intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:88

192
lượt xem
63
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng trọng đại của dân tộc ta. Nó đập tan ách thống trị thực dân tàn bạo, xóa bỏ chế độ phong kiến lỗi thời đưa dân tộc ta bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực để nhân dân ta vượt qua khó khăn, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng, vừa là bản chất và đặc trưng của chế độ mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã khẳng định: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình". Trong quá trình xây dựng đất nước, quyền dân chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng, nhân dân thực hiện quyền làm chủ đất nước trước hết và chủ yếu thông qua các cơ quan dân cử. Trong những năm 80 - 90 của thế kỷ XX tình hình vi phạm quyền dân chủ, tệ quan liêu tham nhũng diễn ra trầm trọng dẫn đến tình trạng khiếu kiện tập thể, sự phản ứng mạnh mẽ của nhân dân, làm giảm mạnh lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền. Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30/CT-TƯ về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hóa một bước chỉ thị này, ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/NĐ-CP ban hành kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã và đã được sửa đổi, bổ sung thay thế bằng Nghị định số 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003 (quy chế này áp dụng cho cả phường và thị trấn, sau đây gọi là Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở). Đây là những văn bản quan trọng do Đảng và Nhà nước ban hành nhằm tiếp tục phát huy quyền làm chủ của nhân dân, từng bước đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, chuyên quyền độc đoán, hống hách, xa rời quần chúng, tạo động lực mạnh mẽ trong nhân dân, góp
  3. phần thúc đẩy công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, ngoài những mặt tích cực đạt được đã bộc lộ những điểm chưa hoàn chỉnh như: Tính dân chủ hóa, công khai hóa trong việc cung cấp những thông tin có liên quan trực tiếp đến đời sống hằng ngày của nhân dân ở cơ sở còn hạn chế. Việc thực hiện chế độ lấy ý kiến nhân dân trước khi ban hành chủ trương chính sách của chính quyền còn mang tính hình thức, kém hiệu quả, chưa quy định rõ ràng trách nhiệm của chính quyền trong việc thực hiện Quy chế dân chủ. Còn thiếu các phương thức cụ thể để thực hiện phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" một nội dung quan trọng của việc thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở. Nhiều địa phương và người dân còn xem nhẹ nghĩa vụ phải thực hiện các nội dung của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; chưa có những chế tài cụ thể đối với những hành vi cản trở hoặc không thực hiện các nội dung của quy chế. Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Việc triển khai nghiên cứu đề tài: "Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay" là việc làm cần thiết có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ nói chung được rất nhiều nhà khoa học và các tác giả khác quan tâm nghiên cứu, điển hình như: VI. Lênin: Bàn về dân chủ trong quản lý xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo: Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991; Hoàng Chí Bảo: Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta: quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9/1992; Nguyễn Đăng Quang: Một cách tiếp cận khái niệm dân chủ, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9/1992; PGS.TS Vũ Minh Giang: Thiết chế làng xã cổ truyền và quá trình dân chủ hóa hiện nay ở nước ta, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9/1992; Lê Văn Tuấn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, Tạp chí Thông tin lý luận, số 9/1992; TS. Đỗ Trung Hiếu: Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004;
  4. Đào Trí úc: Củng cố các hình thức dân chủ và sự vững mạnh của nhà nước ta, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/1998; Nguyễn Đăng Dung: "Dân chủ" làng xã - Những vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu, Tạp chí Cộng sản, số 6/1998; Lê Minh Thông: Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2000; Lê Hồng Hạnh: Bàn về các đảm bảo pháp lý của dân chủ, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 4(51), 2000; Trần Thị Băng Thanh: Vai trò của Nhà nước đối với việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học bảo vệ năm 2002 tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Nghiên cứu về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, các bài viết, công trình nghiên cứu chỉ dừng lại ở chỗ: Tìm hiểu và nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã. Đánh giá, tổng kết những thành tựu và những khó khăn sau hơn 6 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã như: Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã một số vấn đề lý luận và thực tiễn (sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 do PGS. TS. Dương Xuân Ngọc chủ biên; sách chuyên khảo của tác giả TS. Nguyễn Văn Sáu - GS. Hồ Văn Thông (đồng chủ biên): Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; cuốn: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn do PGS.TS Nguyễn Cúc (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; cuốn: Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay do TSKH. Phan Xuân Sơn (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; PGS.TS. Vũ Văn Hiền (chủ biên): Phát huy dân chủ ở xã, phường và cuốn: Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm của Thụy Điển và Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay (Đề tài cấp bộ năm 2002 - 2003) do Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì). Ngoài ra, còn có rất nhiều các bài viết đăng trên các báo, tạp chí về tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của các địa phương trong cả nước như: Trương Quang Được: Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 12/2002; Phạm Gia Khiêm: Thực hiện Quy chế dân chủ với xây dựng hệ thống chính trị
  5. cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 9/2000; Lê Khả Phiêu: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng và thực hiện thiết chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 4/1998; Đỗ Mười: Phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 20/1998; Trần Quang Nhiếp: Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở sau hai năm nhìn lại, Tạp chí Cộng sản, số 11/2000...; Phạm Quang Nghị: Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở Hà Nam, Tạp chí Cộng sản, số 5/2000; Nhật Tân: Hà Nội sau 5 năm xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Tạp chí Cộng sản, số 32/2003; Nguyễn Đại Khởn: Kết quả và kinh nghiệm bước đầu sau 5 năm triển khai thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Nam Định, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 7/2004; Lê Kim Việt: Qua ba năm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở nông thôn, Tạp chí cộng sản, số 18/2002... Nhìn chung, các bài viết đã lý giải về tính tất yếu phải xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, qua thực tiễn khảo sát việc thực hiện quy chế ở các địa phương, vùng miền trong cả nước để đưa ra những thành tựu đã đạt được của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã cũng như rút ra những bất cập, hạn chế, vướng mắc của Quy chế, mà chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã và hoàn thiện pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã trên cơ sở lý luận và thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, những tài liệu nêu trên có giá trị tham khảo tốt cho tác giả trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn. 3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Pháp luật về thực hiện dân chủ hiện nay có phạm vi điều chỉnh tương đối rộng, bao gồm nhiều loại như: Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (xã, phường, thị trấn), quy chế thực hiện dân chủ ở cơ quan, doanh nghiệp... Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (được ban hành kèm theo Nghị định số 29/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính phủ, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 79/NĐ-CP ngày 7/7/2003). Trong đó, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, thực trạng quy chế và thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến nay. Trên cơ sở đó đề ra phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trong điều kiện mới. 4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
  6. Mục đích Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về dân chủ và Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, từ thực trạng Quy chế và thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay, luận văn đề xuất một số phương hướng và các giải pháp pháp lý cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trong thời kỳ mới. Nhiệm vụ Từ mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: + Đưa ra khái niệm, phạm vi điều chỉnh và vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở; xác định các tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. + Phân tích, đánh giá thực trạng Quy chế và thi hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay. + Đối chiếu, liên hệ với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước, trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, bước đầu đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xây dựng nền dân chủ XHCN, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung và về lý luận xây dựng pháp luật nói riêng. - Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng với các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Lịch sử - cụ thể; phân tích - tổng hợp, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: Thống kê, so sánh... 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Luận văn nghiên cứu xác định khái niệm quyền dân chủ, khái niệm thực hiện quyền dân chủ, tiêu chí hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. - Phân tích, đánh giá một cách tương đối có hệ thống toàn diện thực trạng và những nguyên nhân tồn tại của Quy chế và thực thi Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.
  7. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp pháp lý cơ bản nhằm hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam hiện nay và hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan trong điều kiện mới. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần giải quyết một số vấn đề lý luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra đối với hoạt động thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy trong các trường chính trị, pháp lý cũng như nghiên cứu hoàn thiện pháp luật thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam trong thời gian tới. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  8. Chương 1 Cơ sở lý luận về hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở 1.1. khái quát về dân chủ và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa 1.1.1. Dân chủ và quyền dân chủ trong học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh 1.1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa - Quan điểm chung về khái niệm dân chủ Dân chủ là một thuật ngữ đã xuất hiện trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp thì "dân chủ" là một từ ghép của hai từ Demos (người bình dân) và Kratos (quyền lực). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực của nhân dân. Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [61, tr. 653]. Như vậy, với nghĩa chung nhất, dân chủ được sử dụng như một tiêu chí để đánh giá mức độ và tính chất của các nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước hoặc tính chất của những xã hội. Dân chủ còn là tiêu chí để chỉ cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực. Cho đến nay, khái niệm dân chủ đã có sự mở rộng và phát triển. Theo đó, dân chủ được hiểu là cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước; nguyên tắc tổ chức và quản lý xã hội; là những giá trị đánh giá tính chất nhà nước, xã hội và nó cũng là tư tưởng, học thuyết... - Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ XHCN "Dân chủ" theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hiện tượng lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức khác nhau trong điều kiện của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong xã hội XHCN, "dân chủ" có một chất lượng mới,
  9. nội dung "quyền lực thuộc về nhân dân" được phát triển đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, giải phóng sức sản xuất, vượt qua lợi ích ích kỷ của giai cấp thống trị. Nhờ vậy, dân chủ là yếu tố bảo đảm cho quá trình giải phóng và phát triển toàn diện con người, đem lại cho họ quyền làm chủ cuộc sống, quyền sáng tạo và sản xuất của cải vật chất, tinh thần cho xã hội, trong đó, "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [34, tr. 569]. "Dân chủ", theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết là một hình thức nhà nước. Nhà nước đó, một mặt thực hiện dân chủ và mặt khác thực hiện trấn áp đối với giai cấp khác trong xã hội, V.I. Lênin viết: "Chế độ dân chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức bảo đảm cho một giai cấp thi hành bạo lực một cách có hệ thống chống lại một giai cấp khác" [30, tr. 101]. Vì vậy, trong lịch sử xã hội loài người, dân chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại dưới những hình thức cụ thể, biến đổi cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất và kết cấu giai cấp của xã hội. Dân chủ là một quá trình phát triển, là kết quả của các cuộc đấu tranh của nhân dân. Do vậy, dân chủ XHCN là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ trong lịch sử mà bản chất của nó là nhằm giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột và tạo điều kiện để con người được phát triển toàn diện. Theo C.Mác, chế độ dân chủ XHCN thực chất là chế độ "do nhân dân tự quy định nhà nước", từ việc nhân dân tổ chức bầu cử để hình thành bộ máy nhà nước đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước dựa trên nguyên tắc do dân và vì dân cũng như việc kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước. Trong chế độ dân chủ, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Điều đó được thể hiện ở chỗ: nhân dân tự tổ chức (bầu cử) quyền lực nhà nước; nhân dân có quyền tham gia quản lý và quyết định những vấn đề quan trọng của nhà nước (trưng cầu dân ý); nhân dân có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tư tưởng này của Mác về sau được Lênin tiếp thu và phát triển trong một điều kiện mới với tư tưởng "chủ nghĩa xã hội sẽ không chiến thắng nếu không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ". Lênin đã khái quát quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị của nhân dân thành ba nội dung lớn đó là: Quyền bầu cử; quyền tham gia quản lý các công việc của nhà nước và quyền bãi miễn.
  10. Như vậy, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì dân chủ XHCN sẽ có những đặc điểm cơ bản sau: + Dân chủ cho nhân dân lao động (số đông). + Dân chủ thực sự. Tức là biến "dân chủ" từ khẩu hiệu trở thành hành động thực tế thông qua vai trò của nhà nước. + Dân chủ XHCN là nền dân chủ toàn diện trên các lĩnh vực, chính trị, kinh tế, t ư tưởng, văn hóa... Thực chất của dân chủ XHCN là sự tham gia một cách thực sự bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào quản lý công việc của nhà nước và xã hội. Thống nhất được quyền và nghĩa vụ của công dân trong mối quan hệ với nhà nước. Vì vậy, nó trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển xã hội. - Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về "dân chủ" của nhân loại, Hồ Chí Minh đã tiếp cận và lý giải khái niệm "dân chủ" một cách đơn giản, nhưng hết sức cô đọng và điều quan trọng là mọi người (đặc biệt là người dân) dễ hiểu, dễ thực hiện, dễ kiểm soát. Người nói: "Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là dân làm chủ" [42, tr. 251]. Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ" [38, tr. 515]. Hoặc có lúc Người viết: Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân Bao nhiêu quyền hạn đều của dân Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [37, tr. 698].
  11. Như vậy, "dân là chủ" và "dân làm chủ" là cốt lõi trong khái niệm "dân chủ" mà Hồ Chí Minh giải thích. Quan niệm trên đây của Hồ Chí Minh cho thấy nội dung của dân chủ đã thể hiện được nội dung căn bản nhất của loài người về khái niệm dân chủ - quyền lực thuộc về nhân dân. Quan điểm "dân là chủ", "dân làm chủ" là quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một chế độ xã hội mới, một nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, mà trong đó địa vị của người dân từ một người dân mất nước (nô lệ) trở thành chủ nhân ông của xã hội với tư cách là một "công dân" và nhà nước đó đã bảo đảm quyền "là chủ" đó của công dân để họ trở thành người "làm chủ" trong việc xây dựng nhà nước và xã hội. Do vậy, thực hành dân chủ (biến dân chủ trở thành hiện thực) được Hồ Chí Minh xem như là chiếc "chìa khóa vạn năng" để đi đến thành công. 1.1.1.2. Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa - Khái niệm quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa Nếu hiểu dân chủ là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân làm chủ xã hội và tham gia vào việc quản lý xã hội, thì quyền dân chủ là tất cả những quyền năng nắm giữ và thực hiện quyền lực nhà nước của người dân được luật pháp ghi nhận. Đó là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và các chủ thể khác trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nó bao gồm các quyền về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Như vậy, khi nói tới quyền dân chủ hay các giá trị dân chủ được thể chế hóa, trước hết phải xác định nguồn gốc của nó là do pháp luật thừa nhận và quy định phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị của xã hội trong từng thời kỳ. Sau đó Nhà nước bảo đảm cho các giá trị đó được thực hiện trên thực tế. Quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà n ước XHCN ban hành và bảo đảm thực hiện, bao gồm các quy định về quyền của công dân trong mối quan hệ với Nhà nước và các chủ thể khác trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… bảo đảm cho nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. - Quyền dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
  12. + Quyền dân chủ trong lĩnh vực chính trị: Đây là nhóm quyền quan trọng và trước hết đối với người dân của bất kỳ một quốc gia nào. Nó xác định tư cách hay địa vị của công dân trong xã hội. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị, theo Lênin: áp dụng chế độ dân chủ Xô viết, tức là chế độ dân chủ vô sản một cách cụ thể nhất… trước hết các cử tri đều phải là quần chúng cần lao và bị bóc lột… Hai là: Mọi thủ tục và những hạn chế có tính quan liêu đều bị xóa bỏ, quần chúng tự quy định lấy thể thức và thời hạn bầu cử, hoàn toàn có quyền tự do bãi miễn những người mà họ bầu ra [28, tr. 343]. ở Việt Nam, nhân dân là chủ thể chân chính và duy nhất của quyền lực xã hội; Nhà nước, pháp luật và các thiết chế công quyền chỉ là đại diện thừa hành, hay công cụ tiện dụng của nhân dân, nhằm thực hiện quyền lực ấy một cách có tổ chức và hiệu quả. Quyền chính trị là các quyền xác định khả năng của công dân vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bao gồm: Quyền có quốc tịch, quyền được sống trong một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; các quyền bầu cử là quyền được lựa chọn hay bãi nhiệm những đại biểu đại diện cho mình để thiết lập nên các cơ quan đại diện (cơ quan quyền lực nhà nước), hay tự mình ứng cử để tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, xâm phạm đến lợi ích công cộng, quyền và lợi ích chính đáng của công dân; các quyền tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, lập hội, hội họp, biểu tình. + Quyền dân chủ trong lĩnh vực dân sự, kinh tế: Trong lĩnh vực dân sự: Là các quyền tự nhiên, gắn liền với mỗi con người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ bao gồm: Các quyền nhân thân (quyền đối với họ, tên, hình ảnh, quyền đối với quốc tịch, nơi cư trú, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bí mật đời tư, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, đi lại…); các quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản; quyền tham gia quan hệ pháp luật dân sự… Quyền dân sự cho phép con người bảo vệ được cá tính là chính mình trong quan hệ với nhà nước và người khác. Các quyền dân sự là tiền đề để xây dựng một chế độ Nhà nước dân chủ.
  13. Trong lĩnh vực kinh tế: Với mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức, tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Các quyền trong lĩnh vực kinh tế gắn liền với việc bảo đảm cho cá nhân tự do sử dụng các đồ dùng và các yếu tố cơ bản của hoạt động sản xuất - các điều kiện sản xuất và sức lao động là một trong các điều kiện quan trọng nhất cho sự tồn tại của xã hội công dân với tư cách là cơ sở xã hội của chế độ dân chủ và cho sự bảo đảm tự do của cá nhân. Các quyền kinh tế ngày càng được mở rộng cho cá nhân, đó là việc nhà nước tôn trọng và bảo hộ các quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân, các cá nhân có quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh trong cơ chế bình đẳng, công bằng, công khai giữa các thành phần kinh tế. + Các quyền dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội: Nhóm các quyền này quy định nghĩa vụ của nhà nước bảo đảm cho người dân những điều kiện sinh tồn xứng đáng, những phúc lợi và dịch vụ vật chất tối thiểu để duy trì cuộc sống của con người, phát triển tinh thần trong một môi trường bao quanh lành mạnh. Khi đó, các quyền xã hội sẽ bao gồm quyền được bảo hiểm xã hội, có nơi ở, hưởng an toàn lao động, bảo vệ sức khỏe... Các quyền văn hóa có nhiệm vụ bảo đảm sự phát triển tinh thần của cá nhân, đó là quyền học tập, tự do sáng tạo, tận hưởng các giá trị văn hóa…; các quyền sinh thái là quyền có một môi trường bao quanh tốt lành, có thông tin đáng tin cậy về thực trạng của nó. Trên đây là những quyền dân chủ cơ bản của cá nhân cần được bảo đảm và thực hiện trong một chế độ nhà nước dân chủ. Mức độ thực hiện chúng trên thực tế là thước đo tính dân chủ của mỗi nhà nước. Mở rộng và thực hiện các quyền dân chủ chính là mục đích mà Nhà nước XHCN đang cố gắng đạt tới nhằm xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
  14. 1.1.2. Thực hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa 1.1.2.1. Khái niệm thực hiện quyền dân chủ Pháp luật ghi nhận các quyền dân chủ của công dân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, song dù ghi nhận đầy đủ đến đâu cũng trở nên không có ý nghĩa nếu như các quyền đó không được thực hiện trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện quyền dân chủ là hoạt động không thể thiếu kể từ khi pháp luật ghi nhận quyền dân chủ của công dân. Thực hiện quyền dân chủ là một trong những hình thức thể hiện bản chất dân chủ của Nhà n ước XHCN. Thực hiện quyền dân chủ là một hình thức thực hiện pháp luật, là một hoạt động có mục đích nhằm đưa những quy định của pháp luật vào thực tế cuộc sống. Thực hiện quyền dân chủ là hoạt động do nhiều chủ thể tiến hành (Nhà nước, tổ chức, công dân...), vì vậy, việc thực hiện quyền dân chủ sẽ phụ thuộc vào ý chí của mỗi chủ thể, song trong đó ý chí của Nhà nước vẫn giữ vai trò quyết định. Từ những căn cứ trên, theo chúng tôi, khái niệm thực hiện quyền dân chủ có thể được hiểu như sau: Thực hiện quyền dân chủ là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về dân chủ, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Thực hiện quyền dân chủ là quá trình cụ thể hóa phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". 1.1.2.2. Các phương thức thực hiện quyền dân chủ Dân chủ đại diện Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể quyền lực mà thông qua đại diện có thẩm quyền do chủ thể bầu ra. Chủ thể quyền lực (tức nhân dân) vẫn giữ cho mình quyền và chức năng tác động, giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan đại diện. Dân chủ đại diện là một hình thức thực hiện dân chủ quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong quy trình thực hiện quyền lực của nhân dân và đã được thực tiễn hoạt động Nhà nước trong các quốc gia dân chủ ghi nhận. Hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ đại diện là chế độ đại nghị tư sản, ra đời trong lòng chế độ quân chủ phong kiến chuyên chế, trở thành công cụ của giai cấp tư sản trong quá trình đang lên. ở Việt Nam, dân chủ đại
  15. diện với các quan điểm của chế độ "dân ủy" đã được khẳng định ngay trong Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1946) và tiếp tục khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp sau này. Điều 6 Hiến pháp 1992 quy định: "Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân". Như vậy, hình thức chủ yếu của dân chủ đại diện ở nước ta là thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn làm chủ thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp của nhân dân được lập nên theo nguyên tắc tự nguyện. Tuy nhiên, dân chủ đại diện dù có ý nghĩa quan trọng đến mấy vẫn không thể khắc phục được những hạn chế của chế độ nhà nước với tính cách là chủ thể quyền lực được ủy quyền nhưng lại trực tiếp thực hiện quyền năng của người ủy quyền là nhân dân. Do vậy, trong một phạm vi, mức độ đáng kể nhân dân vẫn bị tách khỏi quyền lực nhà nước và không phải lúc nào những ủy quyền của nhân dân cũng được thực thi đúng. Vẫn có nguy cơ về căn bệnh tha hóa quyền lực, quan liêu hóa bộ máy nhà nước, sự cồng kềnh, kém hiệu quả của các thiết chế quyền lực, sự xuất hiện một bộ phận cán bộ đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy nhà nước sẽ khó khắc phục nổi nến thiếu các nỗ lực của các lực lượng quần chúng nhân dân. Để khắc phục tình trạng đó cần phải có sự tham gia tích cực và chủ động của nhân dân với tư cách là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước - Đó chính là chế độ dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền lực về những vấn đề cơ bản, chính yếu của một tập thể, một cộng đồng. Cơ quan quản lý có trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa nó vào thực thi trong cuộc sống. Dưới góc độ pháp lý, dân chủ trực tiếp được thể hiện ở ba nhóm quyền năng cơ bản của nhân dân là: Các quyền năng thể hiện, xác lập ý chí trực tiếp của nhân dân đối với các vấn đề quốc gia, dân tộc (đưa ra các sáng kiến, thỉnh nguyện, trưng cầu ý dân…); các quyền năng đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong khuôn khổ phạm vi được ủy quyền theo luật định (quyền lập ra bộ máy nhà nước; quyền giám sát các hoạt động của bộ máy nhà nước; quyền bãi miễn các đại biểu do nhân dân bầu vào cơ quan đại
  16. diện và quyền lực nhà nước…); các quyền năng của nhân dân trực tiếp giải quyết các công việc của cộng đồng mà không cần có sự can thiệp trực tiếp của công quyền. Dân chủ trực tiếp có vị trí, vai trò và ý nghĩa vô cùng to lớn đối với toàn bộ đời sống dân chủ của đất nước được thể hiện trên những điểm chính sau đây: - Bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là phát huy cao độ mọi tiềm năng, trí tuệ của nhân dân trong quá trình xây dựng Nhà nước và xã hội, giải quyết những vấn đề lớn từ quốc kế dân sinh đến những việc của đời sống cộng đồng, dân cư. Thông qua hình thức dân chủ trực tiếp, nhân dân có điều kiện tham gia ý kiến, có điều kiện để tập dượt, trưởng thành, trở thành người chủ đích thực. Một Nhà nước biết lắng nghe và học hỏi dân, biết bồi dưỡng và nâng cao đời sống của dân thì nhân dân không chỉ nói lên điều mình mong muốn mà còn gợi ý, kiến nghị và chỉ ra rằng Nhà nước cần phải hành động như thế nào, bằng phương pháp và công cụ nào để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Thực tiễn của những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ rằng, những sáng kiến đầy tâm huyết của nhân dân là một nguồn trí tuệ vô cùng quý giá góp phần to lớn hoàn thiện những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo ra những bước phát triển vững chắc của đất nước trên con đường phát triển và hội nhập. - Dân chủ trực tiếp tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm tra, giám sát đối với hình thức dân chủ đại diện, với bộ máy nhà nước, giảm bớt sự tùy tiện, lạm quyền, phát huy được tính tự giác, tích cực của mỗi thành viên trong một tập thể, một cộng đồng. Khắc phục thói quen trì trệ, ỷ lại, trông chờ người khác; phát huy truyền thống tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh". Dân chủ trực tiếp là hệ thống báo động nhạy cảm nhất, những thông tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu quả của các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách của mình một cách nhanh nhất, kịp thời sửa chữa, bổ sung, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, xa với thực tế, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Tăng cường và hoàn thiện các chế độ thực hiện dân chủ của nhân dân là việc làm lâu dài và thường xuyên của Đảng và Nhà nước để bảo đảm mỗi bước phát triển của dân
  17. chủ phải được ghi nhận bởi các quy định của pháp luật có tính chất mở đường định hướng cho sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhưng việc phát huy và mở rộng dân chủ phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí, truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán của mỗi quốc gia, dân chủ đi đôi với kỷ cương, quyền hạn gắn với trách nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ. 1.2. những vấn đề chung về Quy chế và hoàn thiện quy chế thực hiện dân chủ ở c ơ sở 1.2.1. Khái niệm Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở Quyền dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp, luật và các văn bản dưới luật khác. Để thực hiện quyền dân chủ của công dân đòi hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, các nhân viên nhà nước, các cán bộ, công chức và mọi công dân phải triệt để tuân thủ pháp luật. Nói cách khác, thực hiện quyền dân chủ là tất cả các quyền dân chủ do pháp luật quy định được tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở là việc chính quyền (HĐND, ủy ban nhân dân (UBND)) và các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn phải thực hiện một số hành vi nhất định để công dân thực hiện được các quyền dân chủ của mình. Việc thực hiện quyền dân chủ ở cơ sở được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành. Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở là Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (ban hành kèm theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ). Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa chính quyền cơ sở với công dân trong việc phải thông tin kịp thời và công khai những việc để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân tham gia ý kiến tr ước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc dân giám sát kiểm tra và việc xây dựng cộng đồng dân cư thôn. 1.2.2. Phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở Phạm vi điều chỉnh của pháp luật (nói chung) là giới hạn điều chỉnh của hệ thống pháp luật nhưng không phải là giới hạn chung cho tất cả các chế định pháp luật và các ngành luật. Mỗi chế định pháp luật, mỗi ngành luật đều có phạm vi điều chỉnh riêng, đó là
  18. những quan hệ xã hội cùng loại thuộc một lĩnh vực của đời sống xã hội cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Ví dụ: Luật dân sự có đối tượng điều chỉnh là các quan hệ tài sản mang tính chất hàng hóa - tiền tệ và một số quan hệ nhân thân phi tài sản; luật hành chính có đối tượng điều chỉnh chủ yếu là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện chức năng quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước… Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở là một chế định pháp luật do vậy nó cũng có đối tượng điều chỉnh riêng. Đối tượng điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng được xác định trên cơ sở lý luận về đối tượng điều chỉnh của pháp luật nói chung, nghĩa là Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở chỉ điều chỉnh trong giới hạn xác định hoạt động của chính quyền cấp xã, phường, thị trấn liên quan đến quyền dân chủ của công dân. Hiện nay Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ban hành kèm theo Nghị định 79/2003/NĐ-CP ngày 7/7/2003 của Chính phủ có phạm vi điều chỉnh gồm: Thứ nhất: Những việc cần thông báo để nhân dân biết Đây là những nội dung rất quan trọng đối với nhân dân nó liên quan đến các quyền và lợi ích thiết thân của nhân dân trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm phối hợp với ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam, các thành viên của MTTQ Việt Nam cùng cấp và Trưởng thôn để thông báo cho nhân dân biết những nội dung này bằng nhiều hình thức. Thứ hai: Những việc nhân dân bàn và quyết định trực tiếp Đây là những nội dung liên quan đến quyền lợi trực tiếp của nhân dân, nhân dân có quyền quyết định trực tiếp những công việc này, phù hợp với pháp luật. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm xây dựng phương án, chương trình, kế hoạch để nhân dân xem xét, bàn bạc và quyết định. UBND cấp xã phối hợp với MTTQ Việt Nam cùng cấp chỉ đạo Trưởng thôn và Trưởng ban công tác mặt trận tổ chức thực hiện những vấn đề do nhân dân tự quyết định đã được UBND xã công nhận. Thứ ba: Những việc nhân dân bàn, tham gia ý kiến, chính quyền xã quyết định Đây là những công việc thuộc thẩm quyền quyết định của chính quyền cấp xã hoặc của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng có liên quan đến việc phát triển kinh tế, chính trị,
  19. văn hóa, xã hội ở địa phương. Nhân dân được bàn bạc, tham gia ý kiến. Chính quyền cấp xã tổ chức lấy ý kiến nhân dân công khai để dựa vào đó mà ban hành quyết định hoặc trình cấp có thẩm quyền quyết định. Thứ tư: Những việc nhân dân giám sát kiểm tra Đây là những nội dung liên quan đến hoạt động quản lý, điều hành của chính quyền cấp xã, nhân dân có quyền giám sát, kiểm tra đối với các hoạt động ấy bằng nhiều hình thức khác nhau. Chính quyền cấp xã có trách nhiệm giải quyết và trả lời những nội dung mà nhân dân quan tâm theo thẩm quyền. Thứ năm: Xây dựng cộng đồng dân cư thôn Nhằm thực hiện dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi để phát huy các hình thức hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư và là nơi tổ chức cho nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao. Tổ chức thôn được thành lập, Trưởng thôn là người đại diện cho nhân dân trong thôn do nhân dân bầu và được Chủ tịch UBND xã công nhận. Thôn xây dựng hương ước, quy ước về công việc nội bộ cộng đồng dân cư, kế thừa và phát huy thuần phong, mỹ tục của cộng đồng, phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành nhằm bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn mới giàu đẹp, văn minh. Xác định phạm vi điều chỉnh của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt giúp cho chính quyền thấy được những nội dung công việc cụ thể phải thực hiện, mặt khác để người dân thực hiện quyền dân chủ trong khuôn khổ của pháp luật tránh việc lợi dụng dân chủ để gây mất đoàn kết nội bộ, phá rối trật tự công cộng hoặc có những hành vi chống phá chính quyền nhân dân. 1.2.3. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở 1.2.3.1. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam Hệ thống pháp luật XHCN Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, được quy định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được
  20. thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành theo những trình tự, thủ tục và hình thức nhất định [24, tr. 173]. Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở được ban hành kèm theo Nghị định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 được sửa đổi thay thế bằng Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ban hành kèm theo Nghị định 79/1998/NĐ-CP ngày 7/7/2003 là một chế định pháp luật hợp thành của hệ thống pháp luật Việt Nam. Sự ra đời của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế XHCN là những quan hệ xã hội quan trọng phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Đồng thời, Quy chế thực hiện dân chủ đã thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng là: Quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống… phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng (Chỉ thị 30/CT-TW ngày 18/2/1998). Trong phạm vi điều chỉnh của mình, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác như: "Luật tổ chức Hội đồng nhân dân - ủy ban nhân dân, Luật khiếu nại, tố cáo; Luật bầu cử Quốc hội; Luật bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp". Có thể xem Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở như một văn bản "tố tụng" về dân chủ, nó đã thúc đẩy các cơ quan nhà nước, các nhà chức trách thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ pháp lý để bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của công dân theo quy định của pháp luật. Như vậy, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, "nó" không chỉ là công cụ thể chế hóa một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước mà còn đóng góp tích cực vào việc nâng cao hiệu quả tác động của các ngành luật khác. 1.2.3.2. Vai trò của Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở trong đời sống xã hội
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2