intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:150

392
lượt xem
92
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

LUẬN VĂN: Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay nghiên cứu những vấn đề về sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hóa hiện nay được học giả quan tâm. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay -1-
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Học thuyết giá trị thặng dư (m) là "hòn đá tảng" trong lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận triết học mácxít, với niềm tin xây dựng xã hội mới, tiến bộ của chủ nghĩa cộng sản khoa học mà kinh tế chính trị mácxít đã kiên trì xây dựng và phát triển lý luận thông qua kế thừa có phê phán các học thuyết kinh tế, những phân tích của C.Mác đối với quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa cho thấy giá trị thặng dư được hình thành khi sản xuất hàng hoá đã phát triển tới một trình độ nhất định và trở thành cơ sở vận động và phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một phương thức sản xuất xã hội cụ thể. Lý luận giá trị thặng dư trong bộ "Tư bản" đã luận giải rõ các điều kiện hình thành, nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư, các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành tư bản, sự vận động và biểu hiện của giá trị thặng dư... Lý luận giá trị thặng dư là phát kiến vĩ đại của Mác, nhờ phát hiện này, cuộc cách mạng của kinh tế chính trị học mới được hình thành, xây dựng lên kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tính khoa học của lý luận giá trị thặng dư được phát triển trên cơ sở lý luận giá trị lao động, trong đó phát kiến có tính mấu chốt từ tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá. Nhờ sức mạnh của phương pháp trừu tượng hoá khoa học biện chứng, đi sâu vào bản chất của hiện tượng, Mác phát hiện ra hàng hoá có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị vì lao động của sản xuất hàng hoá cũng gồm hai mặt lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Do đó, quá trình sản xuất hàng hoá cũng gồm hai mặt quá trình tạo ra giá trị sử dụng và là quá trình làm tăng giá trị. Phải đứng vững trên phát minh này của C.Mác thì mới có thể hiểu được lý luận giá trị thặng d ư, mới khẳng định được chính lao động sống xét về mặt lao động trừu tượng là nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư. Bước quyết định của sự phát triển nhận thức chính là ở chỗ -2-
  3. xem xét tính chất hai mặt của một quá trình lao động sống. Lao động cụ thể của quá trình lao động sống là quá trình chuyển dịch và bảo tồn lao động quá khứ vào sản phẩm (c). Xét về mặt trừu t ượng của quá trình đó thì là quá trình tạo ra và làm tăng giá trị hay quá trình tạo ra giá trị mới (v + m)... Trải qua 142 năm từ khi xuất bản quyển I - Bộ Tư bản (1867), học thuyết giá trị thặng dư đã luôn trở thành vũ khí lý luận sắc bén của giai cấp công nhân được ví như "Tiếng sét nổ giữa bầu trời quang đãng" của Chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, với sự phát triển nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất nhờ những thành tựu vượt bậc của cách mạng khoa học - công nghệ trong nhiều lĩnh vực đã tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế tri thức ra đời ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, lực lượng sản xuất đã có những biến đổi sâu sắc và kéo theo những thay đổi nhất định trong quan hệ sản xuất - xã hội. Sự chuyển hoá của khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp theo dự báo của C.Mác đã trở thành hiện thực. Cơ sở vật chất kinh tế mới về chất đã có tác động với những mức độ và phương hướng khác nhau đến nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và thế giới. Trước hết, với tư liệu sản xuất hiện đại, phương thức sản xuất sản phẩm tiên tiến, chủ nghĩa tư bản đạt được năng suất lao động cao, tăng trưởng kinh tế và tạo ra một khối lượng của cải khổng lồ có chất lượng cao. Đồng thời, kéo theo sự biến đổi về chất lượng, số lượng và cơ cấu trong đội ngũ những người lao động. Đội ngũ những người lao động làm thuê, lực lượng sản xuất cơ bản cũng có sự biến đổi cả về trình độ nghiệp vụ, cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá sức lao động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính chất cách mạng của tư liệu sản xuất. Đây là một đòi hỏi khách quan do chính quá trình s ản xuất đặt ra v.v.. Sự phát triển này làm nảy sinh nhiều khía cạnh khác vừa cơ bản, vừa vận dụng trong điều kiện mới, lại vừa phải đấu tranh phê phán các tư tưởng hoài nghi, mơ hồ, thậm chí lợi dụng để xuyên tạc của các thế lực thù địch. Điều đó, đã và đang đặt ra những vấn đề mới cần được luận giải về lý luận như: sản xuất giá trị thặng dư có còn -3-
  4. cơ sở tồn tại và phát triển trong điều kiện của thế giới hiện đại hay không, nếu có thì điều đó được biểu hiện ra như thế nào ? Vấn đề bóc lột giá trị thặng dư trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và nền kinh tế tri thức ra sao ? Nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là lao động sống của công nhân làm thuê và những vấn đề về bần cùng hoá giai cấp công nhân trong điều kiện thế giới hiện đại được thể hiện như thế nào v.v.. Vì vậy, vấn đề "Lý luận của C.Mác về giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay" được chọn làm đề tài nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Tác phẩm "Tư bản" thiên tài của C.Mác là một công trình nghiên cứu kinh tế hết sức vĩ đại, đồng thời có ý nghĩa to lớn về mặt triết học và thời đại. Trong tác phẩm này, C.Mác đã xây dựng và luận chứng tất cả các luận điểm và khái niệm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ông đã phân tích khoa học và triệt để chủ nghĩa tư bản với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội, đã vạch ra được các quy luật ra đời, phát triển và diệt vong của nó. Lý luận giá trị thặng dư trong Bộ Tư bản cũng vậy, từ phân tích nguồn gốc và bản chất giá trị thặng dư, C.Mác đồng thời đã khái quát sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dưới góc độ lịch sử thông qua ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp và luận giải xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản... một cách toàn diện. Các dẫn liệu và số liệu minh chứng cho các kết luận của Mác là tổng kết lịch sử vận động và phát triển chủ nghĩa tư bản đồng thời là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu và thuyết phục. Từ đó đến nay, trải qua hơn một thế kỷ, nền kinh tế - xã hội thế giới có những đổi thay. Chủ nghĩa tư bản do thích ứng với những tác động của cách mạng khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bão, do sự chi phối của lực lượng sản xuất đang phát triển ở trình độ cao đã đạt được năng suất lao động cao, tạm thời kìm giữ được những mâu thuẫn kinh tế - xã hội ở một giới hạn nhất định nên hiện nay chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn còn tiềm năng để phát triển. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội là một chế độ xã hội tiến bộ, là tương lai của loài người, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử bị sụp đổ, thất bại bởi duy trì một mô hình kinh tế kế hoạch -4-
  5. hoá tập trung quan liêu bao cấp... Dựa vào đó, những thế lực thù địch dưới nhiều dạng thức khác nhau chia rẽ, tấn công, phản bác lý luận kinh tế của Mác, mà trực tiếp là lý luận giá trị thặng dư cả trực tiếp và gián tiếp. Để khẳng định sức sống và sự trường tồn của lý luận giá trị thặng dư. Đã có khá nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về lý luận giá trị thặng dư của C.Mác trong điều kiện của thế giới hiện nay như: 2.1. Các công trình nghiên cứu trong nước liên quan đến đề tài - Đề tài KX01.02 Kinh tế chính trị Mác - Lênin, những giá trị và những vấn đề đặt ra của GS, TS Chu Văn Cấp làm chủ nhiệm. Đề tài khái quát những giá trị của kinh tế chính trị Mác - Lênin. Một mặt, bao quát toàn bộ nội dung theo lôgíc bắt đầu từ lý luận giá trị lao động, là cơ sở nền tảng của lý luận giá trị thặng dư đến lưu thông tư bản và sự biểu hiện giá trị thặng dư dưới các hình thức lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức cho vay và địa tô tư bản chủ nghĩa. Với mỗi nội dung cơ bản nhấn mạnh mặt giá trị khoa học. Mặt khác, đi sâu vào phân tích những nội dung cụ thể đặt ra trước đòi hỏi thực tiễn cần luận giải về mặt lý luận như: Vai trò của lao động quá khứ đối với việc hình thành giá trị thặng dư; Vai trò lao động tổ chức và quản lý của nhà tư bản đối với tạo ra giá trị thặng dư; Vấn đề về chi phí lưu thông thuần tuý trong việc hình thành giá trị hàng hoá v.v.. Đề tài luận giải từng nội dung vấn đề đặt ra và cách giải quyết. Tuy nhiên, những luận giải mới bước đầu đi vào phân tích, khái quát cần có thêm thời gian và công sức để tiếp tục nghiên cứu bổ sung cho hoàn thiện. - Phải chăng, lý luận giá trị thặng dư của C.Mác đã lỗi thời, Tạp chí Cộng sản 1995, số 5, tr.49 - 53. Tác giả PGS, TS Mai Hữu Thực. Nội dung bài viết nêu lên những luận điểm cốt lõi của lý luận sản xuất giá trị thặng dư. Đồng thời, nêu một số quan điểm tư tưởng mơ hồ, hoài nghi về những nhận định của C.Mác về sản xuất giá trị thặng dư trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sau đó phân tích, phê phán... Qua đó, khẳng định sức -5-
  6. sống và tính khoa học về những nội dung mà Mác đã trình bày và sự biểu hiện trong thời đại ngày nay để củng cố niềm tin về chân lý khoa học và cách mạng của học thuyết kinh tế C.Mác. - Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta của GS, TS Đỗ Thế Tùng. Tạp chí Quốc phòng toàn dân, 9/1997, tr.23 - 27. Bài viết phân tích mối quan hệ giữa hai phương pháp nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối và tương đối. Từ đó rút ra kết luận sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là tăng cường độ lao động và sản xuất giá trị thặng dư tương đối là tăng năng suất lao động. Liên hệ quá trình đổi mới và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đòi hỏi xác định cường độ lao động và năng suất lao động. Đặc biệt vấn đề tăng năng suất lao động trong ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt mà trực tiếp là ngành nông nghiệp. Khi nông nghiệp phát triển đảm bảo tư liệu sinh hoạt cần thiết, từ đó nhân dân có tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. - Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác: Tính khoa học và tính thời sự. Sách tham khảo: "Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn mới ở Việt Nam. PGS, TS Nguyễn Đình Kháng; PGS, TS Vũ Văn Phúc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Nội dung công trình nghiên cứu trên phân tích việc ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại đã thúc đẩy lực lượng sản xuất các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, nhờ đó các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu ngạch cao. Đồng thời, đời sống của những người lao động cũng được cải thiện và hình thành tầng lớp trung lưu trong xã hội. Trong khi đó, sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu... làm nhiều người nghi ngờ tính đúng đắn của khoa học kinh tế chính trị, đặc biệt là học thuyết giá trị thặng dư. Từ đó, các bài viết đề cập đến các nội dung: -6-
  7. - Phải chăng máy móc tạo ra giá trị thặng dư ? - Phải chăng C.Mác quy công trực tiếp tạo ra giá trị cho lao động thể lực. - Vai trò của lao động, dịch vụ trong kinh tế hàng hoá. - Chủ nghĩa tư bản ngày nay có còn là chế độ xã hội dựa trên bóc lột lao động làm thuê hay không ? - Bần cùng hoá giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển hiện nay được hiểu như thế nào ? - Quan điểm của C.Mác về sự phát triển của hệ thống máy móc và ý nghĩa của nó đối với nền kinh tế tri thức. PGS, TS Đỗ Thế Tùng, Hội thảo khoa học: "Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn ở Việt Nam", Hà Nội, 2003. Luận giải những người sử dụng hệ thống máy móc thiết bị tiên tiến thu được lợi nhuận siêu ngạch. Đó là công nghệ tiên tiến làm tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt xuống thấp hơn giá trị xã hội... Trong nền kinh tế tri thức, xu hướng này diễn ra càng phổ biến. Vì vậy, có cách nhìn khách quan về vai trò của máy móc trong quá trình sản xuất để phân biệt rõ điều kiện và nguồn gốc sản xuất ra giá trị thặng dư. - Những nhận thức về chủ nghĩa tư bản hiện đại dưới góc độ kinh tế chính trị. PGS, TS Trần Quang Lâm. Sách tham khảo: Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Luận giải chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn dựa trên sự bóc lột giá trị thặng dư, song hình thức, phương pháp, quy mô của sự bóc lột có sự biến đổi, ví dụ như khoa học hoá, quốc tế hoá sự bóc lột; trong chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại những bất bình đẳng, tệ nạn xã hội ngày càng phát triển với trình độ và quy mô mới, thất nghiệp, khủng hoảng vẫn tồn tại dưới hình thức mới. Từ đó, chứng minh mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và khẳng định sự thay thế tất yếu bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. -7-
  8. 2.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài liên quan đến đề tài Hai học giả người Nga T.A.Isnailov và G.C.Gamidow trong "Bàn về nền kinh tế dựa trên sơ đồ tri thức", (2002) cho rằng: Dưới tác động của những tri thức về khoa học và công nghệ, nền tảng công nghệ của các lĩnh vực sản xuất truyền thống được thay đổi về chất... Khi đó, mọi lĩnh vực, ngành sản xuất và hoạt động quản lý đều được tự động hoá và tin học hoá. Từ đó, diễn ra sự thay đổi nhanh chóng và căn bản trong cơ cấu xã hội, tạo điều kiện mở rộng và tăng cường hoạt động trí óc... Tri thức trở thành nguồn lực hàng đầu mà mọi chủ thể đều phải cố gắng chiếm hữu và phát triển nó. Từ đó, phân phối lợi nhuận xét ở khía cạnh nào đó cũng có lợi cho người lao động trí thức, và vì vậy, quan hệ bóc lột được giải quyết để đảm bảo lợi ích. - Diatlov. S.A trong "Sức lao động trong hệ thống quan hệ thị trường" (2002): Đề cập sức lao động trình độ cao trong quan hệ cung - cầu trên thị trường hiện nay. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả sức lao động và trực tiếp là tiền lương trong các công ty hiện đại. Phân phối lợi nhuận có xu hướng biến đổi và quan hệ nhà tư bản với tư cách là người quản lý với đội ngũ công nhân có trình độ cao hình như đang tạo lập các yếu tố bình đẳng hơn so với các doanh nghiệp trình độ công nghệ thấp... - Maslova I.S trong "Giải quyết việc làm hiệu quả và thị trường sức lao động" (2003): Bài viết đề cập đến tác động của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại gây sức ép về cầu trên thị trường sức lao động. Từ đó, đề xuất giải pháp giải quyết việc làm hiệu quả tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. - Kasepow A trong "Điều tiết thị trường sức lao động trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại" (2004). Dựa vào luận đề của Mác đã trình bày trong học thuyết tích luỹ khi phân tích ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại làm cho cấu tạo hữu cơ tư bản tăng. Tất yếu dẫn đến cung sức lao động lớn hơn cầu sức lao động trên thị trường làm cho giá cả sức lao động giảm. Đồng thời, bàn thêm về giải pháp giải quyết vấn đề thất nghiệp thông qua các hình thức xuất khẩu lao động -8-
  9. và dự báo xu hướng điều tiết thị trường sức lao động của thế giới đến năm 2015. - Ngô Quý Tùng (Trung Quốc) năm 2001 "Kinh tế tri thức, xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI", Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. Tác phẩm nêu quan niệm về nền kinh tế tri thức, tập trung phân tích xu hướng phát triển và các ngành kinh tế tri thức trong thập kỷ tiếp sau. Từ đó, khẳng định các ngành kinh tế giá trị do tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo (70 - 80%) so với ngành kinh tế dựa vào tài nguyên. Đồng thời, phân tích xu hướng phát triển sản xuất và phân phối trong điều kiện nền kinh tế tri thức. Kiến nghị đề xuất giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Trung Quốc (1999). - David C.Korten "Bước vào thế kỷ XXI - Hành động tự nguyện và chương trình nghị sự toàn cầu". Dự báo xu hướng phát triển cách mạng khoa học - công nghệ trong thế kỷ XXI, những ngành kinh tế tri thức có tốc độ phát triển nhanh. Kéo theo đó, xu hướng toàn cầu hoá làm tăng cường mối quan hệ phụ thuộc giữa các quốc gia. Quá trình sản xuất và phân phối được chi phối bởi những nhân tố có tính toàn cầu. Vì vậy, mỗi chính phủ có chính sách phù hợp... - Akiragoto; Ryuhei Wakasugi (2000) "Chính sách công nghệ, chính sách công nghiệp của Nhật Bản", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Từ chính sách phát triển công nghệ trong điều kiện cụ thể của Nhật Bản đề xuất chính sách phát triển công nghiệp một cách phù hợp. Nhật Bản phải nhập khẩu tài nguyên và tiền công cao. Để phát triển phù hợp có hiệu quả trong từng thời kỳ, từng ngành cụ thể, có bước đi phù hợp để phát huy lợi thế. Đồng thời, đặt trong mối quan hệ với các nước khác, đặc biệt là đầu tư để chiếm lĩnh thị trường sản xuất và tiêu thụ được lợi nhuận cao. Tóm lại, từ nhiều cách tiếp cận và với nội dung gắn với sản xuất, phân phối cũng như giải quyết các mối quan hệ cụ thể chủ - thợ và quan hệ giai cấp... Các công trình, đề tài nghiên cứu đều xuất phát từ nguyên lý cơ bản của lý luận giá trị lao động và giá trị thặng dư đặt trong bối cảnh cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá kinh tế để phân tích, đánh giá biểu hiện và xu hướng vận động và phát triển. ở những mức độ nhất định, các công trình nghiên cứu đã luận -9-
  10. giải và phân tích được những biểu hiện của sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư trong điều kiện thế giới hiện nay. Tuy nhiên, đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống những vấn đề lý luận C.Mác về sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư trong điều kiện của thế giới hiện nay. Vì vậy, đề tài nghiên cứu không có sự trùng lặp với các công trình, đề tài đã được công bố. 3. Mục tiêu nghiên cứu - Luận giải rõ cơ sở khách quan, khoa học về lý luận sản xuất và phân phối giá trị thặng dư của C.Mác trên cơ sở của lý luận giá trị lao động trong điều kiện chủ nghĩa tư bản thời kỳ tự do cạnh tranh và thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền dựa theo những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền mà Lênin đã nêu ra và biểu hiện mới của chúng trong điều kiện thế giới ngày nay. - Từ những nội dung cơ bản trong lý luận sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư như: Lý luận hàng hoá - sức lao động; về tư bản bất biến và tư bản khả biến; về tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư; các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư; các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối thông qua ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp (đặc biệt giai đoạn đại công nghiệp cơ khí); Lý luận về tích luỹ tư bản: về mối quan hệ giữa tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản với thị trường hàng hoá sức lao động. Các nhân tố làm tăng quy mô tích luỹ và bần cùng hoá giai cấp công nhân, xu hướng lịch sử của tích luỹ tư bản. Với mỗi nội dung cụ thể đặt trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá có những biểu hiện mới, đòi hỏi luận giải về lý luận gắn với thực tiễn, vừa khẳng định giá trị khoa học, thời sự, vừa chống lại tư tưởng phản bác, mơ hồ, hoài nghi... nhằm khẳng định và phát triển lý luận giá trị thặng d ư nói chung và phát triển lý luận kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử mới. - Trên cơ sở nội dung lý luận của C.Mác về sản xuất và phân phối giá trị thặng dư đã được phân tích, đánh giá hoàn thiện trong điều kiện thế giới hiện đại. Vận dụng đề xuất những giải pháp phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt vận dụng vào công cuộc đẩy mạnh công nghiệp -10-
  11. hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân gắn với từng bước phát triển kinh tế tri thức phù hợp với quan điểm, phương hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam. 4. Phương pháp và giới hạn nghiên cứu 4.1. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài vận dụng lý luận và phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đặc biệt kết hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích, đánh giá các luận điểm, các biểu hiện quá trình sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và xu hướng toàn cầu hoá. - Sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, so sánh với một số sơ đồ, biểu đồ luận giải vấn đề nghiên cứu. Đồng thời tham khảo phương pháp nghiên cứu của các trường phái kinh tế học hiện đại: T.M.Keynes; Samueson v.v.. - Kế thừa có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước. Đồng thời, cập nhật những vấn đề thời sự và thông tin mới trong nghiên cứu. - Tổ chức hội thảo, lấy ý kiến chuyên gia. 4.2. Giới hạn nghiên cứu Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác bao gồm nhiều nội dung và rất rộng, bao quát toàn bộ quá trình sản xuất và phân phối của chủ nghĩa tư bản. Đề tài chỉ nghiên cứu những vấn đề về sản xuất và phân phối giá trị thặng dư trong điều kiện cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá hiện nay được học giả quan tâm. 5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Luận giải những vấn đề lý luận về sản xuất và phân phối giá trị thặng dư của C.Mác trong điều kiện của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và toàn cầu hoá để khẳng định sức sống các học thuyết kinh tế của C.Mác trong điều kiện -11-
  12. lịch sử mới. - Làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy khoa học kinh tế nói chung và kinh tế chính trị trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. - Những giải pháp đề xuất để tham khảo trong hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước phù hợp với sự phát triển thời đại ngày nay. 6. Kết cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tổng quan gồm 3 chương, 6 tiết. -12-
  13. chương 1. Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác - Những vấn đề lý luận cơ bản 1.1. Lý luận giá trị lao động cơ sở nền tảng khoa học của lý luận giá trị thặng dư 1.1.1. Những vấn đề cơ bản về lý luận giá trị lao động của C.Mác Trên cơ sở phê phán những hạn chế trong lý luận kinh tế của giai cấp tư sản và tiếp thu những tư tưởng khoa học, hợp lý của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển và chủ nghĩa xã hội không tưởng, C.Mác là người đầu tiên sáng lập ra kinh tế chính trị học của giai cấp công nhân vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Đó là thời kỳ lịch sử khi mà quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa chiếm địa vị thống trị ở một số nước Tây Âu: Anh, Pháp, Tây Ban Nhan, Hà Lan. Những mâu thuẫn bên trong vốn có mà phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã bộc lộ đầy đủ, rõ ràng, mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt đến mức đưa giai cấp tư sản với vai trò là giai cấp tự giác xuất hiện trên vũ đài chính trị, đòi hỏi các nhà tư tưởng của mình có những chứng minh lý luận đối với chế độ tư bản chủ nghĩa và vạch đường đi cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của giai cấp vô sản. Các Mác bắt đầu từ đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị học, lấy lý luận giá trị lao động là nền tảng khoa học, lấy lý luận giá trị thặng dư làm căn cứ để thực hiện thay đổi toàn diện hệ thống lý luận hoàn thành cuộc cách mạng trong kinh tế chính trị học. Tiên chuẩn cơ bản của sự kiến lập khoa học hoàn thiện của cách mạng trong khoa học kinh tế chính trị của chủ nghĩa Mác được thể hiện đầy đủ bộ "Tư bản" - Tác phẩm vĩ đại, nổi tiếng của C.Mác từ khi ra đời năm 1867 đến nay vẫn giữ nguyên giá trị. Hơn thế nữa, theo sự thăng trầm lịch sử phát triển kinh tế - xã hội hơn 140 năm qua người ta càng thấm thía ý nghĩa khoa học, cách mạng của nó khi mà những nguyên lý, luận đề, những quy luật hiện diện như một sự tiên đoán trước, lỗi lạc. Đúng như Ăngghen đã coi "Tư bản luận" là kinh thánh của giai cấp công nhân và cho rằng từ khi có nhà tư bản và công nhân đến nay, chưa hề có một cuốn sách nào có ý nghĩa quan trọng như vậy đối với giai cấp công nhân. Mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ -13-
  14. bản, xuyên suốt xã hội tư bản chủ nghĩa được trình bày lần đầu tiên một cách có hệ thống là lập luận khoa học xuyên suốt. Tính nhân văn trong lý luận kinh tế chính trị của C.Mác không chỉ biểu hiện tính giai cấp, bênh vực lợi ích giai cấp công nhân lao động mà rộng lớn hơn là lấy con người làm cốt lõi, biểu hiện là sự quan tâm triệt để đối với con người, giải phóng con người, dẫn dắt loài người đến một xã hội tốt đẹp hơn. Vấn đề nền tảng cho tất cả những giá trị khoa học và nhân văn nói trên được bắt đầu từ lý luận giá trị lao động của C.Mác. Và C.Mác đã chỉ ra: những xã hội do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chi phối thì của cải biểu hiện ra là một "đống hàng hoá khổng lồ" còn từng hàng hoá một thì biểu hiện ra là hình thái nguyên tố của của cải ấy. Công cuộc nghiên cứu của C.Mác bắt đầu từ việc phân tích hàng hoá. Về hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá Hàng hoá là sản phẩm của lao động mà, một là, nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người; hai là, nó được sản xuất ra không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng, mà để bán. Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ, cơm để ăn, áo để mặc, máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu để sản xuất... Công dụng của sản phẩm do thuộc tính tự nhiên của sản phẩm quyết định. Theo đà phát triển của khoa học - kỹ thuật, con người càng phát hiện ra thêm những thuộc tính mới của sản phẩm và phương pháp lợi dụng những thuộc tính đó. Giá trị sử dụng chỉ thể hiện ở việc sử dụng hay tiêu dùng. Nó là nội dung của của cải, không kể hình thức xã hội của cải đó như thế nào. Với ý nghĩa như vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Một sản phẩm đã là hàng hoá thì nhất thiết phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ sản phẩm gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Ví dụ: không -14-
  15. khí rất cần thiết cho cuộc sống con người, nhưng không phải là hàng hoá; nước suối, quả dại cũng có giá trị sử dụng, nhưng không phải là hàng hoá. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi trước hết là tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Ví dụ: 1 mét vải trao đổi lấy 5 kg thóc. Tại sao vải và thóc là hai giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau ? Tại sao lại trao đổi theo tỷ lệ 1 mét vải = 5 kg thóc. Hai giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi giữa chúng có một cơ sở chung. Cơ sở chung này không phải là thuộc tính tự nhiên của vải, cũng không phải thuộc tính tự nhiên của thóc. Song, cái chung đó phải nằm ở cả vải và thóc. Nếu không kể đến thuộc tính tự nhiên của sản phẩm, thì vải và thóc đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra vải và thóc, người thợ thủ công và người nông dân đều phải hao phí lao động. Hao phí lao động là cơ sở chung để so sánh vải với thóc, để trao đổi giữa chúng với nhau. Sở dĩ phải trao đổi theo một tỷ lệ nhất định, 1 mét vải đổi lấy 5 kg thóc, vì người ta cho rằng lao động hao phí sản xuất ra 1 mét vải bằng lao động hao phí để sản xuất ra 5kg thóc. Khi chủ vải và chủ thóc đồng ý trao đổi với nhau thì họ cho rằng lao động của họ để sản xuất ra 1 mét vải bằng giá trị của 5 kg thóc. Từ sự phân tích trên, chúng ta rút ra kết luận quan trọng: giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Sản phẩm nào mà không chứa đựng lao động của con người, thì không có giá trị. Không khí chẳng hạn, mặc dù rất cần thiết, nhưng không có lao động con người kết tinh trong đó, nên không có giá trị. Vàng, kim cương có giá trị cao, vì phải tốn nhiều lao động mới sản xuất được chúng. Nhiều hàng hoá lúc đầu đắt, nhưng sau nhờ tiến bộ kỹ thuật làm giảm số lượng lao động hao phí để sản xuất ra chúng thì lại trở nên rẻ hơn. Việc hàng hoá trở nên rẻ hơn phản ánh sự giảm giá trị hàng hoá, giảm bớt số lượng lao động xã hội hao phí để sản xuất hàng hoá. Như vậy cũng có nghĩa là khi giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi. Giá trị trao đổi chính là hình thức biểu hiện -15-
  16. của giá trị. Phần trên đã nói, khi những người sản xuất đồng ý trao đổi hàng hoá với nhau thì điều đó có nghĩa là họ cho rằng lao động hao phí để sản xuất hàng hoá của người này bằng của người kia. Thực chất của hoạt động trao đổi là sự so sánh lao động giữa những người sản xuất với nhau. Vì vậy, giá trị biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Quan hệ giữa người với người không còn là quan hệ "thuần tuý", mà nó đã được thay thế bằng quan hệ giữa vật với vật. Giá trị là một phạm trù lịch sử, nó gắn liền với nền kinh tế hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì còn tồn tại phạm trù giá trị. Nội dung khái niệm giá trị hàng hoá như trên khác với khái niệm giá trị mà chúng ta thường gặp trong đời sống. Hàng ngày, chúng ta có thể nói: quyển sách rất có giá trị, tức là quyển sách hay; không khí rất có giá trị, tức là không khí rất cần thiết cho cuộc sống hay là có giá trị sử dụng. Còn trong kinh tế chính trị học, giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá, là quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị sử dụng và giá trị là hai thuộc tính của hàng hoá. Hàng hoá được thể hiện như là sự thống nhất chặt chẽ, nhưng lại mâu thuẫn giữa hai thuộc tính này. Về tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính như trên vì lao động sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Các Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt này của lao động. Ông khẳng định: "Tôi là người đầu tiên đã chứng minh một cách có phê phán tính chất hai mặt ấy của lao động chứa đựng trong hàng hoá. Vì đây là điểm xuất phát mà nhận thức của kinh tế chính trị xoay quanh. Cho nên, ở đây nó cần phải được xem -16-
  17. xét một cách tường tận hơn nữa"1. Lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối tượng riêng, thao tác riêng, phương tiện riêng và kết quả riêng. Ví dụ, lao động cụ thể của người trồng lúa và người thợ dệt vải là khác nhau. Người thứ nhất có mục đích là lúa, người thứ hai có mục đích là vải. Đối tượng của người thứ nhất là trồng cây, đối tượng của người thứ hai là bông sợi. Thao tác của người nông dân là cày cấy, vun trồng, còn thao tác của người thợ dệt là dệt vải. Một người sử dụng cái cày, con trâu, còn người kia sử dụng con thoi, khung cửi. Cuối cùng, người nông dân thu được lúa, người thợ thu được vải. Lao động cụ thể càng nhiều loại thì giá trị sử dụng cũng càng nhiều loại. Tất cả các loại lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội ngày càng chi tiết. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hoá. Bất cứ giá trị sử dụng nào, nếu không phải do thiên nhiên trực tiếp ban cho, thì đều do một lao động cụ thể nào đó tạo ra. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn, là một điều kiện không thể thiếu trong mọi chế độ xã hội. Lao động trừu tượng là gì ? Và trở lại ví dụ 1 mét vải đổi lấy 5 kg thóc. 1 mét vải bằng 5 kg thóc có nghĩa là lao động làm ra 1 mét vải bằng lao động sản xuất ra 5 kg thóc. Về mặt là lao động cụ thể thì lao động làm ra vải hoàn toàn khác với lao động sản xuất ra thóc. Nhưng chúng lại có thể so sánh được với nhau, vì đằng sau các lao động cụ thể đó còn ẩn giấu một cái gì chung, mà mọi lao động đều có. Cái chung đó là gì? Lao động của người thợ dệt vải cũng như lao động của người trồng lúa, tuy về cụ thể thì khác nhau, nhưng đều là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và sức bắp thịt của con người. Trên phương diện đó mà xét thì mọi lao động đều là lao 1 Tập 23, tr.71. -17-
  18. động đồng nhất của con người. Lao động của người sản xuất hàng hoá nếu coi là sự hao phí sức lực của con người nói chung, không kể hình thức cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng. Cần lưu ý rằng lao động bao giờ cũng là sự hao phí sức óc, sức thần kinh và sức bắp thịt của con người. Nhưng bản thân sự hao phí sức lao động về mặt sinh lý đó chưa phải là lao động trừu tượng. Chỉ trong xã hội có sản xuất hàng hoá mới có sự cần thiết khách quan phải quy các loại lao động cụ thể khác nhau vốn không thể so sánh với nhau được thành một thứ lao động đồng nhất, có thể so sánh với nhau được, tức là phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử, riêng có của sản xuất hàng hoá. ở đâu và khi nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì khi đó còn phải quy lao động cụ thể thành lao động trừu tượng. Chúng ta hãy xem xét lại ví dụ vải và thóc. Nếu gạt bỏ sự khác nhau về giá trị sử dụng, thì vải và thóc chỉ còn lại là sự kết tinh của một lao động đồng nhất của con người. Làm ra vải và sản xuất ra thóc là hai lao động cụ thể khác nhau. Nhưng nếu xét về mặt tạo ra giá trị, thì hai lao động này lại giống nhau về chất: đó đều là sự hao phí sức lao động nói chung của con người. Như vậy, khi xét lao động cụ thể là xem lao động đó tiến hành như thế nào, sản xuất ra cái gì ? Còn khi xét lao động trừu tượng là xem lao động đó tốn bao nhiêu sức lực, hao phí bao nhiêu thời gian lao động. Là lao động cụ thể, thì lao động tạo ra giá trị sử dụng của các hàng hoá. Là lao động trừu tượng, thì lao động tạo ra giá trị của hàng hoá.Hay Chất của giá trị hàng hoá là lao động trừu tượng. Cần lưu ý rằng, không phải có hai thứ lao động được kết tinh trong một hàng hoá, mà chỉ có lao động của người sản xuất, nhưng lao động đó có hai mặt: một mặt là lao động cụ thể, và mặt khác là lao động trừu tượng. Hàng hoá phải có ích mới có -18-
  19. thể có giá trị, cũng như lao động phải có ích mới được công nhận là lao động của con người, mới được coi là lao động trừu tượng của con người. Đồng thời, chúng ta tiếp tục phân tích mâu thuẫn c ơ bản của sản xuất hàng hoá là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất t ư nhân, cá biệt của lao động sản xuất hàng hoá. Mâu thuẫn đó được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa lao động trừu tượng và lao động cụ thể, giữa giá trị và giá trị sử dụng của hàng ho á. Mâu thuẫn giữa lao động trừu tượng và lao động cụ thể biểu hiện ở chỗ: lao động của người sản xuất hàng hoá, nếu xét về mặt hao phí sức lực nói chung, thì luôn luôn là một bộ phận của lao động xã hội. Nhưng cũng lao động đó, nếu xét về sự hao phí sức lao động dưới một hình thức cụ thể nhất định thì người sản xuất lại không thể biết trước xã hội cần hình thức lao động cụ thể nào, với số lượng bao nhiêu ? Do vậy, có hiện tượng là một bộ phận lao động xã hội có thể bị sử dụng vào những việc không cần thiết cho xã hội, không được xã hội thừa nhận. Chỉ có thông qua thị trường mới biết được những lao động cụ thể nào được xã hội thừa nhận hay không. Mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng thể hiện ở chỗ: hàng hoá là giá trị đối với những người sản xuất ra nó và là giá trị sử dụng đối với những người không sản xuất ra nó, nhưng lại cần nó. Muốn thực hiện giá trị của hàng hoá, người chủ của nó phải mất quyền sở hữu về giá trị sử dụng, nhường nó cho người khác sử dụng. Ngược lại, người khác muốn có quyền sở hữu về nó thì phải trả giá trị của nó cho người đang sở hữu nó. Hàng hoá bán được, có nghĩa là giá trị sử dụng biến thành giá trị, mâu thuẫn giữa giá trị và giá trị sử dụng được giải quyết và ngược lại. Mâu thuẫn này thể hiện rõ trong thời kỳ khủng hoảng sản xuất thừa, lúc đó hàng hoá bị ứ đọng, sản xuất ra không tiêu thụ được, giá trị hàng hoá không được thực hiện. Về lượng giá trị hàng hoá Toàn bộ phần trình bày trên đây đã nghiên cứu giá trị về mặt chất. Bây giờ nghiên cứu giá trị về mặt lượng của giá trị hàng hoá. -19-
  20. Hàng hoá do lao động sản xuất ra. Chất của giá trị (hay thực thể của giá trị ) như đã nói là lao động. Do vậy, lượng giá trị hàng hoá được đo lường bằng thời gian lao động quyết định. Vậy, giá trị được đo lường như thế nào ? Đo bằng thời gian lao động và thời gian lại được chia thành từng khoảng như giờ, ngày, tuần, tháng v.v.. Nhưng như thế phải chăng một người lười biếng, vụng về, sản xuất một hàng hoá mất nhiều thời gian, thì hàng hoá của anh ta sẽ có giá trị lớn hơn là hàng hoá do một người thợ giỏi và chăm làm, tốt ít thời gian hơn hay sao ? Tất nhiên là không phải như thế vì sẽ đẩy nền sản xuất . Thời gian lao động tạo ra giá trị không phải là thời gian cá biệt của từng người sản xuất, mà là thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội, với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình.( Thông thường đó là thời gian lao động của những người sản xuất và cung cấp tuyệt đại bộ phận một loại hàng hoá nào đó trên thị trường). Hai loại hàng hoá khác nhau mà thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra chúng bằng nhau, thì chúng có giá trị ngang nhau. Về mối quan hệ giữa lượng giá trị hàng hoá với năng suất lao động và cường độ lao động Thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi theo sự thay đổi của năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động được đo bằng số lượng sản phẩm được tạo ra trong một đơn vị thời gian hay số thời gian lao độngcần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động xã hội càng cao, thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng ít, khối lượng lao động kết tinh trong một đơn vị sản phẩm càng nhỏ, thì giá trị của sản phẩm càng ít. Và ngược lại, năng suất lao động càng thấp, thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá càng lớn thì lao động hao phí càng nhiều và giá trị hàng hoá càng lớn. Như vậy, lượng giá trị của một hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. -20-
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2