intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:70

98
lượt xem
42
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các hoạt động kinh tế đang ngày càng đa dạng, sôi động và đi kèm với nó là sự mở rộng của những giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như về quy mô. Tuy nhiên, trong các giao dịch giữa các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin về đối tác nên không thể có sự tin tưởng để thực hiện giao dịch, rủi ro do thông tin không cân xứng rất lớn....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa 1
  2. Lời mở đầu Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các hoạt động kinh tế đang ngày càng đa dạng, sôi động và đi kèm với nó là sự mở rộng của những giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như về quy mô. Tuy nhiên, trong các giao dịch giữa các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin về đối tác nên không thể có sự tin tưởng để thực hiện giao dịch, rủi ro do thông tin không cân xứng rất lớn. Nhưng điều này hoàn toàn có thể được khắc phục bằng cam kết bảo lãnh của ngân hàng. NH với uy tín của mình đứng ra cam kết cho bên thứ ba về việc khách hàng được bảo lãnh sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. NH sẽ có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo lãnh cho bên thứ ba nếu khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết của mình. Bảo lãnh ngân hàng không chỉ đáp ứng được nhu cầu giảm rủi ro cho các bên trong giao dịch kinh tế mà trên thực tế nó còn mang lại nhiều lợi ích cho NH thực hiện bảo lãnh. Các NH sẽ thu được phí bảo lãnh đồng thời lại quảng cáo được hình ảnh của NH ra bên ngoài. NH có chất lượng bảo lãnh tốt sẽ tăng được sự tin tưởng cho khách hàng của mình và thúc đẩy các hoạt động khác của ngân hàng phát triển. Vì vậy, các NH rất mong muốn nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh của mình. Qua một thời gian thực tập ở chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, em nhận thấy bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ được thực hiện khá phổ biến của chi nhánh. CN đã được rất nhiều khách hàng tín nhiệm và tìm đến khi có yêu cầu bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh của CN mang lại sự tin tưởng tuyệt đối cho đối tác và giúp các khách hàng nhanh chóng thực hiện được giao dịch. Cho đến nay chưa có một khách hàng nào được CN bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết của mình, điều đó càng làm tăng uy tín cho ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay các NHTM quốc doanh đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng thương mại cổ phần và các ngân hàng nước ngoài hùng mạnh . Trong hoàn cảnh đó, chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa thực sự vẫn chưa đạt tiêu chuẩn để giúp ngân hàng có thể cạnh tranh được với các đối thủ của mình. Từ những hiểu biết, phân tích, đánh giá của mình, em đã quyết định chọn đề tài chuyên đề tốt nghiệp là: ”Nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân
  3. hàng Công thương Đống Đa” nhằm đưa ra các giải pháp, kiến nghị để hoạt động bảo lãnh của chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa có được chất lượng cao hơn. Chuyên đề được nghiên cứu theo những mục tiêu là tìm hiểu những lý luận chung về chất lượng bảo lãnh của NHTM; căn cứ vào lý luận chung để phân tích, đánh giá về thực trạng chất lượng bảo lãnh của CN NHCT Đống Đa và đưa ra những giải pháp để nâng cao chất lượng bảo lãnh của CN trong thời gian tới. Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh của Chi nhánh Ngân hàng Công thương Đống Đa
  4. Chương 1: Chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại 1.1.Bảo lãnh của Ngân hàng thương mại 1.1.1.Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1.1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một tổ chức ra đời và gắn liền với nền kinh tế hàng hóa . Đến hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa, NH thực sự đã có điều kiện phát triển đến mức cao và phát huy được vai trò của mình, là động lực làm kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng trưởng vượt bậc. Nhưng nếu xem xét nguồn gốc hình thành NH, chúng ta thấy lúc đầu các NH chưa có được vị trí và vai trò của nó như bây giờ. Các NH đầu tiên trên thế giới xuất hiện từ trước công nguyên, ra đời do nhu cầu cần đổi tiền của các nhà buôn. NH giúp các nhà buôn đổi ngoại tệ lấy bản tệ và chiết khấu thương phiếu để có vốn kinh doanh. Nhiều nhà buôn thừa tiền có nhu cầu gửi tiền lại cho các NH để đảm bảo an toàn và phải trả cho NH một khoản phí lưu giữ. Trong quá trình gửi tiền và rút tiền đó, những người làm NH nhận thấy mình thường có dư tiền do nhu cầu gửi và rút không giống nhau. Ngược lại, những nhà buôn thiếu tiền buôn bán tạm thời lại có nhu cầu vay tiền ngân hàng. Do tiền không có tính ghi danh nên các NH đã nghĩ ra cách lấy số tiền dư đó đi cho vay để hưởng lãi. Sau này, khi hoạt động cho vay phát triển, các NH cần huy động nhiều tiền gửi nên đã bỏ khoản phí giữ tiền, và trả lãi cho các khoản tiền gửi để khuyến khích mọi người gửi tiền vào NH. Từ đó, NH thu hút tiền gửi và cho vay ra đời. Sự phát triển của thương mại thế giới đã kéo theo sự ra đời các phương thức thanh toán và tín dụng mới. Đến thế kỷ XVIII hệ thống NH đã nhanh chóng phát triển thêm nhiều nghiệp vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao như nghiệp vụ phát hành kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, thanh toán bù trừ, chuyển ngân, phát hành và thanh toán séc,…. Tuy nhiên, trong giai đoạn này lại xảy ra khủng hoảng tiền tệ khi các NH phát hành tiền giấy tràn lan. Do các chứng chỉ tiền gửi của NH có thể thay vàng làm phương tiện thanh toán trong lưu thông. Các NH thấy được vị trí đó nên đã tận dụng triệt để, gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế do tiền giấy tràn lan mất kiểm soát. Đến thế kỷ XX, hệ thống NH từ một cấp đã chuyển sang hệ thống hai cấp, có ngân hàng trung ương làm nhiệm vụ quản lý, kiểm soát hệ thống NHTM. Chỉ có
  5. ngân hàng trung ương mới được phát hành tiền giấy. Chức năng phát hành tiền được tách riêng khỏi các NHTM, các NHTM trở thành một tổ chức trung gian tài chính đơn thuần. Hiện nay, NHTM đã phát triển rất nhiều nghiệp vụ NH hiện đại như ủy thác, bảo lãnh, đầu tư,… Các NHTM đã trải qua quá trình phát triển lâu dài với nhiều sự thay đổi cả về bản chất và hình thức, vì vậy rất khó để định nghĩa một cách toàn diện và chính xác ngân hàng là gì. Dưới đây là hai trong rất nhiều các định nghĩa về NHTM đã được nêu ra, mỗi định nghĩa được tiếp cận trên một khía cạnh riêng của NHTM. Trong nền kinh tế tư bản, các nhà tài chính thường định nghĩa NHTM trên phương diện các dịch vụ NHTM cung cấp. Theo đó, “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.” Ở Việt Nam, NHTM được định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu:”Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán.” (Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Như vậy, ở Việt Nam ngân hàng được hiểu theo nghĩa là một ngân hàng cổ điển với chức năng chủ yếu là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và trung gian thanh toán. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng đang ngày càng “lấn sân” sang lĩnh vực của các NHTM và trở nên giống với NHTM hơn. Vì vậy, chúng ta chỉ có thể phân biệt NHTM với các tổ chức tài chính khác ở chỗ NHTM là tổ chức kinh doanh tiền gửi, đặc biệt được huy động tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn, còn các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác chỉ được phép huy động tiền gửi dài hạn. 1.1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại  Hoạt động huy động vốn Vốn là yếu tố sống còn của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ vay, tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn khác nhau và phương thức huy động vốn cũng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường nợ
  6. vay không chiếm phần lớn, phương thức huy động nợ vay chủ yếu là vay ngân hàng và phát hành trái phiếu. Nhưng NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, với hoạt động chủ yếu là huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội rồi đem số vốn này đi kinh doanh qua các hình thức cho vay, đầu tư,…, nên có những đặc trưng riêng về vốn và phương thức huy động vốn. Nguồn vốn của NHTM được chia thành vốn chủ sở hữu và vốn nợ: Vốn chủ sở hữu: là vốn của chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu có thể được sử dụng lâu dài nên là nguồn hình thành trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn chủ sở hữu được phân loại như sau: - Nguồn vốn hình thành ban đầu: Mỗi loại hình NHTM sẽ có nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. NHTM thuộc sở hữu nhà nước có vốn ban đầu là vốn nhà nước. NHTM cổ phần có vốn ban đầu do các cổ đông đóng góp thông qua đóng cổ phần. NHTM liên doanh có vốn ban đầu do các bên liên doanh đóng góp. - Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, vốn của chủ có thể được gia tăng từ nhiều nguồn khác nhau như nguồn từ lợi nhuận giữ lại hoặc nguồn từ phát hành thêm cổ phiếu. - Các quỹ: Hàng năm, các ngân hàng phải trích lập rất nhiều quỹ khác nhau từ thu nhập của mình. Các quỹ này sẽ được tích lũy qua các năm và có mục đích bù đắp những tổn thất có thể xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát, quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và phần chênh lệch thị giá – mệnh giá của cổ phiếu khi phát hành mới. Ngoài ra còn có các quỹ thông thường như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng,… Vốn nợ: là loại vốn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn của các NHTM. Vốn nợ được chia thành những loại sau: - Tiền gửi của khách hàng: Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của các NHTM. Các NHTM khi bắt đầu hoạt động đều thực hiện nghiệp vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi cho các khách hàng để huy động tiền nhàn rỗi của các doanh nghiệp và dân cư. Tiền gửi là nguồn vốn luôn chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quyết định trong hoạt động của NHTM. Vì vậy, các NHTM luôn cạnh tranh với nhau bằng cách tăng lãi suất, bổ sung các
  7. dịch vụ kèm theo, khuyến mãi trong dịch vụ gửi tiền để gia tăng doanh số cũng như chất lượng tiền gửi của mình. Tiền gửi của khách hàng có thể được NH huy động dưới nhiều hình thức là: tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp; các tổ chức khác; tiền gửi tiết kiệm của dân cư; tiền gửi của các NH khác. - Tiền vay: Do ngân hàng trung ương có quy định giới hạn mức huy động tiền gửi của các NHTM theo tỷ lệ tương ứng với vốn chủ sở hữu để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền. Vì vậy, khi cần, các NHTM có thể vay mượn từ ngân hàng trung ương, từ các tổ chức tín dụng hoặc vay trên thị trường vốn để đáp ứng nhu cầu thanh toán. Trong các cách huy động này thì vay từ các tổ chức tín dụng khác là đơn giản nhưng lãi suất cao. Khi NHTM thiếu hụt dự trữ hoặc giải quyết nhu cầu cấp bách trong thanh toán thì giải pháp tốt nhất là vay ngân hàng trung ương với hình thức cho vay là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Hình thức vay trên thị trường vốn thường là các khoản vay không có đảm bảo như phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu). Tuy nhiên, khả năng vay phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính và uy tín của NH nên không phải tất cả các NH đều có thể dễ dàng huy động nguồn vốn này. - Vốn nợ khác: bao gồm nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và các nguồn khác có thể là thuế chưa nộp, lương chưa trả,…  Hoạt động cho vay, đầu tư Hoạt động cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính cho NH vì vậy các NHTM hiện nay đang rất chú trọng đến việc đa dạng hóa các hình thức cho vay nhằm đáp ứng các nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. Hoạt động cho vay có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: Phân loại theo hình thức cấp tín dụng - Chiết khấu thương phiếu: Thương phiếu là giấy nhận nợ của người mua đối với người bán, được hình thành từ quan hệ mua bán chịu giữa người mua và người bán. Khi sở hữu thương phiếu, người bán có thể chờ đến hạn đòi tiền người mua hoặc mang đến NH xin chiết khấu trước hạn. Số tiền NH chiết khấu phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu và lệ phí
  8. chiết khấu của NH. Nghiệp vụ chiết khấu hoàn toàn dựa trên sự tín nhiệm của NH với những người ký tên trên thương phiếu. - Cho vay: Nghiệp vụ cho vay được chia thành nhiều nghiệp vụ như thấu chi, cho vay từng lần, cho vay hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt và thường không có tài sản đảm bảo nhằm phục vụ cho các khách hàng có đặc điểm thu và chi không phù hợp về thời gian và quy mô. Thấu chi là nghiệp vụ cho vay NH cho phép người vay được chi vượt số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một khoảng thời gian cho phép. Khách hàng thấu chi tài khoản tiền gửi tức là khách hàng đã vay NH và phải trả gốc, lãi như các khoản vay thông thường khác. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, NH sẽ thu gốc và lãi. Các khoản chi vượt quá hạn mức thấu chi sẽ phải chịu lãi suất phạt và khách hàng sẽ bị đình chỉ sử dụng dịch vụ này. Cho vay từng lần là hình thức cho vay đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên NH, không đủ điều kiện để cấp hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn xin vay và trình NH phương án sử dụng vốn vay. NH sẽ phân tích khách hàng, thẩm định món vay để quyết định có cho vay hay không. Nếu cho vay NH sẽ cùng khách hàng ký hợp đồng cho vay, xác định quy mô, lãi suất, thời hạn cho vay, phương thức giải ngân và thu nợ. Nghiệp vụ cho vay từng lần khá đơn giản và dễ quản lý do các món vay tách biệt, tiền cho vay phụ thuộc chủ yếu vào giá trị tài sản đảm bảo. Cho vay hạn mức là nghiệp vụ tín dụng phục vụ cho các khách hàng có nhu cầu vay mượn thường xuyên trong kỳ, NH thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng trong một thời gian nhất định có thể là năm, quý, tháng. Hạn mức tín dụng do NH tính toán cho khách hàng vào một thời điểm có thể là đầu kỳ hoặc cuối kỳ, dựa trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn, nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ có hạn mức, mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ hợp lệ chứng minh đã mua hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay, trả nhiều lần nhưng số dư nợ vay không được vượt quá hạn mức tín dụng. NH không ấn định thời hạn trả nợ, ngay khi khách hàng có thu nhập
  9. NH sẽ thu nợ. Tuy nhiên, trong nghiệp vụ này, các món vay không tách biệt nên NH khó kiểm soát và quản lý. Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa, đáp ứng nhu cầu vay của các doanh nghiệp thương nghiệp, doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày. NH sẽ cho doanh nghiệp vay để mua hàng và thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu kỳ, khách hàng phải làm đơn xin vay luân chuyển và cùng NH thỏa thuận về phương thức vay, hạn mức, các nguồn cung cấp và tiêu thụ hàng hóa. Khi vay, khách hàng gửi NH chứng từ chứng minh mua hàng và yêu cầu vay, NH sẽ cho vay và thanh toán luôn cho người bán. Cho vay trả góp là hình thức tín dụng NH cho phép khách hàng trả gốc và lãi làm nhiều lần theo thời hạn đã thỏa thuận. Vì vậy, cho vay trả góp thường được sử dụng trong trường hợp các khoản vay trung và dài hạn để tài trợ cho tài sản cố định của các doanh nghiệp, hoặc trong trường hợp cho vay tiêu dùng. Cho vay trả góp có rủi ro cao do tài sản thế chấp thường chính là hàng hóa mua trả góp, thời hạn dài nên lãi suất thường cao nhất trong các hình thức cho vay. Cho vay gián tiếp là hình thức NH thông qua các tổ chức trung gian cho vay các khách hàng. Khách hàng của hoạt động này có đặc điểm món vay nhỏ , người vay phân tán, NH tìm đến các trung gian để tiết kiệm chi phí cho vay như chi phí giám sát, quản lý, thu nợ, … - Cho thuê Trong trường hợp khách hàng không muốn mua tài sản hoặc không đủ điều kiện mua tài sản, NH sẽ mua tài sản đó và cho khách hàng thuê lại. Cho thuê có hai hình thức là cho thuê hoạt động và cho thuê tài chính. Cho thuê hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian ngắn, sau khi chấm dứt hợp đồng NH sẽ thu hồi tài sản để cho thuê tiếp hoặc bán đi. Cho thuê tài chính đáp ứng nhu cầu thuê trong thời gian dài, thông thường số tiền thuê phải vượt quá 2/3 giá trị tài sản, sau khi hết hợp đồng thuê, người thuê có quyền mua lại tài sản đó. Hoạt động cho thuê của NHTM chủ yếu là cho thuê tài chính. - Bảo lãnh
  10. Bảo lãnh là cam kết của NH về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng không thưc hiện nghĩa vụ như cam kết với bên thứ ba. Phân loại theo thời gian - Cho vay ngắn hạn (thời hạn vay dưới 1 năm) Hình thức cho vay ngắn hạn chủ yếu là cho vay nhằm tài trợ cho tài sản lưu động hoặc các nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn khác của khách hàng. - Cho vay trung và dài hạn (thời hạn vay trên 1 năm) Hình thức cho vay trung và dài hạn nhằm phục vụ cho nhu cầu mua sắm trang thiết bị, nhà xưởng của doanh nghiệp; nhu cầu đầu tư phát triển của nhà nước; nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền của dân cư. NH có thể cho vay trung và dài hạn qua các phương thức mua trái phiếu doanh nghiệp, chính phủ; cho vay theo các dự án hoặc cho vay đối với người tiêu dùng.  Hoạt động trung gian khác Ngoài hoạt động huy động vốn, cho vay và đầu tư, các NHTM cũng ngày càng thực hiện nhiều hoạt động trung gian để tăng thu nhập cho NH. Các hoạt động trung gian bao gồm: các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng như ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu; đổi tiền; chuyển tiền; kinh doanh ngoại tệ; ngân hàng đại lý và ủy thác;… Cùng với sự phát triển của công nghệ, kỹ thuật, các hoạt động trung gian của NHTM ngày càng đa dạng, hiện đại và mang lại thu nhập cao cho NH. 1.1.2. Bảo lãnh của Ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng là hoạt động còn khá mới mẻ, xuất hiện từ giữa thế kỷ XX và phát triển trên thế giới trong thời gian gần đây. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, nghiệp vụ bảo lãnh đầu tiên đã được thực hiện ở Mỹ. Đến đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế, xuất phát từ yêu cầu của các nước trong khu vực Trung Đông. Do có nguồn dầu mỏ dồi dào các nước ở khu vực Trung Đông đã giàu lên nhanh chóng, từ đó nảy sinh nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, củng cố an ninh, quốc phòng.... Các quốc gia Trung Đông đã ký kết hợp đồng kinh tế với các nước phương Tây để triển khai và xây dựng công trình
  11. cơ sở hạ tầng cho họ. Những hợp đồng kinh tế này có giá trị rất lớn và nhiều rủi ro cho các nước chủ nhà. Để đảm bảo an toàn, họ đã đưa ra yêu cầu phải có sự đảm bảo vững chắc trong việc thực hiện các hợp đồng của các nước phương Tây thông qua hình thức bảo lãnh của NH. Đó là nghiệp vụ bảo lãnh thực hiện hợp đồng đầu tiên trên thế giới. Ngày nay, bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một nghiệp vụ phổ biến với doanh số gia tăng một cách đáng kinh ngạc ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Trong giao dịch quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được thực hiện theo qui ước thống nhất do phòng thương mại quốc tế ICC ban hành.  Khái niệm Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của NH dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như đã cam kết. Khách hàng sẽ bị ghi nợ bắt buộc và bị tính lãi trên số tiền đó như một khoản vay thông thường. Bên bảo lãnh (bên phát hành bảo lãnh) là các tổ chức tín dụng gồm các NHTM và các tổ chức tín dụng khác hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng. Bên bảo lãnh có trách nhiệm thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi khách hàng được bảo lãnh của mình không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng đã ký với bên nhận bảo lãnh. Bên được bảo lãnh là các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài hợp pháp. Bên được bảo lãnh có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết theo hợp đồng cơ sở được ký kết với bên thụ hưởng bảo lãnh. NH không được bảo lãnh đối với những người sau:  Thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của ngân hàng.  Cán bộ, nhân viên của chính ngân hàng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định bảo lãnh. Bên nhận bảo lãnh (bên thụ hưởng bảo lãnh) là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Bên nhận bảo lãnh sẽ có quyền yêu cầu NH đứng ra thanh toán số tiền bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết.  Đặc điểm của bảo lãnh
  12. Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của NH cho khách hàng thông qua uy tín của NH, trong đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. BL là một hoạt động phái sinh bởi vì quan hệ bảo lãnh phát sinh từ quan hệ của bên nhận bảo lãnh với bên được bảo lãnh. BL thường có 3 bên đó là bên nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh. Sơ đồ mối quan hệ giữa các bên trong bảo lãnh Ngân hàng Hợp đồng bảo lãnh Thư bảo lãnh (2) (3) Người yêu cầu Người thụ hưởng (1) bảo lãnh bảo lãnh Hợp đồng kinh tế Bảo lãnh là hoạt động tài trợ ngoài bảng cân đối kế toán. Nó được xếp vào loại tài sản ngoại bảng của NH vì NH chưa phải xuất quỹ cho khách hàng sử dụng khi cam kết bảo lãnh. Khi đáo hạn, khách hàng không có khả năng thanh toán NH mới xuất tiền để thanh toán hộ và ghi nợ bắt buộc cho khách hàng. Hơn nữa, người thụ hưởng chỉ có quyền đòi hoàn trả từ phía người phát hành thư bảo lãnh khi họ đáp ứng được đầy đủ các điều kiện ghi trong thư bảo lãnh Nghiệp vụ bảo lãnh cũng thuộc loại nghiệp vụ tín dụng của NH vì bảo lãnh cũng có rủi ro như một khoản tín dụng. Khi cấp bảo lãnh NH cũng phải thẩm định giống như khi cấp một khoản tín dụng. Bảo lãnh tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của NH chỉ phát sinh khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Tuy nhiên, NH sẽ phải bồi thường khi khách hàng của NH không thực hiện cam kết với bên thứ ba, có nghĩa là NH đã gánh chịu một phần rủi ro cho bên thứ ba. 1.1.2.2.Vai trò của bảo lãnh
  13.  Đối với nền kinh tế Bảo lãnh ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp , các cơ sở kinh doanh tiếp cận được với nguồn vốn phù hợp hay thực hiện gia o dịch dễ dàng. Bảo lãnh vay vốn giúp những đơn vị thiếu vốn tiếp cận được với nguồn vốn phù hợp, chi phí thấp. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng giúp việc thi công các công trình lớn, quan trọng của đất nước nhanh chóng, hiệu quả hơn. Mỗi loại bảo lãnh đều có mục đích hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiệp dễ dàng, thuận lợi, vì vậy đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.  Đối với ngân hàng Bảo lãnh tạo điều kiện cho NH có được các khoản thu nhập bổ sung dựa trên khả năng đánh giá tín dụng đối với khách hàng mà không cần cam kết trực tiếp cung cấp vốn. NH sẽ nhận được một khoản phí cho việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh (Phí sẽ tính trên % số tiền bảo lãnh). Chi phí phát hành thư bảo lãnh tương đối thấp, NH không phải trích lập dự trữ bắt buộc. Ngoài ra, NH thường biết rõ về tình hình tài chính của các khách hàng xin bảo lãnh (ví dụ như khách hàng đã từng xin vay vốn của ngân hàng) nên chi phí thẩm định bảo lãnh thường thấp. Trên thực tế rất ít khi người phát hành thư bảo lãnh bị yêu cầu phải thanh toán cho hợp đồng bảo lãnh, vì khách hàng yêu cầu bảo lãnh thường là các khách hàng đã có quan hệ tín dụng thân thiết với ngân hàng từ trước. Khi các khách hàng yêu cầu bảo lãnh, ngân hàng thường yêu cầu khách hàng phải ký quỹ một khoản tiền nhất định theo tỷ lệ % trên số tiền bảo lãnh. Tùy theo rủi ro của khoản bảo lãnh và khách hàng mà tỷ lệ ký quỹ thay đổi từ 0 – 100% (những khách hàng mới giao dịch với ngân hàng lần đầu hoặc có tình hình tài chính không lành mạnh ngân hàng th ường bắt ký quỹ 100%). Khoản tiền này mang lại nguồn vốn kinh doanh cho ngân hàng với chi phí rất thấp.  Đối với bên được bảo lãnh Bảo lãnh là sự tài trợ cho doanh nghiệp thông qua uy tín của ngân hàng giúp. Khi doanh nghiệp thiếu vốn, doanh nghiệp chưa đủ độ tin cậy và uy tín với bạn hàng, bảo lãnh ngân hàng sẽ hỗ trợ doanh nghiệp tìm kiếm được nguồn vốn trong nước cũng như nước ngoài với chi phí thấp hơn so với phải đi vay NH.
  14. Bảo lãnh ngân hàng cũng tạo ra sự tin tưởng cho các bạn hàng. Có bảo lãnh ngân hàng, các doanh nghiệp sẽ có nhiều thuận lợi khi đấu thầu, thực hiện giao dịch hay ký kết hợp đồng.  Đối với bên nhận bảo lãnh Chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh ngân hàng là đảm bảo khả năng được thanh toán cho bên nhận bảo lãnh trong trường hợp bên yêu cầu bảo lãnh không thực hiện đúng các cam kết với bên nhận bảo lãnh. Bảo lãnh ngân hàng mang lại sự tin tưởng cho bên thứ ba, hạn chế những tổn thất mà bên thứ ba có thể gặp phải do thông tin không cân xứng hay rủi ro đạo đức. Trước khi phát hành bảo lãnh, NH đã thẩm định các khách hàng rất kỹ và chuyên nghiệp, bên thứ ba sẽ không phải mất thời gian kiểm tra khách hàng. Bảo lãnh ngân hàng cũng có nghĩa là khách hàng được bảo lãnh sẽ phải chịu thêm sự ràng buộc, giám sát, đốc thúc của NH ngoài sự giám sát của bên thứ ba, như vậy khả năng thực hiện được cam kết trong hợp đồng sẽ cao hơn. Nếu bên được bảo lãnh không thực hiện cam kết, bên thứ ba cũng sẽ được NH bồi thường thiệt hại. 1.1.2.3. Phân loại bảo lãnh  Căn cứ vào bản chất bảo lãnh - Bảo lãnh trực tiếp Bảo lãnh trực tiếp là loại hình bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp cho bên được bảo lãnh. Trong bảo lãnh trực tiếp thường có ba bên tham gia là ngân hàng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. - Bảo lãnh gián tiếp Bảo lãnh gián tiếp là loại hình bảo lãnh trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh theo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không phải bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh, nghĩa vụ bồi hoàn thuộc về ngân hàng trung gian. Trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 bên tham gia là ngân hàng phát hành bảo lãnh, ngân hàng trung gian, bên được bảo lãnh và bên hưởng bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp người thụ hưởng và người
  15. được bảo lãnh ở hai quốc gia khác nhau, ngân hàng của người được bảo lãnh không có đại lý ở nước của người thụ hưởng. Khi đó, ngân hàng phục vụ người được bảo lãnh phải đề nghị một ngân hàng ở quốc gia đó phát hành bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp đem lại sự an toàn cao hơn cho người thụ hưởng. Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp Phát hành BL Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo (4) (3) BL đối ứng BL (5) Thông báo (3’) BL NH phát hành bảo lãnh đối ứng (2) Yêu cầu BL Ký hợp đồng Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh (1) - Đồng bảo lãnh Đồng bảo lãnh là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một nghiệp vụ của khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng làm đầu mối. Trong đồng bảo lãnh của ngân hàng, một ngân hàng sẽ đóng vai trò là ngân hàng đầu mối phát hành bảo lãnh và có sự tham gia của các ngân hàng thành viên khác. Trong trường hợp phải chi trả cho người thụ hưởng theo cam kết bảo lãnh, ngân hàng đầu mối sẽ thanh toán cho người thụ hưởng. Sau đó, ngân hàng đầu mối sẽ đòi tiền từ các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ tham gia dựa trên các bảo lãnh đối ứng đã được phát hành. Đến lượt mình, các ngân hàng này lại tiến hành truy đòi từ người được bảo lãnh. - Bảo lãnh đối ứng Bảo lãnh đối ứng là bảo lãnh do tổ chức tín dụng (bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành nhằm đề nghị một tổ chức tín dụng khác thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do khách hàng vi
  16. phạm các cam kết với bên nhận bảo lãnh, bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho bên bảo lãnh. - Xác nhận bảo lãnh Xác nhận bảo lãnh là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng (bên xác nhận bảo lãnh) phát hành cho bên nhận bảo lãnh, đảm bảo khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng được xác nhận bảo lãnh (bên được xác nhận bảo lãnh) với khách hàng. - Tái bảo lãnh Tái bảo lãnh là việc một tổ chức tín dụng nhận bảo lãnh lại hợp đồng mà một tổ chức tín dụng khác đã bảo lãnh. Hai tổ chức tín dụng này sẽ thỏa thuận để phân chia phí và trách nhiệm trong cam kết bảo lãnh đó.  Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh - Bảo lãnh vay vốn Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân hàng đối với bên cho vay về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. Nhiều tổ chức tín dụng khi cho vay thường đòi hỏi người vay phải có đảm bảo. Có nhiều hình thức đảm bảo như đảm bảo bằng hàng hóa, chứng khoán, bất động sản,… và bảo lãnh vay vốn của bên thứ ba. Nhà nước, doanh nghiệp hay các tổ chức tín dụng đều có nhu cầu vay vốn, đặc biệt là phát hành trái phiếu nhưng nếu uy tín của tổ chức phát hành trên thị trường không cao thì việc phát hành trái phiếu gặp nhiều khó khăn. Những khó khăn đó đã làm nảy sinh nhu cầu về bảo lãnh vay vốn. Hiện nay trong thị trường vốn quốc tế, việc vay vốn nhất thiết phải có bảo lãnh vay vốn của ngân hàng do rủi ro trong thị trường này là rất cao. - Bảo lãnh thanh toán Bảo lãnh đảm bảo thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ. - Bảo lãnh hoàn thanh toán (bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước) Trong hoạt động giao dịch mua bán nhiều nhà cung cấp thường yêu cầu khách hàng phải đặt cọc trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng. Khoản tiền đặt cọc đó
  17. vừa giúp cho nhà cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua không đơn phương hủy hợp đồng. Tuy nhiên, khi ứng tiền trước người mua sẽ phải đối mặt với rủi ro người bán không cung cấp hàng đồng thời không trả tiền đặt cọc. Vì vậy, khi đặt cọc tiền người mua thường yêu cầu người bán phải có bảo lãnh hoàn thanh toán của ngân hàng. Bảo lãnh hoàn thanh toán là cam kết của ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu bên cung cấp không hoàn trả tiền ứng trước khi không thực hiện được hợp đồng. - Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu Bảo lãnh dự thầu là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên mời thầu cam kết sẽ trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu. Hiện nay, việc đấu thầu đã trở nên rất phổ biến đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và cung cấp thiết bị. Khi tổ chức đấu thầu, chủ thầu thường gặp các rủi ro như các nhà thầu trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng hay không kê khai đúng như yêu cầu của chủ thầu gây nhầm lẫn khi bỏ thầu. Vì vậy, để hạn chế rủi ro các chủ thầu thường yêu cầu các nhà thầu khi tham gia dự thầu phải ký quỹ (đặt cọc) hoặc có bảo lãnh dự thầu của một ngân hàng uy tín. Bảo lãnh dự thầu có giá trị bảo lãnh tương đương với số tiền ký quỹ của các nhà thầu không có bảo lãnh. - Bảo lãnh thực hiện hợp đồng Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của NH về việc chi trả tổn thất thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng đã được cam kết gây tổn thất cho bên thứ ba. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng một mặt để bù đắp một phần tổn thất cho bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng. - Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm là bảo lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp
  18. không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh, ngân hàng sẽ nộp tiền phạt thay cho khách hàng. - Bảo lãnh hải quan Trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào để trưng bày, triển lãm hoặc máy móc được nhập về để thi công công trình sau đó được đem trả lại thì doanh nghiệp không phải nộp thuế hải quan. Nhưng việc kiểm soát xem doanh nghiệp có xuất hàng hóa đó trở lại khi hoàn thành công việc không là rất khó khăn, nếu phát hiện ra cũng khó thu tiền phạt của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể được đảm bảo bằng bảo lãnh hải quan của ngân hàng. Ngân hàng sẽ đứng ra bảo lãnh cho doanh nghiệp với tổ chức thuế quan về việc tạm nhập hàng hoá, giúp doanh nghiệp không phải xuất quỹ nộp thuế hải quan. Nếu quá thời hạn quy định mà hàng hoá, máy móc không được tái xuất thì ngân hàng bảo lãnh sẽ phải trả tiền phạt thay cho bên được bảo lãnh. - Bảo lãnh bảo hành Mục đích của bảo lãnh bảo hành là đảm bảo nghĩa vụ của nhà sản xuất trong giai đoạn bảo hành khi việc cung cấp hàng hóa đã hoàn thành. Loại bảo lãnh này có thể được phát hành để thay thế cho tiền giữ lại cho giai đoạn bảo hành. - Bảo lãnh mở L/C Bảo lãnh mở L/C là loại hình bảo lãnh đặc biệt, nó mang đặc thù của hoạt động thanh toán quốc tế do đó ngân hàng thường không tính doanh số bảo lãnh mở L/C vào doanh số bảo lãnh thông thường mà tính vào doanh số hoạt động thanh toán quốc tế. Bảo lãnh mở L/C trả chậm về bản chất là bảo lãnh vay vốn nước ngoài.  Căn cứ vào điều kiện thanh toán của bảo lãnh - Bảo lãnh theo yêu cầu Bảo lãnh theo yêu cầu là cam kết của NH bảo lãnh trả ngay một số tiền bồi thường cho người hưởng lợi khi nhận được khiếu nại đầu tiên chỉ rõ quyền lợi của người hưởng lợi bị vi phạm do bên xin bảo lãnh vi phạm hợp đồng mà không cần bất cứ loại giấy tờ chứng minh nào. Loại bảo lãnh này tuân theo nguyên tắc “trả tiền trước, kiện cáo sau”. Trường hợp bên xin bảo lãnh chứng minh được mình không vi phạm hợp đồng thì họ có quyền đi kiện, đòi lại số tiền mà NH đã trả cho người
  19. hưởng. Bảo lãnh theo yêu cầu gây bất lợi cho người xin bảo lãnh vì họ rất khó khăn trong việc đòi lại tiền. - Bảo lãnh kèm chứng từ Bảo lãnh kèm chứng từ là loại bảo lãnh mà ngân hàng chỉ tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình cho ngân hàng các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh . Như vậy, bảo lãnh kèm chứng từ đã bảo vệ quyền lợi cho người được bảo lãnh tuy nhiên thời gian thanh toán cho người thụ hưởng cũng bị kéo dài thêm cho đến khi có bên thứ ba xác nhận hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh kiểm tra xong các chứng từ đó . - Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc tòa án Đây là loại bảo lãnh mà NH cam kết thanh toán cho người thụ hưởng khi họ cung cấp cho NH một phán quyết của trọng tài hoặc toà án về việc vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh. Tuy nhiên, do thủ tục phức tạp và thời gian thanh toán kéo dài nên loại hình bảo lãnh này ít được sử dụng.  Căn cứ vào thời hạn bảo lãnh - Bảo lãnh ngắn hạn Bảo lãnh ngắn hạn là những bảo lãnh ngân hàng có thời hạn bảo lãnh dưới 1 năm. Bảo lãnh thanh toán do rủi ro cao nên các NH thường chỉ tiến hành bảo lãnh ngắn hạn. - Bảo lãnh trung hạn Bảo lãnh trung hạn là những bảo lãnh ngân hàng có thời hạn bảo lãnh từ 1-5 năm. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng do thường được áp dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nên thường là bảo lãnh trung hạn. - Bảo lãnh dài hạn Bảo lãnh dài hạn là những bảo lãnh ngân hàng có thời hạn bảo lãnh từ 5 năm trở lên. Bảo lãnh dài hạn thường chiếm số lượng rất ít trong các ngân hàng do rủi ro cao. -Gia hạn bảo lãnh Gia hạn bảo lãnh là việc ngân hàng kéo dài thêm thời hạn bảo lãnh cho khách hàng do yêu cầu của khách hàng, xuất phát từ những nguyên nhân khách quan khiến cho khách hàng chưa thể thực hiện hợp đồng với bên thứ ba. Khi đó, với sự chấp
  20. thuận của bên thứ ba và yêu cầu của khách hàng, ngân hàng sẽ gia hạn bảo lãnh cho khách hàng.  Căn cứ vào hình thức phát hành cam kết bảo lãnh - Phát hành cam kết bảo lãnh bằng thư bảo lãnh Thư bảo lãnh là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. - Phát hành cam kết bảo lãnh bằng hợp đồng bảo lãnh Hợp đồng bảo lãnh là thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. 1.1.2.4. Quy trình bảo lãnh của ngân hàng Sơ đồ quy trình bảo lãnh của ngân hàng Ngân hàng (bên bảo lãnh) (2) (3) (4) (1) (0) Khách hàng của ngân Bên thứ ba (bên hưởng hàng (bên được bảo lãnh) bảo lãnh) (0) Khách hàng ký kết các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, xây dựng, vay vốn,… Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng. (1) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro của khoản bảo lãnh. Nếu đồng ý bảo lãnh, ngân hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng. Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
18=>0