Luận văn: Nâng cao hiệu quả đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm do VACO thực hiện
lượt xem 22
download
Kiểm toán đang dần khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế phát triển của Việt Nam. Cùng với sự phát triển không ngừng của kiểm toán nước nhà, Công ty Kiểm toán Việt Nam VACO tự hào là công ty kiểm toán đầu tiên được thành lập, đã và đang là lá cờ đầu của Kiểm toán độc lập Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Nâng cao hiệu quả đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm do VACO thực hiện
- Nâng cao hiệu quả đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm do VACO thực hiện
- LỜI NÓI ĐẦU 1- Tính cấp thiết của đề tài: K iểm toán đang dần khẳng định vị trí quan trọng trong nền kinh tế phát triển của Việt Nam. Cùng với sự phát triển không ngừng của kiểm toán nước nhà, Công ty Kiểm toán Việt Nam VACO tự hào là công ty kiểm toán đầu tiên được thành lập, đã và đang là lá cờ đầu của Kiểm toán độc lập Việt Nam. T heo Ngh ị định 105/2004/NĐ -CP c ủa Chính phủ th ì ph ạm vi của c ác doanh nghi ệp đ ư ợc kiểm toán mở rộng h ơn so v ới Nghị định số 0 7/NĐ - CP trư ớc đây. Do đó khách h àng th ự c hi ện kiểm toán năm đầu t iên tăng lên r õ rệt. Trong thời gian n ày em có cơ h ội đ ư ợc thực tập tại V ACO đ ồng thời với việc nhận thức đ ư ợc vai tr ò c ủa việc đánh giá rủi r o ki ểm toán năm đầu ti ên , em hoàn thành báo cáo thực tập này với đề tài: "Nâng cao hiệu quả đánh giá rủi ro trong quá trình kiểm toán năm đầu tiên, số dư đầu năm do VACO thực hiện". 2- Mục đích nghiên cứu: N ghiên cứu lý thuyết kiểm toán đặc biệt gắn với việc đánh giá rủi ro kiểm toán năm đ ầu tiên, đồng thời vận dụng vào thực tiễn công tác kiểm toán của V ACO. Từ đó, giúp em có thể rút ra bài học kinh nghiệm và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa quy trình kiểm toán năm đầu tiên tại VACO. 3- Nội dung của đề tài: K ết cấu báo cáo tổng hợp gồm 3 chương : Chương 1: Cơ sở lý luận của đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên. Chương 2: Thực trạng công tác đánh giá rủi ro kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên tại VACO. Chương 3: Bài học kinh nghiệm, kiến nghị và đề xuất công tác đánh giá rủi ro kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên. -1-
- 4- Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Quy trình đánh giá rủi ro năm đầu tiên, số dư tài chính đầu tiên. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu quy trình trên do VACO thực hiện trên hai khách hàng cụ thể, gắn với hoạt động của kiểm toán độc lập tại Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Với những kiến thức đã được học và tự nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế quốc dân, em nghiên cứu đề tài này bằng: - Lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp tư duy khoa học, phương pháp toán học trong các - nghiệp vụ kế toán, kiểm toán. Thực hiện tổng hợp và phân tích thông qua cách diễn giải bằng lời văn và sơ đồ, biểu bảng cùng với phương pháp diễn giải - quy nạp. 5- Đóng góp của đề tài: Trong quá trình học tập và nghiên cứu, em nhận thấy đây là một đề tài hay, có tính thực tế cao. Chính vì vậy, em đã tập hợp được nhiều tài liệu có liên quan nhằm hỗ trợ trong việc xây dựng đề tài. Đồng thời, khi tiếp cận với thực tế tại VACO cùng với khả năng phân tích của bản thân, em hy vọng sẽ có một đề tài mang tính thực tế và khả thi cao. Do thời gian và khả năng còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong sự đóng góp ý kiến của các thày, cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2004. Sinh viên thực hiện -2-
- Bùi Thị Thanh Nga PH ẦN NỘI DUNG Chương I CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH NĂM ĐẦU TIÊN, SỐ D Ư ĐẦU NĂM ------------ 1.1 - LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO KIỂM TOÁN TRONG KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH NĂM ĐẦU TIÊN, SỐ DƯ ĐẦU NĂM 1.1.1- Kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên chi phối rủi ro kiểm toán Báo cáo tài chính được doanh nghiệp lập và trình bày cho những người quan tâm. Mặc dù các Báo cáo tài chính này ở một số nước có thể giống nhau, song chúng vẫn khác nhau vì nhiều nghuyên nhân như hoàn cảnh kinh tế, xã hội và pháp luật. Để đạt được sự nhất quán trong các nguyên tắc kế toán hiện đang được các tổ chức kinh doanh và nhiều tổ chức khác trên thế giới áp dụng để lập Báo cáo tài chính, người ta đã cùng thống nhất những nguyên tắc chung. Trong những nguyên tắc được chấp nhận chung có nguyên tắc kỳ kế toán. K ỳ kế toán là khoảng thời gian nhất định mà trong đó các Báo cáo tài chính được lập. Chúng ta thừa nhận một khoảng thời gian không nhất định cho hầu hết các thực thể kinh doanh. Nhưng kế toán lại phải đánh giá quá trình hoạt động và những thay đổi về tình hình kinh tế của doanh nghiệp trong những thời kỳ tương đ ối ngắn. Những người sử dụng các Báo cáo tài chính đòi hỏi phải có sự đánh giá thường kỳ về tình hình hoạt động để đề ra các quyết định và chính những yêu cầu này đ ã dẫn đến sự cần thiết phải phân chia hoạt động của một doanh nghiệp thành nhiều phân đoạn như thành từng năm, từng quý, từng tháng…Thông thường, trong kế toán năm tài chính kéo dài 12 tháng bắt đầu từ ngày 01/01 đến ngày 31/12 của năm đó. Trong kiểm toán, kiểm toán viên coi năm tài chính cần kiểm toán như khái niệm trong kế toán. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam là quá trình vận dụng Những chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Việt Nam -3-
- đưa ra khái niệm như sau: "Năm đầu tiên là năm được kiểm toán mà Báo cáo tài chính năm trước đó: - Chưa được kiểm toán; hoặc - Đ ược công ty khác kiểm toán". Và số dư đầu năm được định nghĩa: "Là số dư trên tài khoản kế toán vào thời điểm đầu năm tài chính. Số dư đầu năm đ ược lập dựa trên cơ sở số d ư cu ối năm tài chính trước"(6, 34). (Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 510 - Kiểm toán năm đầu tiên - số dư đầu năm tài chính). Như vậy, bản chất thuật ngữ “năm đầu tiên” trong kiểm toán tài chính đều được hiểu là công ty kiểm toán lần đầu tiên đến thực hiện kiểm toán cho một đơn vị mà đơn vị này trước đây chưa được kiểm toán hoặc đã đ ược kiểm toán nhưng do công ty kiểm toán khác thực hiện. Do đó, có m ột điểm khác biệt giữa kiểm toán năm đầu tiên và kiểm toán những năm tiếp theo, đó là: Khách hàng của cuộc kiểm toán năm đầu tiên là khách hàng mới, khách hàng của cuộc kiểm toán những năm tiếp theo là khách hàng quen thuộc. Điều đó chi phối toàn bộ qui trình thực hiện kiểm toán, nói chung, và việc đánh giá rủi ro của kiểm toán viên, nói riêng. Đặc thù của kiểm toán năm đầu tiên ảnh hưởng đến việc xác định rủi ro kiểm toán. "Năm đ ầu tiên” thực hiện kiểm toán Báo cáo tài chính với một khách hàng mới, tức là lần đầu tiên tiếp cận với một ngành nghề kinh doanh mới, một đơn vị mới, cụ thể hơn, kiểm toán viên phải tìm hiểu những thông tin về phương pháp sản xuất, cơ cấu bộ máy tổ chức, tình hình tài chính của công ty khách hàng...Trước tiên, kiểm toán viên cần phải tìm hiểu sơ bộ về khách hàng để đánh giá tổng quan rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, qua đó đưa ra kết luận chung có chấp nhận Hợp đồng kiểm toán hay không. Trên thực tế công việc này rất khó khăn vì việc thu thập thông tin là khó khăn. Tiếp đó, trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên phải bằng kinh nghiệm và xét đoán nghề nghiệp để đánh giá quá trình thực hiện chế độ, chính sách về tài chính có phù hợp với pháp luật Việt Nam không. Chính vì vậy, kiểm toán viên sẽ phải chú trọng hơn đến phương thức và thời gian để đánh giá. Như vậy, chỉ cần một sơ suất nhỏ trong quá trình kiểm toán, sự hạn chế trong việc hiểu biết về khách hàng cũng có thể làm chất lượng và uy tín của công ty kiểm toán giảm sút. -4-
- Còn khi thực hiện kiểm toán cho khách hàng quen thuộc, tức là đã kiểm toán ở năm trước đó về cơ bản vẫn phải thực hiện theo trình tự như với năm đầu tiên. Tuy nhiên, do kiểm toán viên có thể vận dụng những hiểu biết về khách hàng và có kinh nghiệm trong các lần kiểm toán trước nên có thể giảm bớt một số thủ tục nhất định. Do đó, kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên được đánh giá là có mức độ rủi ro cao hơn bình thường. Chính mức độ rủi ro đó đã chi phối toàn bộ cuộc kiểm toán, cụ thể chi phối việc áp dụng các phương pháp kiểm toán nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và hợp lý. Nhưng rủi ro là gì và rủi ro kiểm toán cần phải được hiểu như thế nào? Những thắc mắc đó sẽ được trình bày cụ thể ở phần tiếp sau đây. 1.1.2- Rủi ro và qui trình đánh giá rủi ro trong kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên 1.1.2.1 - Khái niệm rủi ro: X ét trên phương diện chung nhất: rủi ro ám chỉ một số hình thức không chắc chắn về hậu quả của một tình huống nhất định. Tạm thời chưa nói đến ý nghĩa của từ không chắc chắn, chúng ta thường hiểu rõ mình định nói gì khi dùng thuật ngữ “rủi ro” trong câu chuyện hằng ngày. Một sự kiện có thể xảy ra, nếu nó xảy ra sẽ không có lợi cho chúng ta, hoặc không phải là kết quả mà chúng ta mong đợi. Từ rủi ro không những ám chỉ mối ngờ vực về tương lai mà còn ám chỉ cả một thực tế là hậu quả có thể khiến cho chúng ta lâm vào hoàn cảnh khó khăn hơn hiện tại. Ở nhiều nước đã đưa ra một số định nghĩa về rủi ro và thường kèm theo những cuộc tranh luận để khẳng định quan điểm của mình là đúng đắn. Sau đây là một số quan điểm được chọn lọc từ cuốn sách “Bảo hiểm quốc tế, nguyên tắc và thực hành”: Rủi ro là khả năng xảy ra một số sự cố không may. Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ. Rủi ro là sự không thể đoán trước một tình huống, một khuynh hướng dẫn đến kết quả thực tế khác với kết quả dự đoán. -5-
- Rủi ro là sự không chắc chắn về tổn thất. Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất. (Học viện Bảo hiểm Hoàng gia Anh xuất bản năm 1993) (13,17). Khi nghiên cứu các định nghĩa này dường như có mối liên hệ giữa chúng với nhau: Thứ nhất, các định nghĩa đều đề cập đến sự không chắc chắn mà chúng ta coi là mối ngờ vực đối với tương lai. Thứ hai, ở đây người ta cũng ám chỉ rằng những cấp độ hay mức rủi ro là khác nhau. Việc sử dụng những từ như: khả năng và không thể đoán trước được dường như để chỉ ra mức độ nào đó về sự không chắc chắn do có mối ngờ vực nói trên. Thứ ba, các định nghĩa đều nói đến hậu quả do một hay nhiều nguyên nhân gây ra. Điều này dường như có mối quan hệ chặt chẽ với định nghĩa mà chúng ta đã sử dụng trước đó, theo định nghĩa này rủi ro là không chắc chắn về hậu quả trong một tình huống cụ thể. Ở V iệt Nam, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam – Hội đồng ban chỉ đạo biên soạn từ điển Bách Khoa Việt Nam (Tập 3 – 2003) thì: "Rủi ro: là hậu quả gây thiệt hại ít nhiều có thể dự kiến được của một hành vi mà việc thực hiện không chỉ phụ thuộc vào ý chí của các bên đương sự. Người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về thiệt hại gây nên cho người kia"(14, 859). Trên thực tế, các hoạt động kinh tế thường gặp những rủi ro đặc trưng. Mỗi ngành nghề có một rủi ro riêng, chẳng hạn: rủi ro hối đoái, rủi ro đầu tư, rủi ro kinh doanh... và kiểm toán cũng không nằm ngoài quy luật đó. Theo Uỷ ban Thực hành Kiểm toán quốc tế (IAPC) thuộc Liên đoàn Kế toán quốc tế IFAC thì rủi ro kiểm toán được hiểu như sau: “Rủi ro kiểm toán là khả năng mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến không xác đáng về đối tượng được kiểm toán. Chẳng hạn, kiểm toán viên đưa ra ý kiến rằng Báo cáo tài chính của đơn vị đựơc thực hiện trung thực và h ợp lý dựa trên các khía cạnh trọng yếu, tuy nhiên trên thực tế các Báo cáo tài chính đã được kiểm toán này vẫn tồn tại các sai phạm trọng yếu mà kiểm toán viên không phát hiện trong quá trình kiểm toán..."(15, 23). Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 thì: "Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi Báo cáo tài chính đã đ ược kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. -6-
- Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát, rủi ro phát hiện"(6, 78). Như vậy rõ ràng là các hiệp hội nghề nghiệp về kiểm toán, kế toán đều có chung một nhận định về rủi ro kiểm toán. Rủi ro kiểm toán là rủi ro m à kiểm toán viên khi đưa ra kết luận là các Báo cáo tài chính được trình bày trung thực và hợp lý dựa trên các khía cạnh trọng yếu, và đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, trong khi trên thực tế thì chúng có những sai sót trọng yếu. Rủi ro kinh doanh, theo bài này, là rủi ro mà kiểm toán viên (hoặc công ty kiểm toán) sẽ phải chịu thiệt hại vì mối quan hệ với khách hàng, cho dù báo cáo kiểm toán cung cấp cho khách hàng đó là đúng. 1.1.2.2- Mô hình rủi ro kiểm toán: Mô hình rủi ro kiểm toán trọng tâm bàn về các yếu tố cấu thành khác nhau của mô hình và mối quan hệ của chúng với các nhu cầu về bằng chứng kiểm toán. Nguồn gốc đầu tiên của mô hình rủi ro kiểm toán là văn b ản chuyên môn SAS 39, về chọn mẫu kiểm toán và SAS 47, về tính trọng yếu và rủi ro. Hình thức chủ yếu của mô hình từ các văn bản này như sau: DA = IR x C x DR R R Trong đó: - D AR : Rủi ro kiểm toán mong muốn (Desire Audit Risk). : Rủi ro cố hữu (Inherent Risk). - IR : Rủi ro kiểm soát (Control Risk). - CR : Rủi ro phát hiện (Detection Risk). - DR Công d ụng của mô hình: Mô hình rủi ro kiểm toán được dùng khi lập kế hoạch kiểm toán theo một ho ặc cả hai cách. Một cách là mô hình rủi ro kiểm toán được dùng để giúp kiểm toán viên đánh giá liệu kế hoạch kiểm toán có hợp lý hay không. Thí dụ, với một cuộc kiểm toán khả dĩ, giả sử một kiểm toán viên tin rằng rủi ro cố hữu có thể sẽ là 80%, rủi ro kiểm soát là 50%, và rủi ro phát hiện là 10%. Rủi ro kiểm toán -7-
- tính được sẽ là 4% (0,8 x 0,5 x 0,1). Nếu kiểm toán kết luận là rủi ro kiểm toán mong muốn thích hợp đối với hợp đồng không thấp hơn 4% thì kế hoạch đó sẽ được chấp nhận. Mặc dù một kế hoạch kiểm toán như trên có thể giúp kiểm toán viên tìm được rủi ro kiểm toán có thể chấp nhận, nó có thể không hiệu quả. Để có được một kế hoạch hiệu quả hơn, kiểm toán viên thường sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán theo cách thứ hai để xác định rủi ro phát hiện và số lượng bằng chứng thích hợp phải thu thập. Nhằm mục đích này, mô hình rủi ro kiểm toán được sử dụng theo công thức sau: DAR DR = IR x CR Tiếp tục thí dụ trên, giả sử kiểm toán viên xây dựng tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn là 5%, kế hoạch kiểm toán có thể được thay đổi để thu thập bằng chứng phù hợp với một mức rủi ro phát hiện là 12%, vì 0,5 / (0,8 x 0,5) bằng 0.125. Sử dụng hình thức này của mô hình rủi ro, yếu tố chính là rủi ro phát hiện và nó xác định số lượng bằng chứng cần thiết. Số lượng bằng chứng thích hợp có quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro phát hiện. Nhu cầu bằng chứng tăng lên khi rủi ro phát hiện giảm xuống. Cách thứ ba, thông dụng hơn, mà một số kiểm toán viên sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán là chỉ mối quan giữa các rủi ro khác nhau và m ối quan hệ của chúng với bằng chứng. Một sự hiểu biết về các mối quan hệ này là cần thiết để lập kế hoạch thu thập bằng chứng thích hợp. Mỗi một yếu tố cấu thành mô hình rủi ro kiểm toán được bàn đến một cách chi tiết trong phần dưới đây. Các yếu tố của mô hình rủi ro kiểm toán Rủi ro kiểm toán mong muốn (DAR - Desire Audit Risk) Rủi ro kiểm toán mong muốn là rủi ro được xác định một cách chủ quan mà kiểm toán viên sẵn sàng cho rằng các Báo cáo tài chính được trình bày trung thực là hợp lý dựa trên các khía cạnh trọng yếu khi kết thúc kiểm toán, và đưa ra ý kiến chấp nhận to àn phần. Khi kiểm toán viên quyết định một tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn thấp hơn nghĩa là kiểm toán viên chắc chắn rằng: các Báo cáo -8-
- tài chính không bị sai phạm trọng yếu. Rủi ro bằng 0% là chắc chắn, và rủi ro bằng 100% là hoàn toàn không chắc chắn. Do đó, rủi ro có thể nằm trong khoảng giữa 0% và 100%. N hìn chung, rủi ro kiểm toán mong muốn là khả năng mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến không xác đáng về đối tượng được kiểm toán. Chẳng hạn, kiểm toán viên đưa ra ý kiến rằng Báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán đã trình bày trung thực và hợp lý dựa trên các khía cạnh trọng yếu; Tuy nhiên, trên thực tế các báo cáo đã được kiểm toán này vẫn còn tồn tại các sai phạm trọng yếu mà kiểm toán viên không phát hiện ra trong suốt quá trình kiểm toán. Loại rủi ro như vậy luôn luôn có thể tồn tại, ngay cả khi cuộc kiểm toán được lập kế ho ạch chu đáo và thực hiện một cách thận trọng. Rủi ro này sẽ tăng lên nếu việc lập kế hoạch kiểm toán kém và thực hiện thiếu thận trọng. K iểm toán viên có phải nỗ lực để có rủi ro kiểm toán thấp hơn trong một số trường hợp nhất định? Các chuyên gia kiểm toán thì cho rằng một tỷ lệ rủi ro kiểm toán thấp một cách hợp lý luôn luôn được mong đợi. Nhưng trong một số trường hợp, một tỷ lệ rủi ro rất thấp được yêu cầu để bảo vệ cho người sử dụng Báo cáo tài chính và cho kiểm toán viên. Như vậy, rủi ro kiểm toán mong muốn phụ thuộc vào m ức độ người sử dụng bên ngoài tin vào các Báo cáo tài chính và khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi công bố Báo cáo tài chính. Mức độ những người sử dụng tin vào các Báo cáo tài chính: Khi những người b ên ngoài đặt niềm tin vào các Báo cáo tài chính cao thì tỷ lệ rủi ro kiểm toán mong muốn phải giảm mới thích hợp. Khi người sử dụng bên ngoài đặt niềm tin vào các Báo cáo tài chính thì mức độ tác hại trên phạm vi to àn xã hội sẽ càng lớn nếu có một sai sót không được phát hiện trên Báo cáo tài chính. Do vậy trong trường hợp này kiểm toán viên cần xác định một mức rủi ro kiểm toán thấp, từ đó tăng số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập và tăng độ chính xác trong các kết luận đưa ra của mình. Một số dấu hiệu quan trọng để giúp kiểm toán viên nhận ra mức độ người sử dụng bên ngoài tin vào các Báo cáo tài chính: Quy mô của công ty khách hàng: Nói chung hoạt động của khách hàng càng lớn, các Báo cáo tài chính càng được sử dụng rộng rãi. Quy mô của -9-
- một doanh nghiệp khách hàng được đo lường bằng tổng số tài sản hoặc tổng thu nhập sẽ có một ảnh hưởng lớn đến rủi ro kiểm toán mong muốn. Sự phân phối quyền sở hữu: Các Báo cáo tài chính của các công ty sở hữu công cộng thường đựoc nhiều người sử dụng tin tưởng hơn các Báo cáo tài chính của các công ty có quyền sở hữu hẹp hơn. Bản chất và quy mô của công nợ: Khi các Báo cáo tài chính có một số lượng lớn các công nợ thì chúng có khả năng được sử dụng rộng rãi hơn bởi các chủ nợ. Khả năng khách hàng sẽ gặp khó khăn về tài chính sau khi công bố báo cáo kiểm toán: Trong những tình huống mà kiểm toán viên tin rằng khách hàng có nguy cơ gặp khó khăn về tài chính và có thể phải chịu thiệt hại cao, khi đó rủi ro kinh doanh của khách hàng tăng, rủi ro kiểm toán mong muốn sẽ giảm xuống. Đối với kiểm toán viên, dự đoán khả năng khách hàng có thể gặp khó khăn trong tài chính là một điều khá phức tạp, tuy nhiên có một số yếu tố giúp họ có thể nhận biết được điều này: K hả năng hoán chuyển thành tiền mặt: Nếu một khách hàng thường xuyên thiếu tiền và vốn lưu đ ộng, điều này là dấu hiệu cho thấy có thể doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong thanh toán. Kiểm toán viên cần phải đánh giá khả năng hoán chuyển thành tiền mặt yếu kém trong tình huống xấu nhất. Các khoản lãi (lỗ) trong các năm trước: Khi một doanh nghiệp giảm nhanh các khoản lãi hoặc tăng nhanh các khoản lỗ trong vài năm, kiểm toán viên phải nhận biết các vấn đề thanh toán của khách hàng có thể sẽ gặp phải trong tương lai. Các phương pháp làm tăng quá trình tài trợ: Công ty khách hàng càng phụ thuộc vào các khoản tài trợ, rủi ro gặp khó khăn trong tương lai của doanh nghiệp về mặt tài chính sẽ càng lớn (nếu công ty sản xuất kinh doanh ho ặc cung cấp dịch vụ kém hiệu quả trong tương lai). Việc xem xét liệu tài sản của doanh nghiệp có thường xuyên được tài trợ nợ ngắn hạn hay nợ dài hạn hay không cũng là một yếu tố quan trọng. Nhu cầu chi tiền mặt thường xuyên với số lượng lớn trong thời gian ngắn có thể buộc công ty đi đến phá sản. - 10 -
- Bản chất hoạt động của công ty khách hàng: Một số loại hình doanh nghiệp nhất định vốn có nhiều rủi ro hơn các doanh nghiệp khác, chẳng hạn trong cùng một điều kiện như nhau thì khả năng phá sản ở một công ty môi giới chứng khoán cao hơn ở một công ty điện, nước. N ăng lực của ban quản trị: Ban quản trị có năng lực thường xuyên đối phó được những khó khăn, sửa đổi nhằm phù hợp với hoàn cảnh thì sẽ giảm thiểu đ ược những hạn chế của doanh nghiệp trong ngắn hạn. Kiểm toán viên phải tìm hiểu công ty khách hàng và đánh giá tầm quan trọng của từng yếu tố trong các yếu tố có ảnh hưởng đến mức độ mà người sử dụng tin tưởng vào Báo cáo tài chính và khả năng gặp khó khăn về tài chính sau khi báo cáo kiểm toán đ ược công bố. Căn cứ vào quá trình điều tra và đánh giá này, kiểm toán viên phải có khả năng thiết lập một mức rủi ro có tính thăm dò và chủ quan cao. Khi thực hiện kiểm toán, thông tin bổ sung về khách hàng sẽ đ ược thu thập và mức rủi ro kiểm toán mong muốn có thể được sửa đổi. Các mức rủi ro kiểm toán khác nhau: Có một số tình huống khiến kiểm toán viên khác nhau chọn mức rủi ro kiểm toán khác nhau trong điều kiện tương tự như nhau. Đó là: Khó khăn khi đánh giá rủi ro kiểm toán: Khi đánh giá rủi ro kiểm toán gặp khó khăn thì việc kiểm toán viên chọn số lượng mẫu giống nhau cho những trường hợp tương tự nhau là không hợp lý. Nguyên nhân là do khi đó kiểm toán viên sẽ bị động trong việc thu thập các bằng chứng bổ sung. Tránh các mức rủi ro khác nhau: Mức rủi ro mà kiểm toán viên lựa chọn phải tính đến cân đối giữa chi phí và mức rủi ro kiểm toán mà kiểm toán viên sẵn sàng chấp nhận. Trình độ thành thạo khác nhau: Do năng lực và kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên khác nhau là khác nhau nên thường có nhiều khả năng đi đến mức rủi ro kiểm toán là khác nhau. Mối quan hệ giữa mức rủi ro kiểm toán mong muốn với bằng chứng kiểm toán - 11 -
- Khi sử dụng mô hình rủi ro kiểm toán, ta thấy mối quan hệ trực tiếp giữa rủi ro kiểm toán mong muốn với rủi ro phát hiện, và mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa rủi ro kiểm toán mong muốnvới bằng chứng kiểm toán. Rủi ro tiềm tàng (IR - Inherent Risk) Rủi ro tiềm tàng là khả năng tồn tại các sai phạm trọng yếu trong bản thân các đối tượng kiểm toán (chưa tính đến sự tác động của bất cứ hoạt động kiểm toán nào kể cả kiểm soát nội bộ). Tức là khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ. Mức rủi ro tiềm tàng phụ thuộc vào đặc điểm tình hình kinh doanh và cả năng lực nhân viên của khách thể kiểm toán. Kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro tiềm tàng mà họ chỉ đánh giá chúng. Theo Mục 13 - N guyên tắc 25 về “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” - N hững Chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế, do IAPC phê chuẩn thì: "Rủi ro tiềm tàng là những yếu điểm của số dư tài kho ản hoặc của một loại nghiệp vụ đối với những sai sót có thể là nghiêm trọng, những sai sót này có thể đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót ở những số dư, các nghiệp vụ khác (ở đây giả định là không có các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan). Rủi ro tiềm tàng nằm trong chức năng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh cũng như n ằm trong bản chất của các số dư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ"(7,249). Theo Mục 04 - Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, quy định như sau: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ"(6, 77). Mô hình rủi ro kiểm toán cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Việc đưa rủi ro tiềm tàng vào mô hình rủi ro kiểm toán là một trong những khái niệm quan trọng nhất của kiểm toán. Điều đó nhằm - 12 -
- giúp kiểm toán viên dự đoán nơi nào trên các Báo cáo tài chính có nhiều khả năng sai sót nhất và nơi nào có ít khả năng sai sót hơn. Do đó có tác động đến tổng số bằng chứng kiểm toán mà kiểm toán viên cần thu thập và tác động đến việc phân bổ số lượng bằng chứng cho các khoản mục khác nhau trên Báo cáo tài chính. Rủi ro kiểm soát (CR - Control Risk) Rủi ro kiểm soát là khả năng hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị kiểm toán không phát hiện, ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu. kiểm toán viên không tạo ra và cũng không kiểm soát rủi ro kiểm soát. Họ chỉ có thể đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán và từ đó đưa ra mức rủi ro kiểm soát dự kiến. Theo Mục 14 - Nguyên tắc số 25 về “Trọng yếu và rủi ro kiểm toán” - N hững Chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế, cho rằng: "Rủi ro kiểm soát là rủi ro do xác định sai, có thể xảy ra với một số dư tài khoản hoặc một nghiệp vụ và có thể là sai sót nghiêm trọng. Những sai sót này xảy ra đ ơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót của các số dư, các nghiệp vụ khác mà hệ thống kiểm soát nội bộ đã không ngăn chặn hoặc không phát hiện kịp thời. Rủi ro kiểm soát sẽ luôn luôn xuất hiện và khó tránh khỏi vì nh ững hạn chế có tính bản chất của bất cứ một hệ thống kiểm soát nội bộ nào"(7,250). Theo Mục 05 - Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ lại nhận định rằng: "Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời."(6, 77). Như rủi ro tiềm tàng, mối quan hệ giữa rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện là quan hệ tỷ lệ nghịch trong khi mối quan hệ giữa rủi ro kiểm soát và b ằng chứng là quan hệ tỷ lệ thuận. Thí dụ, nếu kiểm toán viên kết luận là hệ thống kiểm soát nội bộ tồn tại và hoạt động có hiệu quả, rủi ro phát hiện có thể tăng lên, số lượng bằng chứng kiểm toán giảm xuống. Kiểm toán viên có thể tăng mức rủi ro phát hiện khi các hệ thống kiểm soát nội bộ có hiệu quả vì một cơ cấu kiểm soát nội bộ hiệu quả làm giảm khả năng sai sót trong các Báo cáo tài chính. - 13 -
- Rủi ro phát hiện (DR - D etection Risk) Rủi ro phát hiện là khả năng xảy ra các sai sót trọng yếu hoặc gian lận trên Báo cáo tài chính mà không được ngăn chặn hay phát hiện bởi hệ thống kiểm soát nội bộ và cũng không được kiểm toán viên phát hiện trong quá trình kiểm toán. Rủi ro phát hiện được tính từ ba rủi ro trên trong mô hình kiểm toán. Theo Mục 15 - Nguyên tắc số 25 - Trọng yếu và rủi ro kiểm toán, Những Chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế khẳng định rằng: "Rủi ro phát hiện là những rủi ro m à kiểm toán viên không phát hiện ra các sai sót hiện có trong các số d ư tài khoản hoặc các loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có thể kết hợp với các sai sót trong các số dư, các nghiệp vụ khác"(7,250). Mức độ rủi ro phát hiện có quan hệ trực tiếp với phương pháp kiểm toán của kiểm toán viên. Một số rủi ro phát hiện sẽ thường xảy ra cho dù có kiểm tra 100% các số dư và các loại nghiệp vụ vì kiểm toán viên có thể lựa chọn và áp dụng các phương pháp kiểm toán không phù hợp, áp dụng sai các phương pháp kiểm toán thích hợp hoặc giải thích sai các kết quả kiểm toán”. Theo Mục 06 - Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 - Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ, thì: "Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong Báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được"(6, 77). Rủi ro phát hiện xác định bằng chứng mà kiểm toán viên có kế hoạch thu thập. Khi rủi ro phát hiện thấp, kiểm toán viên sẽ không sẵn sàng chấp nhận nhiều rủi ro của bằng chứng không phát hiện sai sót; do đó, cần thu thập một số lượng bằng chứng đáng kể. Khi kiểm toán viên sẵn sàng chấp nhận thêm rủi ro, thì b ằng chứng cần sẽ ít hơn. Một phương pháp tiếp cận đặc thù mà kiểm toán viên sử dụng để vận dụng rủi ro phát hiện nhằm xác định số lượng bằng chứng kiểm toán phải thu thập là chọn mẫu thống kê. 1 .1.2.3- Quy trình đánh giá rủi ro kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên - 14 -
- Do đặc thù của kiểm toán Báo cáo tài chính năm đ ầu tiên có nhiều khác biệt với kiểm toán cho khách hàng quen thuộc nên các thủ tục kiểm toán nhằm đánh giá rủi ro kiểm toán thường được thực hiện đa dạng và phức tạp hơn. Công việc này thường do chủ nhiệm kiểm toán - những người có nhiều kinh nghiệm trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán. Mỗi cuộc kiểm toán có những đặc thù khác nhau tuy nhiên nhìn chung trình tự thực hiện cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên thường như sau: - 15 -
- Sơ đồ số 01: Trình tự thực hiện cuộc kiểm toán năm đầu tiên KIỂM TOÁN N ĂM Đ ẦU TIÊN Thu thập những thông tin cơ sở về bản chất hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và những chủ sở hữu Đảm bảo rằng các thủ tục chấp nhận khách hàng đã được hoàn tất và phê chuẩn đúng đắn. Thảo luận với Ban Giám đốc của khách hàng, thống nhất quan điểm và thảo Thư cam kết kiểm toán. Tiến hành một số thủ tục đặc biệt cho cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên. Xem xét tính rủi ro trong lĩnh vực hoạt động của công ty khách hàng và ảnh hưởng của nó đến việc bố trí kiểm toán viên, giám sát và phỏng vấn. Đạt được những bản sao các văn bản chứng tỏ đã có những thay dổi, biến động lớn trong năm của công ty khách hàng. Đảm bảo rằng các thủ tục chấp nhận khách hàng đã được hoàn tất và phê chuẩn đúng đắn. Thu thập những hiểu biết về hoạt động kinh doanh, tổ chức quản l ý, sản phẩm, nhà cung cấp và các biện pháp trả công cho công nhân viên của khách hàng Đánh giá sự tác động của các yếu tố kinh tế và sự thay đổi trong môi trường luật pháp tới rủi ro kiểm toán Xem xét các vấn đề trong hoạt động kế toán của khách hàng (biểu mẫu các báo cáo tài chính, những thay đổi trong các chính sách kế toán…) Xem xét kinh nghiệm của Công ty kiểm toán ở kỳ trước, lưu ý đến những ảnh hưởng của các dịch vụ phi kiểm toán tới hoạt động của khách hàng Tiến hành các thủ tục phân tích trong bước lập kế hoạch dựa vào những thông tin tài chính gần nhất Thiết lập mức trọng yếu ban đầu lập kế hoạch và mức trọng yếu điều chỉnh Xem tiếp trang16 - 16 -
- Ti ếp theo trang 15 Đánh giá tính chất phức tạp của hệ thống máy tính. Xem xét nhu cầu thuê chuyên gia máy tính cho kiểm toán Tìm hiểu hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ, cập nhật các tài li ệu về hai hệ thống quan trọng này Khẳng định những hiểu biết của kiểm toán viên bằng việc tiến hành các thủ tục kiểm tra từ đầu đến cuối Đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức độ ảnh hưởng đến toàn bộ Báo cáo tài chính và xác định những khu vực có rủi ro kiểm toán chủ yếu cần được tập trung xem xét. Ghi vào kế hoạch. Đánh giá rủi ro tiềm tàng đối với số dư từng tài khoản (nếu rủi ro thấp hơn mức tối đa) Quyết định xem việc áp dụng các thử nghiệm ki ểm soát có hiệu quả và lập kế hoạch phù hợp với mục tiêu kiểm toán Có Xem xét công Kiểm toán viên có được khách hàng yêu cầu vi ệc phụ và báo caó về tính hiệu kực của HT KSNB không? mức phụ phí Không Có Rủi ro kiểm soát có được đánh giá ở mức cao nhất không? Thiết kế chương trình Đánh giá những mục tiêu kiểm soát chủ chốt và phân tích và các thủ tục thiết kế các thử nghiệm thích hợp với hoạt động ki ểm toán cơ bản khác kiểm soát có li ên quan đến mục tiêu kiểm toán đáp ứng mục tiêu kiểm toán Thiết kế chương trình kiểm toán theo hướng hạn chế thủ tục phân tích và cơ bản đáp ứng mục tiêu kiểm toán - Các thủ tục kiểm toán chi tiết - Hoàn thành cuộc Phê duỵệt kế hoạch ngân sách và thời gian chi kiểm toán và phát tiết lần cuối cùng, đồng ý trên Thư hẹn kiểm hành báo cáo toán v ới khách hàng - 17 -
- Quy trình đánh giá rủi ro kinh doanh của công ty kiểm toán khi chấp nhận hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên Trước khi ký hợp đồng với một khách hàng mới, công ty kiểm toán cần phải điều tra khách hàng để khẳng định có nên chấp nhận Hợp đồng kiểm toán mới hay không. Với khách hàng năm đầu tiên đã được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán khác trong năm tài chính trước thì kiểm toán viên có thể liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm để có thêm thông tin về khách hàng. V ới khách hàng lần đầu tiên thực hiện hoạt động kiểm toán, kiểm toán viên có thể điều tra thông qua: các ngân hàng, các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân có liên quan. Trong quá trình đ iều tra sơ bộ về khách hàng, kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán cần tìm hiểu các thông tin về: Tính chính trực của Ban Giám đốc, độ tin cậy của các Báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng, sự phù hợp của hệ thống bộ máy tổ chức. Bên cạnh đó kiểm toán viên cũng cần tìm hiểu và đánh giá sơ bộ tình hình tài chính của doanh nghiệp khách hàng. V iệc đánh giá rủi ro để chấp nhận Hợp đồng kiểm toán đòi hỏi kiểm toán viên giàu kinh nghiệm và có trình đ ộ nghiệp vụ cao, thông thường là các chủ nhiệm kiểm toán hay thành viên của Ban Giám đốc. Đánh giá rủi ro tiềm tàng trong kiểm toán Báo cáo tài chính năm đầu tiên Đ ể đánh giá rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên cần dựa vào các yếu tố ảnh hưởng sau đây: Bản chất kinh doanh của khách hàng: rủi ro tiềm tàng thường bị tăng lên bởi những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó tạo nên những khó khăn cho kiểm toán do tồn tại những khoản không chắc chắn hoặc khả năng tồn tại một cách tiềm tàng các gian lận và sai sót trên Báo cáo tài chính. Tính trung thực của Ban Giám đốc: Ban Giám đốc không thể xem là hoàn toàn trung thực trong mọi trường hợp. Khi Ban Giám đốc bị kiểm soát bởi một hay một số cá nhân thiếu trung thực thì khả các Báo cáo tài chính bị báo cáo sai sẽ tăng lên, do vậy rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá ở mức cao. Kết quả các cuộc kiểm toán trước: Qua xem xét hồ sơ kiểm toán, kiểm toán viên nhận thấy: một số tài khoản đã đ ược phát hiện có sai phạm thì rủi ro tiềm tàng được xác định ở mức cao. Lý do là nhiều sai phạm có tính chất hệ - 18 -
- thống và các đơn vị thường chậm chạp trong quá trình sửa chữa nên các sai phạm năm trước vẫn có thể tiếp tục trong các năm tiếp theo. H ợp đồng kiểm toán năm đầu tiên: Trong các hợp đồng kiểm toán năm đầu tiên, kiểm toán viên thường thiếu hiểu biết và kinh nghiệm về các sai sót của đơn vị khách hàng nên họ thường đánh giá rủi ro tiềm tàng cao hơn so với hợp đồng kiểm toán dài hạn. Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên: Các nghiệp vụ này có khả năng được vào sổ sai nhiều hơn là các nghiệp vụ diễn ra hàng ngày do khách hàng thiếu kinh nghiệm trong việc hạch toán các nghiệp vụ đó, do đó rủi ro tiềm tàng đối với các tài khoản chứa đựng các nghiệp vụ này thường được đánh giá cao. Các ước tính kế toán: Rủi ro tiềm tàng của các tài khoản phản ánh các ước tính kế toán (dự phòng các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho...) thường được đánh giá là cao vì việc vào sổ đúng đắn các khoản mục này không những đòi hỏi sự hiểu biết về bản chất các khoản mục, về lý thuyết liên quan mà còn đòi hỏi kinh nghiệm và sự phán xét chủ quan của người có trách nhiệm. Qui mô của các số dư tài khoản: Các tài khoản có số d ư bằng tiền lớn thường được đánh giá là có rủi ro tiềm tàng cao hơn so với tài khoản có số dư nhỏ. Quy trình đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện Báo cáo tài chính . Nguyên tắc số 29 - Những Chuẩn mực và nguyên tắc kiểm toán quốc tế có hướng dẫn: “ Để đánh giá rủi ro tiềm tàng, kiểm toán viên dùng khả năng chuyên môn của mình đ ể đánh giá hàng loạt các nhân tố, ví dụ: G iai đoạn lập Báo cáo tài chính: Tính liêm chính của ban Giám đốc; Kinh nghiệm, trình độ và những thay đổi của Ban Giám đốc trong giai đoạn kiểm toán: Sự thiếu kinh nghiệm của Ban Giám đốc có thể ảnh hưởng tới việc lập Báo cáo tài chính của doanh nghiệp; Sức ép không bình thường đối với Ban Giám đốc: áp lực từ các cơ quan chức năng, điều kiện và hoàn cảnh tác động khiến Ban Giám đốc phảI trình bày sai các Báo cáo tài chính; Công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; - 19 -
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn - Một số vấn đề về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cầu 75 thuộc Tổng công ty công trình giao giao thông 8 - Bộ Giao Thông Vận tải
61 p | 784 | 321
-
Luận văn “Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại các siêu thị ở Hà Nội”
29 p | 392 | 151
-
Luận văn - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả TTHH ở Công ty Thương Mại Gia Lâm Hà Nội
46 p | 211 | 82
-
Luận văn: "Nâng cao hiệu quả sử dụng lao động tại Công ty Quy Chế Từ Sơn "
66 p | 315 | 71
-
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây
65 p | 172 | 53
-
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả hoạt động đại lý Bảo Hiểm Nhân Thọ ở Việt Nam hiện nay
31 p | 329 | 52
-
Luận văn: NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA HUYỆN PHỔ YÊN
0 p | 160 | 43
-
LUẬN VĂN: Nâng cao hiệu quả nhập khẩu hàng hóa tại Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại Viễn Đông
66 p | 203 | 37
-
Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các khu công nghiệp tập trung Hà Nội
27 p | 211 | 33
-
Luận văn: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển tiền điện tử tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội
64 p | 176 | 32
-
Luận văn "Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động ở công ty đay Thái Bình "
38 p | 137 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại công ty cổ phần tư vấn đầu tư xây dựng An Bình
25 p | 152 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Giải pháp Dịch vụ Số
136 p | 33 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị nhân lực: Nâng cao hiệu quả sử dụng đội ngũ viên chức tại Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Hòa Bình
122 p | 19 | 9
-
Luận văn tốt nghiệp ngành Ngân hàng: Nâng cao hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông chi nhánh Hà Nội
95 p | 21 | 9
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Nâng cao hiệu quả cho vay khách hàng cá nhân tại Agribank Chi nhánh Lao Bảo Quảng Trị
27 p | 14 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Nâng cao hiệu quả tín dụng hộ nghèo tại Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế
26 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế: Nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay của Quỹ đầu tư phát triển Tây Ninh
115 p | 8 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn