intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Du lịch nghệ an trong hội nhập kinh tế quốc tế

Chia sẻ: Buiduong_1 Buiduong_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:136

173
lượt xem
41
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Du lịch là một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống, đặc biệt là trong một xã hội phát triển như hiện nay. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về vui chơi giải trí ngày càng tăng. Cùng đóng góp vào nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu du lịch toàn cầu, Việt Nam với rất nhiều phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp mà thiên nhiên ban tặng, cùng với nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, là một trong những quốc gia đầy sức hấp dẫn đối với khách du lịch....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Du lịch nghệ an trong hội nhập kinh tế quốc tế

  1. Luận văn Du lịch nghệ an trong hội nhập kinh tế quốc tế
  2. 2 MỤC LỤC Trang 1 mở đầu Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về du lịch trong hội nhập 7 k inh tế quốc tế 1.1. Du lịch và đặc điểm của du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế 7 1.2. Vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ hội nhập 18 1.3. Kinh nghiệm của một số tỉnh, thành phố và một số nước trong khu vực để phát triển dịch vụ du lịch 25 39 Chương 2: Thực trạng du lịch Nghệ An thời kỳ 2002-2007 2.1. Những tiềm năng và lợi thế của Nghệ An cho phát triển du lịch 39 2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh du lịch Nghệ An thời kỳ 2002-2007 57 2.3. Những vấn đề đặt ra cần tháo gỡ để phát triển du lịch Nghệ An 81 2.4. Những nguyên nhân dẫn đến các tồn tại cản trở phát triển ngành du lịch ở Nghệ An 83 Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu phát triển du lịch Nghệ 85 An thời kỳ 2008-2020 3.1. Những quan điểm và phương hướng chủ yếu phát triển du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế 85 3.2. Những giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Nghệ An thời kỳ 2008-2020 88 122 kết luận 123 danh mục tài liệu tham khảo phụ lục
  3. 3 danh mục các chữ viết tắt trong luận Văn Bộ Công An BCA BKTĐ Bách khoa Thời đại Bảo tồn Bảo tàng BTBT Cán bộ công nhân viên CBCNV Cộng ho à Dân chủ Nhân dân CHDCND Công nghiệp hóa CNH Chính phủ CP Doanh nghiệp Nhà nước DNNN ĐH&THCN Đ ại học và Trung học chuyên nghiệp GD&ĐT Giáo dục và đào tạo Giáo sư GS. HĐH Hiện đại hóa Học viện Chính trị Quốc gia HVCTQG Kinh tế xã hội K T - XH Khoa học KH KH&ĐS Khoa học và đời sống Khoa học xã hội KHXH Kiến thức ngày nay KTNN Nghiên cứu Văn hóa nghệ thuật NCVHNT Nghiên cứu nghệ thuật NCNT Nghiên cứu sinh NCS. NĐ Nghị định Nhà xuất bản Nxb. Phụ lục PL Thế giới mới TGM Thành phố Tp Thành phố Hồ Chí Minh Tp HCM Tr. Trang Tiến sĩ TS. Thông tin Khoa học và Công nghệ TTKH&CN Trung ương TW U ỷ ban Nhân dân UBND Văn hóa VH Văn hóa Du lịch VHDL Văn hóa nghệ thuật VHNT Văn hóa thông tin VHTT
  4. 4 Danh mục các bảng biểu, sơ đồ Trang Biểu 2.1: Hiện trạng khách du lịch đến Nghệ An thời kỳ 2002-2007 59 Biểu 2.2: Kết quả phục vụ khách theo tour trọn gói thời kỳ 2002-2007 59 Biểu 2.3: Hiện trạng doanh thu du lịch thời kỳ 2002-2007 60 Biểu 2.4: Cơ cấu doanh thu du lịch 60 Biểu 2.5: Hiện trạng cơ sở lưu trú ngành du lịch thời kỳ 2002-2007 61 Biểu 2.6: Công suất sử dụng phòng 61 Biểu 2.7: Số lượng cơ sở lưu trú thời kỳ 2002-2007 67 Biểu 2.8: Số lao động trong ngành du lịch 69 Biểu 2.9: Chất lượng lao động trong ngành du lịch năm 2005-2007 70 Biểu 2.10: Kết quả đầu tư cơ sở lưu trú thời kỳ 2000-2007 74 Biểu 3.1: Dự báo nhu cầu khách sạn thời kỳ 2008-2020 104 Biểu 3.2: Danh mục các dự án đầu tư từ năm 2008-2020 107 Biểu 3.3: Dự báo nhu cầu lao động trong du lịch thời kỳ 2008-2020 111 Sơ đồ 2.1: Tổ chức bộ máy quản lý du lịch trên đ ịa bàn tỉnh Nghệ An 79
  5. 5 mở đầu 1 . Tính cấp thiết của đề tài Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Từ những năm 50, 60 của thế kỷ XX du lịch quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm tương đối nhanh và đã trở thành nhu cầu không thể thiếu được trong làn sóng văn hoá - xã hội. Du lịch đang trở thành ngành công nghiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển KT-XH, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Du lịch không những mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế, mà nó còn chứa đựng đầy bản sắc nhân văn. Du lịch phát triển thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành sản xuất dịch vụ khác, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội, góp phần bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, xoá đói giảm nghèo. Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, với chủ trương đổi mới để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng x ã hội chủ nghĩa, Đ ảng và Nhà nước ta đ ã có phương hướng phát triển ngành du lịch phù hợp với du lịch thời đại qua các Chỉ thị, Nghị quyết, Chương trình hành động quốc gia về Du lịch. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định "Phát triển du lịch thực sự là một ngành kinh tế mũi nhọn". Đây là một kết quả khảo cứu lý luận và tổng kết thực tiễn hoạt động du lịch trong nước và quốc tế, là đ ịnh hướng và quan điểm chỉ đạo phát triển du lịch. Nhờ đó trong những năm qua Du lịch Việt Nam thực sự bước vào thời kỳ phát triển mới và ngày càng khẳng định vị trí vai trò của mình trong nền kinh tế của đất nước. Đ ặc biệt bước vào Thế kỷ 21, trong bối cảnh xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc và toàn diện tới đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong các quốc gia và các quan hệ quốc tế đã tạo một động lực mạnh mẽ cho sự tham gia của các nước vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực trong đó có lĩnh vực du lịch. Kinh tế du lịch Việt Nam đang tham gia vào nhịp sống chung của kinh tế thế giới và đã thực sự khẳng định được vị
  6. 6 thế trong nền kinh tế quốc dân của quốc gia trong giai đoạn hiện nay. Du lịch sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, nâng cao uy tín trên trường quốc tế, mở rộng quan hệ với các nước, tiếp cận với môi trường du lịch có quy mô toàn cầu mang tính hệ thống nhưng đồng thời phải đối phó với không ít khó khăn và thách thức. Trong xu thế phát triển đó, Nghệ An – một tỉnh nằm trong khu vực Bắc Trung bộ – nơi tập trung nhiều nguồn tài nguyên du lịch có giá trị quốc gia và quốc tế, có đ ường biên giới giáp với nước bạn Lào anh em đang có nhiều cơ hội vươn dậy trong thời đại mới. Là nơi thắt lại của dải miền Trung, một trong những yết hầu trên con đường xuyên Việt, nằm giữa các trung tâm du lịch quan trọng của cả nước: H ạ Long, Hà Nội, Huế, Quảng Nam, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh, có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường hàng không khá phát triển, đã tạo cho Nghệ An trở thành điểm dừng hợp lý cho các chương trình du lịch trong nước đi từ Bắc vào Nam và tuyến du lịch quốc tế đi từ Đông Bắc Thái Lan qua Lào sang Việt Nam đến Hà Nội theo đường 7 và đường 8. V ới diện tích 18.480 km2, 83% lãnh thổ là núi, rừng với thảm thực vật phong phú, đa dạng, có Vườn quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống, Pù Hoạt là những kho tàng bảo tồn đa dạng sinh học chứa đựng sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Hơn nữa, Nghệ An lại có 82 km đường bờ biển với nhiều bãi tắm đẹp như bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết (Nghi Lộc), Diễn Thành (Diễn Châu), các bãi ở Quỳnh Lưu... đã tạo nên những khu vực cảnh quan, những điểm nghỉ dưỡng biển đầy sức lôi cuốn. Đ ặc biệt, Nghệ An còn có khu di tích Kim Liên - Nam Đàn, quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh – Nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, danh nhân văn hoá thế giới mỗi năm thu hút hàng triệu lượt khách du lịch và nhân dân trong nước, quốc tế đến tham quan, chiêm ngưỡng. Chính vì vậy, trong quyết định số 97/2002/QĐ-TTG ngày 22/7/2002 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về
  7. 7 Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010, Nghệ An đ ược xác định là một trong 14 trọng điểm phát triển du lịch của cả nước. Nhận thức rõ những lợi thế và tiềm năng cho phát triển du lịch, năm 1996 Nghệ An đ ã xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch thời kỳ 1996- 2010, xác định phương hướng của Tỉnh là khai thác tài nguyên du lịch theo hướng phát triển du lịch bền vững và có hiệu quả với năm trung tâm du lịch làm hạt nhân: Khu du lịch Cửa Lò, du lịch thành phố Vinh, du lịch Nam Đàn, du lịch Vườn quốc gia Pù Mát và Khu du lịch sinh thái - văn hoá lịch sử Quỳ Châu- Quế Phong. G ần đây nhất, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI nhiệm kỳ 2006- 2010 về Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của Tỉnh cũng đã xác định đưa du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của Tỉnh; phát triển du lịch là một trong 9 chương trình, dự án trọng điểm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An nhiệm kỳ 2006 - 2010. Phải khẳng định rằng, trong những năm qua du lịch Nghệ An đã có b ước phát triển nhanh và ngày càng cho thấy đây là một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, đóng góp cho ngân sách địa phương ngày càng nhiều, góp phần đ ưa KT-XH của tỉnh từng bước được cải thiện. Du lịch phát triển thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa nông thôn, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các tầng lớp nhân dân; nâng cao dân trí, xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt đã đóng góp không nhỏ vào việc ho àn thành các chỉ tiêu đ ặt ra trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 của tỉnh. Tuy Nghệ An là tỉnh giàu tiềm năng du lịch cả về tự nhiên, xã hội và nhân văn, những năm qua du lịch đã có những bước phát triển nhưng kết quả đạt được lại chưa tương xứng với những tiềm năng đó. Tài nguyên du lịch Nghệ An đa dạng, phong phú nhưng không được quản lý, khai thác hợp lý để phát triển đa dạng các loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch nghỉ
  8. 8 dưỡng, du lịch nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá thiên nhiên... Lượng khách du lịch đến Nghệ An tăng nhanh nhưng chủ yếu là khách nội địa, tỷ trọng khách quốc tế rất thấp và chưa có những sản phẩm mang tính đặc thù. Kết cấu hạ tầng đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Hệ thống đ ường giao thông chất lượng còn kém, mới chỉ tiếp cận đến một số khu, điểm du lịch; vấn đề nước sạch, điện, thông tin liên lạc phục vụ cho tiêu dùng chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là đối với các vùng có tiềm năng phát triển loại hình du lịch sinh thái, nghỉ d ưỡng, vùng miền núi, hải đảo. Việc đóng góp vào ngân sách của du lịch so với GDP của tỉnh còn thấp. Nghệ An vẫn là một trong những tỉnh có nguồn đầu tư cho du lịch chưa nhiều, điều kiện tự nhiên chưa được thuận lợi, nhận thức về phát triển du lịch còn hạn chế ... Vì vậy, Du lịch Nghệ An cần có bước phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có và sớm trở thành ngành kinh tế quan trọng, có tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phấn đấu đến năm 2010 đưa Nghệ An ra khỏi tỉnh nghèo. Mặt khác, Du lịch Nghệ An cần có sự đánh giá chân thực, khách quan về thực trạng của phát triển du lịch thời kỳ 2002-2007 để từ đó đề ra các phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Nghệ An trong giai đoạn tiếp theo - thời kỳ 2008 - 2020, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X với mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, sớm đưa du lịch Nghệ An hội nhập với du lịch cả nước và quốc tế. V ới những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập” làm Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành kinh tế chính trị. 2 . Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Là một đề tài nghiên cứu về thực trạng du lịch của Nghệ An vì vậy các công trình nghiên cứu có liên quan hầu hết là các văn bản
  9. 9 - Quy hoạch phát triển du lịch Nghệ An 1996- 2010 (Viện Nghiên cứu phát triển du lịch- Tổng cục Du lịch); - Đ ề án phát triển du lịch Nghệ An 2002-2010 (UBND tỉnh Nghệ An); - Chương trình phát triển du lịch Nghệ An 2006- 2010 (UBND tỉnh Nghệ An); - Đ ề án phát triển du lịch miền Tây Nghệ An (UBND tỉnh Nghệ An); - Các nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Bộ, ngành Trung ương..., các chỉ thị, nghị quyết của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Nghệ An đề cập nhiều đến việc xây dựng và phát triển du lịch. Những văn bản trên đóng góp một phần quan trọng trong việc bổ sung những kiến thức cho đề tài luận văn. 3 . Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Trên cơ sở lý luận về dịch vụ, du lịch, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng phát triển du lịch của Nghệ An trong những năm qua và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch Nghệ An một cách bền vững và có hiệu quả từ nay đến năm 2020. - Nhiệm vụ: Đ ể đạt được mục đích đề ra, luận văn cần giải quyết được những nhiệm vụ sau đây: + Làm rừ một số cơ sở lý luận và thực tiễn về du lịch ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hội nhập hiện nay; + Phân tích, đánh giá đúng thực trạng du lịch ở Nghệ An trong giai đoạn 2002 đ ến 2007 và xác định những vấn đề đặt ra cần giải quyết; + Trên cơ sở đó đưa ra những giải phỏp khả thi phỏt triển du lịch Nghệ An trong thời gian tới một cách bền vững, có hiệu quả, tạo hình ảnh Nghệ An là một điểm đến hấp dẫn của quốc gia. 4 . Đối tượng, phạm vi nghiờn cứu - Đối tượng nghiên cứu: Du lịch Nghệ An trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
  10. 10 - Thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2007, là những năm du lịch Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng phát triển trong hoàn cảnh chịu tác động ảnh hưởng của quá trình tham gia hội nhập kinh tế quốc tế . 5 . Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: V ận dụng lý luận kinh tế chớnh trị của chủ nghĩa Mỏc-Lờ nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và tỉnh Nghệ An về phát triển kinh tế nói chung và kinh tế du lịch nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu: Đ ể thực hiện được những nội dung, nhiệm vụ như trên luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: + Phương pháp thống kờ + Phương pháp tổng hợp và phân tích các tài liệu sẵn có + Phương pháp so sánh... 6 . Những đóng góp về khoa học và thực tiễn của luận văn - Đ ề tài đã làm rõ thực trạng phát triển du lịch Nghệ An trong giai đoạn hội nhập kinh tế thời kỳ 2002 - 2007, đưa ra những hạn chế, bất cập cần tháo gỡ và nguyên nhân của những khó khăn, bất cập - Từ nghiên cứu thực tiễn kinh nghiệm về phát triển dịch vụ du lịch ở một số địa phương trong nước như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tây và một số nước trong khu vực như Thái Lan, luận văn đã rút ra đ ược những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển du lịch theo hướng bền vững và có hiệu quả. Đây là những kinh nghiệm quý giá, có thể vận dụng vào điều kiện của Nghệ An. - Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tiễn phát triển du lịch tại Nghệ An, những kinh nghiệm, bài học đúc kết được từ các tỉnh thành khác trong nước và một số quốc gia trong khu vực, luận văn đã đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển du lịch Nghệ An trong thời kỳ hội nhập 2008 -2020 một cách bền vững, chuyên nghiệp, góp phần phát huy giá trị, bảo tồn phát triển tài nguyên và nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội của địa phương.
  11. 11 - Ngoài ra công trình cũng gúp phần minh chứng sự cần thiết khỏch quan về vai trũ phỏt triển du lịch ở tỉnh Nghệ An trong giai đoạn 2008-2020; góp phần định hướng cho công tác nghiên cứu phục vụ sự nghiệp phát triển du lịch của Tỉnh. - Gúp vào danh m ục tài liệu tham khảo phục vụ công tác chỉ đạo thực tiễn và giảng dạy, học tập ở các cơ sở đào tạo của địa phương. 7 . Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được cấu trúc thành 03 chương với 9 tiết. Chương 1 Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế 1.1. Du lịch và đặc điểm của du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế 1.1.1. Du lịch và các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế 1.1.1.1. Bản chất và các hình thức biểu hiện của du lịch Từ xa xưa con người đã ước mơ được tìm hiểu những miền đất lạ, được thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, của các nền văn hóa khác nhau, qua đó mà tăng thêm tri thức, tình cảm và bồi d ưỡng sức khỏe. Các loại hình du lịch đầu tiên như buôn bán, giải trí, du lịch thể thao đã x uất hiện ở Hy Lạp cổ đại với sự ra đời của thế vận hội Olimpic năm 760 trước công nguyên. Du lịch nước khoáng thiên nhiên đã xuất hiện rất sớm và phổ biến ở nhiều nơi thuộcTrung Quốc, ấn Độ, La Mã... Hoạt động đó bắt nguồn từ nhu cầu tự nhiên của con người nhằm tránh sự đ ơn điệu, nhàm chán và mệt mỏi. Nó là một thuộc tính tâm lý, biểu hiện sự đòi hỏi tất yếu về tinh thần của con người, phản ánh mối liên hệ mật thiết giữa con người với tự nhiên. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội được nâng cao, thu nhập của người lao động ngày càng tăng, thì giờ nhàn rỗi của họ ngày
  12. 12 càng nhiều, thì nhu cầu du lịch của con ng ười cũng không ngừng đổi thay và phát triển. Lúc đầu, hoạt động du ngoạn đó chỉ là hiện tượng từng cá thể rời khỏi nơi cư trú, nơi làm việc thường xuyên của mình trong một thời gian ngắn để nghỉ ngơi, giải trí hoặc thăm thú người thân ở trong một địa phương hay một vùng nhất định. Sau mở rộng thành nhu cầu của nhiều đối tượng dân cư với các chuyến du lịch thời gian dài hơn và không gian rộng hơn, vượt khỏi ranh giới của một quốc gia, một châu lục và được đánh dấu bằng tour du lịch lữ hành đầu tiên của Thomas Cook năm 1841. Việc đáp ứng các nhu cầu đi lại, nghỉ ngơi, tham quan, tìm hiểu... của du khách đã làm xuất hiện một dạng ho ạt động độc lập trong hệ thống phân công lao động xã hội, một ngành kinh tế, đó là ngành kinh tế du lịch. Ngày nay du lịch đã trở thành hiện tượng phổ biến trên thế giới và là một thói quen trong nếp sống sinh hoạt của xã hội hiện đại. Đến những thập niên 50-60 của thế kỷ XX, du lịch quốc tế đã diễn ra trên phạm vi toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm tương đối nhanh và đã trở thành nhu cầu không thể thiếu đ ược trong làn sóng văn hoá- xã hội. Du lịch đang trở thành ngành công nhiệp có ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển KT-XH, nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Du lịch không những mang lại lợi ích to lớn về mặt kinh tế, mà nó còn chứa đựng đầy bản sắc nhân văn. Du lịch chính là hộ chiếu đi đến hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch: Đầu tiên người ta hiểu du lịch là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên để đến một nơi xa lạ vì nhiều mục đích khác nhau, ngoại trừ mục đích tìm kiếm việc làm và ở đó họ phải tiêu tiền mà họ kiếm được ở nơi khác. Tại Khoản 1 Điều 4 Chương 1 Luật Du lịch của nước ta nêu rõ: ”Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định“ [17, tr.6].
  13. 13 Theo Tổ chức Du lịch thế giới (WTO): Du lịch là tổng thể của những hiện tượng và những mối quan hệ phát sinh do sự tác động qua lại giữa khách du lịch, người kinh doanh du lịch, chính quyền sở tại và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và lưu giữ khách du lịch. Vào đầu thế kỷ XX, hai giáo sư Thụy sĩ là Hunziker và Krapf, những người đặt nền móng cho sự ra đời của lý thuyết du lịch hiện đại cho rằng: Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú của những người ngoài địa phương – những người không có mục đích định cư và không liên quan đến bất cứ một hoạt động kiếm tiền nào [11, tr.23]. Trên cơ sở phân tích bản chất và thuộc tính của hoạt động du lịch các học giả Trung Quốc đưa ra định nghĩa:“Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội nảy sinh trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định, là sự tổng hoà các mối quan hệ và hiện tượng do việc lữ hành tạo n ên đ ể tho ả mãn mục đích chủ yếu là nghỉ ngơi, tiêu khiển, giải trí và văn hoá nhưng lưu động chứ không định cư mà tạm thời cư trú của mọi người dẫn tới’’ [11, tr.24]. V ề bản chất mà xét, du lịch là một phạm trù kinh tế, trước tiên phản ánh mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, trong đó con người thưởng ngoạn vẻ đẹp của tự nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của bản thân. Song để đạt được mục đích đó, con người phải rời xa nơi cư trú thường xuyên của mình, từ đó mà nảy sinh ra mối quan hệ lợi ích giữa người sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Trong đó người tiêu dùng tối đa hoá lợi ích về vật chất và tinh thần, còn người kinh doanh tối đa hoá lợi nhuận dưới sự điều tiết của các quy luật thị trường. Từ bản chất của hoạt động này với các nhu cầu ngày càng đa dạng của con người, nhất là trong giai đoạn phát triển cá tính trong tiêu dùng hiện nay, các nhà kinh doanh du lịch đã không ngừng đa dạng hóa các loại hình du lịch cho phù hợp theo từng lứa tuổi, sở thích, thị hiếu và cá tính của du khách
  14. 14 nhằm mục đích tối đa hóa các lợi ích có thể khai thác trong kinh doanh du lịch. Có nhiều cách phân loại các loại hình du lịch, mỗi cách phân loại đều có ý nghĩa nhất định. Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà có thể sử dụng cách phân loại này hay cách phân loại khác. Dưới đây là một số loại hình chủ yếu: Một là, căn cứ vào tính chất của sản phẩm du lịch hay tài nguyên du lịch thì có lo ại hình du lịch sinh thái và du lịch văn hoá: Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Hai là, căn cứ vào nhu cầu và mục đích chuyến đi, du lịch được phân ra: du lịch nghỉ ngơi, du lịch văn hóa, du lịch thể thao, du lịch công vụ, du lịch chữa bệnh, du lịch thăm hỏi, du lịch tín ngưỡng,... Ba là, căn cứ vào phạm vi lãnh thổ chuyến đi, du lịch được phân chia thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa. Du lịch quốc tế là loại hình du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của du khách ở những quốc gia khác nhau, gồm du lịch quốc tế chủ động và thụ động. Du lịch quốc tế chủ động là việc nhận du khách quốc tế vào nước mình. Du lịch quốc tế thụ động là việc đưa du khách nước m ình đến các nước khác. Còn du lịch nội địa thì ngược lại, khách du lịch nội địa chỉ đi và đến các điểm du lịch trong phạm vi nước mình. Bốn là, căn cứ vào thành phần xã hội của du khách có du lịch cao cấp, du lịch bình dân. Du lịch cao cấp là lo ại hình du lịch dành cho những người có khả năng thanh toán cao. ở thể loại này, các dịch vụ dành cho khách phải có chất lượng đặc biệt tốt và với mức giá cao. Còn du lịch bình dân là loại hình du lịch dành cho những người có khả năng thanh toán hạn chế, và do đó chất lượng dịch vụ ở loại hình này bình thường với mức giá thấp.
  15. 15 Năm là, căn cứ vào phương tiện giao thông mà du khách sử dụng, du lịch được phân thành: du lịch xe đạp, du lịch mô tô, du lịch ô tô, du lịch tàu hỏa, du lịch tàu thủy, du lịch máy bay... Sáu là, căn cứ vào thời gian và hình thức đi của khách du lịch có du lịch ngắn ngày, du lịch dài ngày, du lịch cuối tuần, du lịch theo đoàn, du lịch cá nhân, du lịch gia đình,... Bảy là, căn cứ vào phương thức ký kết và thực hiện hợp đồng du lịch có loại hình du lịch trọn gói và du lịch từng phần. 1.1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển du lịch trong hội nhập quốc tế Thứ nhất là tài nguyên du lịch: Đây là nhân tố hàng đ ầu ảnh h ưởng đến phát triển du lịch của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ nhất định: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch. Tài nguyên du lịch gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác. Tài nguyên du lịch tự nhiên gồm các yếu tố địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan thiên nhiên có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hoá, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hoá vật thể, phi vật thể khác có thể đ ược sử dụng phục vụ mục đích du lịch. Tài nguyên du lịch có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc sở hữu của tổ chức, cá nhân. Thứ hai là sản phẩm du lịch: Cũng giống như tài nguyên du lịch, sản phẩm du lịch là đối tượng hấp dẫn du khách, là nhân tố quyết định hoạt động du lịch có diễn ra hay không.
  16. 16 Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch. Nếu xét về cơ cấu thì sản phẩm du lịch vô cùng phong phú và liên quan tới rất nhiều ngành nghề. Nhưng xét về mặt ý nghĩa của các bộ phận hợp thành có thể chia làm ba loại, đó là: sức thu hút khách du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật để phát triển du lịch và hạt nhân của sản phẩm phần lớn là d ịch vụ mà chất lượng chủ yếu phụ thuộc vào con người phục vụ. Cũng như sản phẩm dịch vụ, sản phẩm du lịch không mang hình thái vật thể độc lập, cụ thể ngay cả trong trường hợp nó có tính sản xuất vật chất, bao hàm trong nó con người, nơi chốn, hoạt động, tổ chức và ý tưởng. Tính phức tạp của sản phẩm dịch vụ là cần có sự tiếp xúc giữa người với người. Mối quan hệ người- người để tạo ra một sản phẩm (dịch vụ) có đặc điểm: cùng có m ặt về không gian và thời gian, trao đổi thông tin lẫn nhau, nhận thức, đánh giá và lựa chọn lẫn nhau. Phần lớn sản phẩm tạo ra được khách hàng tiêu thụ ngay tại chỗ, tức là thời điểm sản xuất và tiêu thụ xảy ra liền kề nhau tại một địa điểm. Sản phẩm của các tổ chức kinh doanh du lịch cung cấp cho khách du lịch là các loại hàng hóa, d ịch vụ phục vụ cho hoạt động du lịch của du khách, do đó bị giới hạn bởi thời gian, không gian và đòi hỏi phải có chất lượng cao, không cho phép sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ không hoàn hảo vì không thể thay thế và đền bù được, cũng rất khó khăn lấy lại lòng tin của khách. Các sản phẩm dịch vụ, hàng hóa được sản xuất và bán cho khách theo những quy trình công nghệ khác nhau, do các bộ phận khác nhau cung cấp nên chất lượng khó đồng nhất nhưng lại có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình phục vụ. Giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch là thoả mãn nhu cầu có tính da dạng của khách trong quá trình đi du lịch, trong đó có những nhu cầu như ăn, ở, đi lại, tham quan, tìm hiểu, mở rộng nhận thức, tăng cường giao lưu, được tôn trọng,... Chính vì vậy, giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch có tính đa chức năng. Sản phẩm du lịch là sự kết hợp của những sản phẩm vật chất, sản phẩm tinh thần và dịch vụ nên giá trị sử dụng của sản phẩm du lịch
  17. 17 cũng trừu tượng, vô hình mà người ta khó có thể xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng cố định và chỉ có thể đánh giá thông qua quá trình tiêu dùng, chưa tiêu dùng thì khó có thể hình dung được. Ví dụ: trong hoạt động hướng dẫn tham quan du lịch thì sản phẩm là các ấn tượng, khoái cảm và các rung động khác trong khách du lịch thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của họ; trong lưu trú và ăn uống là tạo ra và trao cho khách các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu thiết yếu đồng thời thỏa mãn nhu cầu đặc trưng của khách du lịch. Dịch vụ mà khách nhận được là sự trao đổi chứ không phải là sở hữu, nó không bán hay giao qua cho một người thứ ba. Chất lượng dịch vụ còn gắn liền với đặc điểm tâm lý xã hội của người phục vụ và khách du lịch, vì thế nó không có tính lặp lại và ổn định. Mặt khác, d ù có ý thức hoặc vô thức từ phía người làm du lịch, văn hóa đều phải xuyên suốt các mặt hoạt động của du lịch. Các nhu cầu du lịch đều chứa đựng đặc trưng văn hóa. Trong ăn uống, lưu trú, đi lại, mua sắm không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt bình thường mà còn là sự khám phá, thưởng thức, trải nghiệm; tham quan và vui chơi giải trí là nhu cầu đặc trưng của chuyến đi du lịch càng thể hiện rõ nét hơn tính văn hóa. Tất cả các dịch vụ, hàng hóa du lịch đáp ứng được các nhu cầu này có giá trị đối với khách du lịch ở chỗ nó thỏa mãn được các nhu cầu tìm đến cái mới, các khác biệt so với nơi ở thường ngày của du khách, giúp cho du khách tìm được các đáp ứng khát vọng hướng tới giá trị- chân- thiện, mỹ, ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển nền văn hóa nhân loại. Ngoài ra, cũng như d ịch vụ, trong nhiều trường hợp, hoạt động du lịch sau khi đã được thực hiện thì các yếu tố cấu thành d ịch vụ không mất đi mà vẫn còn nguyên vẹn. Nghĩa là quá trình tạo ra dịch vụ được lặp đi lặp lại nhiều lần: như các tài nguyên du lịch tự nhiên, di tích văn hóa lịch sử, các cơ sở lưu trú du lịch,... Những yếu tố cấu thành trên không phải là sản phẩm dự trữ của du lịch mà nó chỉ là tiềm năng tạo nên sản phẩm du lịch. Đặc điểm
  18. 18 này cho thấy nếu d ùng công cụ để điều tiết lượng cung ứng sản phẩm ra thị trường thì không thể có tác động nhanh chóng như đối với các hàng hóa khác. Thứ ba là kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch: Đây cũng là nhân tố tác động không nhỏ tới phát triển du lịch của mỗi quốc gia. Kết cấu hạ tầng nói chung có vai trò đặc biệt đối với việc đẩy mạnh phát triển du lịch. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ du lịch bao gồm hệ thống đường giao thông, các phương tiện giao thông cùng các công trình cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc, cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, mua sắm, nơi đổi tiền, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ… để phát triển du lịch, các điều kiện về kết cấu hạ tầng kỹ thuật là đòn bẩy quan trọng cho khả năng khai thác các tài nguyên du lịch và chỉ có thông qua mạng lưới giao thông thuận tiện, nhanh chóng thì du lịch mới trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội. Ngoài các điều kiện và kết cấu hạ tầng nêu trên, các điều kiện khác như: mạng lưới y tế, bảo hiểm, hệ thống ngân hàng cũng ảnh hưởng quan trọng đến khả năng phát triển du lịch của mỗi vùng, mỗi quốc gia. Thứ tư là lao động và chất lượng phục vụ: Đây là nhân tố tổng hợp, tác động trực tiếp tới phát triển nền kinh tế quốc gia. Lao động trong ngành du lịch chủ yếu là lao động giản đơn (lao động chân tay là chính) và số lượng lao động trực tiếp được sử dụng trong ngành du lịch nhiều hơn so với các ngành khác. Ví dụ: 1 khách sạn 3 sao 100 phòng với tổng mức đầu tư 30- 40 triệu USD thì phải có tối thiểu 110- 140 nhân viên, nếu hạng cao hơn thì có thể từ 140- 160. Nhưng một nhà máy hóa chất có cùng mức vốn đầu tư như vậy chỉ cần khoảng 30- 35 người. Mặc dù hiện nay đã có một số khâu, một số công việc đ ược máy móc thiết bị kỹ thuật trợ giúp, song đa số công việc trong hoạt động du lịch do con người trực tiếp đảm nhận và lao động trong du lịch đa số vẫn là lao động thủ công. Điều đó xuất phát từ đối tượng phục vụ của ngành du lịch là con người rất đa dạng về thành phần, tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp, học vấn, phong tục tập quán, sở thích,...
  19. 19 với những nhu cầu khác nhau song lại phải đáp ứng một cách đầy đủ, kịp thời với chất lượng cao và không được sai sót, kể cả những chi tiết nhỏ nhất. Vì thế con người làm việc trong ngành du lịch cần đáp ứng những tiêu chuẩn đòi hỏi rất khắt khe của lao động trong ngành du lịch ngoài những tiêu chuẩn chung:1, Có ngoại hình và sức khỏe tốt: N goại hình là cái đầu tiên khách du lịch cảm nhận khi tiếp xúc, nhất là đối với các nhân viên lễ tân, hướng dẫn viên du lịch, họ cần có cơ thể khỏe mạnh, có ngoại hình cân đối ưa nhìn, không bị khuyết tật. Cái đẹp về ngoại hình ở người làm du lịch, trước hết phải có nét mặt tươi tắn, cởi mở, đôn hậu, nụ cười luôn thường trực trên môi và được sử dụng hợp lý cái duyên lôi cuốn lòng người. Người Trung Hoa khuyên rằng: “Muốn mở tiệm trước hết phải biết cười, chưa biết cười phải tập cười, tập mãi không cười thì hãy dẹp tiệm”. Mặt khác lao động trong ngành du lịch cũng đ òi hỏi phải có sức khỏe tốt và khả năng chịu đựng để đáp ứng cường độ làm việc cao, đi lại nhiều lần và thường xuyên chịu áp lực tâm lý từ phía khách du lịch ; 2, Có kỹ năng nghiệp vụ tinh thông, biết sử dụng ngoại ngữ và vi tính: Ngành du lịch hoạt động theo một dây chuyền công nghệ hết sức khoa học, đồng bộ và liên quan chặt chẽ với nhau. Do vậy người làm du lịch phải có trình độ nghiệp vụ thành thạo, điêu luyện. Các thao tác kỹ thuật phải rất nhanh nhạy, chuẩn xác và mang tính nghệ thuật cao. Như nghề nấu ăn không chỉ ngon miệng mà còn phải ngon mắt, thơm m ũi; nghề phục vụ ăn uống phải biết bày bàn đẹp, phải thuần thục, điêu luyện các động tác b ưng, đưa, gắp, rót; nhân viên pha chế có khả năng pha chế hàng trăm loại cooktail... Ngoài ra, muốn nâng cao chất lượng phục vụ, người làm du lịch không thể không biết ngoại ngữ vì ngoại ngữ là phương tiện hữu hiệu nhất để giao tiếp với khách du lịch nước ngo ài, không có nó thì khả năng nghề nghiệp không được phát huy tác dụng, nhất là nhân viên lễ tân, hướng dẫn viên du lịch ; 3, Có khả năng giao tiếp ứng xử khéo léo, có đức tính kiên trì và nhẫn nại cao, cởi mở, hiếu khách, gần gũi, thân ái, lịch sự, ngay cả khi khách hàng
  20. 20 có thái độ phản ứng gay gắt ; 4, Có đạo đức nghề nghiệp trung thực, thật thà, siêng năng, tỉ mỉ và nhiệt tình trong công việc ; 5, Có tính đồng đội hỗ trợ, chia sẻ, giúp đỡ nhau trong công việc. Thứ năm là đặc điểm thời tiết, khí hậu và mùa vụ. Ho ạt động kinh doanh du lịch là lo ại hình kinh doanh bị ảnh hưởng chi phối của yếu tố thời tiết và tính mùa vụ rất cao. Trước hết vì đa số khách du lịch thường đi du lịch vào các kỳ nghỉ cùng với gia đình, bạn bè. Ngoài ra một số loại hình du lịch đã mang sẵn tính chất mùa vụ như du lịch biển, du lịch lễ hội,... và phụ thuộc vào đặc thù khí hậu của từng vùng, từng địa phương. Đây là đ ặc điểm rất quan trọng đòi hỏi các tổ chức kinh doanh phải tính toán để chủ động phục vụ du khách cho phù hợp, nhất là trong những mùa du lịch đông đảo, có biện pháp khắc phục những tác động tiêu cực của tính chất mùa vụ đến chất lượng phục vụ cũng như sản phẩm du lịch. Thứ sáu là an ninh, trật tự xã hội được đảm bảo.: Du lịch chỉ xuất hiện và phát triển trong điều kiện hoà bình, ổn định, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Có thể nói điều kiện về an ninh chính trị, trật tự về an toàn xã hội là điều kiện đặc biệt quan trọng có tác dụng thúc đẩy ho ặc kìm hãm sự phát triển của du lịch. Trong những năm qua du lịch Việt Nam đạt được nhiều kết quả đáng phấn khởi, trong đó yếu tố là nơi đến an toàn ổ n định có vai trò rất quan trọng. Ông Richard Crai, giám đốc tiếp thị của công ty Exotssimo nhận xét ô Việt Nam là một địa chỉ tuyệt vời. Hầu như nh ững ai từng nghe đến Việt Nam đều bị hấp dẫn bởi vì ở đây có quá nhiều điều mới mẻ chưa được khám phá và điều quan trọng nhất là họ cảm thấy an toàn’’ . Đó cũng là nhận xét chung của nhiều tờ báo lớn như Newsweek, USA To day, Forbes, Asia Times... bởi theo họ ‘trong khi không ít quốc gia trên thế giới đối mặt với thiên tai, chiến tranh và bất ổn chính trị thì Việt Nam nổi lên như một điểm đến bình yên và hấp dẫn ’’
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0