Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
lượt xem 57
download
Chính quyền cơ sở là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở, trực tiếp giải quyết những công việc cụ thể ở cơ sở liên quan tới nhân dân, gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân. Vì vậy, năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của đất nước. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
- LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính quyền cơ sở là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở, trực tiếp giải quyết những công việc cụ thể ở cơ sở liên quan tới nhân dân, gắn bó mật thiết với đời sống nhân dân. Vì vậy, năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Thực tiễn cho thấy ở đâu chính quyền cơ sở mạnh, ở đó mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh, quyền làm chủ của nhân dân lao động được phát huy; ở đâu chính quyền cơ sở yếu kém thì ở đó phong trào quần chúng kém phát triển, đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân gặp nhiều khó khăn, trật tự an ninh mất ổn định. Từ khi khai sinh Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, nhất là từ khi đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm nhiều đến việc củng cố kiện toàn về mặt tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở. Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII; Nghị quyết Trung ương 3; Trung ương 6 khóa VIII đều coi vấn đề kiện toàn chính quyền cấp cơ sở và đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở (CBCQCS) là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước. Hiến pháp, luật, pháp luật nước ta đã có những qui định về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế vận hành của bộ máy chính quyền cơ sở; về chế độ sinh hoạt phí... đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Đặc biệt, từ khi "Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở" được triển khai thực hiện, hệ thống chính trị cơ sở có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền (NNPQ) ở nước ta hiện nay, pháp luật về chính quyền cơ sở và CBCQCS chậm được đổi mới, đang ngày
- càng bộc lộ rõ hơn những hạn chế, bất cập như còn chung chung, thiếu định tính và định lượng, rất khó thực hiện. Việc bố trí các thành viên ủy ban nhân dân (UBND) và các chức danh chuyên môn của UBND như hiện nay (theo Nghị định 174/CP và Nghị định 09/CP của Chính phủ) còn gò bó, cứng nhắc, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của từng cơ sở, có nơi thiếu, nơi thừa, số lượng cán bộ được hưởng phụ cấp, sinh hoạt phí ngày càng đông, trình độ kiến thức, năng lực, phương pháp công tác của cán bộ còn yếu kém về nhiều mặt, chính sách tuyển dụng, sử dụng, đào tạo bồi dưỡng và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ cơ sở không ổn định, thiếu nhất quán, không đồng bộ và còn nhiều bất hợp lý, chưa có tác dụng khuyến khích động viên cán bộ đang công tác ở cơ sở yên tâm chịu khó phấn đấu rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức và học tập để nâng cao trình độ; không có tác dụng thu hút cán bộ trẻ, được đào tạo cơ bản về công tác ở cơ sở. Hơn nữa, pháp luật về CBCQCS còn chắp vá, tản mạn, thiếu những chế định: Quy định về tổ chức bộ máy chính quyền và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị xã, phường, thị trấn theo từng loại; số lượng định biên và tiêu chuẩn đối với các đối tượng cán bộ xã, phường, thị trấn theo từng vùng và từng loại cơ sở. Xác định những nguyên tắc cơ bản về công tác cán bộ xã, phường, thị trấn từ bầu cử, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng, điều động, đến cho thôi việc, khen thưởng và kỷ luật cán bộ. Chính từ hạn chế, bất cập của pháp luật về CBCQCS là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc đội ngũ CBCQCS trong hoạt động quản lý, điều hành hành chính còn nhiều yếu kém, tùy tiện. ở một số địa phương đã và đang xuất hiện một số vấn đề đáng lo ngại. Quyền làm chủ của nhân dân ở những mức độ khác nhau đang bị vi phạm, có những nơi khá nghiêm trọng; trật tự xã hội, kỷ cương, pháp luật bị buông lỏng; tình trạng bất lực của chính quyền cơ sở, sự tha hóa, tham ô, lãng phí, quan liêu của một số CBCQCS ở một số địa phương chậm được khắc phục. Nghị quyết của Trung ương 5 khóa IX của Đảng chủ trương từ nay đến năm 2005 phải tập trung:
- Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, biết hướng dẫn và phát huy tính tự quản của dân, công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, không tham nhũng, ức hiếp dân, được dân tín nhiệm; chăm lo đào tạo, bồi dưỡng giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ xã, phường, thị trấn cả về quyền lợi và trách nhiệm [13]. Để đạt được mục tiêu trên, cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về CBCQCS. Từ những lý do trên đây, chúng tôi quyết định chọn đề tài: "Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay". 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề CBCQCS được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Liên quan trực tiếp đến vấn đề CBCQCS và pháp luật về CBCQCS có một số công trình và bài viết đó là: - Đề tài khoa học cấp Bộ: Nghiên cứu củng cố chính quyền các tỉnh, thành phố vùng duyên hải miền Trung giai đoạn 2000 - 2005 và những năm tiếp theo, cơ quan chủ trì: Cơ quan thường trực miền Trung, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), Chủ nhiệm đề tài: Huỳnh Thanh Bình, Nha Trang, 1999. - Đề tài khoa học cấp Bộ: Đổi mới chính sách đối với cán bộ chính quyền cơ sở đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cơ quan chủ trì: Vụ Chính quyền địa phương, Ban Tổ chức - Cán bộ chính phủ (nay là Bộ Nội vụ), Chủ nhiệm đề tài: Trần Hữu Thắng, Hà Nội, 2001. - PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm: Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. - Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ): Chính quyền xã và quản lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- - Vũ Đặng Minh: Dự báo xu hướng phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước những năm đầu thế kỷ 21, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 81 (48)/2000. - Vũ Hiền: Những quyết sách hướng về cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 8/2002. - TS. Lê Minh Thông: Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền xã ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3 (167)/2002. - GS.TSKH Vũ Huy Từ: Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 5 (76)/2002. - TS. Lê Chi Mai: Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và giải pháp, Tạp chí Cộng sản, số 20/2002. - TS. Đặng Quốc Tiến: Thực hiện đồng bộ các giải pháp để đổi mới và nâng cao hiệu lực của chính quyền cơ sở, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 5/2002. - Đỗ Quang Trung: Quán triệt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX - Xây dựng chính quyền cơ sở trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 4/2002... Về cơ bản các công trình và bài viết trên đây mới chỉ đề cập đến việc xây dựng chính quyền cơ sở và đội ngũ CBCQCS. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về CBCQCS, đặc biệt là chưa có một công trình nào đề cập đến thực trạng và hiệu lực của pháp luật về CBCQCS. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của của luận văn 3.1. Mục đích Mục đích của luận văn là thông qua việc nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn của pháp luật về CBCQCS; từ đó đưa ra những đề xuất kiến nghị mang tính giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về CBCQCS theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở nước ta hiện nay.
- 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về CBCQCS. - Đánh giá thực trạng pháp luật về CBCQCS; từ đó rút ra những vấn đề cần giải quyết. - Đề xuất phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về CBCQCS theo yêu cầu xây dựng NNPQ ở nước ta hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Xuất phát từ yêu cầu xây dựng NNPQ ở nước ta hiện nay, trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề: Cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật CBCQCS; khái lược sự hình thành, phát triển và thực trạng của pháp luật về CBCQCS; các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về CBCQCS. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về chính quyền cơ sở và CBCQCS. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở vận dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp phân tích, so sách, tổng hợp, điều tra xã hội học và một số phương pháp khác. 5. Đóng góp mới của luận văn
- - Nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoàn thiện pháp luật CBCQCS. - Đánh giá tương đối đầy đủ toàn bộ thực trạng pháp luật về CBCQCS hiện nay ở Việt Nam. - Phương hướng và giải pháp tác giả đưa ra là thiết thực, có giá trị lý luận và thực tiễn. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đề xuất với Đảng, Nhà nước phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CBCQCS dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn. Góp phần đưa Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX của Đảng vào cuộc sống. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn làm tài liệu tham khảo cho học tập, nghiên cứu, giảng dạy đối với sinh viên, học viên ở các cơ sở đào tạo cử nhân luật học, cử nhân hành chính và các khóa bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước đối với CBCQCS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
- Chương 1 Cơ sở lý luận về hoàn thiện pháp luật cán bộ chính quyền cấp cơ sở 1.1. Vị trí, vai trò của chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 1.1.1. Vị trí, vai trò của chính quyền cơ sở Trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, cấp cơ sở (gồm xã, phường, thị trấn) vẫn giữ được vị trí quan trọng của nó trong hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước. Trong thời kỳ phong kiến, thực dân phong kiến các Nhà nước đều rất coi trọng đơn vị hành chính cấp cơ sở. Sự tồn tại, phát triển của tổ chức chính quyền cơ sở cũng vẫn là một nhu cầu thiết yếu được các Nhà nước thời trung đại, cận đại quan tâm nhằm củng cố bộ máy nhà nước Trung ương, thực hiện ý đồ thống trị của giai cấp cầm quyền. Nhận thức rõ về vị trí, vai trò quan trọng của chính quyền cấp cơ sở, nên ngay từ những ngày đầu khi mới giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm ngay đến việc xây dựng và kiện toàn bộ máy chính quyền cấp cơ sở gọn nhẹ, vững chắc có hiệu lực đảm bảo thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước ở địa bàn dân cư, đảm bảo tính liên tục và ổn định để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước. ở nước ta, theo Hiến pháp quy định thì chính quyền cấp cơ sở là cấp chính quyền thấp nhất trong hệ thống chính quyền địa phương bao gồm ba loại hình là xã, phường, thị trấn. Chính quyền cơ sở là cấp hành chính gần dân nhất và trực tiếp đưa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Chính vì vậy, có thể nói, chính quyền cấp cơ sở là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là mắt xích quan trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều được tổ chức thực hiện ở cấp cơ sở, chính quyền cấp cơ sở là chỗ dựa, là công cụ sắc bén của
- nhân dân để thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Năng lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền cơ sở tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho khối đại đoàn kết toàn dân được thiết lập ngay từ cơ sở. Nếu mối quan hệ hai chiều "lên", "xuống" giữa Nhà nước và nhân dân được thực hiện tốt thì chứng tỏ bộ máy chính quyền cơ sở được tổ chức tốt, hoạt động có hiệu quả, hợp lòng dân. Với vị trí đặc biệt quan trọng như vậy trong hệ thống chính quyền địa phương, vai trò của chính quyền cấp cơ sở được thể hiện ở những điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, đối với các đơn vị hành chính trung gian, vai trò của chúng trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính quyền địa phương là ở chỗ đảm bảo mối liên hệ giữa Trung ương với cơ sở. Ngược lại, đối với các đơn vị hành chính cơ sở, do được hình thành trên nền tảng những đơn vị quần chúng nên mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích nhà nước với dân cư và giữa dân cư với nhau. Chính quyền cơ sở thay mặt Nhà nước đảm bảo sự hài hòa lợi ích đó. Thứ hai, chính quyền cơ sở là nơi tổ chức triển khai mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Để chủ trương, đường lối, chính sách đó đi vào cuộc sống, chính quyền cơ sở phải tổ chức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục giúp dân hiểu rõ đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tổ chức thực hiện sao cho phù hợp với đặc điểm của địa phương mình, góp phần thực hiện thành công những đường lối, chính sách đó. Chỉ có chính quyền cơ sở với chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước giao cho cùng với cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ mới có thể làm được điều đó mà không một tổ chức nào ở cơ sở có thể thay thế được. Có thể khẳng định: dù chủ trương, đường lối và pháp luật của Nhà nước có hoàn thiện đến đâu, nhưng nếu cơ sở không thực hiện hoặc thực hiện không đến nơi, đến chốn thì chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng không thể đi vào cuộc sống. Thứ ba, chính quyền cơ sở có vai trò trong việc quản lý và tổ chức mọi mặt hoạt động đời sống kinh tế, xã hội ở cơ sở. Trực tiếp tổ chức, chăm lo đời sống và bảo
- vệ quyền lợi hàng ngày của nhân dân địa phương, đáp ứng và giải quyết mọi nhu cầu phát sinh từ cơ sở. Trong điều kiện nước ta, với gần 80% dân số chủ yếu sống bằng nghề nông gắn với địa bàn cư trú, thì vai trò của chính quyền cơ sở trong quản lý mọi mặt đời sống của nhân dân ở địa bàn khu dân cư quả là vô cùng to lớn. Thứ tư, muốn ổn định chính trị - xã hội, trước hết phải ổn định từ cấp cơ sở, vì cơ sở là nơi tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Thực tế ở một số địa phương như Thái Bình và một số tỉnh thuộc Tây Nguyên..., do nhận thức ch ưa đầy đủ, chưa coi trọng vị trí, vai trò của chính quyền cơ sở đã dẫn tới để kẻ địch lợi dụng, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân, phá vỡ mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân đã được thiết lập từ bao nhiêu năm nay. 1.1.2. Cán bộ chính quyền cơ sở và vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 1.1.2.1 Quan niệm về cán bộ chính quyền cơ sở Theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX, CBCQCS có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách: - Cán bộ chuyên trách là những cán bộ dành phần lớn thời gian lao động để làm việc công, thực hiện chức trách được giao. Những cán bộ này pháp luật chưa qui định là công chức nhà nước nhưng trên thực tế họ đã phải đảm bảo thời gian lao động và thực hiện chức năng nhiệm vụ gần như là những công chức nhà nước. - Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX qui định những CBCQCS sau đây phải là chuyên trách: + Cán bộ chủ chốt của cấp ủy Đảng, Hội đồng nhân dân (HĐND), UBND, những người đứng đầu ủy ban Mặt trận (UBMT) Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị- xã hội, bao gồm: Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy xã, phường, thị trấn hoặc Bí thư, Phó bí thư Chi bộ cấp xã (nơi chưa thành lập Đảng bộ); Chủ tịch, Phó chủ tịch HĐND xã, phường, thị trấn; Chủ tịch, Phó chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn (xã,
- phường, thị trấn đông dân, khối lượng công việc phức tạp đề nghị 2 Phó chủ tịch); Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội đồng Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh cấp xã. + Cán bộ chuyên môn thuộc UBND xã, phường, thị trấn, bao gồm: Trưởng công an xã; Chỉ huy trưởng quân sự cấp xã (gọi tắt là xã đội trưởng); cán bộ văn phòng; cán bộ địa chính; cán bộ tài chính - kế toán; cán bộ tư pháp - hộ tịch; cán bộ văn hóa - xã hội (hoặc văn hóa thông tin - thể dục thể thao và lao động, thương binh - xã hội); cán bộ quản lý đô thị (đối với phường). Như vậy, so với những qui định trước đây của pháp luật, những qui định trên đây của Nghị quyết Trung ương 5 về đội ngũ CBCQCS, đặc biệt là về CBCQCS chuyên trách đã có những thay đổi. Chính vì vậy, đòi hỏi pháp luật CBCQCS cũng phải sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp. - Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX qui định những CBCQCS sau đây không phải là cán bộ chuyên trách: Thường trực Đảng ủy, Trưởng Ban Tổ chức, Dân vận, Tuyên giáo và Chủ nhiệm ủy ban kiểm tra Đảng ủy; Phó công an xã, công an viên; Phó Chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc và 4 phó đoàn thể thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ, Chủ tịch Hội người cao tuổi cấp xã; Bí thư chi bộ, trưởng thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố. Tóm lại, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX thì cán bộ cơ sở được gọi là "cán bộ, công chức cơ sở" thuộc hệ thống chính trị ở cơ sở. 1.1.2.2. Một số đặc điểm cơ bản mang tính đặc thù của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở Đội ngũ CBCQCS là những người vừa công tác vừa gắn liền với đời sống sản xuất và sinh hoạt của nhân dân khu dân cư. Bởi vậy, đội ngũ CBCQCS có một số đặc điểm cơ bản, khác với đội ngũ cán bộ, công chức nói chung.
- * Cán bộ chính quyền cơ sở chịu tác động của phong tục tập quán, truyền thống và những yếu tố tâm lý của người nông dân - Là cán bộ dân cử nên nghĩ rằng nay làm, mai nghỉ, "quan nhất thời, dân vận đại" hay "một người làm quan, cả họ được nhờ"... - Là người sở tại, thực hiện ba cùng với dân: ăn cùng dân, ở cùng dân, làm việc với dân nên họ coi trọng tình làng nghĩa xóm và giàu tình yêu quê hương đất nước "bán anh em xa, mua láng giềng gần"... Thực tế cho thấy, không ai có thể hiểu được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của nhân dân bằng chính đội ngũ này. Chính nhờ hiểu dân, thông thạo những phong tục tập quán, tâm lý, truyền thống của nhân dân trên địa bàn công tác nên đội ngũ này được nhân dân tin và yêu mến hơn cả. - Là người ngoài biên chế, không được hưởng lương (chỉ có phụ cấp), nên nghĩ rằng tương lai không gắn với Nhà nước và đời sống không được đảm bảo. - Là người không được đào tạo, ít am hiểu pháp luật nên sợ làm sai, không ít CBCQCS (đặc biệt là CBCQCS ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số) nhiều khi giải quyết công việc chủ yếu dựa vào luật tục. - Lề lối làm việc của đội ngũ CBCQCS còn nghiệp dư, không ít CBCQCS có những biểu hiện quan liêu, hạch sách dân, né tránh sự thật, hậu quả là ở một số địa phương hiện tượng khiếu kiện vượt cấp diễn ra thường xuyên. Tóm lại, đội ngũ CBCQCS chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo phong kiến, còn mang tâm lý của người nông dân: thiếu tinh thần sáng tạo, ít táo bạo, thích làm ăn nhỏ; chưa thật sự hết lòng với công việc; chủ yếu năng về tình mà coi nhẹ lý, coi thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước, tình trạng phép vua thua lệ làng còn khá phổ biến ở nước ta. * Sự khác nhau giữa cán bộ cơ sở với cán bộ, công chức cấp trên Cán bộ công chức cấp trên nằm trong biên chế nhà nước, được Nhà nước bảo đảm vị trí công tác từ khi bắt đầu vào biên chế cho đến khi nghỉ hưu. Trong khi đó, cán bộ cơ sở chủ yếu là cán bộ giữ chức vụ qua bầu cử, không nằm trong biên chế Nhà
- nước, do đó khi trúng cử thì là cán bộ, được hưởng chế độ, chính sách do Nhà nước quy định, không trúng cử thì là dân thường; thời gian làm cán bộ thường bị gián đoạn. Dù sắp tới có cán bộ, công chức cơ sở thì cán bộ chủ chốt ở cơ sở cũng không thể vào diện biên chế, thêm vào đó trong cán bộ cơ sở còn có cả cán bộ nhà nước đã về hưu hoặc nghỉ theo chế độ. * Trình độ và năng lực của cán bộ cơ sở còn nhiều hạn chế [36, tr. 23-27] - Về trình độ văn hóa: mới có 47% số cán bộ chủ chốt có trình độ phổ thông trung học. ở 15 tỉnh miền núi phía Bắc và 11 tỉnh miền Trung và Tây nguyên mới chỉ có 30% số cán bộ chủ chốt có trình độ phổ thông trung học. ở một số tỉnh miền núi, Tây Nguyên vẫn còn số cán bộ chưa đọc thông, viết thạo. - Về trình độ lý luận chính trị còn yếu: mới có 39,9 % số cán bộ chủ chốt có trình độ trung cấp và 2,7% có trình độ cao cấp. - Về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn còn nhiều bất cập: chỉ có 8,8% số cán bộ chủ chốt có trình độ trung cấp và 3,7% có trình độ đại học. - Tỷ lệ cán bộ qua các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, đặc biệt là trình độ pháp luật không cao, thường là chắp vá, thiếu hệ thống và lạc hậu. Số ủy viên UBND chưa được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức quản lý nhà nước là 69,3%. Hầu hết cán bộ cơ sở chưa được đào tạo, không có bằng cấp, chỉ được bồi dưỡng sau khi trúng cử nên rất khó khăn khi áp dụng tiêu chuẩn ngạch, bậc công chức. Đối với 4 chức danh chuyên môn theo Nghị định 09/1998/NĐ- CP cũng ở tình trạng tương tự: 60,7% có trình độ văn hóa trung học phổ thông; 11,4% có trình độ lý luận trung, cao cấp (1,2% có trình độ cao cấp); 17,4 % có trình độ chuyên môn trung cấp và đại học (2,8% có trình độ đại học). - Đội ngũ CBCQCS không ổn định, luôn biến động qua bầu cử. Số tái cử thường chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ dưới 50%. * Cán bộ chính quyền cơ sở chưa có đủ điều kiện để thực thi nhiệm vụ
- Hiến pháp coi xã là đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước ở địa phương. Chính quyền cấp xã có chức năng quản lý mọi mặt công tác của Nhà nước ở xã. Tuy nhiên, khi xét các điều kiện để cán bộ xã thực hiện nhiệm vụ thì thấy: - Chưa nói rõ phạm vi quyền hạn (trong mỗi việc được làm đến đâu). - Chưa xác định trách nhiệm cá nhân khi không hoàn thành (đây là điều rất quan trọng). - Quản lý nhà nước bằng pháp luật nhưng chưa bắt buộc cán bộ phải biết luật (ngay Luật tổ chức và bầu cử HĐND và UBND cũng không qui định). - Quản lý nhà nước là tổ chức và điều hành bằng quyền lực nhưng với bộ máy 5-7 thành viên UBND, không phải công chức nhà nước, không làm việc thường xuyên và suốt đời thì làm sao có đủ thời gian bám sát dân và làm sao đủ quyền lực hữu hiệu để kịp thời tổ chức và điều hành? - Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương nhưng không có mô hình trụ sở và trang thiết bị cơ sở vật chất thống nhất cho từng loại địa phương tương xứng và đặc trưng thể hiện cái "uy" của từng bộ máy quyền lực. Như vậy, nói cấp xã là cấp chính quyền cơ sở mới chỉ đề cập đến vế nghĩa vụ mà còn thiếu vế quyền lợi, mới chỉ nói đến yêu cầu mà thiếu điều kiện để nó thực thi yêu cầu. Bởi vậy, nó không chặt chẽ về mặt pháp lý và d ường như điều đó đã tự tách chính quyền cơ sở và đội ngũ CBCQCS ra khỏi chính thể, làm mất tính chất hệ thống của bộ máy quản lý nhà nước, làm giảm sự phấn khởi, niềm vinh dự của đội ngũ CBCQCS. Vấn đề đặt ra là phải làm cho cấp chính quyền cơ sở mang tính chất của một cơ quan hành chính nhà nước, gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn với điều kiện thực hiện quyền hạn, trách nhiệm và quyền lợi của người cán bộ. Cán bộ chính quyền cơ sở nên là công chức, được đào tạo, bổ nhiệm. Bộ máy và cơ quan quản lý nhà nước ở cơ sở phải có đủ điều kiện thay mặt Nhà nước để thực thi quyền lực kịp thời và hữu hiệu.
- 1.1.2.3. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: "Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tinh hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [26, tr. 269]. Vị trí của cán bộ là "cầu nối" giữa Đảng, Chính phủ đối với quần chúng, nhưng không phải là "vật mang" là "dây dẫn" là sự truyền tải cơ học mà chính là con người có đủ tư chất, tài năng và đạo đức để làm việc đó. Hồ Chí Minh đặt cán bộ ở vị trí có tính chất quyết định: chính sách đúng có thể không thu được kết quả nếu cán bộ làm sai, cán bộ yếu kém. Cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) là một trong hệ thống hành chính 4 cấp của nước Việt Nam là nền tảng của hệ thống chính trị, là cơ sở thực tiễn hình thành chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Như đã trình bày ở phần trên; cấp cơ sở giữ vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Là nơi tổ chức thực hiện nhiệm vụ cấp trên giao, là cấp chính quyền trực tiếp chăm lo đến đời sống của nhân dân, là cầu nối giữa Nhà nước với nhân dân. Thông qua hoạt động của Nhà nước, nhân dân thể hiện quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xuất phát từ cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, phong phú nhằm bổ sung hoàn chỉnh lý luận, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Hồ Chí Minh đã dạy: "Cấp xã là cấp gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được thì mọi việc điều xong xuôi" [26, tr. 371]. Thực tiễn cách mạng nước ta chứng minh cho điều đó: tình hình chính trị - xã hội của đất nước ổn định hay không phụ thuộc vào sự ổn định của cấp cơ sở. Đội ngũ CBCQCS là những người sinh ra và lớn lên tại địa bàn cơ sở nên có quan hệ gắn bó mật thiết với họ hàng, làng xóm. Nguồn chủ yếu từ thực tế lao động, công tác, xuất ngũ từ lực lượng vũ trang và từ cán bộ hưu trí mất sức. Đội ngũ CBCQCS là những người sống trong lòng dân, trực tiếp đưa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao đến với dân, đồng thời cũng là người trực tiếp tổ chức thực hiện. Đội ngũ CBCQCS còn là những người trực tiếp
- chăm lo đời sống hàng ngày của dân, họ có chế độ làm việc linh hoạt, nhiều công việc phải thực hiện ngoài giờ hành chính, phương pháp công tác cũng khác với công chức nhà nước, không chỉ giải quyết cứng nhắc theo pháp luật mà chủ yếu là tuyên truyền, vận động, thuyết phục. Lý luận và thực tiễn đã có đủ các luận chứng khoa học và các minh họa để chứng minh đội ngũ CBCQCS luôn giữ vai trò đặc biệt trong mọi hoạt động của quần chúng nhân dân. Đội ngũ CBCQCS có đủ phẩm chất và năng lực sẽ nhân sức mạnh quần chúng nhân dân lên một trình độ cao. Nhờ có đội ngũ CBCQCS tốt mới có thể xác định đường lối chủ trương, tổ chức tập hợp quần chúng nhân dân thực hiện. Trên ý nghĩa đó, Hồ Chí Minh đã khái quát: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc... Bất cứ chính sách, công tác gì, nếu có cán bộ tốt thì thành công... không có cán bộ tốt thì hỏng việc" [27, tr. 46]. Nhận thức được vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ cơ sở, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo xây dựng nhà nước, Đảng ta và Hồ Chí Minh ra sức chăm lo đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở. Đại hội Đảng lần thứ VIII, IX đã đặc biệt coi trọng nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ và xác định: tình hình nhiệm vụ mới đòi hỏi toàn Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, chú trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ kế cận. Sớm xây dựng cho được một chiến lược cán bộ của thời kỳ mới. Là đảng cầm quyền, Đảng phải chăm lo đào tạo, bố trí cán bộ cho cả hệ thống chính trị. Đó là nhận thức và chủ trương đúng đắn nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, phù hợp với sự phát triển khách quan hiện nay như những tiến bộ vượt bậc của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ; sự xuất hiện của kinh tế trí thức; xu hướng hợp tác và cạnh tranh trong hội nhập khu vực và thế giới; sự phát triển của dân trí... Tất cả tình hình đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nói chung và đội ngũ CBCQCS nói riêng phải vươn lên một tầm cao mới về phẩm chất nhân cách và trí lực khoa học. 1.1.2.4. Mối quan hệ giữa pháp luật về cán bộ chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở
- Để có thể hoàn thiện pháp luật về CBCQCS thì một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng là làm sáng tỏ được mối quan hệ giữa pháp luật về CBCQCS với CBCQCS. Bởi vì, từ mối quan hệ này cho chúng ta thấy được vai trò của pháp luật về CBCQCS với CBCQCS và qua đó cung cấp cho chúng ta những nguyên tắc để xây dựng và hoàn thiện pháp luật về CBCQCS sao cho phù hợp với thực tiễn. Khi xem xét mối quan hệ giữa pháp luật về CBCQCS với CBCQCS, chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, thể hiện qua các nội dung sau: Thứ nhất, về mối quan hệ giữa pháp luật về CBCQCS với CBCQCS. Trong mối quan hệ này xét một cách tổng thể nhất, pháp luật về CBCQCS có vai trò quan trọng là tạo ra cơ sở pháp lý cho mọi vấn đề liên quan đến đội ngũ CBCQCS bao gồm: Một là, pháp luật về CBCQCS tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức đội ngũ CBCQCS. Thông qua các quy định của mình, pháp luật về CBCQCS đưa ra các tiêu chuẩn để tuyển chọn đội ngũ CBCQCS (như tiêu chuẩn ứng cử, tuyển dụng CBCQCS); đưa ra các quy định về mô hình tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở; quy định về các chức vụ trong bộ máy chính quyền cơ sở; quy định về số lượng nhân sự trong bộ máy chính quyền cơ sở. Bộ máy chính quyền cơ sở có hoạt động tốt hay không, phụ thuộc trước hết vào chất lượng đội ngũ CBCQCS, phụ thuộc vào đội ngũ đó được tổ chức như thế nào. Các vấn đề này chỉ được giải quyết tốt nhất thông qua các quy định của pháp luật về CBCQCS. Hai là, pháp luật về CBCQCS tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý, sử dụng đội ngũ CBCQCS. Sau khi đã tổ chức được đội ngũ CBCQCS, thì vấn đề tiếp theo được đặt ra là quản lý và sử dụng đội ngũ CBCQCS như thế nào cho có hiệu quả nhất. Trong tiến trình xây dựng NNPQ Việt Nam, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, vì vậy việc quản lý, sử dụng đội ngũ CBCQCS cũng phải trên cơ sở pháp luật mà trước hết là pháp luật về CBCQCS. Pháp luật về CBCQCS quy định một loạt các vấn đề quan trọng liên quan đến quản lý và sử dụng đội ngũ CBCQCS như: điều động, thuyên chuyển, biệt phái; đào tạo, bồi dưỡng; phân công công tác; quản lý hồ sơ; khen thưởng, kỷ luật. Nếu không quản lý và sử dụng đội ngũ CBCQCS trên cơ sở các quy
- định của pháp luật sẽ dẫn đến bộ máy chính quyền cơ sở và đội ngũ CBCQCS vận hành lệch lạc, thiếu sự gắn kết và đồng bộ. Ba là, pháp luật về CBCQCS tạo cơ sở pháp lý cho đội ngũ CBCQCS thực thi nhiệm vụ, công vụ của mình. Như phần trên đã phân tích, đội ngũ CBCQCS cùng với bộ máy chính quyền cơ sở là nơi trực tiếp thực hiện phần lớn đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời phải thấy rằng, trong hoạt động của mình, CBCQCS thường xuyên giải quyết các công việc liên quan đến quyền, nghĩa vụ của công dân, trong đó có nhiều quyền lợi thiết thân của con người. Để đảm bảo cho hoạt động của CBCQCS được thực hiện một cách đúng đắn, quyền và nghĩa vụ của công dân không bị các vi phạm pháp luật xuất phát trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ CBCQCS xâm hại, thì hoạt động của đội ngũ CBCQCS phải dựa trên một cơ sở pháp lý đầy đủ. Các cơ sở pháp lý này phần lớn nằm trong các quy định của pháp luật về CBCQCS (ví dụ như: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch UBND xã, công an xã; phương pháp, hình thức hoạt động của UBND xã...). Mặt khác, hoạt động của đội ngũ CBCQCS có thực hiện hay không, phụ thuộc trước hết vào cơ sở pháp lý của nó. Pháp luật về CBCQCS nếu tạo ra được các cơ sở pháp lý đầy đủ, phù hợp thực tiễn là tiền đề quan trọng cho đội ngũ CBCQCS thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ của mình. Các quyền và nghĩa vụ của CBCQCS trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ phải được pháp luật về CBCQCS quy định đầy đủ. Pháp luật về CBCQCS tạo ra hành lang pháp lý an toàn cho mọi hành động của cán bộ cơ sở, chứ không phải là "các hương ước lệ làng" theo kiểu phép vua thua lệ làng như đã diễn ra trong lịch sử. Bốn là, pháp luật về CBCQCS tạo cơ sở pháp lý cho chế độ đãi ngộ đối với CBCQCS. Đội ngũ CBCQCS có yên tâm công tác, chủ động, sáng tạo trong công tác hay không và có thể hiện được thật sự là "người đầy tớ của nhân dân" hay không phụ thuộc rất lớn vào chế độ đãi ngộ đối với họ như: tiền lương, phụ cấp, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ nghỉ phép và các chế độ đãi ngộ khác. Các chế độ đãi ngộ này, lâu nay vẫn thể hiện nhiều dưới dạng chính sách, chứ chưa được thể chế hóa thành pháp luật. Chúng ta chỉ có thể giải quyết chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ
- CBCQCS khi có một cơ sở pháp lý đầy đủ, chặt chẽ. Việc này phải dựa trước hết vào các quy định của pháp luật về CBCQCS. Tóm lại, pháp luật về CBCQCS có một vai trò đặc biệt quan trọng, có thể ví nó như là "cẩm nang" giúp cho người CBCQCS giải tỏa được một số vướng mắc bấy lâu: quyền, nghĩa vụ của CBCQCS. Họ có quyền gì? Nghĩa vụ ra sao? Mối quan hệ công tác... Pháp luật về CBCQCS tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức, quản lý, sử dụng đội ngũ CBCQCS; tạo lập cơ sở pháp lý cho đội ngũ CBCQCS hoạt động cũng như chế độ đãi ngộ đối với họ. Thứ hai, mối quan hệ giữa CBCQCS và pháp luật về CBCQCS. Trong mối quan hệ này, CBCQCS vừa là đối tượng tác động trực tiếp của pháp luật về CBCQCS, vừa là đối tượng chủ yếu thực hiện pháp luật về CBCQCS, cụ thể: Một là, khi các quy định của pháp luật về CBCQCS phát huy hiệu lực trên thực tế thì đối tượng trực tiếp và chủ yếu chịu sự tác động là đội ngũ CBCQCS. Sự thay đổi của pháp luật nói chung và của pháp luật về CBCQCS nói riêng sẽ kéo theo sự thay đổi về bộ máy chính quyền cơ sở, sự thay đổi về tổ chức đội ngũ CBCQCS, về quyền, nghĩa vụ, hoạt động của đội ngũ CBCQCS. Sự tác động của pháp luật về CBCQCS đối với đội ngũ CBCQCS có thể là tích cực nếu phù hợp với thực tiễn, và tiêu cực nếu nó không phù hợp với thực tiễn. Điều này dẫn đến một vấn đề là khi xây dựng pháp luật về CBCQCS cần phải tính toán một cách đầy đủ, toàn diện những tác động của pháp luật đến đội ngũ CBCQCS để từ đó chúng ta có cách điều chỉnh phù hợp. Sự tác động này có thể rất lớn như nếu chúng ta điều chỉnh bộ máy chính quyền cơ sở dẫn đến khả năng dôi dư lao động, một số CBCQCS sẽ phải nghỉ việc; hoặc tác động nhỏ nhưng lại rất nhạy cảm như tăng lương hoặc phụ cấp cho đội ngũ CBCQCS. Hai là, đội ngũ CBCQCS là lực lượng chủ yếu thực hiện các quy định của pháp luật về CBCQCS. Hiệu lực, hiệu quả của pháp luật về CBCQCS cũng như các quy định của pháp luật về CBCQCS có được triển khai thực hiện nhanh chóng, chính xác, đầy đủ, có hiệu lực và hiệu quả cao trên thực tế hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết là phụ thuộc vào hoạt động của đội ngũ CBCQCS. Vì vậy, Nhà nước phải có các
- biện pháp cụ thể về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, tạo điều kiện cho đội ngũ CBCQCS thực hiện tốt nhiệm vụ, công vụ của mình. Đồng thời cần thấy rằng, quá trình đội ngũ CBCQCS thực hiện các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về CBCQCS nói riêng cũng là một quá trình giúp cho Nhà nước kiểm nghiệm thực tế các quy định của pháp luật có phù hợp hay không. Khi bộ máy, đội ngũ CBCQCS vận hành một cách thông suốt, nhịp nhàng, có hiệu lực, hiệu quả, điều đó phản ánh rằng pháp luật về CBCQCS đã phù hợp với thực tiễn. Ngược lại, khi hệ thống CBCQCS hoạt động không tốt, vi phạm pháp luật nhiều, quyền và nghĩa vụ của công dân bị xâm hại thường xuyên là dấu hiệu cho thấy hệ thống pháp luật của chúng ta chưa phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, các thông tin từ thực tiễn hoạt động của đội ngũ CBCQCS là rất quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về CBCQCS. Ba là, các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý, sử dụng đội ngũ CBCQCS, trong quá trình hoạt động thực hiện nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ CBCQCS là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về CBCQCS. Vì vậy, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về CBCQCS phải xuất phát từ tính chất, thực trạng của các quan hệ xã hội này (tất nhiên phải đặt chúng trong tổng thể quan hệ xã hội nói chung) để trên cơ sở đó chúng ta có chiến lược xây dựng pháp luật về CBCQCS. Điều này có nghĩa là, khi xây dựng, ban hành pháp luật về CBCQCS phải có quá trình khảo sát, điều tra, đánh giá toàn diện đội ngũ CBCQCS để chúng ta có căn cứ thực hiện khi xây dựng pháp luật, tránh trường hợp chủ quan, duy ý chí, áp đặt từ bên trên, làm cho các quy định của pháp luật không phù hợp thực tiễn. Tóm lại, trong mối quan hệ giữa CBCQCS và pháp luật về CBCQCS thì CBCQCS vừa là căn cứ, vừa là đối tượng tác động và đối tượng trực tiếp thực hiện pháp luật về CBCQCS. Đội ngũ CBCQCS am hiểu pháp luật, có kiến thức trình độ chuyên môn cao là thuận lợi cơ bản và quyết định cho việc đưa những quy định của pháp luật vào cuộc sống. Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về CBCQCS phải xuất phát từ thực tiễn nói chung và trước hết từ thực tiễn hoạt động của CBCQCS nói riêng.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về hải quan đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay
95 p | 342 | 87
-
Luận văn Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay
130 p | 540 | 85
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật về cán bộ chính quyền cấp cơ sở theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
123 p | 330 | 81
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Giải quyết ly hôn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam và hướng hoàn thiện pháp luật
36 p | 348 | 77
-
LUẬN VĂN: Hoàn thiện pháp luật đảm bảo dân chủ trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay
98 p | 206 | 56
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ phần
16 p | 145 | 31
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ ở Việt Nam hiện nay
26 p | 119 | 23
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ: Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân qua thực tiễn thi hành tại Chi cục thuế Quận Kiến An thành phố Hải Phòng
15 p | 125 | 20
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về tố cáo và giải quyết tố cáo ở Việt Nam hiện nay
23 p | 103 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam
114 p | 47 | 12
-
Luật văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật ở Việt Nam hiện nay
106 p | 32 | 11
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Một số phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thương mại dịch vụ trong tương quan so sánh với định chế WTO
19 p | 133 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về thừa kế ở Việt Nam hiện nay
106 p | 50 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về thủ tục hải quan trong quá trình thực hiện Công ước Kyoto sửa đổi về đơn giản và hài hoà thủ tục hải quan
86 p | 39 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại của Cộng hòa dan chủ nhân dân Lào - Bài học kinh nghiệm từ Việt Nam
164 p | 29 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về quản lý biên chế ở Việt Nam hiện nay
26 p | 45 | 5
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Luật học: Hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp ở nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - Những vấn đề luận và thực tiễn
27 p | 88 | 5
-
Tóm tắt Luận án tiến sĩ Luật học: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Chủ tịch nước
27 p | 46 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn