intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế

Chia sẻ: Greengrass304 Greengrass304 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:22

138
lượt xem
23
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế

  1. Luận văn Mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế
  2. LỜI NÓI ĐẦU Trong tình hình đất nước hiện nay, sau khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam chúng ta đang có những cơ hội và thách thức lớn trên con đường phát triển kinh tế đất nước. Đây là thời kì toàn cầu hoá kinh tế và người dân ta thường gọi là “thời buổi kinh tế thị trường”, điều này nói lên rằng kinh tế hiện nay có vai trò vô cùng quan trọng đối với tình hình chính trị xã hội hiện tại và việc quản lý tốt nền kinh tế hiện tại để cho đất nước không rơi vào khủng hoảng là nhiệm vụ của quan trọng của chính trị Việt Nam. Đây là mối quan hệ biện chứng cần được điều hoà một cách thoả đáng để phát triển kinh tế đất nước cũng như tầm và vị trí của chính trị Việt Nam trên trường quốc tế, nếu thiếu bất kì một trong hai yếu tố thì sẽ dẫn đến tình trạng đất nước lâm vào khủng hoảng, sẽ ảnh hưởng rất xấu đến xã hội. “Thật tệ hại- chúng tôi đâu có liên quan gì đến Nga hay châu Á. Chúng tôi chỉ là một doanh nghiệp nhỏ trong nước đang cố phát triển nhưng chúng tôi đang b ị ngáng đường vì cách thức chính phủ các nước ấy điều hành đất nước họ”- Trích từ “Chiếc Lexus và cây ô liu”. Qua đoạn trích trên ta thấy chính trị tác động rất lớn đến nền kinh tế. Đó là lý do mà em chọn nghiên cứu đề tài này, để làm rõ mối quan hệ kinh tế với chính trị và một số phương thức để nâng cao lãnh đạo của chính trị với kinh tế. I/ Cơ sở lý luận: 1) Khái niệm: Ta có nhiều quan niệm về chính trị nhưng nói một cách khái quát, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung là quyền lực nhà nước. 1
  3. Kinh tế là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội, là tổng thể nên kinh tế quốc dân. Thực chất của kinh tế là lợi ích kinh tế, hiệu quả kinh tế, sự phát triển của lực lượng sản xuất. 2) Vai trò của kinh tế đối với chính trị: Hoạt động kinh tế của con người xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người, thực chất kinh tế đây là sự sản xuất, nói rõ hơn là việc tìm kiế m thức ăn để nuôi sống bản thân con người. Cùng với sự phát triển của công cụ lao động và việc sản xuất của con người từ bản năng thành các hoạt động sản xuất có mục đích nhằm tạo ra nhiều của cải hơn và kinh tế ở đây mới dần đúng nghĩa của nó. Do sản xuất ra nhiều của cải dư thừa đã làm phát sinh quan hệ giai cấp và quan hệ giai cấp là biểu hiện đầu tiên của chính trị. Vậy kinh tế có trước chính trị. Quy luật kinh tế khách quan quy định quy luật chính trị phải tuân theo. Ta giải thích điều này dựa vào quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nghĩa là lực lượng sản xuất phát triển thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng biến đổi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến một mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có. Điều này đòi hỏi phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất, thúc đẩy phương thức sản xuất mới ra đời. Điều này chỉ ra khi kinh tế phát triển đến một mức nào đó thì sẽ gây ra mâu thuẫn với chính trị và chính trị sẽ phải thay đổi để phù hợp với kinh tế. Như vậy kinh tế là nguồn gốc của mọi biến đổi, đảo lộn chính trị. Ví dụ: Chúng ta thấy rằng sau năm 1986, chúng ta đổi mới nền kinh tế và cho ra đời nền kinh tế thị trường nhiều thành phần. Do yêu cầu khách quan của nền 2
  4. kinh tế này mà nhà nước đã chấp nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân mà trước kia không có. Hoặc việc gia nhập WTO, các công ty nhà nước không được sự bảo hộ của nhà nước như trước kia nữa sẽ là một thách thức lớn mà chính phủ ta phải chấp nhận. Tiềm năng kinh tế của một quốc gia làm tiền đề cho uy tín trong nước và quan hệ quốc tế của một chính quyền, một đảng và các tổ chức xã hội. Thật vậy, nếu có tiềm năng kinh tế thì sẽ là “ một miếng đất màu mỡ” cho các nhà kinh tế trong nước và cả ngoài nước đầu tư để phát triển, cùng với đó là tầm của quốc gia đó trong quan hệ quốc tế được nâng lên đáng kể. Con người tham gia vào các hoạt động xã hội, dù là trực tiếp sản xuất hay lao động sản xuất đi nữa thì cũng nhằm kiếm tiền và lợi nhuận cả, cái đó gọi là lợi ích kinh tế. Các nhà lãnh đạo đất nước tìm mọi cách cũng để tăng trường kinh tế cho quốc gia mình. Do đó mà ta thấy được động lực sâu xa nhất của chính trị là do lợi ích kinh tế tạo ra. Đơn cử là cuộc chiến Irag do Mỹ phát động với lý do chống khủng bố và lật đổ chính quyền tổng thống đương nhiệm. Sau khi chính quyền Irag sụp đổ thì chính phủ Mỹ chiếm ngay các mỏ dầu và khai thác thu lợi nhuận. Dù có chiến tranh thì suy cho cùng cũng là vì lợi ích kinh tế. Quả thật “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế” –Lênin. 3) Vai trò của chính trị với kinh tế: Chính trị về thực chất là quan hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc trong quan hệ với quyền lực nhà nước. Trong đó, trước hết và cơ bản nhất là quan hệ lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế của từng chủ thể ấy chỉ được giải quyết bằng con đường nắm lấy sử dụng quyền lực chính trị nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng, tác dụng vào các quá trình kinh tế xã hội làm cho nền kinh 3
  5. tế phát triển theo yêu cầu của mình. Cho nên, việc giải quyết vấn đề quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến động lực của sự phát triển kinh tế. V ì vậy từ góc độ của kinh tế, vấn đề chính trị thực chất cũng là vấn đề kinh tế. Chính trị là tiền đề cho kinh tế vận động và phát triển, chính trị có thể tiên đoán được kinh tế, vạch hướng phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện thông qua các quyết định Đảng chính trị, của nhà nước. Chính trị có thể điều chỉnh cơ cấu các thành phần kinh tế trong phạm vi một quốc gia. Ngoài ra, chính trị có thể tiên đoán được kinh tế vì các nhà lãnh đạo quốc gia thì phải có tầm nhìn cao, rộng mà ta gọi là tầm nhìn chiến lược để đưa ra các giải pháp hiện tại và tương lai để phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu và nhiệm vụ chính trị trong một số trường hợp chi phối đời sống kinh tế. Do đó với tính độc lập tương đối, chính trị tác động trở lại đối với kinh tế theo những chiều hướng khác nhau: thúc đẩy hoặc kiềm hãm. Ta giải thích điều này dễ dàng thông qua quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển. Khi ấy, quan hệ sản xuất sẽ tạo điều kiện, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ( lạc hậu, lỗi thời hoặc vượt mức quá xa) sẽ kiềm hãm, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Hay ta giả thích rõ hơn dựa trên sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng. Nghĩa là kiến trúc thượng tầng thực hiện bảo vệ, duy trì, củng cố, phát triển cơ sở hạ tầng đã “sinh” ra nó; hoặc đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng cũ cũng như kiến trúc thượng tầng cũ. Các bộ phận khác nhau của kiến trúc thượng tầng đều tác động đến cơ sở hạ tầng dưới nhiều hình thức khác nhau. Bản thân các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng cũng tác động qua lại lẫn nhua. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng theo hai hướng kìm hãm hoặc 4
  6. phát triển cơ sở hạ tầng. Khi kiến trúc thượng tầng tác động cùng chiều với các quy luật kinh tế khách quan, nó sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Ngược lại, sẽ kiềm hãm sự phát triển. So sánh với tình hình chính trị thế giới, thì bất cứ ở đâu chính trị ổn định sẽ kèm theo tăng trưởng kinh tế, những nước bất ổn chính trị thì kinh tế khủng hoảng hay phát triển chậm. Chúng ta xét đến có ba loại nguồn lực chất xám, đó là nguồn chất xám chính trị (tư tưởng tham chính) làm chủ đạo, nguồn chất xám kinh doanh có tính khách quan tự nhiên và cuối cùng là nguồn chất xám khoa học trí thức chủ quan do đào tạo. Trong ba nguồn chất xám nêu trên, thì nguồn xám chính trị là quan trọng hơn cả, bởi nó mang tính chủ đạo. Một nhà nước tiến bộ có hiệu quả là một nhà nước có bộ máy lãnh đạo điều hành tốt trên mọi lĩnh vực, với các chính khách "siêu đẳng" phát huy hết khả năng chính trị, sẽ là điều kiện cho các nguồn chất xám khác phát huy. Như vậy chất xám chính trị hay nói cách khác là sự tác động của chính trị đối với kinh tế nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung là vô cùng to lớn. Nền tảng chính trị là cấu liên minh giữa gia cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là những đảm bảo để ổn định chính trị (như một yêu cầu khách quan của sự phát triển) và từng bước hoàn thiện cơ chế dân chủ của xã hội, đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Nền tảng đó là tiền đề, là môi trường cho sự phát triển kinh tế. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần cùng tồn tại với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước là chiến lược lâu dài của việc đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tính tất yếu không phải là một sự áp đặt chính trị, mà là trong môi trường cạnh tranh với hành lang pháp lý do nhà nước định ra. 5
  7. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự bình đẳng trong kinh doanh, bình đẳng trong phân phối và hưởng thụ, khuyến khích tài năng và năng lực. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, chăm lo đến những người có công với đất nước, có sự hy sinh trong chiến tranh giữ nước nên đã chịu thiệt thòi trong phát triển kinh tế. Nhà nước là trung tâm quyền lực chính trị thực hiện điều tiết, hạn chế sự chênh lệch tuyệt đối giữa các cực giàu nghèo. II/ Thực trạng kinh tế- chính trị: 1) Chuyển đổi cơ cấu kinh tế: Trong thời gian dài trước đổi mới, cũng như nhiều nước khác, chúng ta đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô với những đặc trưng chủ yếu là: xây dựng nền kinh tế khép kín về lực lượng sản xuất, không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ, thực hiện cơ chế quan liêu bao cấp. Mô hình đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến tranh nhưng sau đó đã bộc lộ những khiếm khuyết, tình hình kinh tế xã hội đất nước ngày càng khó khăn. Cuối năm 1986, tại đại hội VI, Đảng đã nghiê m khắc kiểm điểm sự lãnh đạo của mình. Về kinh tế, đại hội khẳng định phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần kinh tế đi lên chủ nghĩa xã hội. Phát huy những kết quả đổi mới đã đạt được, sau nhiều năm nghiên cứu tìm tòi, tổng kết lý luận thực tiễn, đại hội IX (2001) đã chính thức đưa ra khái niệm 6
  8. “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là đường lối chiến lược nhất quán. Đại hội chỉ rõ đường lối kinh tế của Đảng ta là: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả bền vững. 2) Thành tựu kinh tế - chính trị: Từ nền kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đến hôm nay sau hơn 20 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có những bước tiến vững vàng, tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất nước. Trong hơn 20 năm qua, GDP của chúng ta đã tăng trưởng 7,5-8% mỗi năm. Chúng ta đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch sang nền kinh tế thị trường và chúng ta đã thành công trong việc hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới. Thành công nhất đối với Việt Nam là trở thành thành viên của WTO và việc Việt Nam ký kết một loạt hiệp định hợp tác thương mại song phương với hầu hết các nước và các vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong quá khứ, chúng ta đã theo đuổi mô hình kinh tế của Liên Xô và các nước Đông Âu. Sau 20 năm cải cách, chúng ta đã đạt được sự tăng trưởng cao trong nhiều năm liên tục... Phúc lợi xã hội đã đến được với người nghèo và người nghèo được hưởng lợi từ sự phát triển. Tỷ lệ đói nghèo trong dân số đã giảm từ 60% trong năm 1993 xuống 14% và Việt Nam cũng đã đạt được hầu hết các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, thậm chí trước thời hạn. 7
  9. Thành tích nổi bật là tăng trưởng kinh tế cao nhất so với tốc độ tăng của 12 năm trước đó, đạt được mức cao của mục tiêu do Quốc hội đề ra, thuộc loại cao so với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần làm cho quy mô kinh tế lớn lên. GDP tính theo giá thực tế đạt khoảng 1.143 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người đạt khoảng 13,42 triệu đồng, tương đương với 71,5 tỉ USD và 839 USD/người! Đây là tín hiệu khả quan để có thể sớm thực hiện được mục tiêu thoát khỏi nước nghèo và kém phát triển có thu nhập thấp vào ngay năm tới. Chúng ta đã đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng, kinh tế xã hội tăng trưởng nhanh, cơ sỡ vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trường kinh tế cao, năm vừa rồi là 8.5%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển trong các ngành, các vùng đã được phát huy. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế được cải thiện. Thực hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Đảng đã quan tâm đổi mới cơ chế, chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước. Luật doanh nghiệp nhà nước ra đời cho thấy sự tiến bộ rõ ràng về mặt quản lý kinh tế. Cho đến những năm gần đây, doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta: năm 2000 doanh nghiệp Nhà nước đóng góp 39.5% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu, 39.2% tổng thu ngân sách nhà nước. Kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã đã được đổi mới theo luật, chính sách Đảng và nhà nước. Các hợp tác xã đã chứng tỏ được rõ hơn vai trò, vị trí đối với kinh tế hộ gia đình trong sản xuất hàng hoá, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất nhà nước. Từ năm 1988, hộ gia đình nông dân đã tự mình quyết định sản xuất cái 8
  10. gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế nào, bán cho ai và tự quyết định cả giá bán. Địa vị nói trên của hộ gia đình không chỉ là kết quả của các biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, chế độ quản lý đất đai, mà cả các biện pháp cải cách vĩ mô như về giá cả, về thị trường… Đẩy mạnh khu vực tư nhân: sau nhiều năm phân biệt đối xử với khu vực tư nhân, chính phủ đã hoàn toàn thay đổi cách đối xử và giờ đây nó khuyến khích khu vực tư nhân. Những đạo luật về các công ty và doanh nghiệp tư nhân đã chính thức thừa nhận khu vực đã có một thời kỳ là khu vực không chính thức này. Kinh tế tư nhân phát huy ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là sau khi có Luật Doanh nghiệp năm 2000. Đến nay cả nước đã có rất nhiều doanh nghiệp tư nhân mà đóng góp quan trọng nhất của kinh tế tư nhân là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội từ nông dân thành công nhân, nhân viên văn phòng… Điển hình là công ty cà phê Trung Nguyên, một công ty tư nhân rất phát triển và thương hiệu cũng xuất hiện ở nhiều nước. Hàng năm kinh tế tư nhân đã đóng góp một lượng lớn vào ngân sách quốc gia. Mở cửa cho đầu tư trực tiếp của nước ngoài: Việt Nam đã khá thành công trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong những năm qua. Đạo luật mới về đầu tư và những lần sửa lại sau đó chứng tỏ rằng chính phủ mở cửa cho khu vực tư nhân của nước ngoài tham gia. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có những bước phát triển quan trọng. Đến nay có rất nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép và có hiệu lực. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phát triển khá nhanh, bao quát nhiều lĩnh vực, đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước như: bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, phục vụ chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu hút công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến, phát triển nguồn nhân lực, góp phần tiếp cận và mở rộng thị trường Quốc Tế, 9
  11. nâng cao năng lực xuất khẩu ở nước ta… Đã có những tập đoàn, công ty xuyên quốc gia lớn như Nhật Bản (Misubishi, Mitsui. . .), của Đức (Mercedes Benz, Siemens. . .), của Mỹ ( Mobil, carterrpila. . .), đầu tư voào nước ta. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà Nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để khẳng định vị trí của khu vực này hướng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm theo yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như hội nhập kinh tế quốc tế và quan trọng là góp phần tăng thu nhập quốc dân. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cơ quan nhà nước, chức năng chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước của nhà nước và chức năng kinh doanh của doanh nghiệp chuyển từ q uản lý cụ thể các hoạt động của nền kinh tế sang quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Cơ cấu kinh tế ngành có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Nước ta từ chỗ chưa khai thác dầu đến nay đã khai thác có sản lượng khá cao gần 20 triệu tấn/năm; ngành công nghiệp chế tác chuếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp; công nghiệp xây dựng phát triển khá mạnh được thể hiện quaviệc các cao ốc cũng như chung cư cao tầng liên tục xuất hiện ở các thành phố lớn; sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng như một số ngành may mặc, thực phẩm… Ngành nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng sản phẩm có năng suấ và hiệu quả kình tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất đời 10
  12. sống. Ngành bưu chính viễn thông và du lịch phát triển nhanh. Các dịch vù tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý… có bước phát triển khá. Cơ cấu vùng kinh tế có sự chuyển biến theo hướng phát huy lợi thế của mình. Các vùng kinh tế khó khăn đang từng bước vươn lên, có chuyển biến tốt về đời sống kinh tế xã hội. Ở đây có vài thí dụ xác thực như khu công nghiệp Dung Quất ở Quảng Ngãi, điều này thể hiện sự chuyển đổi vùng kinh tế, nhà nước tạo điều kiện cho mỗi vùng đều có khả năng tự lực hoặc như thị xã Tam Kỳ thì nay là thành phố Tam Kỳ cho thấy tốc độ đô thị hoá tương đối nhanh. Cơ cấu lao động có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động trong sản xuất thuần nông, tăng tỷ lệ trong công nghiệp và dịch vụ. Điều này có ý nghĩa rất lớn quan trọng trong công cuộc đ ưa nước ta từ nước nông nghiệp sang nước công nghiệp phát triển. Tóm lại, theo em từ khi đổi mới đến nay kinh tế nước ta đã đạt được hai thành công lớn do sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ. Thứ nhất là việc xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp. Chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là thành tựu vô cùng to lớn mà Đảng chính trị đã đạt được trong thời kỳ đổi mới. Điều này thể hiện sự sáng suốt, trí tuệ của Đảng cầm quyền hay nói cách khác là sự tác động có hiệu quả của chính trị với kinh tế. Thứ hai là việc Việt Nam đã là thành viên của WTO- tổ chức thương mại thế giới. Mở ra cho kinh tế nước nhà nhiều cơ hội cũng như thể hiện sự kiên định, tài tình trong hơn 10 năm thương lượng ròng rã để trở thành thành viên chính thức WTO của chính phủ nước ta. 11
  13. 3) Những hạn chế- bất cập: Cùng với những mặt tích cực thời kỳ đổi mới đem lại thì những mặt hạn chế cũng đã xuất hiện. Do chính sách mở cửa giao lưu kinh tế thì những văn hoá không lành mạnh ở các nước khác cũng đã xâm nhập vào Việt Nam. Có thể thấy bản chất người Á Đông từ bao đời nay là luôn vì cộng đồng, làm cùng cộng đồng đang và sống rất tình nghĩ “tối lửa tắt đèn có nhau” dần rơi vào quên lãng mà thay vào đó là lối sống thực dụng, không quan tâm đến người khác, chỉ biết sống cho bản thân mình lợi ích của mình… Nền kinh tế hàng hoá- tiền tệ mặc dù đã đưa đất nước ta đi lên, phát triển kinh tế thấy rõ song để lại hệ luỵ vô cùng xấu là vì tiền mà người ta cò thể quên đi cả tình nghĩa cha mẹ, anh em, bạn bè… Ảnh hưởng không tốt đến chính trị, văn hoá, truyền thống nước ta. Tuy kinh tế đang phát triển nhưng nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàng. Tổng thu nhập bình quân đầu người thấp hơn 1000 USD/năm. Thêm vào đó là sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc giữa thành thị với nông thôn, giữa người thành thị với thành thị…, đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến mâu thuẫn giai cấp hay nói cách khác là mâu thuẫn xã hội, tức là những bất ổn xã hội sẽ nảy sinh từ đây và làm ảnh hưởng đến đời sống chính trị. Thấy rõ trong thời gian qua là người nông dân đổ xô lên thành phố buôn bán lấn chiếm lòng lề đuừơng gây ảnh hưởng đến an toàn giao thông, mỹ quan đô thị… Trong thời gian qua, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp trợ giúp doanh nghiệp Nhà nước như: miễn thuế, giảm thuế, chi vay ưu đãi , vay không thế chấp, khoanh nợ, dãn nợ, chuyển nợ thành vốn ngân sách, cấp, tham gia xuất khẩu trả nợ Nhà nước được trúng thầu hoặc được giao thầu nhiều công trình do Nhà nước đầu tư, để lại khấu hao cơ bản tái đầu tư v…v… Tuy vậy, những yếu kém của doanh nghiệp nhà nước vẫn còn rất nghiêm trọng. Đó là: năng lực cạnh tranh còn thấp 12
  14. kém, do chất lượng thấp, giá thành của nhiều sản phẩm còn cao, nhiều mặt hàng cao hơn giá mặt hàng cùng loại nhập khẩu (như sắt, thép, phân bón, xi măng, đường), công nợ quá lớn, nợ quá hạn, nợ khó đòi ngày càng tăng (doanh nghiệp Nhà nước chiếm tới 74.8% trong số nợ quá hạn của ngân hàng thương mại quốc doanh), quy mô quá nhỏ, công nghệ lạc hậu, v…v… Có những doanh nghiệp đáng ra phải cho phá sản vì thua lỗ kéo dài, không thể nào cứu vãn được, nhưng vẫn phải để tồn tại, hàng năm tiếp tục lỗ thêm. Các chính sách, bộ luật về đảm bảo kinh tế vẫn chưa được xây dựng hoàn chỉnh. Vẫn tồn tại những yếu tố theo kiểu “ phép vua thua lệ làng” làm mất các cơ hội được nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đặc biệt sự quản lý về thuế lỏng lẽo đã làm thất thoát ngân sách nhà nước rất nhiều và ngày càng xuất hiện nhiều thủ đoạn tinh vi hơn để trốn thuế thu lợi bất chính. GDP có tăng cao nhưng việc kiềm chế lạm phát không hiệu quả, gây hệ luỵ xấu về sức mua. Ví dụ đơn giản cho thấy một người kiếm được một triệu, GDP tăng 10% thì thu được 1100000 nhưng mức độ lạm phát, giá cả các sản phẩm tiêu dùng lại tăng hơn 10%. Vậy cuộc sống sẽ ngày càng eo hẹp hơn. Ngoài ra gần đây nhất, tình hình kinh tế - xã hội năm 2007 cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Ngoài những hạn chế, bất cập tồn tại từ những năm trước, thì năm nay cũng nổi lên ba vấn đề lớn. Giá tiêu dùng tăng cao nhất so với 11 năm trước đó và cao hơn tốc độ tăng GDP. Nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu. Ách tắc và tai nạn giao thông nghiêm trọng,... 13
  15. III/ Một số giải pháp: Đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá trên cơ sở tiếp tục cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật phù hợp với trình độ, bước đi của công cuộc đổi mới. Phải xác định được những phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học- công nghệ. Sở dĩ như vậy là vì, khoa học công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn, trong khi có đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ nước ta còn nhỏ bé, chất lượng thấp, khả năng của đất nước ta về vốn liếng, phương tiện nghiên cứu… rất hạn hẹp. Do đó, chúng ta không thể cùng một lúc đầu tư để phát triển tất cả các lĩnh vực khoa học công nghệ, mà phải lựa chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư. Nếu việc lựa chọn đúng sẽ tạo điều kiện cho khoa học công nghệ phát triển và ngược lại, nếu việc lựa chọn không đúng thì không những ảnh hưởng xấu tới sự phát triển của khoa học công nghệ mà còn ảnh hưởng không tốt đến công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phương hướng chung cho sự phát triển khoa học công nghệ nước ta là: Phát huy lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt được trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến nhiều hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức. Ở đây chỉ có chính phủ mới có khả năng quyết định con đường đi cho khoa học cũng như đầu tư hay kêu gọi đầu tư vốn từ nước ngoài. Bộ máy chính trị nếu có tầm nhìn xa trông rộng thì sẽ tạo cho khoa học kinh tế một bước tiến thần kỳ. Như vậy sẽ góp phần đầy nhanh tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đưa ra các quyết sách kinh tế nhằm mục địch giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỉ trọng công mghiệp và dịch vụ lên. Song nông nghiệp vẫn phát triển với sản lượng ngày càng cao. Chính phủ tạo điều kiện để bà con được vay vốn kinh doanh cũng như xây dựng trường lớp để bà con nông dân được học về cách sử dụng các 14
  16. loại máy móc hay kĩ thuật nuôi trồng hiệu quả trong nông nghiệp. Muốn bà con làm theo thì cán bộ địa phương phải chỉ rõ lợi ích của việc bà con áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đồng thời xoá bỏ suy nghĩ “trời sinh voi, trời sinh cỏ” góp phần ổn định cho kế hoạch hoá gia đình là góp phần thúc đây kinh tế phát triển cũng như ổn định trật tự an ninh xã hội. Phát triển thành phố cùng với công nghiệp và dịch vụ, giảm dân nông thôn là con đường duy nhất để nâng cao đời sống của trên 75% dân số là nông dân. Khi khả năng tăng thu nhập bằng nông nghiệp thấp thì việc giảm dân là cách duy nhất để nâng cao thu nhập đầu người của những người còn lại. Ngoài ra cần chính sách của nhà nước, chuyển thuế thu ở vùng giầu sang vùng nghèo để xây dựng hạ tầng cơ sở. Xây dựng nên bộ luật kinh tế hoàn chỉnh để thay cho các văn bản luật hiện có nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài cũng như tạo môi trường kinh doanh ổn định hơn nữa để thu hút các nhà đầu tư. Muốn vậy cần phải tham khảo các bộ luật quốc tế hiện có nhằm nắm lấy cái chung kết hợp với thực trạng về xã hội, tập quán của người Việt tức là cái riêng. Như vậy sẽ tạo ra một bộ luật hoàn chỉnh, điều này thể hiện sự lãnh đạo của nhà nước cũng như trình độ văn minh của nước ta. Để thực hiện đúng đắn chức năng phân phối của mình, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một loạt thể chế phát triển cao, trong đó có hệ thống pháp lý để chống lại bạo lực và gian lận bao gồm: hệ thống có liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt… Thật vậy, trong các nền kinh tế thị trường không có gì bảo đảm để không diễn ra bạo lực và gian lận. Đó là lý do tại sao Nhà nước cần 15
  17. phải có lưu trữ văn bản, hồ sơ, chứng từ về đất đai, nhà ở, đảm bảo các hợp đồng mua bán tất cả các loại sản phẩm. Cả người mua lẫn người bán đều muốn là khi cả hai phía đã đồng ý trao đổi thì sự thoả thuận nhất định phải được thực hiện. Tình hình đó cũng giống như đối với quan hệ giữa người chủ và người làm công. Người lao động đã với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với chủ sử dụng lao động. Nếu như không có sự đảm bảo cho các thoả thuận ấy, nghĩa là không có sự thực thi của luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó mà có thể thực hiện. Nhà nước trong các nền kinh tế thị trường cần phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, cũng như quyền được hưởng các lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nếu không có sự đảm bảo ấy, một số người sẽ gặp phải những rủi ro nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực kinh doanh mà rốt cuộc, tiền lãi thu về lại có thể rơi vào Nhà nước hoặc các tập đoàn khác. Ngoài ra, sự bảo hộ của Nhà nước đối với sở hữu tư nhân thể hiện một cách rõ ràng đối với đất đai, nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác. Thế nhưng, sự bảo hộ đó còn được áp dụng cho cả các sở hữu liên quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội họa, phát minh, sáng chế, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình phần mềm... Đây là một sự can thiệp rất quan trọng của Nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền tác giả và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, các nghệ sĩ, khuyến khích việc phát huy khả năng trí tuệ của họ. Trong bối cảnh hiện nay, Nhà nước nên khuyến khích lập một tập đoàn tư nhân đủ mạnh về vốn lẫn năng lực cạnh tranh để tạo đà cho các doanh nghiệp nhỏ lẻ có liên quan đến tập đoàn đó có khả năng cạnh tranh trong bối cảnh nước ta đã là thành viên của WTO. Bên cạnh đó tập đoàn tư nhân này có thể quảng bá hình ảnh Việt Nam trên nhiều nước tạo nguồn thu ngoại tệ như các tập toàn đa quốc gia như Sony, Samsung… 16
  18. Ngoài ra còn có thể tăng thêm đại biểu quốc hội là các tổng giám đốc của các công ty tư nhân lớn và có uy tín cao trong thị trường. Vì những người này có khả năng nắm bắt được kinh tế thị trường vận động như thế nào một cách rõ ràng nhất và sẽ kiến nghị để chính phủ xem xét giải quyết. Đồng thời sẽ tạo được cầu nối giao lưu trực tiếp hơn giữa chính phủ với doanh nhân. Góp phần tăng cường mối quan hệ giữa chính phủ với doanh nghiệp cũng như khả năng giám sát lẫn nhau để góp phần giúp kinh tế đất nước ngày càng phát triển. Chính phủ cũng cần tăng cường khả năng giải ngân của ngân hàng nhằm có thể tạo ra nguồn vốn để các cơ sở kinh tế có thể đưa vào hoạt động một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. Giảm thủ tục cấp phép kinh doanh rườm rà và chồng chéo mà quan trọng ở đây là tốc độ hoàn thành thủ tục cấp giấy phép kinh doanh không được kéo dài quá lâu. Gây ảnh hưởng đến người làm kinh tế cũng như ảnh hưởng đến kinh tế quốc dân. Tăng cường kinh tế nhà nước, phải đưa kinh tế nhà nước là nền kinh tế đầu tàu. Muốn như vậy phải có những người toàn đức toàn tài nắm giữ những vị trí quan trọng trong các công ty nhà nước. Đồng thời thực hiện chính sách “làm theo lao động, hưởng theo nhu cầu”. Giảm sự bảo hộ của Nhà nước với các công ty nhà nước, trước hết là ưu đãi về nợ thuế. Thiết nghĩ nên bỏ ưu đãi này để không còn tình trạng trốn thuế hoặc để nợ thuế quá lâu mà không trả làm mất giá trị đồng tiền. Kết hợp với các bộ ngành khác để hạn chế việc tham nhũng cũng như đưa người kém năng lực vào những vị trí chủ chốt. Có như vậy ta mới đưa nền kinh tế nhà nước trở thành nền kinh tế chủ lực được. Đó chỉ là những giải pháp hiện thời, còn về lâu dài cần có những giải pháp chiến lược hơn là tăng cường giáo dục cho học sinh sinh viên. Không chỉ về học vấn mà cả trình độ đạo đức, đào tạo ra những con người thực sự là con người cộng 17
  19. sản, hết lòng vì tổ quốc. Bên cạnh đó cũng cải cách, sửa chữa, bổ sung hoặc làm mới giáo trình một số môn ảnh hưởng đến kinh tế như kinh tế chính trị, quản lý kinh tế nhà nước… tạo cho sinh viên những kiến thức hoàn chỉnh nhất để bắt tay vào công việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế sau này. Ngoài ra cần xây thêm trường đào tạo nghề để cho mọi người đều có cơ hội đi học và đi làm, điều này không chỉ góp phần làm tăng thu nhập gia đình mà còn làm tăng kinh tế quốc dân và ổn định trật tự an ninh xã hội nữa. LỜI KẾT Chính trị và kinh tế luôn song hành cùng nhau, nắm được quy luật vận động phát triển và làm theo quy luật thì sẽ mang lại cho chúng ta những thành tựu đáng kể về kinh tế cũng như chính trị. Do yêu cầu của bài luận và trình dộ nhận thức có hạn, em chỉ trình bày những vấn đề chung nhất về thực trạng kinh tế - chính trị đất nước cũng như những giải pháp cơ bản nhất, chưa chuyên sâu cụ thể. Song, qua bài 18
  20. luận trên cũng cho chúng ta được những cơ sở lý luận chủ yếu, những thực trạng chung nhất của nước ta sau khi đổi mới cũng như nắm được những giải pháp chung nhất để trên cơ sở những cái chung đó tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu, tìm hiểu để giải quyết những vấn đề riêng lẻ. Góp phần tăng cường kinh tế vi mô, ổn định kinh tế vĩ mô và quan trọng là góp phần ổn định chính trị xã hội. Phương pháp nghiên cứu: Dựa vào giáo trình chính trị học làm “khung” cho quá trình phân tích, kết hợp một số tài liệu, sách báo cùng những nhận thức bản thân về tình hình chính trị- kinh tế hiện nay để phát triển, chọn lọc thành bài luận. Tài liệu tham khảo: Giáo trình Chính trị học NXB.GD Tìm hiểu môn Triết học Mác-Lênin NXB.LLCT Tìm hiểu môn Chính trị học NXB.LLCT Việt Nam sau 20 năm đổi mới NXB.LLCT 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2