giữ trái phiếu đó cho đến ngày đáo hạn và nhận khoản thu nhập bằng 6% mệnh giá trái phiếu và đúng bằng lãi suất của trái phiếu. Nhưng nếu lãi suất trên thị trường là 5%, ông A đem bán trái phiếu này và thu được 1.200.000 VND, thì lúc này khoản thu nhập của ông A là 200.000 VND và tỷ suất lợi tức là 20%. Như vậy, lãi suất không nhất thiết phải bằng với tỷ suất lợi tức. Trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, ngoài một tỷ lệ lãi nhất định các tổ chức này còn đòi hỏi người vay tiền phải trả thêm các khoản phí, và do đó, tổng thu nhập từ những khoản cho vay không chỉ là phần tiền lãi có được do lãi suất cho vay mang lại mà còn cộng thêm các khoản chi phí trên. Tỷ lệ % của tổng thu nhập (còn gọi là chi phí tài chính đối với người đi vay) trên số vốn cho vay chính là tỷ suất lợi tức hay lãi suất hiệu quả của tổ chức tín dụng. 1.3.3. Các lãi suất cơ bản của ngân hàng. Ba loại lãi suất cơ bản của ngân hàng thường được quan tâm hơn cả bao gồm lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay và lãi suất liên ngân hàng. - Lãi suất tiền gửi thông thường là lãi suất mà ngân hàng thương mại (NHTM) trả cho người gửi tiền trên số tiền ở tài khoản tiền tiết kiệm, lãi suất tiền gửi được xác định thông qua công thức: itg = icb + ii Trong đó: - itg là lãi suất tiền gửi. - icb là tỷ lệ lãi cơ bản của ngân hàng trả cho từng loại tiền gửi khác nhau. - Lãi suất cho vay là lãi suất mà ngân hàng cho các cá nhân, tổ chức vay vốn trong thời hạn nhất định, tuỳ theo tính chất của món vay và thời gian vay vốn mà lãi suất cho vay được xác định khác nhau, tuy vậy lãi suất cho vay thường được xác định dựa trên cơ sở của lãi suất tiền gửi:
  9. icv = itg + X Trong đó: - icv là lãi suất cho vay. - X là chi phí nghiệp vụ của ngân hàng. - Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng cho nhau vay tiền tệ như lãi suất LIBOR hay PIBOR... tương ứng với lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng London hay Paris... 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. 2.1. Cung cầu của quỹ cho vay. Lãi suất là giá cả của cho vay chính vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ làm thay đổi mức lãi suất trên thị trường Từ đó cho thấy ta có thể điều chỉnh mức lãi suất trên thị trường bằng cách tác động vào cung cầu vốn trên thị trường mặt khác muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc. 2.2. Lạm phát dự tính. Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng lên (hiệu ứng Fisher). Nguyên nhân: - Xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa cho thấy để duy trì lãi suất thưc không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. - Công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ mạnh… chính điều này sẽ làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các ngân hàng cũng như trên thị trường. 2.3. Hoạt động thu, chi ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước vừa là nguồn cung tiền gửi vừa là nguồn cầu tiền vay đối với ngân hàng. Do đó, sự thay đổi giữa thu, chi ngân sách Nhà nước là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất. Ngân sách bội chi hay thu không kịp tiến độ sẽ dẫn
  10. đến lãi suất tăng. Để bù đắp, chính phủ sẽ vay dân bằng cách phát hành trái phiếu. Như vậy lượng tiền trong dân chúng sẽ bị thu hẹp làm tăng lãi suất. Ngoài ra khi thâm hụt ngân sách đã trực tiếp làm cầu về quỹ cho vay trong các định chế tài chính tăng lên, trong khi cung lại giảm và nâng cao lãi suất hoặc người dân dự đoán lạm phát sẽ tăng cao do Nhà nước tăng khối lượng cung ứng tiền tệ, dẫn tới việc găm tiền lại để mua tài sản khác làm cung quỹ cho vay bị giảm một cách tương ứng và lãi suất tăng lên. 2.4. Thay đổi của thuế. Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty khi tăng lên có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Mọi người đều quan tâm tới lợi nhuận sau thuế hay thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa do đó để đảm bảo mức lợi nhuận thực tế họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. Vấn đề xác lập và điều chỉnh thuế cho phù hợp nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn. 2.5. Tỷ giá. Tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát… trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay làm cho không một quốc gia nào, nếu muốn tồn tại và phát triển, lại không tham gia thực hiện phân công lao động và thương mại quốc tế. Thông qua quá trình trao đổi buôn bán giữa các nước, tỷ giá (tỷ giá được niêm yết theo phương pháp biểu hiện trực tiếp) của một nước tăng, xuất khẩu tăng lên nguồn thu ngoại tệ tăng lên. Điều đó làm tăng cung ngoại tệ, tương đương với việc tăng cầu nội tệ kết quả là làm lãi suất tăng lên. Bằng cách lập luận tương tự, chúng ta sẽ thu được một mức lãi suất nội tệ thấp hơn nếu tỷ giá giảm, đồng nội tệ có giá hơn. Tóm lại, khi mức giá của đồng tiền một nước so với các nước khác giảm xuống thì một ước đoán hợp lý là lãi suất trong nước sẽ tăng lên và ngược lại. 2.6. Những thay đổi trong đời sống xã hội.
  11. Ngoài những yếu tố ở trên, lãi suất còn rất nhạy cảm với những biến đổi của tình hình kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới... Từ cuối năm 2000, nền kinh tế Mỹ rơi vào tỡnh trạng suy thoỏi. Cỏc nền kinh tế lớn khỏc trờn thế giới : Tõy Âu, Nhật Bản,... cũng rơi vào tỡnh trạng trỡ trệ. Để cứu vón xu thế đó, từ ngày 4-1-2001, Cục dự trữ liên bang Mỹ - FED (Ngân hàng trung ương của nước này) đó 11 lần hạ lói suất chủ đạo của mỡnh, từ 6,5%/năm (trước tháng 1-2001) lần lượt xuống cũn 1,75%/thỏng (từ 12-12-2001), thấp nhất trong vũng hơn 30 năm qua trong lịch sử nền kinh tế Mỹ. Ngân hàng trung ương Nhật Bản (BOJ) hạ lói suất của mỡnh xuống bằng 0. Ngõn hàng trung ương châu Âu (ECB) cũng nhiều lần hạ lói suất của mỡnh... Tỏc động dây chuyền của lói suất trờn cỏc thị trường chủ chốt của thế giới : Thị trường liên ngân hàng Luân Đôn (LIBOR), Thị trường liên ngân hàng Xin-ga-po (SIBOR),... cũng liên tục giảm. Ở Việt Nam, để hạn chế tác động tiêu cực của xu hướng suy giảm nền kinh tế toàn cầu từ đầu năm 2001 đến nay, ngân hàng nhà nước (NHNN) đó cắt giảm lói suất cơ bản đối với đồng Việt Nam (VND) tới 4 lần, từ mức 0,75%/tháng, xuống cũn 0,725%, 0,65% và 0,60%/thỏng (từ 1-11-2001) ; đồng thời, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi cấp vốn, từ mức 0,50% xuống 0,45%/thỏng rồi 0,40%, 2 lần cắt giảm lói suất tỏi chiết khấu từ 0,45%/tháng xuống 0,40% rồi 0,35%. 3. ảnh hưởng của lãi suất trong nền kinh tế. 3.1. Lãi suất với quá trình huy động vốn. Đối với Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế thì vấn đề tích luỹ và sử dụng vốn có tầm quan trọng đặc biệt cả về phương pháp nhận thức và chỉ đạo thực tiễn. Vì vậy chính sách lãi suất có vai trò hết sức quan trọng trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và các tổ chức kinh tế đảm bảo đúng định hướng vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng trong chiến lược CNH-HĐH nước ta hiện nay. Việc áp dụng một chính sách lãi suất hợp lý đảm bảo nguyên tắc: lãi suất phải bảo tồn được giá trị vốn vay, đảm bảo tích luỹ cho cả người cho vay và người đi vay. Cụ thể: + Tỷ lệ lạm phát< lãi suất tiền gửi < lãi suất tiền vay < tỷ suất lợi nhuận bình quân. + Lãi suất ngắn hạn < lãi suất dài hạn (đối với cả tiền gửi và tiền vay)
  12. Lãi suất có khả năng điều tiết một cách tự nhiên lượng vốn lưu thông từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ người có vốn sang người cần vốn để đưa vốn vào sử dụng trong các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế và xã hội. Mức lãi suất nhỏ hơn mức hợp lí sẽ khiến người vay đánh giá thấp giá trị sử dụng của đồng vốn dẫn đến đầu tư không hiệu quả, lãng phí nguồn vốn, gây thiệt hại cho bản thân người đi vay lẫn người cho vay và hơn nữa, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, mức lãi suất cao hơn mức hợp lí tức là đánh giá quá cao giá trị sử dụng của đồng vốn thì chỉ có tác dụng khuyến khích người cho vay, làm cho vốn trở nên dư thừa, ứ đọng, không được đầu tư vào sản xuất kinh doanh, không sinh lãi, lúc đó đồng vốn trở thành “vốn chết” không còn tác dụng gì nữa. 3.2. Lãi suất với quá trình đầu tư. Quá trình đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản cố định được thực hiện khi mà họ dự tính lợi nhuận thu được từ tài sản cố định này nhiều hơn số lãi phải trả cho các khoản đi vay để đầu tư. Do đó khi lãi suất xuống thấp các hãng kinh doanh có điều kiện tiến hành mở rộng đầu tư và ngược lại. Trong môi trường tiền tệ hoàn chỉnh, ngay cả khi một doanh nghiệp thừa vốn thì chi tiêu đầu tư có kế hoạch vẫn bị ảnh hưởng bởi lãi suất, bởi vì thay cho việc đầu tư vào mở rộng sản xuất doanh nghiệp có thể mua chứng khoán hay gửi vào ngân hàng nếu lãi suất của nó cao. Đặc biệt trong thời kỳ nền kinh tế bị đình trệ, hàng hoá ứ đọng và xuống giá, có dấu hiệu thừa vốn và áp lực lạm phát thấp cần phải hạ lãi suất vì nguyên tắc cơ bản là lãi suất phải nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của đầu tư, sự chênh lệch này sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô đầu tư. 3.3. Lãi suất với tiêu dùng và tiết kiệm. Thu nhập của một hộ gia đình thường được chia thành hai bộ phận: tiêu dùng và tiết kiệm. Tỷ lệ phân chia này phụ thuộc vào nhiều nhân tố như thu nhập, vấn đề hàng hoá lâu bền và tín dụng tiêu dùng, hiệu quả của tiết kiệm trong đó lãi suất có tác dụng tích cực tới các nhân tố đó. Khi lãi suất thấp chi phí tín dụng tiêu dùng thấp, người ta vay nhiều cho việc tiêu dùng hàng hoá nghĩa là tiêu dùng nhiều hơn, khi lãi suất cao đem lại thu nhập từ khoản tiền để dành nhiều hơn sẽ khuyến khích tiết kiệm, do đó tiết kiệm tăng. 3.4. Lãi suất với tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu.
  13. Như ta đã biết, tỷ giá là giá cả tiền tệ của nước này thể hiện bằng đơn vị tiền tệ của nước khác. Tỷ giá do quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối quyết định và chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như cán cân thanh toán quốc tế, cung cầu ngoại tệ, lạm phát…Lãi suất luôn là một công cụ tác động mạnh đến tỷ giá và hoạt động xuất nhập khẩu. Trong điều kiện thị trường mở, nếu lãi suất (lãi suất thực tế) trong nước tăng sẽ thu hút một lượng vốn lớn từ bên ngoài vào làm cho cầu nội tệ tăng lên dẫn đến giảm tỷ giá, tỷ giá giảm sẽ khiến cho xuất khẩu giảm, nhập khẩu tăng và ngược lại. Như vậy, bằng việc tác động vào lãi suất có thể bình ổn được tỷ giá và điều chỉnh hoạt động xuất nhập khẩu. Đây là một phương pháp điều chỉnh tỷ giá đơn giản tuy nhiên lại không dễ thực hiện do khi lãi suất trong nước thay đổi sẽ dễ dẫn đến một cuộc cạnh tranh về lãi suất giữa các nước nhằm đảm bảo lợi ích cho nước mình. Mặt khác lãi suất cũng là một công cụ quá mạnh có thể ảnh hưởng đến hàng loạt biến kinh tế vĩ mô khác do đó việc sử dụng chính sách lãi suất phải hết sức thận trọng. 3.5. Lãi suất với lạm phát. Lạm phát là tình trạng tăng liên tục mức giá chung của nền kinh tế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong thời kỳ lạm phát, tăng lãi suất sẽ cho phép hệ thống ngân hàng có thể thu hút phần lớn số tiền có nhiều trong lưu thông khiến cho đồng tiền trong lưu thông giảm, cơ số tiền và lượng tiền cung ứng giảm, lạm phát được kiềm chế. Như vậy, lãi suất cũng góp phần chống lạm phát. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ lãi suất trong chống lạm phát không thể duy trì lâu dài vì lãi suất tăng sẽ làm giảm đầu tư, giảm tổng cầu và làm giảm sản lượng. Do vậy lãi suất phải được sử dụng kết hợp với các công cụ khác thì mới có thể kiểm soát được lạm phát, ổn định giá cả, ổn định đồng tiền. Một chính sách lãi suất phù hợp là sự cần thiết cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế. 4. Các chính sách lãi suất cơ bản. 4.1. Tự do hoá lãi suất. Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung-cầu vốn trên thị trường, loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành của lãi suất. Nó cho phép các ngân hàng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất kinh doanh của mình.
  14. Tự do hoá tài chính (đặc biệt là tự do hoá lãi suất) góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức và nâng cao hiệu quả hệ thống tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tại sao mức độ thành công tự do hoá lãi suất của các quốc gia khác nhau lại không giống nhau, thậm chí gây hiệu quả tiêu cực? (úc, Nhật, New Zealand, Mỹ, Malaysia... có những thành công nhất định, trong khi Phillipines, Thổ Nhĩ Kỳ, Chi Lê, Achentina, Uruguay....lại thất bại). Câu trả lời nằm trong cách thức và tiến trình tự do hoá. Vấn đề ở đây chính là tiến hành những bước đi, cách thức trong quá trình tự do hoá lãi suất ở các quốc gia, nếu quốc gia nào trong quá trình tiến hành tự do hoá lãi suất mà có những chính sách phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia mình thì chúng ta thấy được rằng họ đã thành công, ngược lại những quốc gia tiến hành một cách máy móc không chú ý đến những điều kiện khách quan của đất nước mình thì cầm chắc thất bại. Như trường hợp Malaysia, từ năm 1981, đã cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó, ngân hàng trung ương nhận thấy rằng trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự xác định mức lãi suất cơ bản như vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến cạnh tranh quá mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp thời vấn đề nêu trên và nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985-1986), vào năm 1987, Malaysia chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo có sự phối hợp chỉ đạo của ngân hàng trung ương, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các NHTM. Nhờ đó mà lãi suất đã được quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trường, và dựa trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản, để điều hành lãi suất, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, họ cũng có áp dụng một số lãi suất có điều tiết mà được xây dựng dựa trên cơ sở lãi suất chiết khấu, thông thường theo cách này họ xác định được lãi suất cơ bản chính là sàn lãi suất cho vay nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Ngoài ra, lãi suất trên thị trường như lãi suất trên các thị trường liên ngân hàng, lãi suất trên thị trường mở (CD markets và Gensaki markets) là lãi suất tự do, có nghĩa là được tự do xác định trên cơ sở cung cầu về vốn.
  15. Đối với những nước điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế tự do hoá hoàn toàn như của Anh và Mỹ, lãi suất được công bố dựa hoàn toàn trên cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là chú trọng lãi suất chào hàng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng (như lãi suất LIBOR, SIBOR... ) và lấy đó làm mặt bằng cơ sở chung để điều hành chính sách lãi suất; tuy nhiên, để thực hiện điều hành chính sách lãi suất theo cơ chế này đòi hỏi các nước áp dụng phải có nền kinh tế thực sự phát triển và ổn định, đồng thời có đầy đủ các công cụ và các chế tài cần thiết để can thiệp khi diễn ra những biến động về tài chính, tiền tệ và ngay cả trong trường hợp lãi suất đang ổn định và do thị trường quyết định thì các nhà quản lý và điều hành chính sách tiền tệ vẫn có thể can thiệp theo cách này hoặc cách khác nhằm đạt được các mục đích kinh tế, chính trị và xã hội đặt ra. 4.2. Kiềm chế lãi suất. Đối với những nước theo đuổi chính sách tài chính kiềm chế và đặc biệt là các nước có nền kinh tế được tổ chức theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, vai trò của lãi suất không được nhìn nhận một cách đúng đắn: lãi suất mang nặng tính chất bao cấp về tài chính trong toàn bộ khu vực kinh tế quốc doanh và đảm bảo cho yêu cầu về “giới hạn ngân sách mềm” trong các hoạt động chi tiêu của chính phủ. Thực tế cho thấy hậu quả đối với các nước này là những mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu trong vốn đầu tư; không thể kiểm soát được lạm phát và sự biến động của tỷ giá hối đoái; tình trạng thiếu vốn trầm trọng do không có khả năng huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả; hệ thống thị trường tài chính bị chia cắt manh mún không thể kiểm soát nổi và đầy rãy rủi ro cho nên không thể góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở các nước này. Việt Nam trước cải cách là một ví dụ minh hoạ sinh động cho trường hợp này mà ta sẽ nghiên cứu ở chương tiếp theo. Chương II. Những chính sách lãi suất ở
  16. Việt Nam trong thời gian qua 1. Chính sách lãi suất âm. Trước những năm 1988-1989, vào thời kỳ quan liêu bao cấp, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Nhà nước trực tiếp quản lý lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất, có thể nói đây là chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt theo kiểu hành chính: Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 và 2 pháp lệnh về NH (1/10/1990) NHNN qui định cụ thể các loại lãi suất tiền gửi và tiền vay. Tuy theo thời gian lãi suất có được điều chỉnh, nhưng do lạm phát phi mã lãi suất luôn trong tình trạng âm. Điều này có nghĩa là: + Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát + Lãi suất cho vay < lãi suất huy động < tỷ lệ lạm phát Hệ thống lãi suất có nhiều tiêu cực: - Chính sách lãi suất cứng nhắc khiến cho các NHTM không linh hoạt trong hoạt động tín dụng trước mọi biến động của nền kinh tế. - Lãi suất tín dụng luôn ở mức quy định bắt buộc nên không khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM. - Lãi suất tiền gửi < tỷ lệ lạm phát nên không khuyến khích người dân và các tổ chức gửi tiền vào ngân hàng. Do đó chỉ huy động được vốn ngắn hạn mà lại cho vay trung và dài hạn, kết quả là lỗ. Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều. - Lãi suất cho vay < lãi suất huy động vốn và tỷ lệ lạm phát nên ngân hàng trong tình trạng bao cấp đối với doanh nghiệp vay vốn và thông qua hệ thống tín dụng lãi suất thấp luôn trong tình trạng lỗ hoạt động Ngân hàng không ổn định. - Vì lãi suất cho vay < lãi suất huy động nên các doanh nghiệp thị nhau vay vốn, tìm mọi cách, mọi cơ hội vay vốn để được hưởng bao cấp. - Doanh nghiệp vay nhiều nhưng lợi nhuận thu được không phải do sản xuất kinh doanh mà do hưởng bao cấp của NHTM tạo mức lợi nhuận giả cho các doanh nghiệp, gây trì trệ quá trình đầu tư phát triển sản xuất. 2. Chính sách lãi suất dương. Sau năm 1988 hệ thống ngân hàng hai cấp hình thành. Chính phủ giao cho NHNN điều hành lãi suất, điều chỉnh lãi suất theo yếu tố biến động của thị trường mà quan trọng nhất là lạm phát. Thực hiện cuộc cải cách, để thu hút tiền thừa trong lưu thông
  17. về, kìm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất,với quyết định 29/NH ngày 16/3/1989 lãi suất huy động được nâng lên một mức cao theo tỉ lệ lạm phát (lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn 9%/tháng-tức là 109%/năm, lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng-144 %/năm). Những thành công của việc thực thi chính sách lãi suất dương: - Thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát. - Xoá bỏ bao cấp qua tín dụng ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự. - Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn tỉ lệ lạm phát, lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động, xử lí hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng. - Lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao, các doanh nghiệp buộc phải cân nhắc việc vay vốn đầu tư, phải xem xét và lựa chọn các phương án đầu tư có hiệu quả nhất. Cơ cấu tổ chức các doanh nghiệp được tổ chức một cách hợp lý hơn, giảm thiểu bộ phận quản lý cồng kềnh để giảm thiểu chi phí. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay. - Đối với từng ngành kinh tế có mức lãi suất riêng. - Đối với các thành phần kinh tế còn có phân biệt lãi suất. Tuy có nhiều tác động tích cực nhưng nếu kéo dài tình trạng chênh lệch lớn lãi suất tiền gửi và lạm phát sẽ dẫn đến tác động xấu. - Do lãi suất tiền gửi cao dẫn đến lãi suất cho vay cao nên càng khuyến khích gửi tiền hơn là vay tiền. Bên cạnh đó, lãi suất thực dương cao của ngân hàng đem lại khả năng thu được lợi nhuận lớn hơn là đưa tiền vào đầu tư mà rủi ro lại thâp nên cũng khuyến khích cac doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng vay giảm dẫn đến tài sản nợ trong bảng cân đối của NHTM lớn hơn tài sản có. Như vậy cho dù lãi suất thực dương thì chưa chắc chắn NHTM đã hoạt động kinh doanh có lãi, nếu kéo dài tình trạng như vậy sẽ bị lỗ. - Lãi suất vay vốn không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mà các doanh nghiệp tích cực gửi tiền vào ngân hàng hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng giảm
  18. quy mô đầu tư dẫn đến một lực lượng lớn thất nghiệp không có lợi cho sự phát triển chung của nền kinh tế. - Trong tổng số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh, một phần lớn là đi vay của ngân hàng, bởi lãi suất vốn cao dẫn đến chi phí sản xuất kinh doanh lớn do đó giá thành phẩm cao, giá hàng hoá cao và như vậy hàng hoá sẽ giảm tính cạnh tranh trên thị trường. Ngày 1-6-1992 thống đốc NHNN đã quyết định điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng: - Đảm bảo lãi suất thực tế dương, lãi suất tín dụng ngân hàng không thấp hơn lãi suất tiền gửi. - Ngân hàng nhà nước chỉ quy định mức cho vay tối đa và mức tiền gửi tối thiểu cụ thể với từng đối tượng vay vốn, còn mức lãi suất cụ thể sẽ do các NHTM tự quyết định trên cơ sở cung cầu về vốn tín dụng. - Thực hiện chính sách lãi suất bình đẳng đối với tất cả các thành phần kinh tế. Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần tập trung được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư phát triển, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, ổn định và kích thích tăng trưởng. Năm 1992, lạm phát giảm mạnh từ 67,6% (1991) xuống 14,5% , tăng trưởng kinh tế từ 6% (1991) lên 8,6%. Năm 1993 lạm phát đạt mức thấp 5,2% và tăng trưởng kinh tế 8,1%. Mức lãi suất mới đã khắc phục được tình trạng lợi dụng vốn của ngân hàng để khách hàng ăn chênh lệch giá, buộc các doanh nghiệp phải tính toán thu hồi vốn và tăng nhanh quay vòng vốn. Đây là bước khởi đầu, tạo cơ sở cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất và tạo đòn bẩy quan trọng để các NHTM chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. 3. Trần lãi suất. Từ ngày 1/ 10/1993: NHNN vừa áp dụng lãi suất trần (cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận. Theo quyết định 184/QĐNH1 ngày 28-9-1993, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho phép các tổ chức tín dụng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể: a)Trần lãi suất: Đối với doanh nghiệp nhà nước 1,8% / tháng, kinh tế ngoài quốc doanh 2,1 % / tháng.
  19. b)Thoả thuận: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kì phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kì hạn là 0,2 %/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng. Trên thực tế, khoảng 30-60 % tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5 % tháng. Các ngân hàng đạt mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động khoảng từ 0,7% - 1%/tháng làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và nông dân gặp nhiều khó khăn. Tác động tích cực - Nhờ những định mức trần lãi suất mà hạn chế được phần nào tình trạng lãi suất thực dương quá cao trong thời kỳ trước và do đó trong các NHTM cũng dần cân bằng giữa tài sản nợ và tài sản có, đảm bảo được lợi nhuận. Các doanh nghiệp cũng cần có thêm cơ hội vay vốn kinh doanh và mở rộng quy mô vốn đầu tư. - Nhờ có lãi suất thoả thuận mà hoạt động tín dụng giữa NHTM và doanh nghiệp linh hoạt hơn phù hợp với các đặc điểm hoạt động và tình hình cung cầu vốn, chính sách khách hàng va cạnh tranh của từng tổ chức tín dụng và chủ động điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất. Những hạn chế - Việc quy định lãi suất trần vẫn mang dáng dấp quản lý hành chính đối với một công cụ vô cùng nhạy bén và mang đậm tính thị trường và do đó vẫn hạn chế tính linh hoạt của NHTM trong hoạt động tín dụng, không tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng. - Sự chệnh lệch cao giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đã đem lại cho các NHTM một số lợi nhuận đã khiến cho các ngân hàng không chú trọng việc tiết kiệm chi phí hoạt động. - Cơ chế lãi suất hiện hành thực sự gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc vay vốn sản xuất nhất là đầu tư sản xuất trong trung và dài hạn do chính các ngân hàng cũng khó huy động và có thể cho vay ở mức lãi suất cao.
  20. - Lãi suất cao làm cho người kinh doanh chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất có lợi nhuận cao tức thời và thu hồi vốn nhanh như: dịch vụ, thương mại, sản xuất nhỏ mất cân đối trong nền kinh tế Từ thực tế này, quốc hội khoá IX trong kì họp thứ 8 tháng 8/1995 cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng nhân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/ tháng. Đây là lý do để ra đời chế độ lãi suất trần hoàn toàn và bỏ lãi suất cho vay thoả thuận. Từ ngày 1/1/1996: Thực hiện chính sách trần lãi suất và khống chế chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng Quyết định của Thống đốc ngân hàng nhà nước số 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 quy định chính sách trần lãi suất có phân biệt theo từng khu vực như sau: - Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: Là mức lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu vực thành thị. - Trần lãi suất cho vay trung hạn và dài hạn. cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn một chút do thời gian dài dễ gặp rủi ro. - Trần lãi suất cho vay trên địa bàn nông thôn: Cao hơn trần lãi suất ngắn hạn, trung hạn và dài hạn do điều kiện hoạt động và địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị. - Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: Là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm quy mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao. Cụ thể : từ mức trần 1,75%/tháng dành cho khu vực thành thị và 2%/tháng dành cho khu vực nông thôn, lãi suất trần đã áp dụng thống nhất cho cả hai khu vực là 1,2%/tháng đối với vay ngắn hạn và 1,25%/tháng đối với vay trung và dài hạn. Từ đó đã hình thành một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về phương diện “giá cả” của nó - đó là một hành lang mà đường biên cứng là mức lãi suất trần cho vay, còn đường biên còn lại thì không cố định mà được thay thế bằng mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không được quá 0,35%/tháng. Tác động tích cực.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
32=>2