intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thái Bình

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

160
lượt xem
58
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Theo yêu cầu của cải cách tư pháp thì vấn đề đổi mới, cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp từ công tác tổ chức đến cơ chế hoạt động và nâng cao năng lực của cán bộ đã được quán triệt và đặt ra là nhiệm vụ cấp bách nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thái Bình

  1. LUẬN VĂN: Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện Kiểm sát nhân dân ở tỉnh Thái Bình
  2. Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo. Theo yêu cầu của cải cách tư pháp thì vấn đề đổi mới, cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp từ công tác tổ chức đến cơ chế hoạt động và nâng cao năng lực của cán bộ đã được quán triệt và đặt ra là nhiệm vụ cấp bách nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Yêu cầu của cải cách tư pháp đã đặt ra nhiệm vụ khách quan phải xây dựng mô hình tổng thể của hệ thống các cơ quan tư pháp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp. VKSND là cơ quan Nhà nước nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế XHCN. Trong những năm gần đây có khá nhiều các quan điểm khác nhau về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của ngành kiểm sát nhân dân nh ưng Đảng và Nhà nư- ớc ta vẫn khẳng định VKSND tiếp tục thực hiện chức năng Thực hành quyền công tố và Kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trên địa bàn tỉnh Thái Bình, ngay sau khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”; Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” ngành Kiểm sát tỉnh Thái Bình đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp và đạt được những kết quả đáng kể trong tất cả các lĩnh vực hoạt động như: chọn cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ; chuẩn bị tốt các điều kiện cơ sở vật chất; tuyển chọn, bố trí, sắp xếp cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đẩy mạnh sự phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật của tỉnh hoàn thành việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện theo lộ trình đề ra; tăng cường công tác sơ kết, tổng kết, thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ; tăng cường tổ chức
  3. các phiên toà mẫu để rút kinh nghiệm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Thông qua các phiên toà mẫu đã bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn cho Thẩm phán, KSV về kỹ năng tranh tụng tại phiên toà nhằm nâng cao chất lượng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Kết quả đã phát hiện và đưa ra xử lý nghiêm minh nhiều vụ án lớn và nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm trật tự trị an xã hội, các vụ án về an ninh, ma tuý…, góp phần thiết thực tăng cường kỷ cương phép nước, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước nói chung và đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có những vấn đề mà Nghị quyết 08, 49 của Bộ Chính trị đề cập tới vẫn cần phải được tiếp tục tổ chức nghiên cứu quán triệt nhằm nâng cao hơn nữa về sự thống nhất trong nhận thức để triển khai thực hiện có hiệu quả phương hướng, nhiệm vụ cải cách tư pháp đặt ra. Chẳng hạn như vấn đề: Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo h- ướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng... [6]. Trên thực tế việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay ở địa phương có nơi, có việc vẫn chưa được nhận thức, quán triệt và vận dụng đầy đủ, thống nhất. Nghiên cứu số liệu thống kê số bị cáo đã bị xét xử trong một số năm gần đây cho thấy, số bị cáo bị xét xử hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo vẫn thường chiếm tỷ lệ rất cao so với các loại hình phạt khác. Các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền đối với một số loại tội phạm chưa được Toà án các cấp quan tâm áp dụng. Công tác thực hành quyền công tố, KSXX các vụ án hình sự của VKS chưa có biện pháp hữu hiệu làm chuyển biến nhận thức về áp dụng và kiểm sát việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội theo tinh thần cải cách tư pháp đặt ra. Việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là những yêu cầu quan trọng nhất của công tác tư pháp. Trong đó, công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người,
  4. đúng tội, đúng pháp luật…là trách nhiệm của VKSND được quy định tại điều 23 BLTTHS. Để làm rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKS theo quy định của tố tụng hình sự trong công tác thực hành quyền công tố, KSXX hình sự (trong đó có kiểm sát việc áp dụng hình phạt) thì việc hệ thống về mặt lý luận những căn cứ pháp luật và làm rõ chủ trương của Đảng, chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người phạm tội không chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu, mà còn có ý nghĩa rất quan trọng với người làm công tác thực tiễn trong ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay. Đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ thống dưới góc độ một Luận văn khoa học về nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Toà án đối với người phạm tội - nhìn nhận dưới góc độ áp dụng chính sách hình sự của Nhà nước trong việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc học viên chọn đề tài " Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hỡnh phạt của Viện Kiểm sỏt nhõn dõn ở tỉnh Thỏi Bỡnh " để nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ của mình, nhằm nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái Bình, góp phần nâng cao nhận thức việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ở tỉnh Thái Bình phù hợp với yêu cầu cải cách t ư pháp hiện nay, phù hợp với thực tế của địa phương, đáp ứng yêu cầu của lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả xác định nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách hình sự trong áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái Bình thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong các hoạt động khác nhau của lĩnh vực Tư pháp đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả. Có thể nêu một số công trình cơ bản thành các nhóm sau: - Những nghiên cứu về áp dụng pháp luật
  5. + Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Xuân Thân, (2004): “áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay”. + Luận văn Cao học Luật của Nguyễn Mạnh Toàn, (2008): “áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND tỉnh Thái Nguyên”; của Lê Việt Dũng, (2008), “áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Toà án quân sự các cấp ở Việt Nam hiện nay”… - Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nâng cao chất lượng công tác xét xử và KSXX hình sự + Luận văn Cao học luật của Phạm Thị Bình (2008): “Cơ sở lý luận và thực tiễn về THQCT của VKSND trong xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Thanh Hoá”; của Trần Thị Đông (2008): “Chất lượng THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Hà Nam”… Ngoài các tác giả trên còn có rất nhiều các công trình khoa học, các bài viết của nhiều tác giả khác tập trung nghiên cứu liên quan đến các vấn đề: áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ án hình sự; nâng cao chất lượng THQCT và KSXX các vụ án hình sự; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong xét xử và KSXX các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp… Các công trình khoa học kể trên là nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quan trọng giúp cho tác giả nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn - Mục đích: Đánh giá đúng thực trạng và đề xuất được các giải pháp nhằm thống nhất nhận thức việc áp dụng hình phạt trong thực tiễn xét xử và KSXX các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Thái Bình, đảm bảo chính sách hình sự của Nhà nước theo tinh thần cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay. - Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ: Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt được quy định trong BLHS; Nghiên cứu một cách có hệ thống chủ trương của Đảng về thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp và chính sách hình sự của Nhà nước đối với việc xử lý người phạm tội; Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố, kiểm sát
  6. việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội của VKS hai cấp trên địa bàn tỉnh Thái Bình trong những năm gần đây. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác THQCT, kiểm sát việc áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND ở tỉnh Thái Bình. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động của VKS trong thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND hai cấp ở tỉnh Thái Bình. Thời gian thu thập số liệu để nghiên cứu tính từ năm 2005 đến 2008. Do khuôn khổ của Luận văn Thạc sỹ nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sâu bốn loại hình phạt chính là: Cải tạo không giam giữ, phạt tiền, tù có thời hạn, tử hình. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về đổi mới cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách tư pháp, về xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật, nâng cao vai trò trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong hoạt động xét xử và KSXX các vụ án hình sự. Luận văn còn dựa trên cơ sở lý luận của khoa học Luật chuyên ngành là Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, khoa học Luật Hình sự, Luật Tố tụng hình sự. - Tác giả luận văn vận dụng phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của bộ môn khoa học khác như so sánh, thống kê, trực tiếp trao đổi, tọa đàm với một số người tiến hành tố tụng.... 6. Đóng góp mới của luận văn Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND ở tỉnh Thái Bình. Từ kết quả nghiên cứu mà Luận văn đạt được có một số đóng góp mới như: góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hành quyền công tố, KSXX hình sự nói chung và kiểm sát áp dụng hình phạt nói riêng của VKSND ở tỉnh Thái Bình theo tinh thần
  7. cải cách Tư pháp hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, Luận văn xác định nguyên nhân chủ quan và khách quan của những thiếu sót, tồn tại, từ đó đề xuất xây dựng các giải pháp về hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự; những giải pháp trong việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn Luận văn góp phần vào việc hoàn thiện những cơ sở lý luận của công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND ở phạm vi toàn quốc nói chung và trên từng địa phương nói riêng. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng hình phạt của VKSND ở địa phương nơi tác giả công tác. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói chung. Đồng thời cũng đáp ứng với những đòi hỏi trong thực tiễn công tác xét xử, thi hành án hình sự hiện nay ở các địa phương. Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng cán bộ của các ngành tư pháp; cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng như Thẩm phán, KSV, Thư ký, Luật sư bào chữa.... 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
  8. Chương 1 cơ sở lý luận về chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của viện kiểm sát nhân dân 1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích áp dụng hình phạt 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật XHCN là tổng hợp các quy tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo một trình tự nhất định, với các hình thức nhất định, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá trình xây dựng CNXH. Hình thức thể hiện của pháp luật XHCN chính là các quy phạm pháp luật được các chủ thể có thẩm quyền ban hành với các loại văn bản có tên gọi và hiệu lực pháp lý khác nhau. Nhà nước XHCN căn cứ vào các quy phạm pháp luật để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc phòng... Các quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý của việc tôn trọng và thực thi các quyền tự do, dân chủ của công dân và là chuẩn mực, thước đo chung để xem xét, đánh giá một hành vi hợp pháp luật hay vi phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật đòi hỏi phải được tôn trọng, tuân thủ và thi hành trong đời sống xã hội. Nói cách khác, các quy tắc xử sự chung được Nhà nước XHCN ban hành dưới dạng các quy phạm pháp luật phải trở thành những quy tắc xử sự của mọi cá nhân và tổ chức trong đời sống xã hội. Đó cũng là mục đích quan trọng của Nhà nước XHCN mong muốn khi ban hành các văn bản có chứa đựng quy phạm pháp luật. Một văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng tốt phải là một văn bản quy phạm pháp luật có khả năng đi vào cuộc sống xã hội và trở thành những quy tắc ứng xử, những khuôn mẫu trong xử sự giữa người với người trong đời sống xã hội. Các quy phạm pháp luật sau khi ban hành phải được thẩm thấu trong đời sống xã hội thường ngày qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và thực hiện pháp luật. Khi các quy phạm pháp luật được các thành viên trong xã hội nhận thức và tự giác thực hiện một cách
  9. nghiêm chỉnh sẽ tạo nên sức mạnh của một nền pháp chế: sống có kỷ cương và tuân thủ phép nước. Trên phương diện lý luận, thực hiện pháp luật là những hoạt động, những phương cách, những quá trình làm cho những quy tắc xử sự chung chứa đựng trong các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi, cách xử sự thực tế của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật rất phong phú, cho nên cách thức thực hiện chúng cũng rất khác nhau. Căn cứ vào tính chất của việc thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thực hiện pháp luật thành những hình thức cụ thể như: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng pháp luật; áp dụng pháp luật. - Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật, là hình thức các chủ thể quan hệ pháp luật không thực hiện những hành vi mà pháp luật đã ngăn cấm. Đây là hình thức các chủ thể pháp luật không thực hiện những điều mà pháp luật không cho phép làm. Thông qua hình thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể quan hệ pháp luật, các quy phạm pháp luật ngăn cấm được tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Chủ thể thực hiện hình thức tuân thủ pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức, cá nhân và mọi công dân trong xã hội. - Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật là hình thức các chủ thể quan hệ pháp luật phải thực hiện những hành vi mà pháp luật quy định được thực hiện trong những hoàn cảnh, những quan hệ pháp luật mà pháp luật đã dự liệu cụ thể. Đây là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội. - Sử dụng pháp luật, là hình thức các chủ thể thực hiện pháp luật sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép. Đây cũng là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Do hình thức thực hiện pháp luật này là việc sử dụng các quyền năng pháp lý được pháp luật trao quyền, nên các chủ thể quan hệ pháp luật có quyền thực hiện hoặc không thực hiện các quyền của mình, pháp luật không bắt buộc các chủ thể phải thực hiện nh ư hai hình thức tuân thủ pháp luật
  10. và chấp hành pháp luật. Chủ thể thực hiện hình thức sử dụng pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội. Có thể nói, áp dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ quan Nhà nước và chỉ do nhân viên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Trong hoạt động tố tụng hình sự, áp dụng pháp luật thường được Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm... tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều tra làm rõ các tình tiết vụ án nhằm xác định sự thật khách quan; truy cứu trách nhiệm pháp lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật. Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà n ước trong hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ: Hoạt động này chỉ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành, không theo ý chí của các chủ thể mà là theo quy định của pháp luật. Việc tiến hành áp dụng pháp luật và ra văn bản áp dụng quy phạm pháp luật hoàn toàn theo quy định của pháp luật. Quyết định áp dụng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thi hành và được Nhà nước bảo đảm thi hành. Do hoạt động áp dụng pháp luật gắn liền với quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành pháp và t ư pháp nên nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực thi quyền lực nhà n ước. Chính vì vậy, áp dụng pháp luật còn là một hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, những tiêu chuẩn chung cho xử sự giữa người với người trong các mối quan hệ xã hội thì hoạt động áp dụng pháp luật luôn luôn mang tính cụ thể. Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, các địa chỉ để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con người, thời gian, không gian; quy phạm pháp luật cần áp dụng và quyết định áp dụng pháp luật được ban hành luôn luôn mang tính cá biệt. Do đặc trưng này nên quyết định áp dụng pháp luật phải thỏa mãn các yêu cầu cụ thể, áp dụng một lần cho một đối tượng nhất định, trong đó quyết định phải nêu rõ tình tiết sự việc; các điều khoản văn bản quy phạm pháp luật được viện dẫn để làm căn cứ pháp lý; tên đối tượng phải thi hành; quyền được thực hiện và nghĩa vụ phải hoàn thành của các chủ thể đã được xác định.
  11. Việc ban hành một quyết định áp dụng quy phạm pháp luật phải được thực hiện thông qua các thủ tục nhất định. Tính đơn giản hay phức tạp của các thủ tục tùy thuộc rất lớn vào tính chất nội dung của sự việc cần phải áp dụng. Trong hoạt động tư pháp, các thủ tục được quy định khá rõ ràng và cụ thể trong các văn bản luật. Cho đến nay, các thủ tục tố tụng hình sự được Nhà nước tập hợp khá đầy đủ và chi tiết trong BLTTHS. Việc tập hợp, pháp điển hóa các quy phạm pháp luật tố tụng là việc làm hết sức cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể áp dụng pháp luật trong hoạt động tố tụng được chính xác và đúng pháp luật. Thực tế áp dụng pháp luật luôn luôn sinh động và phong phú, vừa áp dụng cái chung vào cái cụ thể và vừa đặt ra các yêu cầu cụ thể bổ sung hoàn chỉnh các quy phạm pháp luật để phục vụ cho cái chung, cái phổ biến. Tính thực tiễn và tính sinh động của hoạt động áp dụng pháp luật còn thể hiện rõ nét khi phải áp dụng pháp luật tương tự để giải quyết các tình huống cụ thể. Trong những trường hợp sự việc cụ thể không có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp, hay nói cách khác, pháp luật chưa có dự liệu trước thì người áp dụng pháp luật tiến hành áp dụng pháp luật tương tự. áp dụng pháp luật tương tự có thể gồm áp dụng tương tự quy phạm pháp luật và áp dụng tương tự pháp luật: áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là sử dụng quy phạm pháp luật của một lĩnh vực, một sự việc khác, tương tự để giải quyết cho một sự việc, một lĩnh vực cụ thể chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp. áp dụng tương tự pháp luật là sử dụng các nguyên tắc chung của pháp luật XHCN và ý thức pháp luật để giải quyết một vụ việc cụ thể chưa có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh và cũng không có quy phạm pháp luật tương tự để áp dụng. áp dụng pháp luật tương tự thường dễ phạm sai lầm và dễ lạm dụng pháp luật nên cần được tiến hành chỉ trong những điều kiện cần thiết và phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN một cách nghiêm ngặt. Mặt khác, để giúp cho việc áp dụng pháp luật được tiến hành chính xác và thống nhất thì công tác giải thích pháp luật cũng được quan tâm nhằm làm sáng tỏ nội dung của các quy phạm pháp luật, bảo đảm cho nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất. Giải thích pháp luật bao gồm giải thích chính thức và giải thích không chính thức. Giải thích chính thức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành bằng văn bản và có tính
  12. bắt buộc khi áp dụng quy phạm pháp luật. Giải thích pháp luật không chính thức là giải thích của các nhà nghiên cứu pháp luật và của các cá nhân, tổ chức trong xã hội thông qua bình luận, trao đổi trực tiếp hoặc qua sách báo pháp lý và các phương tiện thông tin đại chúng. Giải thích pháp luật không chính thức không có giá trị bắt buộc áp dụng nhưng lại có tác động rất lớn đến việc nâng cao ý thức pháp luật, hiểu và sử sự đúng theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả khái quát như sau: áp dụng pháp luật là một hoạt động mang tính thực tiễn, cụ thể và sinh động do các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà nước được giao quyền tiến hành theo một thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Nó là hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục bắt buộc để các cơ quan Nhà nước thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể hoặc khi Nhà n ước cần phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế các quyền của chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt và áp dụng hình phạt 1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt * Khái niệm hình phạt: Theo Từ điển tiếng Việt năm 2007, hình phạt là "cách phạt kẻ có tội từ việc cảnh cáo, cấm túc đến tù đày, tử hình" [31, tr.487]. Theo Từ điển Luật học năm 1999, hình phạt là "biện pháp cưỡng chế do nhà nước quy định trong luật hình sự, được Toà án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm” [32, tr.185]. Nghiên cứu lịch sử lập pháp của nước ta thấy, khái niệm hình phạt lần đầu tiên được quy định tại điều 26 BLHS năm 1999 [30, tr.219]. “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định” [15, tr.27]. Qua nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, tác giả Luận văn thống nhất quan điểm về khái niệm hình phạt được quy định tại điều 26 BLHS năm 1999 nêu trên. * Đặc điểm của hình phạt:
  13. Để đạt được mục đích của hình phạt, Điều 28 BLHS năm 1999 quy định một hệ thống đầy đủ các hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt trong hệ thống hình phạt được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, trên cơ sở đó Toà án có thể vận dụng các chế định trong luật hình sự. Tội phạm có nhiều loại khác nhau, với những tính chất và mức độ nguy hiểm nhất định cho xã hội. Xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, BLHS đã quy định hệ thống hình phạt thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Hệ thống hình phạt là “một chỉnh thể bao gồm những hình phạt được quy định trong luật hình sự, có phương thức liên kết với nhau theo một trật tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng hình thức (loại) hình phạt quy định” [32, tr.185]. Hình p hạt chính là hình phạt đ ược tuyên độc lập. Đối với người phạm tội, phải áp dụng và chỉ có thể áp dụng một trong những hình phạt chính đ ược quy định tại điều 28 BLHS n ăm 1999. Trong Phần các tội phạm của BLHS, hình phạt chính được quy đ ịnh trong điều luật về một tội phạm cụ thể. Đối với một tội phạm cụ thể có nhiều hình ph ạt chính khác nhau đ ể Toà án lựa chọn. Toà án không thể áp dụng các hình phạt không đ ược quy định trong BLHS về một tội phạm cụ thể, trừ tr ường hợp chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo điều 47 BLHS năm 1999 trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình. Theo Từ điển Luật học năm 1999 thì “hình phạt bổ sung là hình phạt không thể được tuyên độc lập mà chỉ được tuyên kèm theo hình phạt chính phù hợp với tính chất và đặc điểm của một số loại tội phạm và nhân thân người phạm tội” [30, tr 205 - 206]. Các hình phạt bổ sung theo quy định tại điều 28 BLHS năm 1999 gồm: Cấm đảm nhận những chức vụ; Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Đối với một tội phạm cụ thể, TA có thể chỉ tuyên hình phạt chính mà không kèm theo một hình phạt bổ sung nào, nhưng cũng có thể có một hoặc nhiều hình phạt bổ sung, nếu trong điều luật có ghi rõ có thể tuyên phạt hình phạt bổ sung. Việc quy định hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt có
  14. tác dụng hỗ trợ, tăng sức mạnh cưỡng chế và giáo dục của hình phạt chính, làm cho hình phạt được thực hiện một cách triệt để, đạt được mục đích của hình phạt, giúp cho các cơ quan có thẩm quyền thực hiện nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt, đảm bảo công bằng xã hội và pháp chế XHCN. Từ kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra đặc điểm của hình phạt: - Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước thể hiện ở chỗ người bị kết án có thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản, về chính trị, thậm chí cả quyền sống. Bên cạnh đó hình phạt cũng để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị kết án trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật. - Hình phạt được luật hình sự quy định và do TA quyết định. Trong Phần chung của BLHS quy định những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến hình phạt như: Mục đích của hình phạt; hệ thống hình phạt; căn cứ quyết định hình phạt; quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội; tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; miễn chấp hành hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên… Phần các tội phạm của BLHS quy định các loại hình phạt và mức hình phạt cho từng loại tội phạm cụ thể. Các dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; tính trái pháp luật và sự có lỗi của người phạm tội luôn gắn liền với tính chịu hình phạt. Do vậy cùng với việc xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì cũng đòi hỏi phải quy định loại và mức hình phạt áp dụng cho người có hành vi phạm tội đó trong luật. Trong mọi trường hợp không được áp dụng hình phạt đối với những hành vi không được BLHS quy định là tội phạm và cũng không được áp dụng một loại hình phạt nào đó nếu hình phạt ấy không được quy định trong hệ thống hình phạt hoặc không được quy định trong chế tài của điều luật mà hành vi bị xử phạt thỏa mãn. Ngoài TA - cơ quan có quyền nhân danh Nhà nước tuyên một người có tội và phải chịu hình phạt thì không có cơ quan nào khác có quyền quyết định hình phạt [17]. - Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người có hành vi phạm tội. Một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân người phạm tội. Do đó hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
  15. Ngoài những đặc điểm cơ bản nêu trên, hình phạt còn thể hiện nội dung giai cấp. Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam thể hiện bản chất dân chủ XHCN- dân chủ với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cải tạo, giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội… * Mục đích của hình phạt: Theo quy định tại điều 27 BLHS năm 1999 thì: Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm [15, tr.27]. Nghiên cứu quy định trên chúng ta thấy hình phạt có mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung. Nội dung cơ bản của mục đích phòng ngừa riêng chính là sự tước bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật hình sự đối với người bị áp dụng hình phạt. Mức độ của việc tước bỏ và hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp của họ phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vào nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mục đích chủ yếu trong phòng ngừa riêng của hình phạt chính là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và có mối quan hệ chặt chẽ. Chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ yếu là cải tạo, giáo dục người phạm tội nếu hình phạt áp dụng đối với họ tương xứng với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Trong mối quan hệ giữa trừng trị và cải tạo thì trừng trị là mục đích nhưng đồng thời cũng là phương tiện để đạt mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục, cải tạo họ. Ngoài phòng ngừa riêng, hình phạt còn có mục đích phòng ngừa chung thể hiện ở việc ngăn ngừa người khác phạm tội, nhằm giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho các
  16. thành viên khác trong xã hội, động viên họ, khuyến khích đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh, ngăn ngừa và chống tội phạm. Để đạt được mục đích phòng ngừa chung thì phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân là biện pháp hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Mục đích phòng ngừa chung của hình phạt chỉ đạt kết quả tốt khi quần chúng nhân dân hiểu biết pháp luật, thấy được sự cần thiết của việc tuân thủ pháp luật cũng như ý nghĩa xã hội của hình phạt. Mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung là hai mặt của thể thống nhất (hình phạt). Nếu chỉ coi trọng mặt này hay mặt kia đều có thể dẫn đến vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt và làm cho mục đích của hình phạt bị triệt tiêu. 1.1.2.2. Khái niệm áp dụng hình phạt Điều 127 Hiến pháp năm 1992 nước ta quy định "TAND Tối cao, các TAND địa phương, các Tòa án quân sự và các TA khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam" [20, tr.68]. Trong quá trình xét xử một vụ án hình sự, việc tuyên bố một ng ười là có tội và phải chịu hình phạt nhất thiết phải thông qua hoạt động xét xử của TA, theo đó “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật” chính là một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS” [19, tr.12]. Một người chỉ bị coi là có tội khi người đó đã bị TA xét xử và kết án theo các quy định của pháp luật bằng một bản án của TA đã có hiệu lực pháp luật. Thông qua bản án kết tội có hiệu lực pháp luật thì người phạm tội phải chịu một hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội do người đó gây ra. Như vậy, việc áp dụng hình phạt của Toà án đối với người phạm tội là hậu quả tất yếu do người phạm tội phải gánh chịu từ hành vi phạm tội người đó thực hiện và cũng là kết quả cuối cùng trong hoạt động xét xử của Toà án. Việc xét xử hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội của TA phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và phải trải qua các giai đoạn cụ thể như: Chuẩn bị xét xử, nghiên cứu hồ sơ, tổ chức phiên tòa xét hỏi, tổ chức và điều khiển việc tranh luận, việc nghị án và ban hành bản án. Các giai đoạn của việc xét xử hình sự, áp dụng hình phạt của TA có mối quan hệ chặt chẽ với công tác THQCT, kiểm sát áp
  17. dụng hình phạt của VKS. Chính vì vậy, công tác THQCT, kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS cũng phải trải qua các giai đoạn ban hành cáo trạng truy tố bị can trước Tòa, xây dựng bản luận tội bị cáo tại tòa, chuẩn bị nội dung tranh luận và thực hiện việc tranh luận tại phiên tòa, kháng nghị khi phát hiện bản án có vi phạm trong áp dụng hình phạt… Trên cơ sở nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra khái niệm: áp dụng hình phạt của TAND là việc thực hiện pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự tại phiên toà công khai để ban hành các bản án nhân danh Nhà nước phán xét một hành vi là tội phạm, phải chịu hình phạt. * Vai trò áp dụng hình phạt của Tòa án áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung và áp dụng hình phạt của Tòa án nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân và tổ chức, góp phần to lớn vào việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt nói riêng trong hoạt động xét xử của TA là việc thực thi trên thực tế nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ XHCN, quyền tự do, dân chủ của công dân; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người dưới chế độ XHCN. Do đó, áp dụng pháp luật (áp dụng hình phạt) trong hoạt động xét xử hình sự của TA có vai trò to lớn trong việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; gìn giữ "kỷ cương, phép nước" trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội XHCN mà pháp luật bảo vệ đều được xem xét, xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật qua hoạt động xét xử của TA bằng một bản án kết tội và một hình phạt tương ứng… Như vậy áp dụng hình phạt của TA có vai trò quan trọng trong việc xử lý người phạm tội. TA là cơ quan trực tiếp nhân danh Nhà nước xử lý người phạm tội, buộc họ phải chịu trách nhiệm pháp lý bằng một bản án quy kết tội danh và quyết định hình phạt nhất định buộc người phạm tội phải chấp hành. Ngoài ra, áp dụng pháp luật (áp dụng hình phạt) trong hoạt động xét xử hình sự của TA còn có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân bằng những vụ việc cụ thể, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử công khai.
  18. Phân tích vai trò áp dụng hình phạt của TA như nêu trên đã gián tiếp nói lên vai trò của VKS trong THQCT, KSXX nói chung cũng như kiểm sát áp dụng hình phạt của TA nói riêng. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng áp dụng hình phạt của TA có liên quan đến chất lượng kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS. Nếu chất lượng áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong xét xử các vụ án hình sự của TAND đang cần được quan tâm, chấn chỉnh kịp thời, thì chất lượng và trách nhiệm của VKSND trong công tác THQCT, kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS các cấp cũng cần phải được nâng cao. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện Kiểm Sát 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện kiểm sát Để hiểu rõ về công tác THQCT, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của VKS, trước hết chúng ta cần tìm hiểu về Quyền công tố, THQCT như khái niệm, nội dung, phạm vi và đối tượng của nó trên cả phương diện lý luận và thực tiễn ở Việt Nam. * Về Quyền công tố ở nước ta, Quyền công tố là một chức năng rất quan trọng của Nhà nước được giao cho VKSND thực hiện. Hiến pháp năm 1980 tại điều 138 quy định: “VKSND … thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Luật tổ chức VKSND năm 1981 quy định tại điều 1: “VKSND tối cao… thực hành quyền công tố bảo đảm cho pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trong lý luận cũng như trong thực tiễn chưa có sự hiểu thống nhất và đầy đủ về khái niệm, nội dung và phạm vi của Quyền công tố. Đã có một số tác giả nghiên cứu vấn đề này và đưa ra khái niệm về Quyền công tố, song cách hiểu cũng chưa thống nhất và chưa được cơ quan lập pháp ghi nhận, giải thích. Nghiên cứu lịch sử lập pháp ở nước ta thấy rằng, trước khi Quốc hội thông qua Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960, thì đã có Viện Công tố. Theo Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc hội về việc thành lập Viện Công tố và hệ thống Viện Công tố, thì Quyền công tố của Viện Công tố là giám sát việc tuân thủ và chấp hành pháp luật Nhà nước, truy tố theo Luật hình sự kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ, giữ
  19. gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân… Về nhiệm vụ của Viện Công tố được quy định trong Nghị định số 256/TTg ngầy 01/7/1959 của Thủ tướng Chính phủ là: Điều tra, truy tố trước TA những kẻ phạm pháp về hình sự, giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác xét xử của Toà án; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án. Viện Công tố thời kỳ năm 1958 tuy đã xác định được phần nào chức năng của Viện Công tố là giám sát các hoạt động tư pháp. truy tố kẻ phạm pháp theo pháp luật hình sự. Nhưng về mặt lập pháp, thuật ngữ Quyền công tố chính thức được ghi nhận từ Hiến pháp năm 1980 (điều 138) và Luật tổ chức VKSND năm 1981. Cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp luật của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chính thức giải thích nội dung của Quyền công tố [13, tr.13, 14]. Theo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, thì chức năng của VKSND đã có sự thay đổi. Điều 137 của Hiến pháp quy định “VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp” [20, tr.71]. Trên cơ sở Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND năm 2002 cũng có sự thay đổi về chức năng. Điều 1: “VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” [20, tr.195]. Nghị quyết 08 của Đảng về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã nhấn mạnh: VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội... [5, tr.2]. Theo chúng tôi, Quyền công tố chỉ thực hiện trong lĩnh vực hình sự như quy định ở Luật tổ chức VKSND năm 2002 là đúng. Phạm vi của nó trong TTHS bắt đầu từ khi phát hiện tội phạm, khởi tố vụ án đến truy tố bị can ra Toà và kết thúc bằng một bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật.
  20. Với những lý do phân tích ở trên về Quyền công tố, tác giả đồng nhất với quan điểm của Tiến sĩ Luật học Lê Thị Tuyết Hoa : Quyền công tố là quyền của VKSND nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự để tiến hành việc khởi tố vụ án, truy tố và buộc tội người phạm tội trước Toà án; nhằm góp phần ra được bản án có căn cứ, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội. * Công tác thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong xét xử các vụ án hình sự nói riêng Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định “VKSND Tối cao THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các VKSND địa phương, các VKS Quân sự THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định” [20, tr.71]. Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định “VKSND THQCT trong TTHS, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước TA”. Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKSND có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; 2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; 3. Yêu cầu thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; 4. Quyết định áp dụng thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác. Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật; 5. Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra; 6. Quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ, hoặc tạm đình chỉ vụ án [20, tr.202].
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2