Luận văn Giáo dục học: Nhu cầu giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản ở học sinh trường THPT Nguyễn Thái Bình
lượt xem 21
download
Luận văn nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến vấn đề giáo dục giới tính của học sinh THPT; đề xuất các giải pháp giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam nhằm nâng cao nhận thức và trang bị kiến thức cho các em học sinh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Giáo dục học: Nhu cầu giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản ở học sinh trường THPT Nguyễn Thái Bình
- LỜI CAM ĐOAN 1. Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi cam kết rằng nghiên cứu này do tôi thực hiện và không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật. Quảng Nam, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn 1
- LỜI CẢM ƠN 2. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Sư Phạm Đà Nẵng cùng các thầy cô trong Khoa Tâm Lý – Giáo dục đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chương trình học tập và hoàn thành luận văn của mình. 3. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này. 4. Tôi xin chân thành cảm ơn! Quảng Nam, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn 2
- MỤC LỤC 3
- DANH MỤC VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Viết đầy đủ 1. GDGT Giáo dục giới tính 2. SKSS Sức khỏe sinh sản 3. THPT Trung học phổ thông GDSKSS Giáo dục sức khỏe sinh sản 4. 5. SSKSSVTN Sức khỏe sinh sản vị thành niên 6. GDDS Giáo dục dân số 7. VTN Vị thành niên 8. KHHGĐ Kế hoạch hóa gia đình 4
- DANH MỤC HÌNH 5
- 6
- MỞ ĐẦU 5. Lí do chọn đề tài Ở Việt Nam hiện nay, giáo dục giới tính (GDGT) luôn bị coi là chủ đề nhạy cảm, chưa được thực hiện rộng rãi và phổ biến ở trong nhà trường vì thế còn rất nhiều phụ huynh cũng như học sinh luôn ngại ngùng khi nói về vấn đề giới tính. Giáo dục con người không chỉ đảm bảo phát triển về trí tuệ về nhân cách mà còn phải đảm bảo phát triển về cả thể chat, trí tuệ và tinh thần. Với thế hệ trẻ hiện nay khi bước vào môi trường giáo dục, giáo viên không chỉ đơn thuần cung cấp cho các em các kiến thức khoa học mà còn giúp cho các em tìm hiểu sâu hơn về chính bản thân mình. Sự trang bị cho các em về đời sống tâm lí, về giới tính về tình dục để các em có ý thức hơn về những hành vi của bản thân mình. Chính vì thế giáo dục giới tính có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách của trẻ. Lứa tuổi học sinh trung học phổ thông là thời kì hoàn thiện sự phát triển về thể chất của con người vì thế việc lồng ghép GDGT cho học sinh THPT nhằm giúp các em có kiến thức về việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và giới tính vị thành niên, cũng như tranhs những hậu quả đáng tiếc do thiếu hiểu biết. “TS Nguyễn Tùng Lâm, chủ tịch Hội Tâm lý giáo dục Hà Nội, đánh giá việc giáo dục giới tính trong nhà trường chưa hiệu quả, cung cấp cho học sinh kiến thức về QHTD còn hạn chế. Các trường cũng có chuyên đề về giới tính và tình yêu tuổi học trò, nhưng nặng về lý thuyết. Ông cho rằng: Chúng ta phải đối mặt vấn đề yêu và QHTD ở học sinh. Ngành giáo dục và các chuyên gia cần nghiên cứu để đưa vấn đề này vào chương trình giáo dục chính thống, cách làm phải gần gũi để học sinh ngấm hơn. Thầy cô phải lắng nghe và đồng hành với học sinh mới mang lại hiệu quả.” 7
- Bà Vũ Thị Phương Anh, phó hiệu trưởng trường THPT Đoàn Thị Điểm (Hà Nội), cho rằng đến tuổi dậy thì, trẻ có sự rung động với người khác giới là chuyện bình thường. Vấn đề là trẻ phải học được cách điều tiết tình cảm để không bị bột phát theo bản năng, đi quá giới hạn cho phép. Những năm gần đây chương trình giáo dục giới tính được Bộ Giáo Dục đưa vào giảng dạy cho học sinh trung học phổ thông. Tuy nhiên GDGT chưa phải là một bộ môn riêng biệt như những bộ môn khác, nội dung chỉ được lồng ghép qua các môn học khác như Sinh học hoặc Giáo dục công dân hoặc thông qua các buổi học ngoại khóa. Các kiến thức về giáo dục giới tính, sức khoẻ sinh sản vị thành niên có trong chương trình sách giáo khoa nhưng các thầy cô vẫn giảng dạy mang tính hàn lâm, thiếu thực tế. Vì vậy, có thể học sinh học xong nhưng khi ra thực tế vẫn không hiểu gì. Trước những thay đổi về kinh tế xã hội nên dần dần quan niệm sống từ đó cũng thay đổi, những hiện trạng yêu sớm, quan hệ tình dục sớm, hay sống thử, nạo phá thai của một số bộ phận thanh thiếu niên đã gây xôn xao dư luận gây ra những hậu quả nặng nề không chỉ đối với bản thân các em mà còn cho toàn xã hội. Chính vì thế cần đưa GDGT vào hệ thống trường học để trang bị cho các em học sinh những kiến thức về giới tính, góp phần hình thành và phát triển nhân cách. Tuy nhiên những cách tiếp nhận và hiểu biết về GDGT của các em còn phần mơ hồ dù đã có các chương trình GDGT tại trường. Lứa tuổi Trung học phổ thông (THPT) là lứa tuổi vị thành niên, khi mà học sinh đang ở giai đoạn phát triển nhanh về thể chất và có nhiều những thay đổi trong tâm sinh lý. Đây là giai đoạn quan trọng trong việc định hình nhân cách để làm chủ bản thân về những hành vi tình dục. Vị thành niên ngày nay có nhiều điều kiện hơn để tiếp cận với thông tin, kiến 8
- thức mới, hiện đại nhưng cũng phải đối mặt với những nguy hiểm đe dọa đến sức khỏe. Học sinh chưa có kinh nghiệm, giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản, nên dễ bị lạm dụng, ép buộc; không biết cách phòng tránh thai và bệnh lây truyền qua đường tình dục khi có quan hệ tình dục. Do vậy, việc giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh là rất cần thiết. Học sinh cần nắm vững những kiến thức chăm sóc bảo vệ SKSS để bảo vệ chính mình Như vậy, việc giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản cho vị thành niên, trong đó có một bộ phận lớn là học sinh đang học tập ở trường THPT là vấn đề cần thiết và cấp bách. Giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản nhằm cung cấp cho các em những kiến thức, giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản đầy đủ về giới tính, sức khỏe sinh sản, về tình bạn, tình yêu… Đây là việc làm cần thiết bên cạnh việc giảng dạy văn hóa để góp phần tạo ra một tương lai thật tươi sáng cho học sinh. Chính vì những lí do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Nhu cầu giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản ở học sinh trường THPT Nguyễn Thái Bình” để tìm hiểu được phần nào những suy nghĩ mong đợi của các em nhằm nâng cao hiệu quả GDGT ở trường học. 6. Mục đích nghiên cứu Làm rõ thực trạng nhu cầu GDGT về SKSS của học sinh Tr ường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam hiện nay, đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả GDGT cho học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam 7. Đối tượng nghiên cứu Nhu cầu giáo dục giới tính về SKSS của học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam 9
- 1. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lí luận liên quan đến vấn đề giáo dục giới tính của học sinh THPT Nghiên cứu thực trạng nhu cầu GDGT về SKSS của học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam Nghiên cứu đề xuất các giải pháp giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh sản cho học sinh Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam nhằm nâng cao nhận thức và trang bị kiến thức cho các em học sinh. 8. Khách thể nghiên cứu 250 học sinh khối lớp 10,11 THPT ( ở đây tôi không chọn học sinh khối lớp 12 vì không muốn ảnh hưởng đến thời gian học tập của các em) 20 giáo viên 20 phụ huynh 9. Giả thuyết khoa học Học sinh có nhu cầu được giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản và sẵn sàng tiếp nhận giáo dục sức khỏe sinh sản. Tuy nhiên, chương trình GDSKSS trong nhà trường còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của học sinh. 10.Giới hạn nghiên cứu Giới hạn nội dung nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng nhu cầu giáo dục giới tính cho học sinh THPT thông qua nội dung và phương pháp về giáo dục giới tính ở đây là giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên trong nhà trường. Giới hạn phạm vị nghiên cứu: trong luận văn này tôi chỉ tập trung nghiên cứu 250 học sinh, 20 giáo viên và 20 phụ huynh của các em 10
- học sinh tại Trường THPT Nguyễn Thái Bình – Thăng Bình – Quảng Nam. 11. Phương pháp nghiên cứu 1.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu 1.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi 1.3. Phương pháp phỏng vấn sâu 1.4. Phương pháp thông kê toán học 1.5. Phương pháp thực nghiệm CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ NHU CẦU GIÁO DỤC GIỚI TÍNH CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 11.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 11.1.1.Những nghiên cứu trên thế giới Vấn đề GDGT nói chung được nhiều nước ở Châu Âu quan tâm từ rất sớm. Có thể nói rằng Thụy Điển là quốc gia đầu tiên, cái nôi nảy sinh nghiên cứu vấn đề này. Năm 1921 đã coi tình dục là quyền tự do của con người, là quyền bình đẳng nam nữ, là trách nhiệm đạo đức của công dân đối với xã hội. Họ đã thành lập “Hiệp hội quốc gia tình dục” (1933) với mục tiêu là: Thông tin phổ biến kiến thức về giới tính, tình dục. Sản xuất và buôn bán thuốc tránh thai, dụng cụ tránh thai Bộ Giáo dục Thụy Điển đã quyết định đưa thí điểm GDGT vào nhà trường (1942) và đến năm 1956 thì chính thức dạy phổ cập trong tất cả các loại trường từ tiểu học đến trung học. Hầu hết các nước Đông Âu (Đức, Tiệp, Ba Lan, Hungrari …), Tây Âu, Bắc Âu cũng có những quan điểm xem xét vấn đề GDGT là vấn đề lành mạnh đem lại tự do cho con người, họ đã 11
- tuyên truyền rộng khắp cho mọi người hiểu rõ những quy luật hoạt động của tình QHTD và vấn đề này cũng được đưa vào dạy ở các trường học theo những vấn đề tự chọn. Nhà nước cũng tận dụng những phương tiện truyền thông để tiến hành mảng giáo dục này. Ở Châu Á, GDGT bị xem là lĩnh vực cấm kị, do ảnh hưởng của những quan niệm phong kiến và tôn giáo. Dân số gia tăng quá nhanh, chất lượng cuộc sống không được đảm bảo đã khiến các nước ở Châu Á đã thức tỉnh và nhìn nhận vấn đề một cách thích đáng. Họ đã thống nhất ý kiến về tầm quan trọng và sự cần thiết phải GDGT cho thế hệ trẻ, giúp họ làm chủ quá trình sinh sản của mình một cách khoa học, phù hợp với tiến bộ xã hội. Trước năm 1994, giáo dục nhấn mạnh đến các nội dung dân số phát triển thì từ sau năm 1994, giáo dục nhấn mạnh tới các nôi dung SKSSVTN như là một ưu tiên. GDSKSS và SKSSVTN là những vấn đền mới chính thức được thừa nhận tại hội nghị quốc tế về “Dân số và phát triển” ở Cairo, Ai Cập (1994). SKSS được coi là định hướng chỉ đạo của hầu hết các chương trình dân số thế giới. Hội nghị này đã thống nhất một chương trình hành động về dân số và phát triển trong 20 năm tới, nó đã đưa ra một khái niệm chiến lược mới về SKSS, đề ra 15 nguyên tắc khẳng định con người mới là trung tâm đối với sự phát triển bền vững. Cũng chính tại hội nghị này, một khái niệm mới về SKSS bao gồm tất cả các nội dung liên quan tới tình trạng sức khỏe, quá trình sinh sản và chất lượng cuộc sống đã được trình bày cặn kẽ trong chương trình hành động của ICPD. Sau hội nghị này, hàng loạt các quốc gia trên thế giới cũng lần lượt tổ chức nhiều hội nghị bàn về vấn đề SKSSVTN như: Hội nghị quốc tế tại Bắc Kinh (1995) 12
- Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển tại The Hague Hà Lan (1999) Hội nghị dân số cấp cao của ủy ban kinh tế và xã hội Châu Á – Thái Bình Dương ( ESCAP) và quỹ dân số liên hợp quốc (UNFPA) tại Băng Cốc. Đặc biệt thông điệp của Tiến sĩ Nafit Sadik – Giám đốc điều hành Quỹ dân số Liên Hợp quốc đã nêu “Giới trẻ ngày nay có ý thức về SKSS hơn và họ biết SKSS rất quan trọng. Họ đều muốn xử sự một cách có trách nhiệm, muốn bảo vệ sức khỏe của chính mình và của cả người mình yêu vì họ biết rằng đây là việc nên làm. Phần lớn trong số họ khát khao tìm hiểu, họ muốn có thông tin về tình dục và sức khỏe tình dục. Họ muốn biết làm thế nào để bản thân họ và ngúời yêu họ không có thai ngoài ý muốn, tránh được các bệnh lây truyền qua đường tình dục bao gồm cả HIV/AIDS”. Nhân dịp ngày dân số thế giới (11/7/1998) UNFPA đã gửi thông điệp tới các nước trên thế giới: “Những quan tâm hàng đầu hiện nay được tập trung vào các vấn đề về SKSSVTN”. Một nghiên cứu dưới tên gọi “Giáo dục giới tính trong nhà trường: kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý cho Nigeria” James E. Rosen, Nancy J. Murray và Scott Moreland, 2004, Sexuality education in schools: the international experience and implication for Nigeria của James E. Rosen, Nancy J. Murray và Scott Moreland, tháng Năm năm 2004 đã chỉ rõ “quá nhiều trẻ vị thành niên theo học trong các trường ở Nigeria thiếu thông tin và kĩ năng để có thể bảo vệ bản thân trước những cái “bẫy tính dục”. Và chính vì vậy mà nhu cầu được giáo dục SKSS của học sinh là cực lớn và nghiên cứu đã đưa ra những biện pháp khẩn thiết, tích cực nhất để xây dựng một chương trình “hiệu quả tức thời” cho học sinh. 13
- Một số những đề tài nghiên cứu và sách tham khảo khác có thể được kể tên sau đây như: cẩm nang dành cho bạn gái “Những gì bạn gái muốn biết” của Jill Geborene xuất bản năm 2011 bằng tiếng Anh và được phân phối trên toàn thế giới; nghiên cứu của Susana Lerner năm 2005 có tên “Nhu cầu giáo dục sức khỏe sinh sản và chống đói nghèo”. ; một nghiên cứu của tổ chức dân số thế giới UNFPA vào năm 2009 với tên gọi “Hiểu biết về giới tính và SKSS, hành vi và nhu cầu được giáo dục trong nhà trường của thanh thiếu niên ở khu vực phía Bắc Nigeria”.; nghiên cứu của tổ chức UNESCO với tên gọi “ Hướng dẫn chuyên môn toàn cầu về giáo dục giới tính ” “Cảnh báo chuyên môn về các phương pháp giáo dục giới tính trong nhà trường”, …. cũng đều chỉ ra nhu cầu được giáo dục SKSS luôn luôn tồn tại và tùy vào mỗi nước khác nhau mà có những đặc thù khác nhau. Nhưng nhìn chung, ở các nước Châu Á, Châu Phi và các nước đang phát triển thì nhu cầu này lớn hơn và bức thiết hơn. Như vậy, ở hầu hết các nước trên thế giới đều đã hết sức quan tâm tới vấn đề SKSS, coi đó là một vấn đề có tính chiến lược quốc gia. 11.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam Do chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, nên vấn đề giáo dục giới tính ở nước ta vẫn còn tâm lí né tránh, chính vì thế việc bàn luận về vấn đề GDGT cho thanh thiếu thiên bắt đầu khá muộn. Trong chỉ thị số 176A ngày 24/12/1984 do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng kí, đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ đại học và trung học chuyên nghiệp. tổng cục dạy nghề phối hợp với hợp với các tổ chức có liên quan, xây dựng chương trình khóa và ngoại khóa nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến thức về khoa học giới tính, về hôn nhân gia đình và nuôi dạy con cái”. 14
- Năm 1985, Trung ương hội liên hiệp phụ nữ đã triển khai phong trào giáo dục “Ba triệu bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con ngoan” trong đó có nội dung GDSKSS ở tuổi dạy thì. Hình thức chủ yếu được sử dụng là nói chuyện, diễn giảng. Hiệu quả mới chỉ dừng lại ở tính chất phong trào chứ chưa thể có chất lượng sâu sắc được. Năm 1988. Một đề án với quy mô lớn nghiên cứu về giáo dục gia đình và giáo dục gới tính cho học sinh có kí hiệu là VIE/80/P09 (do Trần Trọng Thủy chủ nhiệm đề tài) đã được Hội Đồng chính phủ. Bộ Giáo dục và đào tạo, viện khoa học giáo dục Việt Nam thông qua và cho phép thực hiện bởi sự tài trợ của UNFPA và UNESCO khu vực với sự tham gia của nhiều giáo sư, tiến sĩ, nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao, chương trình thử nghiệm tập trung chủ yếu vào hai chủ điểm về tâm lí giáo dục và sinh học. Lần đầu tiên trong nhà trường phổ thông ở nước ta học sinh được học một cách có hệ thống về “những điều bí ẩn” của chính mình và mối quan hệ với người khác giới. Đề án đã tiến hành rất thận trọng và khoa học, nghiên cứu khá sâu rộng nhiều vấn đề như: quan niệm tình bạn, tình yêu, hôn nhân và nhận thức về giới tính và giáo dục giới tính của giáo viên, học sinh và phụ huynh ở nhiều nơi trong cả nước để chuẩn bị GDGT cho học sinh phổ thông từ lớp 9 đến lớp 12. 12. Theo tác giả Nguyễn Thành Thống trong cuốn: “Giáo dục giới tính cho thanh thiếu niên” có nêu lên những khó khăn khi GDGT cho trẻ là: làm thế nào cho trẻ có được một quan niệm, một cái nhìn tốt nhất và lành mạnh nhất từ khi chúng còn nhỏ. 13. Bùi Ngọc Oánh (2006) có đề tài “ Những yếu tố tâm lí trong sự GDGT của thanh niên học sinh”, một lần nữa khẳng định sự cần thiết của GDGT trong nhà trường THPT tập trung nêu lên một số vấn đề tâm lí xã 15
- hội cần chú ý khi tiến hành GDGT cho học sinh như: phong tục tập quán Việt Nam nhiều người chưa biết về vấn đề này, không có thời gian để dạy, giáo viên chưa được huấn luyện… đặc biệt tác giả cũng chỉ ra một số khó khan trong công tác GDGT cho học sinh là do sự e ngại khi nói tới những vấn đề có tính nhạy cảm trong môn GDGT. Qua đó tác giả cũng vạch ra một số biện pháp nghiên cứu sự chấp nhận GDGT của học sinh trong nhà trường . Ở nước ta trong giai đoạn từ 1989 đến 1992 các dự án Giáo dục dân số (GDDS) đã bắt đầu được thử nghiệm. Giai đoạn từ 1994 đến 1998 bước đầu đã thể chế hóa GDDS trong nhà trường. Lần đầu tiên GDDS được đưa vào chương trình tích hợp GDDS với 5 chủ đề cơ bản: Nhân khẩu học, môi trường, gia đình, giới, dinh dưỡng. Các nội dung SKSS đã được chính thức lồng ghép vào nội dung một số môn học từ bậc tiểu học đến trung học và khẳng định rằng trong giai đoạn này trọng tâm của công tác GDDS phải là GDSKSS cho VTN. Tháng 10 năm 1996 hội thảo vì SKSSVTN đã nhấn mạnh đầu tư giải quyết vấn đề SKSSVTN là một yêu cầu quan trọng trong vấn đề phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn này nội dung GDDS quá thiên về dân số phát triển, chưa chú trọng tới SKSS như một mục tiêu ưu tiên quốc gia. Với sự ra đời của chương trình mới về giáo dục phổ thông cho giai đoạn sau 2000, các dự án GDDS giai đoạn mới được xây dựng. Mục tiêu GDDS trong giai đoạn này ở các trường phổ thông gồm: Xây dựng chương trình tích hợp GDDS mới phù hợp với trương trình giáo dục phổ thông sau năm 2000 trên tinh thần nhấn mạnh tới SKSSVTN; xây dựng các tài liệu hướng dẫn giảng dạy, tài liệu tham khảo và các tài liệu trực quan; tập huấn giáo viên… song chúng ta vẫn chưa xây dựng được chương trình GDDS và SKSS cho THCS mặc dù các mục tiêu cho cấp học 16
- này đã được xác định. Ủy ban phòng chống AIDS đã tổ chức nhiều hoạt động truyền thông, hoạt động can thiệp tại cộng đồng, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thức trạng tình hình… nhằm bảo vệ VTN, nâng cao hiểu biết và kỹ năng dự phòng của VTN trước sự tấn công của đại dịch HIV/AIDS và các tệ nạn xã hội. Thông qua các hoạt động đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDSKSS cho VTN. Báo cáo của nghiên cứu “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh trung học phổ thông” Nguyễn Hà Thành, 2009, “Nhu cầu được giáo dục sức khỏe sinh sản của học sinh trung học phổ thông” của Nguyễn Hà Thành đăng trên tạp chí Tâm lý học, số 7 (124), tháng 72009 được tiến hành nghiên cứu ở trường THPT Thanh Hà và THPT bán công Thanh Hà, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Kết quả điều tra cho thấy 100% học sinh THPT có nhu cầu hiểu biết về sức khỏe sinh sản. Trong đó 72,6% học sinh cho rằng nhu cầu được giáo dục SKSS là một nhu cầu rất cấp bách, rất cần được thỏa mãn. 27,4% học sinh cho rằng nhu cầu này cần được thỏa mãn. 99,7% học sinh mong muốn Bộ giáo dục và Đào tạo cần đưa chương trình giáo dục SKSS vào trường THPT. Ủy ban Dân số gia đình và Trẻ em cũng rất quan tâm đến việc GDSKSS cho VTN, trong chiến lược dân số Việt Nam giai đoạn 2001 2010 nêu rõ: “Tạo sự chuyển đổi hành vi bền vững về dân số, SKSS, KHHGĐ trên cơ sở cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin với nội dung và hình thức phù hợp với từng vùng, từng khu vực và từng nhóm đối tượng. Chú trọng hình thức tư vấn, đối thoại, vận động trực tiếp các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, nam giới, thanh niên và những người chưa thành niên”. Năm 2004, Ủy ban dân số gia đình và trẻ em triển khai đề án “Mô hình cung cấp thông tin và dịch vụ SKSS/ KHHGĐ cho VTN và thanh niên” tại 10 tỉnh 17
- thành phố. Năm 2006 mở rộng ra 28 tỉnh thành phố. Mục tiêu chính của đề án nhằm nâng cao nhận thức về SKSS/ KHHGĐ, bao gồm các vấn đề liên quan về giới, giới tính, tình dục an toàn, BLTQĐTD, HIV/AIDS góp phần làm giảm các hành vi gây tác hại đến SKSSVTN. Dự án giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT tại huyện Hòa Vang, Tp.Đà Nẵng Dự án giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh THPT tại huyện Hòa Vang, Tp.Đà Nẵng, 2011, Trung tâm y tế, phòng GD&ĐT huyện Hòa Vang thực hiện dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng, năm 2011, do Trung tâm y tế, phòng GD&ĐT huyện Hòa Vang thực hiện dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng đã tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản cho học sinh ở bậc THPT nhằm giúp học sinh tự thay đổi hành vi, kỹ năng cần thiết về chăm sóc SKSS cho bản thân, góp phần nâng cao giáo dục giới tính về sức khỏe sinh sản cho học sinh thông qua các hoạt động như: Tổ chức tập huấn, đào tạo đội ngũ tư vấn viên là học sinh được chọn theo từng khối lớp (mỗi lớp 23 em), thiết lập hộp thư SKSS tại mỗi lớp, tổ chức các buổi tuyên truyền về SKSS cho học sinh các trường THPT mỗi tháng một buổi, tổ chức các hội thi tìm hiểu kiến thức về chăm sóc SKSS VTN, thành lập câu lạc bộ “U&I” tại mỗi trường với 50 học sinh tự nguyện tham gia, in ấn và phát hành 400 sổ tay tuyên truyền và 10000 tờ rơi, tổ chức các hoạt động truyền thông trên các kênh thông tin đại chúng. Việt Nam cũng có nhiều hội thảo quốc gia, nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới tính và các vấn đề SKSS. Nhưng nhìn chung tất cả những hội thảo này thảo luận về các vấn đề SKSS nói chung chứ chưa đi vào thảo luận về giáo dục sức khỏe sinh sản trong nhà trường THPT. Nhìn chung, các nghiên cứu thường tập trung đi sâu 18
- vào tìm hiểu thực trạng hiểu biết về SKSS và thái độ hành vi của thanh thiếu niên về các kiến thức sức khỏe sinh sản. 13.1. Cơ sở lý luận về nhu cầu Giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh sản 13.1.1. Nhu cầu giáo dục giới tính về chăm sóc sức khỏe sinh sản 13.1.1.1. Nhu cầu Bất cứ hoạt động nào cũng làm thỏa mãn một nhu cầu nhất định. Nhu cầu là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, trong đó các nhà tâm lý học nghiên cứu khá nhiều. Nhu cầu là thành phần đầu tiên trong xu hướng, song nó chi phối mãnh liệt đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con người nói riêng. Bởi vì để tồn tại và phát triển không ngừng, con người cần được thỏa mãn những nhu cầu nhất định nhu cầu về ăn, mặc, ở, học tập, vui chơi và rất nhiều nhu cầu khác nữa. 14. Từ điển tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên) định nghĩa: Nhu cầu là trạng thái cá nhân, xuất phát từ chỗ nhận thấy cần những đối tượng cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của mình và đó là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân. A.G. Kovaliop đã tiếp cận khái niệm nhu cầu với tư cách là nhu cầu của nhóm xã hội: Nhu cầu là sự đòi hỏi của các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau, muốn có những điều kiện để sống và tồn tại. Như vậy theo ông dù là nhu cầu của cá nhân hay nhu cầu xã hội, nó vẫn là sự biểu lộ mối quan hệ tích cực của con người với hoàn cảnh sống. Có thể nói nhu cầu là nguyên nhân khởi đầu cho các hành động khác nhau của con người. Nhu cầu là động lực ban đầu để nảy sinh hành vi, đồng thời cũng là nguồn gốc tính tích cực của cá nhân. Nhu cầu thể hiện ở động cơ, cái thúc đẩy con người hành động chiếm lĩnh đối tượng để thỏa 19
- mãn nhu cầu đó. Khi xuất hiện một nhu cầu cụ thể thì chủ thể sẽ hướng trí lực và việc tìm kiếm các phương thức, điều kiện để thỏa mãn nhu cầu và do vậy nảy sinh hành vi với tư cách là phương thức thỏa mãn nhu cầu. Con người trong xã hội chủ yếu hành động theo nhu cầu. Chính sự thỏa mãn nhu cầu làm cho họ hài lòng và khuyến khích họ hành động. Đồng thời việc nhu cầu được thỏa mãn tối đa là mục đích hành động của con người. Theo cách xem xét đó, nhu cầu trở thành động lực quan trọng và việc tác động vào nhu cầu cá nhân sẽ thay đổi được hành vi của con người. Ngay trong triết học, F.Ăngghen khi nói về nhu cầu, ông cũng khẳng định: “Người ta quy cho trí óc, cho sự mở mang và hoạt động của bộ óc tất cả công lao làm cho xã hội phát triển được nhanh chóng và đáng lẽ người ta phải giải thích rằng hoạt động của mình là do nhu cầu của mình quyết định (mà những nhu cầu đó quả thật đã phản ánh vào đầu óc con người, làm cho họ có ý thức đối với những nhu cầu đó) thì người ta lại quen giải thích rằng hoạt động của mình là do tư duy quyết định”. Trên cơ sở phân tích và tiếp thu quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng tôi thống nhất với quan điểm về nhu cầu nhu sau: Nhu cầu là những đòi hỏi tất yếu của con người cần phải thỏa mãn bằng các phương thức khác nhau để có thể tồn tại và phát triển. Đó cũng là biểu hiện của tính tích cực hoạt động của con người. Sự đòi hỏi đó là thuộc tính tâm lý của con người, nó phản ánh mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh. Chính sự cần thiết phải đáp ứng những đòi hỏi ấy sẽ nảy sinh và thúc đẩy tính tích cực của con người, và thể hiện rõ nét bản chất xã hội của con người. Khi nói tới giới hạn của nhu cầu, ta thấy rằng nhu cầu là vô tận. Tuy nhiên, không phải lúc nào người ta cũng đòi hỏi phải thỏa mãn tất cả các 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Giáo dục quyền con người, quyền công dân trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
115 p | 760 | 196
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
LUẬN VĂN: Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk Thực trạng và giải pháp
98 p | 277 | 86
-
luận văn: ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG TỚI NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH THPT VỀ SỨC KHOẺ SINH SẢN ( KHẢO SÁT TẠI TRƯỜNG THPT THAN UYÊN II - LAI CHÂU)
127 p | 276 | 83
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển tư duy hàm cho học sinh thông qua mô hình hóa Toán học và giải quyết tình huống gợi vấn đề
68 p | 403 | 80
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu didactic về giải bài toán bằng cách lập phương trình ở THCS
97 p | 249 | 43
-
LUẬN VĂN: Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đăk Lăk - Thực trạng và giải pháp
99 p | 164 | 35
-
Luận văn: Giáo dục đạo đức
24 p | 217 | 32
-
Luận văn Giáo dục pháp luật trong các trường chính trị tỉnh ở miền Tây Nam Bộ hiện nay
98 p | 170 | 32
-
Thư mục Luận văn chuyên ngành Giáo dục học
136 p | 127 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Tổ chức dạy đọc - hiểu tác phẩm tự sự Việt Nam theo đặc trưng loại thể trong chương trình Ngữ văn lớp 11
219 p | 107 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát huy tính tích cực của học sinh qua hệ thống câu hỏi, bài tập trong phần Văn học dân gian sách giáo khoa lớp 10
114 p | 142 | 18
-
Luận văn: Tìm hiểu nhu cầu học tập của giáo viên tiểu học tỉnh Bình Phước
89 p | 100 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Dạy học Văn học dân gian lớp 7 theo phương pháp tích cực
78 p | 93 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Quản lý việc dạy chữ Chăm cho người Chăm ở huyện Hàm Thuận Bắc tỉnh Bình Thuận
115 p | 62 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp quản lý đội ngũ cộng tác viên thanh tra chuyên môn bậc Trung học cơ sở của Phòng Giáo dục và Đào tạo quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
26 p | 71 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Nhu cầu, động cơ và khó khăn của sinh viên khi tham gia các hoạt động thể thao ngoại khoá tại một số trường đại học Thành phố Hồ Chí Minh
22 p | 22 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn