intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước

Chia sẻ: Pham Ly | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

146
lượt xem
43
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn: một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xây dựng cấp thoát nước', luận văn - báo cáo, tài chính - kế toán - ngân hàng phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước

  1. LUẬN VĂN: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước
  2. Lời nói đầu Trải qua hơn mười năm đổi mới, đất nước Việt Nam đã có những bước chuyển mình khởi sắc. Đặc biệt là việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá thị trường với nhiều thành phần kinh tế dưới sự điều tiết vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN. Trước kia, Nhà nước phải lo tiền vốn đến khâu tiêu thụ sản phẩm . Thực trạng của nền kinh tế bao cấp đó kìm hãm sự phát triển và không có tính chất động viên khuyến khích các doanh nghiệp năng động sáng tạo, chủ động trong kinh doanh, Sự đổi mới cơ chế kinh tế của nhà nước toạ điều kiện cho các doanh nghiệp vươn nên tự khẳng định được vị trí của mình cùng với việc chuyên đổi cơ chế quản lý của nhà nước là quá trình mở rộng quyền tự chủ, giao vốn cho các doanh nghiệp tự quản lý và sử dụng theo hướng lời ăn, lỗ chịu đã đòi hỏi các doanh nghiệp phải bảo toàn và phát triển vốn. Điều này đã tạo nên những cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh những doanh nghiệp năng động , sớm thích nghi với cơ chế thị trường đã sử dụng vốn rất hiệu qủa thì vẫn còn có những doanh nghiệp đang trong tinh trạng khó khăn trong việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của mình. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tuy không còn là vấn đề mới mẻ, nhưng nó luôn đựơc các doanh nghiệp đặt ra trong suốt quá trình hoạt động của mình. Công ty Xây dựng cấp thoát nước là một trong những doanh nghiệp thành công trong nghành Xây lắp nói riêng của Việt Nam nói chung đã nhận thấy : Để vươn lên hơn nữa trên thương trường và ngày càng khẳng định mình không chỉ trong nước mà cả trên thế giới, Công ty luôn quan tâm đến vấn đề làm thế nào để đồng vốn đưa vào hoạt động mang lại hiệu quả cao nhất. Chính vì thế, qua một thời gian thực tập tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước, được sự gợi ý của các cô chú trong phòng kế toán, Em quyết định chọn đế tài thực tập : “ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước “ Để phục vụ mục đích nghiên cứu Em dùng các biện pháp phân tích kinh doanh, các phương pháp khấu hao học thống kê như so sánh số tuyệt đối, tương đối và số chênh lệch.
  3. Kết cấu của khoá luận gồm ba chương : Chương 1 : Vốn và hiệu quả sử dụng vốn Chương 2 : Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng cấp thoát nước Chương 3 : Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Xây dựng cấp thoát nước
  4. Chương 1 Vốn và hiệu quả sử dụng vốn 1.vốn kinh doanh của doanh nghiệp 1.1.Khái niệm về vốn kinh doanh Tiền tệ ra đời là một trong những phát minh vĩ đại của loài người và điều đó đã làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế-xã hội. Mọi sự vận động của sản xuất và tiêu dùng đều có liên quan mật thiết với sự vận động của tiền tệ và có sự tác động qua lại. Đồng tiền trở thành thước đo chung của tất cả các hoạt động trong nền kinh tế. Khái niệm vốn xuất hiện và vai trò của vốn trong nền kinh tế nói chung, đối với doanh nghiệp nói riêng ngày càng trỏ nên quan trọng. Từ trước đến nay có rất nhiều quan niệm về vốn: Theo các nhà kinh tế học cổ điển tiếp cận vốn dưới góc độ hiện vật. Họ cho rằng vốn là những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là cách hiểu phù hợp với trình độ quản lý còn sơ khai. Nó rất đơn giản dễ hiểu nhưng chưa đầy đủ, chưa phản ánh đến mặt tài chính của vốn. Theo một số nhà tài chính thì vốn là tổng số tổng tiền do những người có cổ phần trong Công ty đóng góp và họ nhận được phần thu nhập chia cho các chứng khoán của Công ty. Quan điểm này có ưu điểm là đã đề cập đến mặt tài chính của vốn. Khuyến khích các nhà đầu tư tăng cường đầu tư, mỡ rộng và phát triển sản xuất song nó còn hạn chế là không nói rõ nội dung và trạng thái của vốn trong quá trình sử dụng vốn trong doanh nghiệp. Một số nhà kinh tế học khác cho rằng: vốn có ý nghĩa là phần lượng sản phẩm tạm thời phải hy sinh tiêu dùng hiện tại của nhà đầu tư, để đẩy mạnh sản xuất tăng tiêu dùng trong tương lai. Quan điểm này chủ yếu phản ánh động cơ về đầu tư nhiều hơn là về nguồn gốc và biểu hiện của vốn, do vật quan điểm này củng không đáp ứng được yêu cầu về quản lý nâng cao hiệu quả của vốn củng như việc phân tích về vốn doanh nghiệp. Hiểu theo nghĩa rộng, một số quan điểm lại cho rằng: vốn bao gồm toàn bộ các yếu tố kinh tế được bố trí để sản xuất hàng hoá, dịch vụ như tài sản hữu hình,tài sản vô hình,
  5. các kiến thức về kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp được tích luỹ, sự khéo léo về trình độ quản lý và tác nghiệp của cán bộ điều hành cùng chất lượng của đội ngũ công nhân viên trong doanh nghiệp, các lợi thế về cạnh tranh như vị trí doanh nghiệp,uy tín doanh nghiệp...Quan điểm này có ý nghĩa quan trọng trong việc khai thác đầy đủ hiệu quả của vốn trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên,việc xác định vốn theo quan điểm này rất khó khăn phức tạp nhất là khi trình độ quản lý kinh tế chưa cao và pháp luật chưa hoàn chỉnh như nước ta. Theo Mác ”vốn là giá trị mang lại giá trị thặng dư” tức là vốn đại diện cho một lượng giá trị nhất định để tạo ra một lượng giá trị mới. Vì thế, tiền chỉ được gọi là vốn khi dùng để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Quan điểm này đã chỉ rõ mục tiêu của quản lý và sử dụng vốn, nhưng quan điểm này mang tính chất trìu tượng, do vậy hạn chế về ý nghĩa đối với hạch toán và phân tích quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp. Các quan điểm về vốn ở trên, một mặt thể hiện được vai trò tác dụng trong những điều kiện lịch sử cụ thể với các yêu cầu, mục đích nghiên cứu cụ thể. Nhưng mặt khác, trong cơ chế thị trường hiện nay, đứng trên góc độ hạch toán và quản lý, các quan điểm đó chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về quản lý, hạch toán, phân tích đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trên cơ sở phân tích các quan điểm về vốn ở trên, khái niệm về vốn cần phải thể hiện được bốn vấn đề sau: -Nguồn gốc sâu xa của vốn kinh doanh là một bộ phận của thu nhập quốc dân được tái đầu tư, để phân biệt được với vốn đất đai, vốn nhân lực. -Trong trạng thái của vốn kinh doanh tham gia vào quá trính sản là tài sản vật chất (tài sản cố định và tài sản dự trữ)và tài sản tài chính (tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các tín phiếu, các chứng khoán...)là cơ sở để ra các biện pháp quản lý vốn kinh doanh của doanh nghiệp một cách có hiệu quả. -Phải chỉ ra được mối quan hệ mật thiết giữa vốn với các nhân tố khác của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp(đất đai, lao động), điều này đòi hỏi các nhà quản lý phải xem xét đến quá trình sử dụng vốn như thế nào cho có hiệu qủa.
  6. -Phải thể hiện mục đích quản lý sử dụng vốn đó là tìm kiếm các lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội mà vốn đem lại. Vấn đề này sẽ định hướng cho quá trình quản lý kinh tế nói chung, quản lý vốn của doanh nghiệp nói riêng. Từ bốn vấn đề trên, nói tóm lại vốn được hiểu là: Vôn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp bỏ tiền ra tiến hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích. 1.2.Đặc trưng của vốn Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp cần phải có tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình kết hợp các yếu tố đó để tạo ra sản phẩm lao vụ, dịch vụ. Để tạo ra các yếu tố phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định ban đầu, có tiền vốn doanh nghiệp mới tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như trả tiền lương cho người lao động. Sau khi tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp dành một phần doanh thu thu được để bù đắp lại giá trị tài sản cố định (TSCĐ) đã bị hao mòn, chi phí vật tư đã bị tiêu hao và một phần để tạo lập quỹ dự trữ cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tiếp theo. Như vậy có thể thấy các tư liệu lao động và đối tượng lao động mà doanh nghiệp phải đầu tư mua sắm cho hoạt động sản xuất kinh doanh là hình thái hiện vật của vốn sản xuất kinh doanh. Vốn bằng tiền là tiền đề cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp. Do vậy, vốn sản xuất kinh doanh mang các đặc trưng cơ bản sau: -Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định có nghĩa là vốn được biểu hiện bằng giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp. -Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. -Vốn phải tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. -Vốn phải có giá trị về mặt thời gian. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, vốn luôn luôn biến động và chuyển hình thái vật chất theo thời gian và không gian theo công thức: T--- H--- SX---H’---T’
  7. -Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định và phải được quả lý chặt chẽ theo những nguyên tắc nhất định. -Vốn được quan niệm là một hàng hoá và là hàng hoá đặc biệt, có thể mua hoặc bán bản quyền sử dụng vốn trên thị trường, tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị trường tài chính. Như vậy, vốn ban đầu là hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái vật tư hàng hoá, đó là tư liệu lao động và đối tượng lao động trãi qua quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm lao vụ, dịch vụ xong, vốn chuyển sang hình thái hàng hoá sản phẩm. Cuối cùng khi tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ xong, vốn lại trở về hình thái tiền tệ. Do sự luân chuyển không ngừng của vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nên cùng một lúc vốn sản xuất kinh doanh nghiệp thường tồn tại dưới các hình thức khác nhau trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông. 1.3.Kết cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp 1.3.1.Căn cứ theo nguồn hình thành vốn 1.3.1.1.Vốn chủ sở hữu Là số tiền vốn của chủ sở hữu, của các nhà đầu tư đóng góp. Số vốn này không phải là một khoản nợ, doanh nghiệp không phải cam kết thanh toán, không phải trả lãi suất. Vốn chủ sở hữu được xác định là phần còn lại trong tài sản của doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu được hình thành theo các cách thức khác nhau thông thường nguồn vốn này bao gồm: Vốn góp: là số vốn đóng góp của các thành viên tham gia thành lập doanh nghiệp, sử dụng vào mục đích kinh doanh. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì đó là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp. Đối với Công ty liên doanh thì phần vốn góp của các đối trong và ngoài nước tham gia thành lập liên doanh. Số vốn này có thể bổ sung và rút bớt trong quá trình kinh doanh. Lãi chưa phân phối: là số vốn có nguồn gốc từ lợi nhuận, đó là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Số lãi này trong khi chưa phân phối cho các chủ đầu tư, trích quỹ thì được sử dụng trong kinh doanh như vốn chủ sở hữu. 1.3.1.2.Vốn vay
  8. Là khoản tiền ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhận được từ ngân hàng, các tổ chức tài chính, các đơn vị, tổ chức, tập thể, cá nhân trong và ngoài nước để bổ sung vào vốn kinh doanh của doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau(như phát hành trái phiếu, tín dụng cầm đồ hoặc thế chấp tài sản, tín dụng có bảo lãnh, tín dụng thông qua chiết khấu, tín dụng thương mại, tín dụng ứng tiền qua tài khoản)với hứa hẹn sẽ hoàn trả trong một thời hạn nào đó trong tương lai. Doanh nghiệp sử dụng vốn vay càng nhiều thì độ rủi ro càng cao. Nhưng để phục vụ sản xuất kinh doanh thì đây là một nguồn huy động vốn lớn, tuỳ thuộc vào khã năng thế chấp, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường một doanh nghiệp phải phối hợp cả hai nguồn vốn trên để đảm bảo nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết cấu hợp lý giữa hai nguồn nay phụ thuộc vào đặc điểm của ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động,cũng như quy định của người quản lý doanh nghiệp trên cơ sở xem xét tình hình chung của nền kinh tế cũng như tình hình thực tế tại doanh nghiệp. 1.3.2.Căn cứ vào thơi gian huy động và sử dụng vốn 1.3.2.1.Nguồn vốn thường xuyên Đây là nguồn vốn mang tính ổn định, lâu dài mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư vào TSCĐvà một bộ phận TSLĐ tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn này bao gồm vốn chử sở hữu và vốn vay dài hạn của doanh nghiệp. 1.3.2.2.Nguồn vốn tạm thời Đây là nguồn vốn có tính chất ngắn hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu có tính chất tạm thời, bất thường phát sinh trong hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nguồn vốn này gồm các khoản vay ngắn hạn và các khoản chiếm dụng của bạn hàng. Theo cách phân loại này còn giúp cho các nhà quản lý doanh nghiệp lập các kế hoạch tài chính, hình thành nên những dự định về tổ chức nguồn vốn trong tương lai trên cơ sở xác định quy mô số lượng vốn cần thiết, lựa chọn nguồn vốn và quy mô thích hợp cho tường
  9. nguồn vốn đó, khai thác những nguồn tài chính tiềm năng tổ chức sử dụng vốn đạt hiệu quã cao. 1.3.3.Căn cứ vào phạm vi nguồn hình thành 1.3.3.1.Tự cung ứng Cung ứng vốn nội bộ là phương thức tự cung ứng vốn của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp các phương thức tự cung ứng vốn cụ thể là: -Khấu hao TSCĐ: TSCĐ là những tư liệu tham gia vào nhiều quá trình sản xuất. Trong quá trình sử dụng TSCĐ bị hao mòn và chuyển dần giá trị của nó vào giá thành sản phẩm. Trong quá trình sử dụng TSCĐ doanh nghiệp phải xác định mức độ hao mòn của chúng để chuyển giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm. Đó chính là khấu hao TSCĐ việc xác định mức khấu hao cụ thể tuỳ thuộc thực tiển sử dụng TSCĐ củng như ý muốn chủ quan của con người. Trong chính sách tài chính cụ thể ở từng thời kỳ, doanh nghiệp có thể lựa chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một công cụ điêù chỉnh nguồn cung ứng vốn bên trong của mình. Tuy nhiên việc điều chỉnh khấu hao không thể diển ra một cách tuỳtiện, không có kế hoạch mà phải dự trên cơ sở các kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn đã được xác định. Mặt khác điều chỉnh tăng khấu hao TSCĐ sẽ đẩn đến tăng chi phí kinh doanh khấu hao khấu hao TSCĐ trong giá thành sản phẩm mà giá thành lại luôn bị khống chế bởi giá bán sản phẩm. -Tích luỷ tái đầu tư: tích luỷ tái đầu tư là nguồn cung ứng quan trọng vì nó giúp cho doanh nghiệp có thể hoàn toàn chủ động, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng và tăng tiềm lực tài chính. Quy mô tự cung ứng vốn từ nguồn này phụ thuộc vào tổng số lợi nhuận trong kỳ và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. -Điều chỉnh cơ cấu tài sản: phương thức này tuy không làm tăng vốn sản xuất kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết. Phương thức này giúp doanh nghiệp chủ động không phụ thuộc vào bên ngoài, doanh nghiệp có toàn quyền quyết định việc sử dụng vốn trong dài hạn với chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp. Tuy nhiên tự cung ứng có hạn chế là quy mô cung ứng vốn nhỏ và nguồn bỗ sung có giới hạn. 1.3.3.2.Các phương thức cung ứng từ ngoài
  10. -Từ ngân sách nhà nước: Doanh nghiệp được nhận một lượng vốn xác định từ ngân sách nhà nước cấp. -Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu: là hình thức doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán làm nguồn vốn của doanh nghiệp tăng lên mà không làm tăng nợ. Hình thức này có ưu điểm là tập hợp được lượng vốn lớn ban đầu, dễ tăng vốn trong quá trình kinh doanh, bộ máy quản lý của doanh nghiệp có toàn quyền sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này vì quyền sở hữu tách rời quyền quản trị. Tuy nhiên doanh nghiệp phải công khai hoá tài chính, có thể làm cổ tức giảm… -Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn: đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành lượng vốn dưới hình thức trái phiếu thường và bán cho công chúng, hình thức này làm tăng vốn đồng thời làm tăng cả nợ, có thể thu hút một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ tuy nhiên doanh nghiệp phải nắm chắc các kỹ thuật tài chính vì chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu cao… -Vay vốn của các ngân hàng thương mại: Doanh nghiệp có thể huy động được lượng vốn lớn, đúng hạn tuy nhiên việc vay vốn đòi hỏi các doanh nghiệp phải có uy tín lớn, chấp nhận thủ tục thẩm định ngặt nghèo và có chi phí sử dụng vốn cao. -Tín dụng thương mại từ nhà cung cấp: trong hoạt động kinh doanh, do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hoá và thanh toán không thể khi nào củng diễn ra đồng thời do đó tín dụng thương mại ra đời, có các hình thức tín dụng thương mại sau: +Doanh nghiệp mua máy móc thiết bị, hàng hoá đem về sử dụng mà chưa phải trả tiền ngay, điều này giúp cho doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu với vốn ít mà không làm ảnh hưởng tới tình hình tài chính của mình. Tuy nhiên mua theo hình thức này doanh nghiệp phải chịu chi phí kinh doanh sử dụng vốn cao. +Vốn khách hàng ứng trước: đây là số tiền đặt cọc của khách hàng cho doanh nghiệp sau khi ký kết hợp đồng, số tiền đặt cọc này doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung cấp sản phẩm. -Tín dụng thuê mua: trong cơ chế thị trường tín dụng thuê mua được thực hiện giữa một doanh nghiệp có cầu sử dụng máy móc với một doanh nghiệp thực hiện chức năng
  11. thuê mua, hình thức này khá phổ biến và giúp cho doanh nghiệp sử dụng vốn đúng mục đích, không phải đầu tư một lần với vốn lớn,giảm được tỷ lệ nợ/vốn tuy nhiên chi phí kinh doanh sử dụng vốn cao. -Vốn liên doanh liên kết: giúp doanh nghiệp có một lượng vốn lớn cần thiết cho một hoạt động nào đó mà không tăng nợ, các bên liên doanh cùng chia sẽ rủi ro song cũng cùng chia sẽ lợi nhuận thu được. -Cung ứng vốn từ sự kết hợp công và tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng. -Nguồn vốn nước ngoài trực tiếp: với nguồn vốn này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận cả máy móc thiết bị cũng như phưong thức quản trị tiên tiến, đồng thời doanh nghiệp còn được chia sẽ thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát điều hành của tổ chức cấp vốn, mối quan hệ hợp tác không biết sẽ kéo dài bao lâu. -Nguồn vốn ODA: đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các chương trình hợp tác cuả chính phủ, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế khác. Hình thức này có chi phí sử dụng vốn thấp song thủ tục rất chặt chẽ. 1.3.4.Căn cứ vào vai trò, đặc điêm chu chuyển giá trị của vốn khi tham gia vào quá trình sản xuất 1.3.4.1.Vốn cố định Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn ứng trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Quy mô của vốn cố định quyết định quy mô của TSCĐ nhưng các đặc điểm của TSCĐ lại ảnh hưởng tới sự vận động và công tác quản lý vốn cố định. Muốn quản lý vốn cố định một cách có hiệu quả thì phải quản lý, sử dụng TSCĐ một cách có hữu hiệu TSCĐ. Từ mối quan hệ trên,có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định. -Vốn cố định được tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Do TSCĐ có thể phát huy trong nhiều chu kỳ sản xuất, vì thế vốn cố định –hình thái biểu hiện của nó cũng được tham gia vào các chu kỳ sản xuất tương ứng.
  12. -Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần khi tham gia vào quá trình sản xuất, TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật ban đầu nhưng tính năng và công suất của nó bị giảm dần và kéo theo giá trị của tài sản đó cũng bị giảm đi. Theo đó vốn cố định cũng được tách làm hai phần: *Một phần sẽ gia nhập vào chi phí sản xuất sản phẩm dưới hình thức khấu hao TSCĐ tức là trong quá trình sử dụng và bảo quản, TSCĐ bị hao mòn(có thể bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình). Bộ phận giá trị của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn mà nó được chuyển dịch dần dần vào giá thành sản phẩm gọi là khấu hao TSCĐ, cụ thể là: +Hao mòn hữu hình: là sự hao mòn về mặt vật chất, tức là tổn thất dần về mặt chất lượng và tính năng kỹ thuật của TSCĐ, cuối cùng tài sản đó không sử dụng được nữa và phải thanh lý. Thực chất về mặt kinh tế của hao mòn hữu hình là giá trị của TSCĐ giảm dần và giá trị của nó được chuyển dần vào sản phẩm được sản xuất ra. Trường hợp TSCĐ không sử dụng được, hao mòn hứu hình biểu hiện ở chổ TSCĐ mất dần thuộc tính do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên hay quá trình hoá học xảy ra bên trong cũng như việc trông nom, bảo quản TSCĐ không được chu đáo. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hao mòn hữu hình của TSCĐ bao gồm : Những nhân tố thuộc về chất lượng chế tạo như vật liệu dùng để sản xuất ra TSCĐ, trình độ và công nghệ chế tạo, chất lượng xây dựng lắp ráp; những nhân tố thuộc về quá trình sử dụng như mức độ đảm nhận về thời gian và cường độ sử dụng, trình độ tay nghề công nhân, việc chấp hành quy tắc quy trình công nghệ, chế độ bảo quản, bảo dưởng và sửa chửa...; những nhân tố ảnh hưởng của tự nhiên như độ ẩm, không khí, thời tiết… +Hao mòn vô hình: là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất với giá rẻ hơn hoặc hiện đại hơn. Nguyên nhân trực tiếp dẩn đến hao mòn vô hình của TSCĐ không phải là do chúng được sử dụng nhiều hay ít trong sản xuất mà là do tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho những TSCĐ được sản xuất trong thời trước bị mất giá so với hiện tại. Sự mất giá đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn được xuất hiện khi chu kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt, tất yếu dẩn đến những máy móc để chế tạo ra sản phẩm đó củng bị lạc hậu, mất tác dụng.
  13. *Phần còn lại của vốn cố định “cố định”trong TSCĐ. Việc quản lý vốn cố định và TSCĐ trên thực tế là một công việc rất phức tạp. Để giảm nhẹ khối lượng quản lý, về tài chính kế toán người ta có những quy định thống nhất về tiêu chuẩn giới hạn về giá trị và thời gian sử dụng của một TSCĐ. ở Việt Nam hiện nay một tư liệu lao động phải được đồng thời thoã mãn hai tiêu chuẩn dưới đây được coi là TSCĐ: +Phải có thời gian sử dụng tối thiểu là 1 năm +Có giá trị tối thiểu từ 5 triệu đồng việt Nam Để quản lý, sử dụng vốn cố định có hiệu quả, cần phải nghiên cứu các phương pháp phân loại và kết cấu của TSCĐ cụ thể: -Căn cứ theo hình thái biểu hiện: TSCĐ được chia thành hai loại +TSCD hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất.Có giá trị và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẩn giử nguyên hình thái vật chất như: nhà cữa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị… +TSCĐ vô hình: là những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư, có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí sử dụng đất, chi phí về bằng phát minh sáng chế … -Căn cứ theo tình hình sử dụng: TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành +TSCĐ đang sử dụng: đây là những TSCĐ đang trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia váo quá trình sản xuất kinh doanh. +TSCĐ chưa sử dụng: đây là những TSCĐ dự trữ , TSCĐ đang trong giai đoạn lắp ráp chạy thử… -Căn cứ vào nguồn hình thành TSCĐ: TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành +TSCĐ từ nguồn vốn ngân sách +TSCĐ từ nguồn vốn tự bổ sung +TSCĐ liên doanh +TSCĐ đi thuê -Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ: đuợc chia thành
  14. +TSCĐ dùng cho sản xuất kinh doanh cơ bản +TSCĐ dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản 1.3.4.2.Vốn lưu động Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động(TSLĐ)và vốn lưu thông. Đó là vốn của doanh nghiệp đầu tư để dự trữ hàng hoá, vật tư để chi cho quá trình hoạt động kinh doanh, chi cho hoạt động quản lý doanh nghiệp hay nói một cách khác là nó bảo đảm cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục. Vốn lưu động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần, tuần hoàn liên tục và hoàn thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động là điều vật chất không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất. Vốn lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định, luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng hoá và từ hàng hoá trở lại tiền một cách tuần hoàn trong một chu kỳ kinh doanh. Để quản lý Vốn lưu động có hiệu quả phải tiến hành phân loại Vốn lưu động: *Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển Vốn lưu động người ta chia làm ba loại: -Vốn dự trữ: tức là bộ phận vồn dùng để mua nguyên vật liệu, hàng hoá, phụ tùng thay thế…dự trữ và chuẩn bị đưa vào sản xuất. -Vốn trong sản xuất: là bộ phận phục vụ trực tiếp cho giai đoạn sản xuất, sản phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ…. -Vốn trong lưu thông: là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn lưu thông như là thành phẩm, vốn tiền mặt… Theo cách phân loại này có thể thấy vốn nằm trong quá trình dự trữ vật liệu và vốn nằm trong quá trình lưu thông không tham gia trực tiếp vào sản xuất. *Căn cứ vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần Vốn lưu động có thể chia thành hai loại: -Vốn vật tư hàng hoá: bao gồm nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ… -Vốn tiền tệ: vốn tiền mặt, vốn thanh toán …
  15. *Căn cứ vào nguồn hình thành vốn lưu động có thể chia thành các loại sau: - VLĐ thuộc nguồn vốn ngân sách: đôi với doanh nghiệp nhà nước, đây là số VLĐ ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước như khoản chênh lệch giá và các khoản phải nộp nhưng được ngân sách để lại. Đối với hợp tác xã, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận cổ phần về VLĐ do xã viên, cổ đông đóng góp, vốn do chủ doanh nghiệp tư nhân bỏ ra. -VLĐ thuộc nguồn vốn tự bổ sung; đây là nguồn vốn do doanh nghiệp tự bổ mà chủ yếu do doanh nghiệp lấy một phần từ lợi nhuận để tăng thêm VLĐ, mở rộng hoạt động kinh doanh.Đối với doanh nghiệp nhà nước, việc bổ sung VLĐ có thể thực hiện bằng cách lấy từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất. - VLĐ thuộc nguồn vốn liên doanh liên kết: là vốn mà doanh nghiệp nhận liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác, vốn này có thể bắng tiền hoặc bằng hiện vật. -VLĐ huy động thông qua phát hành cổ phiếu, để tăng thêm vốn sản xuất Công ty có thể phát hành thêm cổ phiếu mới. -VLĐ huy động từ vốn vay: đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu về VLĐ thường xuyên cần thiết trong kinh doanh. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của doanh nghiệp có thể vay vốn của ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc có thể vay vốn của các đơn vị tổ chức khác và các cá nhân các cá nhân trong và ngoài nước. *Căn cứ vào phương pháp xác định vốn thì người ta chia thành hai loại -VLĐ định mức: là VLĐ tối thiểut cần thiết thường xuyên trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có thể xác định như:vốn dự trữ, vốn trong sản xuất và thành phẩm … -VLĐ không định mức: là số VLĐ có thể phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để xác định tính toán trước. 2.hiệu quả sử dụng vốn 2.1.Khái niệm hiệu quả _Hiệu quả sử dụng vốn
  16. -Hiệu quả được hiểu là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất. Trinh độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà là một phạm trù tương đối và chỉ có thể được phản ánh bằng số tương đối. -Hiệu quả có thể được đánh giá ở các góc độ khác nhau, phạm vi khác nhau và thời kỳ khác nhau. Trên các cô sở này,để rỏ hơn bản chất của phạm trù hiệu quả sử dụng vốn củng cần đứng trên từng góc độ cụ thể mà phân biệt các loại hiệu quả . -Hiệu quả xả hội: là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Thường là giải quyết công ăn, việt làm ; xây dựng cơ sở hạ tầng, phúc lợi .... Hiệu quả xã hội thường găn với các mô hình kinh tế hổn hợp và trước hết được đánh giá và giải quyết ở góc độ vĩ mô. -Hiệu quả kinh tế: phản ánh được trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt các mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Hiệu quả kinh tế tường được nghiên cứu ổ góc độ vĩ mô. -Hiệu quả kinh tế- xã hội: phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất xã hội để đạt được các mục tiêu kinh tế-xã hội nhất định. Hiệu quả kinh tế-xã hội gắn với nền kinh tế hổn hợp và được xem xét ở góc độ vĩ mô. -Hiệu quả kinh doanh: là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực, phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh, phức tạp và khó tính toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó đều khó xác định một cách chính xác. Từ các vấn đề trên suy ra hiệu quả sử dụng vốn được xem xét là một bộ phận của hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó phản ánh trình độ lợi dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh với số vốn bình quân đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh đó của doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh nhất định. 2.2.Phân tích hiệu quả sử dụng vốn 2.2.1.Mục đích và nhiệm vụ phân tích
  17. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là nhằm mục đích thông tin cho cán bộ quản trị doanh nghiệp. Giúp cho nhà quản trị nhận thức và đánh giá được hiệu quả kinh doanh thực tế của doanh nghiệp mình trên cơ sở thông tin phân tích. Từ thông tin phân tích nhằm tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả, phát hiện ra các nguyên nhân để từ đó có các biện pháp khắc phục nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nhiệm vụ phân tích hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh: -Thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau về tình hình sử dụng vốn -Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thích hợp -Sử dụng các phương pháp đánh gía kết hợp với hệ thống chỉ tiêu đã xây dựng trong phân tích tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp -Cung cấp thông tin phân tích, đánh gía đến cán bộ quản trị doanh nghiệp 2.2.2.Căn cứ phân tich Thực chất là các tài liệu dùng để phân tích. Để phân tích một cách khoa học đòi hỏi cần phải có một số lượng thông tin cần thiết. Hai loại nguồn thông tin cho phân tích là thông tin nội bộ và thông tin bên ngoài Thông tin nội bộ bao gồm: các báo cáo tài chính, báo cáo thực hiện kế hoạch, tài liệu về định mức… Nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp bao gồm:các tài liệu thống kê về tình hình sử dụng vốn của các doanh nghiệp khác đặc biệt là các chủ trương chính sách về quả lý tài chính các tài liêụ về tình hình đầu tư… 2.2.3.Các phương pháp sử dụng trong phân tích Để phân tích hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh người ta thường sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó hai phương pháp thường được sử dụng là phương pháp so sánh và phương pháp loại trừ: 2.2.3.1.Phương pháp so sánh
  18. Đây là phương pháp dùng số của một chỉ tiêu nào đó để so sánh giữa các thời kỳ với nhau trên cơ sở đó đánh giá kết quả , xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu cần phân tích. Ngưòi ta có thể so sánh theo những cách sau: -So sánh bằng số tuyệt đối: việc so sánh này cho ta biết quy mô mà doanh nghiệp đạt được vượt hay hụt của các chỉ tiêu cần phân tích giữa kỳ, kỳ phân tích và kỳ gốc. -Só sánh bằng số tương đối: cho ta biết kết cấu,mối quan hệ, tốc độ phát triển và mức độ phổ biến của các chỉ tiêu. 2.2.3.2.Phương pháp loại trừ Phương pháp này dùng để xác định xu hướng biến động và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Trong thực tế phương pháp loại trừ thường được sử dụng ở hai dạng sau: -Phương pháp thay thế liên hoàn: là phương pháp xác định ảnh hưởng của từng nhân tố đến đối tượng phân tích về một chỉ tiêu nào đó: Chẵng hạn, cho phương trình kinh tế Y=A.B.C Tong đó: Y: chỉ tiêu phân tích A,B,C: các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của Y Tính chất của các nhân tố từ A đến C giã định từ số lượng đến chất lượng. Trình tự phân tích mức tăng(giảm)tuyệt đối của Y theo ảnh hưởng của ba nhân tố kỳ phân tích so với kỳ gốc bằng phương pháp loại trừ như sau: Xác định mức tăng(giảm)tuyệt đối của Y Δ Y=Y1-Y1=A1.B1.C1-A0.B0.C0 Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố Do A: Δ Y(A)= A1.B0.C0- A0.B0.C0 Do B: Δ Y(B)= A1.B1.C0- A1.B0.C0 Do C: Δ Y(C)= A1.B1.C1- A1.B1.C0 Tổng hợp ảnh hưởng các nhân tố
  19. Δ Y= Δ Y(A) +Δ Y(B) +Δ Y(C) Phương pháp số chênh lệch: Về bản chất thì phương phàp này cũng giống như phương pháp thay thế liên hoàn, nó chỉ khác ở chổ để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó đến đối tượng phân tích thì ta trực tiếp dùng số chênh lệch giữa giá trị kỳ phân tích với giá trị kỳ gốc của nhân tố đó. Với giả thiết trên thì: Xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố Δ Y(A)= (A1-A0).B0.C0 Δ Y(B)= A1.(B1- B0).C0 Δ Y(C) =A1.B1.(C1-C0) Tổng hợp lại ta có Δ Y= Δ Y(A) +Δ Y(B) +Δ Y(C) 2.3.Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 2.3.1.Vấn đề tiêu chuẩn hiệu quả khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là “mốc”xác địng ranh giới có hay không có hiệu quả. Như thế, trước hết cần xác định được tiêu chuẩn hiệu quả cho mổi chỉ tiêu để phân biệt “mức” có hay không có hiệu quả. Sẽ không có tiêu chuẩn chung cho các công thức xác định khác nhau Nếu theo phương pháp toàn nghành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của nghành làm tiêu chuẩn hiệu quả. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả nếu giá trị đạt được ứng với một chỉ tiêu cụ thể xác định không thấp hơn giá trị bình quân của nghành. 2.3.2.Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời vốn nói chung -Hệ số sinh lời doanh thu: chỉ tiêu này cho biết một đồng doanh thu tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lơị nhuận Hệ số sinh lời doanh thu= Doanh thu
  20. -Hệ số doanh lợi vốn: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn của doanh nghiệp bỏ ra kinh doanh tạo bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tuỳ theo mục đích phân tích mà chỉ tiêu này được tính theo hai cách : Lãi ròng(lợi nhuận) Hệ số doanh lợi vốn = Tổng vốn kinh doanh Hoặc: Lãi ròng +Lãi trã vốn vay Hệ số doanh lợi vốn = Tổng vốn kinh doanh Số vòng quay của vốn kinh doanh: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cho vào kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Doanh thu Số vòng quay của vốn kinh doanh = Tổng vốn kinh doanh Số vòng quay lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn càng cao. -Hàm lượng vốn: chỉ tiêu này là nghịch đảo của chỉ tiêu số vòng quay của vốn kinh doanh nó cho biết để tạo ra một đồng doanh thu doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. Tổng vốn kinh doanh Hàm lượng vốn= Doanh thu 2.3.3.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định người ta thường đánh giá thông qua hiệu quả sử dụng tài sản cố định. -Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: cho biết một đồng giá trị TSCĐ trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lải ròng Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0