LUẬN VĂN: Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định
lượt xem 34
download
Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, vấn đề kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là một yêu cầu khách quan. Mục đích đặt ra là làm cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định
- LUẬN VĂN: Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay, vấn đề kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước là một yêu cầu khách quan. Mục đích đặt ra là làm cho các cơ quan nhà nước ở Trung ương cũng như ở địa phương thực hiện đúng và đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Điều 119 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi quy định: "Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên"[25, tr.67]. Như vậy, Hội đồng nhân dân (HĐND) vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Bởi vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức thiết hiện nay. HĐND có 2 chức năng cơ bản: chức năng quyết định và chức năng giám sát. Trong hai chức năng đó, chức năng quyết định làm nổi bật vị trí của HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Thực hiện tốt chức năng quyết định là điều kiện đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Vì vậy, không ít người cho rằng chức năng cơ bản của HĐND là thay mặt nhân dân địa phương quyết định những vấn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương. Mặc dù hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về tính chất của HĐND, nhưng theo quy định của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi thì HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Để HĐND thực hiện tốt các chức năng của mình, điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố năng lực của đại biểu HĐND là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động nói chung của HĐND và đặc biệt nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các nghị quyết do HĐND ban hành.
- Thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND, trong 20 năm đổi mới vừa qua tổ chức và hoạt động của HĐND đã có những chuyển biến rõ nét, đóng góp tích cực vào sự nghiệp chung của công cuộc đổi mới và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều báo cáo chính thức, tổ chức và hoạt động của HĐND ở các cấp vẫn còn biểu hiện hình thức, chưa thực hiện tốt vai trò chức năng luật định; hiệu lực hiệu quả còn thấp, thậm chí trong dư luận xã hội còn có ý kiến cho rằng HĐND chưa có thực quyền. Xuất phát từ yêu cầu phát huy dân chủ, xây dựng Nhà n ước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; xuất phát từ những yếu kém tồn tại trong tổ chức, hoạt động của HĐND với định hướng làm thế nào để HĐND thực hiện được đúng vai trò chức năng của mình, đòi hỏi cần có sự nghiên cứu toàn diện các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến tổ chức, hoạt động của HĐND. Hoạt động của HĐND có đạt chất lượng, hiệu quả hay không điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, yếu tố năng lực của đại biểu đóng vai trò quan trọng, bởi hoạt động của HĐND chính là hoạt động của bản thân các đại biểu. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, người đại biểu nhân dân ngoài phẩm chất đạo đức tốt còn phải là người có năng lực, có hiểu biết về pháp luật, có trình độ nhất định về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Có như vậy, họ mới có điều kiện thực hiện tốt chức năng của mình, đặc biệt khi tham gia thực hiện chức năng quyết định. Trong các cấp HĐND thì HĐND cấp tỉnh có vị trí, vai trò quan trọng nổi bật. ở cấp này hoạt động của HĐND được thể hiện một cách bao quát và đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phương. Vì vậy, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong đó có yếu tố năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tìm hiểu vấn đề này của HĐND ở các cấp khác. Vì không đủ điều kiện thời gian nghiên cứu vấn đề này trên phạm vi cả nước nên tác giả lựa chọn nghiên cứu năng lực của đại biểu
- HĐND cấp tỉnh ở một địa phương cụ thể trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. Hà Tĩnh là một tỉnh miền trung thuộc diện tỉnh nghèo của Việt Nam. Tỉnh Hà Tĩnh được tái lập từ năm 1991(tách từ tỉnh Nghệ Tĩnh cũ) trong bối cảnh cả nước bước vào thời kỳ đổi mới, chủ trương của Đảng và nhà nước là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn rất mới mẻ. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Hà Tĩnh vẫn còn phải đương đầu với những khó khăn, thách thức đáng kể: Cơ sở vật chất thiếu thốn, sản xuất chậm phát triển, tư tưởng tiểu nông trong cán bộ và nhân dân còn nặng, đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành đã yếu lại thiếu trầm trọng, mất cân đối, không đồng bộ giữa các lĩnh vực… Đó là những thách thức lớn đặt ra cho Hà Tĩnh để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bởi vậy, những quyết sách đúng đắn, sáng suốt, khoa học của HĐND là một trong những yếu tố hàng đầu góp phần đưa tỉnh nhà phát triển đi lên theo kịp xu thế phát triển chung của cả n ước. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ nói chung và đại biểu HĐND nói riêng thực sự có năng lực và tâm huyết với sự phát triển của tỉnh nhà càng trở nên bức thiết. Bởi vậy, việc phân tích thực trạng năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định và tìm ra các giải pháp tối ưu nhằm nâng cao năng lực hoạt động của họ lại càng có ý nghĩa thiết thực, góp phần vào sự hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước ở địa phương, đưa Hà Tĩnh sớm thoát khỏi tỉnh nghèo vươn lên giàu mạnh. Việc nghiên cứu này vừa góp phần đề ra các giải pháp nâng cao năng lực thực hiện chức năng quyết định của đại biểu HĐND cũng như nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của HĐND ở địa phương đồng thời có thể rút ra những vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn cho việc nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND các cấp trên phạm vi cả nước nói chung, đặc biệt trong thực hiện chức năng quyết định. Xuất phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên, tác giả chọn đề tài: "Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định" làm luận văn thạc sĩ Luật học.
- 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HĐND các cấp và vấn đề nâng cao chất lượng đại biểu HĐND các cấp ở nước ta đã được đề cập nhiều trên các sách báo, tạp chí, các diễn đàn khoa học. Nhưng các công trình nghiên cứu này chủ yếu quan tâm đến vấn đề đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HĐND nói chung hoặc chỉ đề cập một cách chung chung đến vấn đề tính chất của HĐND hay vấn đề chất lượng của đại biểu HĐND như: - Nguyễn Quốc Tuấn, Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND và UBND các cấp, Tạp chí Tổ chức nhà nước số 6/2002. - Đinh Ngọc Quang, Về đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp nhiệm kỳ 2004-2009, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005. - Bùi Huyền Mai, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND thành phố Hà Nội, luận văn thạc sĩ Luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, 2004. - Lê Minh Thông, Đổi mới tổ chức và hoạt động của HĐND và UBND, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/1999. - Vũ Đức Đán, Vấn đề bồi dưỡng nâng cao năng lực hoạt động của đại biểu HĐND, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 2/2005. - Bùi Thế Vĩnh, Phương thức và kỹ năng hoạt động của đại biểu HĐND, trong chương trình tập huấn đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 1999-2004, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. - Hồ Thị Hưng, Nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, 2006. Các công trình trên chủ yếu tiếp cận HĐND từ góc độ tổ chức và hoạt động một cách chung chung hoặc là bàn về tính chất của HĐND hoặc là đi sâu nghiên cứu chức năng giám sát của HĐND mà ít đề cập đến vấn đề năng lực của đại biểu HĐND. Đặc biệt vấn đề năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định thì hầu như chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu. Đặc biệt sau khi Luật Tổ chức HĐND và Uỷ ban nhân dân (UBND) năm 2003, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004 được ban hành thì hoạt động quyết
- định của HĐND cấp tỉnh đã có nhiều vấn đề mới được đặt ra cả về lý luận và thực tiễn, trong đó có nhiều vấn đề liên quan đến năng lực của đại biểu HĐND nhưng chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ về vấn đề này. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định ở Việt Nam nói chung và ở Hà Tĩnh nói riêng là một yêu cầu thiết thực hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. * Nhiệm vụ nghiên cứu: - Làm rõ khái niệm chức năng quyết định của HĐND, phân tích đặc điểm, nội dung và hình thức thực hiện chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh. - Làm rõ khái niệm chất lượng của các nghị quyết do HĐND ban hành, các yếu tố đảm bảo và các tiêu chí đánh giá chất lượng hiệu quả của các nghị quyết đó. - Làm rõ khái niệm năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định, các yếu tố cấu thành, các yếu tố đảm bảo năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. - Phân tích thực trạng việc thực hiện chức năng quyết định của HĐND cũng như năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong hiện chức năng quyết định, qua đó đánh giá chất lượng hoạt động thực hiện chức năng quyết định của HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. - Xác định những quan điểm, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh ở Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định, góp phần đưa các quyết định của HĐND tỉnh Hà Tĩnh đạt tính khả thi cao trong thực tế, đảm bảo dân chủ, đảm bảo để HĐND tỉnh Hà Tĩnh thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận chung về chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh, năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định; đánh giá thực trạng năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định qua nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay, từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn * Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về nhà nước kiểu mới, về HĐND, chức năng quyết định của HĐND; về vấn đề năng lực, vị trí, vai trò của đại biểu HĐND trong bộ máy nhà nước. * Phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp luận của triết học Mác-Lênin, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, phương pháp chuyên gia, khảo sát điều tra xã hội. 6. Những đóng góp về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định, bởi vậy luận văn có những điểm mới sau đây: - Khái quát những nét cơ bản về chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh. - Làm rõ khái niệm năng lực của đại biểu HĐND, khái niệm năng lực của đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. - Đánh giá một cách toàn diện, có hệ thống thực trạng về năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh nhiệm kỳ 1999 - 2004 và từ 2004 đến nay trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. - Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND tỉnh Hà Tĩnh trong tham gia thực hiện chức năng quyết định. Trên cơ sở đó có thể nhân
- rộng mô hình này cho đại biểu HĐND cấp tỉnh ở các địa phương khác trên phạm vi cả nước. 7. Kết cấu của luận văn Với mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra và giới hạn đối tượng, phạm vi nghiên cứu như trình bày trên đây luận văn được kết cấu như sau: Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.
- Chương 1 Cơ sở lý luận về năng lực của đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định 1.1. Vị trí, vai trò của đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong thực hiện chức năng quyết định 1.1.1. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong bộ máy nhà nước Theo quy định tại Điều 2, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân…” [25, tr.13]. Với khẳng định trên, ở nước ta, quyền lực nhà nước là quyền lực của nhân dân. “Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thông qua các cơ quan đại diện đó là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương”[25, tr.15]. Như vậy, trong bộ máy nhà nước, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương đó. HĐND có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong lịch sử phát triển của mình, HĐND đã làm được nhiều việc ích nước lợi dân, đã thể hiện được vai trò là cơ quan đại biểu của nhân dân, là chỗ dựa vững chắc để xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn, chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng mô hình từng cấp và tổng kết kinh nghiệm trong hoạt động của HĐND. Vì thế, trên thực tế cả về mặt tổ chức cũng như hoạt động của HĐND các cấp vẫn còn là một trong những khâu yếu kém của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng cần bỏ HĐND, hay nói cách khác, sự tồn tại của HĐND là không cần thiết, bởi hoạt động của nó rất hình thức, làm cho bộ máy nhà nước thêm cồng kềnh, tốn kém. Đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm vì nó trái với bản chất của Nhà nước ta - Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; theo đó phải có cơ quan đại diện của nhân dân ở trung
- ương cũng như ở địa phương, cơ sở để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Như vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải củng cố, kiện toàn HĐND để HĐND hoạt động thực chất hơn và ngày càng có hiệu lực, hiệu quả tương xứng với vị trí, vai trò của HĐND như Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định. Vị trí, vai trò của HĐND trong bộ máy nhà nước ta được khẳng định dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây: - Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, HĐND các cấp đã khẳng định được vị trí, vai trò, và trách nhiệm của mình. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho nhân dân địa phương, HĐND có khả năng đoàn kết, tập hợp, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, động viên được mọi nguồn lực vật chất và tinh thần của mỗi địa phương góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng. - Sự hiện diện của HĐND các cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng có vai trò to lớn trong việc hình thành nhà nước kiểu mới ở nước ta, thể hiện được tính giai cấp sâu sắc, tính giai cấp thực sự của nhà nước, tạo niềm tin vững chắc cho nhân dân về một chính quyền của dân, do dân, vì dân. - HĐND các cấp đã trở thành trường học về quyền làm chủ của nhân dân. Những người có đủ năng lực, phẩm chất sẽ tham gia vào HĐND và thông qua họ, HĐND trở thành diễn đàn để người dân lao động thực hiện quyền làm chủ Nhà nước và xã hội của mình. Thực tiễn hoạt động của HĐND từ khi ra đời cho đến nay thực sự là tài sản và kinh nghiệm quý báu cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. - HĐND là cầu nối giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; vừa bảo đảm sự tập trung thống nhất trong hoạt động của bộ máy nhà nước trên phạm vi toàn quốc, vừa đảm bảo phát huy được nội lực từng địa phương, cơ sở. Thông qua Quốc hội và HĐND các cấp, bằng quyền dân chủ trực tiếp của mình, nhân dân thực hiện được quyền làm chủ trên phạm vi cả nước và trước hết làm chủ ở ngay địa phương, cơ sở. Trên những cơ sở thực tiễn và lý luận đó, Điều 119 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đều xác định: “HĐND là cơ quan quyền lực nhà
- nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” [25, tr.67]. Hiến pháp cũng quy định thẩm quyền rộng rãi cho HĐND, đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm và toàn quyền quyết định những vấn đề trọng đại của địa phương trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và Pháp luật. Điều 120 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận: Căn cứ vào Hiến pháp, luật, văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, HĐND ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân, hoàn thành mọi nhiệm vụ cấp trên giao cho, làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước [25, tr.120]. Như vậy, Hiến Pháp và pháp luật hiện hành quy định chung về vị trí, vai trò của HĐND các cấp.Từ những quy định của Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, có thể khái quát vị trí, vai trò của HĐND cấp tỉnh trên các mặt sau đây: Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương. ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc bầu cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể. Mọi quyết định của HĐND được thông qua bằng việc biểu quyết theo nguyên tắc đa số tương đối hoặc đa số tuyệt đối. Tính chất đại diện của HĐND về mặt hình thức được thể hiện rõ nét nhất ở việc cơ cấu đại biểu trong Hội đồng. Mỗi địa phương căn cứ vào số lượng dân cư, có một số lượng đại biểu nhất định đại diện cho nữ giới, người dân tộc, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân, các cơ quan nhà nước và các khu vực dân cư. Điều này có nghĩa, HĐND không đại diện cho một đảng phái, tổ chức nào mà đại diện cho toàn thể nhân dân. Thành phần trong HĐND thể hiện khối đại đoàn kết của toàn dân sống trên địa bàn địa phương. Tính chất đại diện của HĐND khác
- với tính chất đại diện của Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 xác định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân (Điều 83); đại biểu Quốc hội là đại diện cho nhân dân cả nước (Điều 97). Còn HĐND là cơ quan chỉ đại diện cho nhân dân địa phương bầu ra mình, đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương đó và cơ quan nhà nước cấp trên. Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, cách thành lập HĐND, cơ cấu đại biểu, hình thức hoạt động…mới chỉ là dấu hiệu về mặt hình thức, còn hiệu quả hoạt động trong thực tế mới là cơ sở phản ánh đầy đủ nhất tính chất đại diện của HĐND. Song hiệu quả hoạt động thực tế hiện nay của HĐND chưa thực sự đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân, mà mới chỉ phản ánh được phần nào bản chất dân chủ của chế độ nhà nước ta. Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thể hiện ở các mặt sau đây: + Được thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. + Có quyền căn cứ vào pháp luật bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh của UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Hội thẩm nhân dân của Toà án nhân dân cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu ra. + Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương. + Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương đồng thời chịu sự giám sát, hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hướng dẫn, kiểm tra của Chính phủ. Như vậy, tính chất quyền lực của HĐND được thể hiện trên nhiều phương diện, nhưng xét về mặt địa vị pháp lý không giống với Quốc hội. Quốc hội được Hiến pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực cao nhất của cả nước về phạm vi, cấp độ cũng như thẩm quyền, đặc biệt là quyền ban hành Hiến pháp, pháp luật. ở nước ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. HĐND cũng là cơ quan quyền lực nhà nước
- nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết - là loại văn bản dưới luật, phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên. Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế HĐND ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương. Quyền lực của HĐND được xác định trong Hiến pháp về bản chất cũng là quyền lực của nhân dân. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để HĐND thực hiện được quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước nói chung và HĐND nói riêng. 1.1.2. Chức năng của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh Chức năng của HĐND là những phương diện hoạt động chủ yếu của HĐND nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của HĐND. Căn cứ vào Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND các cấp đều có 2 chức năng cơ bản là chức năng quyết định và chức năng giám sát. 1.1.2.1. Chức năng quyết định Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ghi nhận như sau: HĐND quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế, xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước [31, tr.29]. Để có cơ sở pháp lý cho HĐND cấp tỉnh thực hiện tốt chức năng này, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã xác định cụ thể nội dung những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền quyết định của HĐND bao gồm: + Quyết định về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (Điều 11). + Quyết định về phát triển giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao (Điều 12). + Quyết định về phát triển khoa học - công nghệ, tài nguyên và môi trường (Điều 13). + Quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội (Điều 14).
- + Quyết định về thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo (Điều 15). + Quyết định về việc thi hành pháp luật (Điều 16). + Quyết định việc xây dựng chính quyền địa phương (Điều 17) Như vậy, nội dung, chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng, bao gồm tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, quốc phòng, an ninh. Điều này một lần nữa khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của HĐND trong chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý để tạo ra môi trường thuận lợi cho chính quyền địa phương khai thác hết mọi tiềm năng, nội lực sẵn có của mình, nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ đối với cử tri và cấp trên giao cho. ở đây chúng ta cần lưu ý, theo quy định của pháp luật, trong chức năng quyết định, HĐND có thẩm quyền rất lớn đối với sự phát triển toàn diện của địa phương. Vì vậy, khi đưa ra các quyết định đó phải đảm bảo tính dân chủ và tính khả thi trên thực tế, tránh tình trạng mọi vấn đề được quyết định trước, đến kỳ họp HĐND, đại biểu chỉ giơ tay biểu quyết một cách hình thức, không có sự bàn bạc, thảo luận. Thực hiện thảo luận và biểu quyết dân chủ là điều kiện đảm bảo chất lượng đối với các quyết định của Hội đồng. Để thực hiện chức năng quyết định, HĐND thông qua các kỳ họp ra các nghị quyết dựa trên nguyên tắc biểu quyết theo đa số. Để ban hành các nghị quyết quyết định các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, HĐND phải tiến hành các kỳ họp để lấy ý kiến của tập thể đại biểu. Kỳ họp chỉ được coi là hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số đại biểu tham dự và các nghị quyết được coi là hợp pháp khi có tối thiểu quá nửa số đại biểu dự họp tham gia biểu quyết (trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND). Như vậy, để ban hành các nghị quyết, HĐND phải phát huy vai trò trí tuệ tập thể, phải được sự thống nhất ý chí của các đại biểu và phải đạt được sự đồng thuận với ý chí, nguyện vọng của cử tri và nhân dân địa phương. Bởi vậy, để các nghị quyết đạt được tính khả thi cao trong thực tế đòi hỏi các đại biểu phải thực sự có năng lực, có kỹ năng hoạt động tốt. Các đại biểu phải là những người thực sự có đức, có tài, tâm huyết với nhân dân, với sự nghiệp phát triển đi lên của địa phương và đất nước. Người đại biểu HĐND phải
- là người biết gần dân, biết tôn trọng nhân dân, biết lắng nghe và tiếp thu các ý kiến từ nhân dân. Đồng thời, người đại biểu phải thực sự có khả năng nắm bắt, xử lý thông tin, phải có khả năng đánh giá tình hình phát triển của địa phương. Có như thế, tại các kỳ họp họ mới có thể đưa ra các ý kiến thảo luận thực sự đúng đắn, khoa học, phù hợp sát thực với tình hình thực tiễn của địa phương. Trên cơ sở đó góp phần để HĐND đưa ra các nghị quyết phù hợp với điều kiện địa phương và đạt tính khả thi cao trên thực tế. Chất lượng, hiệu quả của các quyết định do HĐND thể hiện trong các nghị quyết được đánh giá thông qua tính hiệu quả của các nghị quyết đó khi được triển khai thực hiện trên thực tế. Cụ thể là, nghị quyết đó sau khi được ban hành có được triển khai thực hiện hay không, kết quả triển khai thực hiện cao hay thấp, đạt được bao nhiêu phần trăm so với kế hoạch ban đầu, hiệu quả kinh tế như thế nào, việc thực hiện nghị quyết đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân địa phương, góp phần vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước đến đâu… Như vậy, nội dung chức năng quyết định của HĐND cấp tỉnh rất rộng, hình thức thực hiện thông qua các nghị quyết, các tiêu chí để đánh giá chất lượng các quyết định đó chỉ mang tính chung chung. Bởi vậy, trên thực tế ở rất nhiều địa phương, công tác đánh giá chất lượng các quyết định đó đã không được tiến hành hoặc chỉ tiến hành một cách hình thức, không đưa ra được các kết luận cụ thể để rút ra các kinh nghiệm khi đưa ra các quyết định mới. Thậm chí, một số nghị quyết đang trong quá trình triển khai đã bộc lộ tính kém hiệu quả, thậm chí thất bại ngay khi chưa triển khai xong. Nhưng do không có sự đánh giá khách quan cần thiết nên vẫn cứ tiến hành theo kế hoạch dẫn đến hậu quả không đáng có. Một số các dự án, công trình sau khi được HĐND tỉnh ra nghị quyết quyết định triển khai đã để lại hậu quả kinh tế, xã hội nặng nề cho địa phương, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền và cán bộ công chức nhà nước. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải làm thế nào để HĐND tỉnh thực hiện tốt chức năng quyết định, góp phần giải quyết tốt các vấn đề đặt ra đối với từng địa phương, nâng cao đời sống cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- 1.1.2.2. Chức năng giám sát Đoạn 3 Điều 1 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thường trực HĐND, UBND,TAND,VKSND cùng cấp; giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương [31, tr.10]. Qua quá trình phát triển, vai trò, chức năng giám sát của HĐND ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã đánh dấu một bước phát triển mới về chức năng giám sát của HĐND cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn, nâng cao được vị thế và vai trò của HĐND hiện nay. Chức năng giám sát của HĐND bao giờ cũng gắn liền với chức năng quyết định những vấn dề cơ bản về kinh tế, xã hội của HĐND. Thực hiện tốt chức năng này không những cho phép HĐND kiểm tra, đánh giá hoạt động của các cơ nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, các nghị quyết của HĐND mà còn cho phép HĐND phát hiện được sự không phù hợp, thiếu thực tế của các nghị quyết do HĐND ban hành để sửa đổi, bổ sung. Kết quả giám sát sẽ là căn cứ để HĐND thực hiện quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức vụ chủ chốt (Chủ tịch, Phó Chủ tich HĐND, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên của UBND, Trưởng ban và các thành viên các ban của HĐND) hoặc sẽ là căn cứ để HĐND bãi bỏ những quyết định sai trái của UBND cùng cấp và những Nghị quyết sai trái của HĐND cấp dưới trực tiếp. Như vậy, Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, vị trí, vai trò và chức năng của HĐND rất lớn. Vấn đề đặt ra hiện nay chúng ta phải làm thế nào để HĐND thể hiện và phát huy tốt vị trí, vai trò và chức năng của Hội đồng trên thực tế; đảm bảo sự phối hợp, hợp tác với nhau giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương nhằm đưa lại cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc cho người dân [27, tr.141 - 143]. Để đáp ứng được yêu cầu trên, cần phải đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HĐND, trong đó đặc biệt phải chú ý đến chất lượng các nghị
- quyết do HĐND ban hành quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của địa phương, đảm bảo để HĐND thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Do yêu cầu của luận văn đặt ra, vấn đề năng lực của Đại biểu HĐND trong tham gia thực hiện chức năng quyết định cần được nghiên cứu sâu cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng ta có những căn cứ để đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực của đại biểu HĐND cấp tỉnh trong thực hiện chức năng của HĐND nói chung và thực hiện chức năng quyết định ở Hà Tĩnh nói riêng trong điều kiện chúng ta đang tiến hành đổi mới đất nước hiện nay. 1.1.3. Vị trí, vai trò của Đại biểu Hội đồng nhân dân trong thực hiện chức năng quyết định Theo quy định tại Điều 121 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 sửa đổi: Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương, phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thực hiện chế độ tiếp xúc, báo cáo với cử tri về hoạt động của mình và của HĐND, trả lời những yêu cầu, kiến nghị của cử tri, xem xét, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đại biểu HĐND có nhiệm vụ vận động nhân dân thực hiện pháp luật, chính sách của nhà nước, nghị quyết của HĐND, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước [25, tr.68]. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Điều 36 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “Đại biểu HĐND là người đại diện ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước”[31, tr.32]. Từ những quy định trên chúng ta có thể phân tích khái niệm Đại biểu HĐND với những nội dung cơ bản sau: - Đại biểu HĐND trước hết được hiểu là người đại diện cho các cộng đồng dân cư trên phạm vi địa giới hành chính. Người đại biểu HĐND với tư cách đại diện, họ có thể là đại biểu của tổ chức phụ nữ, thanh niên, tổ chức nông dân, tổ chức tôn giáo, dân tộc ít người…
- - Đại biểu HĐND thay mặt cho cử tri của mình ghi nhận, phản ánh ý chí, nguyện vọng của cử tri. Bằng hoạt động của mình trong cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương đại biểu HĐND biến ý chí và nguyện vọng của cử tri thành các quyết định mang tính pháp lý của nhà nước. Những nghị quyết được HĐND ban hành sẽ được các cơ quan quản lý hành chính nhà nước tổ chức thực hiện. - Đại biểu HĐND về thực chất là người thực hiện quyền lực nhân dân theo phương thức thay mặt đại cử tri trên phạm vi lãnh thổ. Bản thân quyền lực của người đại biểu HĐND có được là do nhân dân trao cho. Đại biểu HĐND được hình thành theo nguyên tắc bầu cử trực tiếp của cử tri. Qua đó, khẳng định đại biểu HĐND là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, là một bộ phận cấu thành không thể tách rời với quyền lực nhà nước thống nhất trong phạm vi cả nước. Đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, họ vừa chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, vừa chịu trách nhiệm trước cơ quan nhà nước cấp trên về mọi mặt kinh tế - xã hội, đảm bảo thực hiện Hiến pháp, Luật và các quyết định của các cơ quan nhà nước. Như vậy, đại biểu HĐND cấp tỉnh trong hoạt động của mình là thay mặt nhân dân toàn tỉnh thực hiện quyền lực nhà nước, quyết định các vấn đề quan trọng để phát huy các tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, biến ý chí, quyền lực của nhân dân trên địa bàn trở thành quyền lực nhà nước, thể hiện bằng các quyết định của nhà nước. Đồng thời, đại biểu HĐND tỉnh thực hiện quyền giám sát hoạt động tuân theo pháp luật của UBND cùng cấp, của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân ở địa phương. Người đại biểu HĐND cấp tỉnh có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, đại biểu HĐND cấp tỉnh là người đại diện có thẩm quyền của nhân dân địa phương. Tính đại diện của đại biểu HĐND cấp tỉnh thể hiện ở chỗ: - Được nhân dân địa phương trao quyền thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân trong các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước.
- Những yêu cầu về lợi ích và những nguyện vọng chính đáng của nhân dân địa phương là căn cứ xác định nội dung hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh. Đại biểu HĐND cấp tỉnh phải phản ánh trung thực và bảo vệ mọi quyền, lợi ích của cử tri nơi bầu ra mình; cần quan tâm đến mọi nguồn thông tin đại chúng để hiểu rõ những gì cử tri đang đòi hỏi, từ đó hình thành chương trình hoạt động của đại biểu. Đại biểu HĐND có quyền thay mặt nhân dân. Đó là quyền thảo luận, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của nhân dân trong các kỳ họp HĐND; quyền thay mặt nhân dân khi quan hệ với các cơ quan, tổ chức ở địa phương để yêu cầu giải quyết các vấn đề đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Trong hoạt động của HĐND cấp tỉnh, mỗi đại biểu cần quan tâm trước hết đến lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân địa phương, của cộng đồng xã hội trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội địa phương trong lợi ích chung của dân tộc, đất nước. - Được đại diện nhân dân trong cơ quan quyền lực nhà nước, mỗi đại biểu có trách nhiệm trước nhân dân, ở bất cứ thời điểm nào người dân cũng có thể yêu cầu đại biểu HĐND thực hiện nghĩa vụ đối với nhân dân. Thứ hai, đại biểu HĐND cấp tỉnh là người trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của HĐND cấp tỉnh. Tính quyền lực nhà nước ở địa phương của HĐND cấp tỉnh chính là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của từng đại biểu HĐND, được thể hiện ở hai khía cạnh sau: + Đại biểu HĐND cấp tỉnh là thành viên của HĐND tham gia thực hiện quyền lực nhà nước trong HĐND tỉnh. Đại biểu là người tham gia quyết định những vấn đề quan trọng nhất của địa phương trong phạm vi thẩm quyền của HĐND, thực hiện quyền giám sát của HĐND thông qua việc chất vấn và việc báo cáo của các cơ quan nhà nước trước HĐND, đồng thời cũng là người đi đầu trong việc đưa các nghị quyết của HĐND vào cuộc sống. Điều đó được bảo đảm thông qua việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của đại biểu HĐND trên thực tế. + Đại biểu HĐND cấp tỉnh là người đại diện cho quyền lực nhà nước trong quan hệ với các cơ quan nhà nước và với cán bộ các cơ quan nhà nước đó, với các tổ chức xã
- hội và nhân dân. Đại biểu có quyền kiến nghị với các cơ quan nhà nước về việc thi hành pháp luật, về những vấn đề thuộc lợi ích chung, các cơ quan nhà nước nhận được kiến nghị có nghĩa vụ trả lời đại biểu. Đại biểu HĐND có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội kịp thời chấm dứt việc làm trái pháp luật. Các cơ quan khi được đại biểu HĐND cấp tỉnh yêu cầu gặp thì phải tổ chức tiếp đại biểu theo đúng quy định. Thứ ba, hoạt động của đại biểu HĐND cấp tỉnh không tách rời với hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội trong quản lý nhà nước. Đây là hoạt động tất yếu trong chức trách của đại biểu HĐND. Bởi vì, chế độ đại biểu của nhà nước Việt Nam là không làm cho các đại biểu trở thành các nghị sỹ trong chế độ đại nghị. Đồng thời để đại biểu hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, pháp luật còn quy định những điều kiện cần thiết, tạo khả năng thiết thực cho đại biểu thực hiện đầy đủ tính đại diện nhân dân, thực thi quyền lực nhà nước trong hoạt động của HĐND trong phạm vi địa phương. Cụ thể: - Đại biểu HĐND là người đại diện của nhân dân, được cử tri trao quyền từ quyền lực nhân dân tập hợp thành cơ quan nhà nước ở địa phương. - Đại biểu HĐND là thành viên của tập thể HĐND tham gia quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương trong phạm vi thẩm quyền của HĐND. Đại biểu HĐND là người đại diện cho quyền lực nhà nước trong quan hệ với các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân. Đại biểu HĐND cấp tỉnh có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: Một là, quyền và nghĩa vụ trong thẩm quyền hoạt động của HĐND và trong cơ cấu tổ chức của HĐND, gồm có: + Tham gia đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của HĐND. + Quyền bầu cử và ứng cử trong các cơ quan của HĐND; + Quyền đề nghị vào chương trình nghị sự của kỳ họp những vấn đề mà đại biểu HĐND xét thấy cần thiết để HĐND xem xét và quyết định. ý kiến của đại biểu phải được ghi vào biên bản của kỳ họp; + Quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên của UBND và thủ trưởng các cơ quan chuyên môn khác thuộc UBND cùng cấp. Người bị chất vấn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: “Năng lực cạnh tranh của ngân hàng Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO:thực trạng và giải pháp”
75 p | 305 | 103
-
Luận văn: Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
94 p | 493 | 92
-
Luận văn Năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh Bến Tre
93 p | 166 | 41
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực của Trưởng phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
136 p | 26 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao năng lực của giao dịch viên tại BIDV - Chi nhánh Hải Dương
100 p | 20 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao năng lực của cán bộ, công chức tại ủy ban nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
124 p | 20 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước
117 p | 21 | 7
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Năng lực của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long
262 p | 10 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực của cán bộ chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
107 p | 16 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực của Trưởng phòng chuyên môn thuộc UBND huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh
26 p | 14 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Năng lực của cán bộ tín dụng tại Ngân hàng Liên doanh Lào Việt chi nhánh Luangprabang - CHDCND Lào
117 p | 14 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Năng lực của Thẩm phán trong xét xử vụ án hành chính - Qua thực tiễn thành phố Hà Nội
28 p | 71 | 4
-
Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Quản lý công: Năng lực của Chủ tịch Ủy ban nhân xã ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long
28 p | 11 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực của công chức nữ quản lý cấp phòng các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
29 p | 21 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Năng lực của cán bộ chính quyền cấp xã trên địa bàn huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông
22 p | 12 | 2
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Năng lực công chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình
26 p | 26 | 2
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Quản lý công: Nâng cao năng lực của viên chức Viện Kiểm định Quốc gia Vắc xin và Sinh phẩm y tế
25 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý cấp trung tại Công ty mẹ - Tổng công ty xây dựng Trường Sơn
118 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn