LUẬN VĂN: Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam
lượt xem 41
download
Bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thì có một điều không thể thiếu được đó là phải tạo nguồn vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải có vốn. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm để tạo vốn là vấn đề bức bách có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam
- LUẬN VĂN: Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam
- Lời nói đầu Bất kỳ một quốc gia nào muốn tăng trưởng và phát triển nền kinh tế thì có một điều không thể thiếu được đó là phải tạo nguồn vốn cho nền kinh tế. Việt Nam cũng nằm trong qui luật đó, hay nói cách khác Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là phải có vốn. Nguồn vốn đó có thể là vốn trong nước hay vốn nước ngoài. Tiết kiệm để tạo vốn là vấn đề bức bách có tính chiến lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam bước sang thế kỷ XXI là ổn định và phát triển kinh tế xã - hội, cải thiện đời sống nhân dân thoát khỏi tình trạng nước nghèo nàn và kém phát triển, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện phát triển nhanh hơn. Chính vì thế phải huy động và tạo lập được nguồn vốn, xét về mặt chiến lược thì nguồn vốn trong nước là chủ yếu, vững chắc, quyết định và nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng. Nếu xét về ở góc độ của ngân hàng thương mại thì nguồn vốn là cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh quyết định đến quy mô của hoạt động ngân hàng nói chung và quy mô các hoạt động tín dụng nói riêng, nguồn vốn dồi dào là cơ sở tạo uy tín đảm bảo khả năng cạnh tranh của ngân hàng thương mại.Về phía ngân hàng muốn giải quyết tốt vấn đề tạo lập vốn trong dân cư cần phải tìm ra những giải pháp tốt nhất, công cụ lãi suất và các hình thức huy động vốn. Vì vậy, nguồn vốn là sự cần thiết không thể thiếu được của ngân hàng thương mại. Xuất phát từ thực tiễn của ngân hàng Thương mại Việt Nam, trước yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội đất nước, trước sự cạnh tranh gay gắt trong nước và trên thị trường quốc tế, yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các ngân hàng thương mại là phải xây dựng chiến lược “Huy động vốn”, từ đó mới có thể đẩy mạnh quá trình huy động vốn trong dân cư, cũng như từ các chủ thể khác trong nền kinh tế, giúp cho quá trình luân chuyển vốn diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả, hoàn thành mục tiêu là chỗ dựa vững chắc cho nền kinh tế trong những năm mới của thế kỷ XXI.
- Qua quá trình nghiên cứu, trên cơ sở lý luận qua các tài liệu, tạp chí ngân hàng, tài liệu môn lý thuyết tiền tệ ngân hàng và kiến thức học tập từ thầy giáo bộ môn, em xin mạnh dạn nêu ra vấn đề “Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng thương mại và giải pháp tạo lập vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam”. Thông qua việc nghiên cứu lý thuyết và thực tế, thực trạng của nền kinh tế, của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, mục đích của đề án là trình bày rõ lý luận về nguồn vốn kinh doanh trong hệ thống ngân hàng thương mại trên phương diện chung, đồng thời qua việc đánh giá thực trạng huy động vốn của ngân hàng th- ương mại Việt Nam trong các năm gần đây, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm tạo lập vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam trong thời gín tới.
- CHƯƠNG I Nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại I. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Sự ra đời của hệ thống ngân hàng thương mại đã đánh dấu một bước phát triển trong đời sống kinh tế - xã hội loài người. Hệ thống ngân hàng thương mại hiện này là kết quả của quá trình hình thành và phát triển lâu dài phù hợp với tiến trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Ngân hàng thương mại được xem là con đẻ của nền kinh tế thị trường đồng thời nó là một bộ phận không thể tách rời và tồn tại như một tất yếu lịch sử trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại. Quan niệm về ngân hàng thương mại ở các nước tuy có một số điểm khác nhau nhưng nhìn chung đều được xem là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ và cung cấp các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Theo “luật của các tổ chức tín dụng” được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua tháng 12 năm 1997 xác định ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng, là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán. Trải qua quá trình phát triển lâu dài hoạt động của ngân hàng ngày càng trở lên đa dạng và phong phú. Các nghiệp vụ của ngân hàng phát triển nhanh chóng nhờ kết quả của sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ cũng như sự tiền bộ trong nhiều lĩnh vực có liên quan như: khoa học quản lý, công nghệ thông tin cũng nhờ đó, hoạt động của ngân hàng thương mại đã kết hợp đan xen chặt chẽ với nhau tạo thành một hệ thống rộng lớn và thống nhất. Hệ thống này có chức năng và vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng thương mại có những vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế: - Đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, do tính biến động thường xuyên của nhu cầu vốn trong kinh doanh tại một thời điểm luôn tồn
- tại những doanh nghiệp, những các cá nhân thương mại, đóng vài trò là cầu nối thu hút vốn nhàn rỗi chuyển sang cho những tác nhân thiếu vốn từ đó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục. - Cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư: ngân hàng thương mại là một trong hai kênh chuyển hóa tiền tiết kiệm thành đầu tư. Trong khi thực hiện chức năng trung gian tài chính, ngân hàng thu hút những khoản tiết kiệm trong phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng năng lực sản xuất kinh doanh. - Tích tụ và tập trung vốn. ngân hàng thương mại có khả năng chuyển hóa các khoản tiền gửi nhỏ lẻ và có thời hạn ngắn thành các khoản tín dụng lớn và có thời hạn dài hơn để đầu tư vào những ngành đang phát triển và góp phần vào việc bình quân hóa tỉ suất lợi nhuận trong nền kinh tế. - Kích thích sản xuất và lưu thống hàng hóa. Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán trong nền kinh tế và tạo ra một hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt khá hoàn hảo. Nó giảm chi phí thanh toán và giải quyết được mâu thuẫn về sự không tin tưởng giữa người bán và người mua đặc biệt là trong hoạt động ngoại thương bằng các phương thức thanh toán như: thư tín dụng (L/C), Séc bảo chí, nhờ thu kèm chứng từ, thể tín dụng… thêm vào đó, các khoản nhàn rỗi trong xã hội được ngân hàng huy động và đâu từ trở lại vào sản xuất kinh doanh và tiêu dùng nhờ đó có thể đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa tiền tệ. Từ đó, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, ngân hàng thương mại phải hoạt động theo một cơ chế phù hợp với khuôn khổ pháp luật của nhà nước và xuất phát từ chính sách chế độ chung do ngân hàng trung ương quy định hoạt động của ngân hàng thương mại được quy định thành 3 nghiệp vụ cơ bản sau. 2. Hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trư- ờng 2.1- Nhận tiền gửi Đây là nhiệm vụ tạo lập vốn và quản lý các nguồn vốn của ngân hàng huy dộng, thông qua đó ngân hàng thực hiện việc tạo lập vốn, tập trung vốn mà chủ yếu thông qua việc nhận tiền gửi của khách hàng, tiền gửi bao gồm các loại như: tiền gửi không ký hạn, tiền gửi ký hạn và tiền gửi tiết kiệm.
- Với tư cách là trung gian tài chính, ngân hàng thu hút một số lượng lớn từ các tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân mở tài khoán tại ngân hàng. Ngân hàng trở thành người thủ quỹ cho vô số khách hàng, thực hiện thu chi theo lệnh của chủ tài khoản. Ngày này ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển hầu hết các tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân đều duy trì tài khoản ở ngân hàng bằng cách trích tiền từ tài khoản của người này chuyển vào tài khoản của người khác. Ngân hàng có được chức năng này vì mọi người nhận thấy lợi ích từ việc gửi tiền vào ngân hàng, nhờ ngân hàng quản lý và chi trả hộ cũng như uý nhiệm cho ngân hàng thu hộ các khoản tiền mà chủ ngân hàng được hưởng lệ phí sẽ an toàn hơn và thuận lợi hơn nhiều so với giữ tiền hay thanh toán bằng tiền mặt. Tuỳ theo tính chất và mục đích của các khoản tiền gửi mà khách hàng có thể chọn các hình thức gửi tiền phù hợp vừa đảm bảo an toàn. Thực hiện được yêu cầu chi trả vừa đủ đảm bảo có lãi. Các ngân hàng thương mại với hoạt động nhận tiền gửi có vai trò làm tăng khả năng sinh lợi của đồng tiền và giảm chi phí giao dịch, chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền v.v… Những vai trò này làm cho hoạt động ngân hàng trở thành rất cần thiết đối với hoạt động của nền kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp, từng các cá nhân nói riêng. 2.2- Tài trợ cho nền kinh tế Thể hiện việc sử dụng vốn của ngân hàng là nghiệp vụ thông qua đó ngân hàng phân bố nguồn lực của mình để phát triển hoạt động kinh doanh theo mục tiêu đã xác định trong cơ chế thị trường. Sự tồn tại và phát triển luôn gắn liền với nhau, nhu cầu vốn cho sản xuất ngày càng phát triển cũng là do đặc điểm tuần hoàn vốn của nền kinh tế làm cho việc tài trợ vốn cho nền kinh tế cũng phát triển về phương thức tài trợ ngày càng đa dạng thông qua các hoạt động như sau: a. Hoạt động cho vay hoặc hoạt động tín dụng là quan hệ giữa người cho vay và người đi vay, giữa họ có mối quan hệ với nhau. Cụ thể là các chủ thể trong nền kinh tế trong quá trình hoạt động kinh doanh hay sản xuất sản phẩm cần phải có thêm vốn để duy trì sản xuất, hay vốn để mở rộng quy mô, ứng dụng tiến bộ KHKT…, do nguồn vốn có hạn, không đủ để đáp ứng. Do đó các chủ thể đó có thể tìm đến các ngân hàng thương mại để tìm kiếm những gì mà họ đang cần, đó là vốn. Các ngân hàng thương mại sẽ nghiên cứu các khả năng, thẩm định các thông tin, và sau đó có
- thể cho các chủ thể đó vay vốn với những điều kiện mà ngân hàng đó đưa ra. Thông qua sự vận động của vốn, khi đến kỳ hạn họ sẽ thanh toán với ngân hàng thương mại đúng như những gì mà họ đã thoả thuận. Đồng vốn sẽ được hoàn trả hay tiếp tục duy trì, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của chính họ. b. Hoạt động đầu tư Tuy nhiên, ngân hàng không sử dụng toàn bộ vốn huy động để cho vay. Một mặt vì hầu hết các khoản cho vay có tính thanh khoản thấp, ngân hàng không thể bán chúng trên thị trường một cách dễ dàng để đáp ứng nhu cầu tiền mặt. Một vấn đề khác nữa là những khoản cho vay thuộc nhóm tài sản của ngân hàng có mức rủi ro cao nhất đối với rủi ro vỡ nợ, đặc biệt là đối với ngân hàng vừa và nhỏ. Hơn nữa, tất cả các khoản tín dụng đều bị chịu thuế. Như vậy, ngân hàng đều giành một phần huy động để đầu tư vào chứng khoán. Chứng khoán là một khoản đầu tư an toàn, có mức rủi ro sinh lợi và thời hạn phù hợp trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn, bao gồm các loại chứng khoán sau: + Tín phiếu kho bạc + Trái phiếu kho bạc + Chứng chỉ tiền gửi + Thương phiếu chấp nhận thanh toán + Giấy nợ ngắn hạn + Chứng khoán của các công ty Hơn nữa, ngân hàng cũng có thể đầu tư bằng cách góp vốn trực tiếp vào dự án bằng cách tài trợ chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong ngành công nghệ cao hoặc là tham gia vào dự án của Chính phủ để phục vụ lợi ích kinh tế - xã hội. c. Hoạt động thuê mua Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lợi chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các quy định yêu cầu khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Hoạt động tài trợ vốn của ngân hàng thương mại có những vai trò tác dụng sau đây đối với nền kinh tế:
- - Đáp ứng nhu cầu về vốn để duy trì quá trình sản xuất được liên tục đồng thời góp phần đầu tư phát triển kinh tế. - Thúc đẩy quá trình tập trung vốn để phát triển sản xuất. Hoạt động của ngân hàng là tập trung vốn tạm thời chưa sử dụng nằm phân tán khắp mọi nơi trong tay các doanh nghiệp, các cơ quan Chính phủ và các cá nhân nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. 2.3- Các hoạt động trung gian Do việc thực hiện 2 nghiệp vụ nhận tiền gửi của khách hàng để tài trợ vốn cho nền kinh tế, ngân hàng có thể kiếm được lợi từ chênh lệch lãi suất. Tuy nhiên, ngân hàng cũng có thể kiếm thêm thu nhập từ việc thực hiện các dịch vụ sau: a. Nghiệp vụ thu hộ - chi hộ và chuyển tiền mang tính chất dịch vụ đơn thuần. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng thương mại không cần phải đầu tư thêm vốn mà sử dụng tất cả các điều kiện và phương tiện sẵn có để đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu về thanh toán cho khách hàng. Nghiệp vụ thu hộ là việc khách hàng lập chứng từ để thanh toán, đề nghị ngân hàng thu hộ một số tiền nhất định từ người khác. Nghiệp vụ chi hộ là việc khách hàng hàng lập uỷ nhiệm chi đề nghị ngân hàng trích một số tiền nhất định từ tài khoản của họ để thanh toán cho người khác. Còn nghiệp vụ chuyển tiền do ngân hàng thực hiện khi khách hàng lập giấy uỷ nhiệm đề nghị ngân hàng chuyển một số tiền nhất định đến địa phương khác cho người thụ hưởng. Nhờ việc thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng sẽ thu được một số thu nhập nhất định gọi là lệ phí. b. Nghiệp vụ uỷ thác bao gồm việc quản lý tài sản theo chúc thư, theo hợp đồng ký kết chuyển quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu,…. Thông qua nghiệp vụ này giúp ngân hàng củng cố và duy trì tốt mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng, từ đó có thể đa dạng hoá kinh doanh, thu hút thêm khách hàng mở rộng thêm thị phần hoạt động của ngân hàng. Ngân hàng ngày càng cung cấp nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho khách hàng kinh doanh. Ngân hàng sẽ thu được phí tư vấn từ khách hàng. c. Quản lý tiền mặt: Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Dịch vụ quản lý tiền mặt là việc ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty
- kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt cho các tổ chức kinh tế và cá nhân, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. d. Bán các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Tuy nhiên, theo pháp luật của một số nước đã cấm ngân hàng thương mại thực hiện nghiệp vụ này vì sự an toàn đối với hệ thống ngân hàng cũng như đối với nền kinh tế. Ngoài ra, còn có nhiều dịch vụ khác như cung cấp các kế hoạch hữu trí, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, quỹ tương hỗ và hỗ trợ… II. Nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 1- Vốn của ngân hàng thương mại Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập hoặc huy động, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất, nguồn vốn của ngân hàng thương mại là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng mà người chủ sở hữu chúng gửi vào ngân hàng với mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chỉ có quyền sở hữu còn quyền sử dụng vốn tiền tệ họ chuyển nhượng cho ngân hàng rồi ngân hàng trả cho họ một khoản thu nhập. Như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện chức năng của ngân hàng thương mại. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- - Vốn thuộc sở hữu của ngân hàng (vốn chủ sở hữu ). - Vốn tiền gửi của khách hàng - Vốn vay từ ngân hàng thương mại và NHTW - Vốn tài trợ, uỷ thác đầu tư - Vốn khác. 1.1- Vốn chủ sở hữu (VCSH) Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do ngân hàng thương mại tạo lập được, thuộc sở hữu của ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Do có tính chất thường xuyên ổn định của chủ sở hữu, ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục định khác nhau như: Trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định như: (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị…) phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng có vai trò quan trọng sau đây: + Nó đóng vai trò là một tấm đệm giúp ngân hàng chống lại rủi ro phá sản trong quá trình hoạt động do những rủi ro không lường trước. + Nó là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được những khoản tiền gửi đầu tiên để mua cơ sở vật chất đảm bảo việc hoạt động của ngân hàng. + Vốn chủ sở hữu có thể tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. + Nó cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi ngân hàng phát triển, nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro gắn liền với sự ra đời những dịch vụ mới và những trang thiết bị mới. + Vốn chủ sở hữu được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định, lâu dài cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn ngân hàng phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và của những tài sản rủi ro khác Vốn chủ sở hữu nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô và khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Theo luật của các tổ chức tín dụng vốn chủ sở hữu là yếu tố cơ bản để xác định các chỉ tiêu an toàn của một ngân hàng thương mại. Như vậy, quy mô và sự tăng trưởng của vốn chủ sở hữu sẽ quyết định đến năng
- lực và thế phát triển của ngân hàng thương mại. Theo cách phân chia bảng tổng kết tài sản của mình, vốn chủ sở hữu là một bộ phận của tài sản nợ, và một thành phần của nó gắn với loại nghiệp vụ nhất định. Thành phần chủ yếu nhất trong cơ cấu vốn chủ sở hữu là vốn điều lệ được hình thành từ nguồn: có thể được hình thành dưới hình thức tổng giá trị cổ phiếu th- ường (đối với ngân hàng cổ phần) hoặc là phần góp của các bên liên doanh (đối với ngân hàng liên doanh) hoặc do ngân sách cấp (đối với ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước). Vốn điều lệ có thể cao hay thấp những mức tối thiểu cho mỗi loại hình ngân hàng thương mại. Vốn chủ sở hữu cũng có thể bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn bổ sung được tăng lên từ các nguồn sau: + Do thặng dư vốn thể hiện phần giá trị thị trường của cổ phiếu vượt quá mệnh giá mà các cổ đông trả cho ngân hàng. + Quỹ dự trữ bổ sung được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng thương mại theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo luật lệ ngân hàng của mình nhắm mục đích tăng cường vốn chủ sở hữu ban đầu. + Quỹ dự trữ đặc biệt để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm bảo toàn vốn điều lệ. + Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bổ sung từ lợi nhuận không chia. Quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng, quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, khấu hao, thu nhập từ các công ty thành viên,…. 1.2- Các khoản tiền gửi mà ngân hàng nhận được từ nền kinh tế Các khoản tiền gửi là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng nhận được từ các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân trong nền kinh tế thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng để kinh doanh. Bản chất của tiền gửi là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau mà ngân hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi đến kỳ hạn (đối với tiền gửi có ký hạn) hoặc là khi họ có nhu cầu rút tiền để chi trả (đối với tiền gửi không ký hạn). Vốn huy động được từ nguồn tiền gửi đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
- Theo đối tượng huy động, một ngân hàng thương mại có thể huy động vốn từ các khoản tiền gửi từ các đối tượng sau: + Các tổ chức kinh tế - xã hội. + Các tầng lớp dân cư. + Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Trong đó, nguồn tiền gửi từ các doanh nghiệp, dân cư là nguồn quan trọng nhất vì nó là nguồn chủ yếu và mang tính chất lâu dài. Mọi ngân hàng đều biết dựa vào tiết kiệm và tích luỹ của các doanh nghiệp và dân cư để huy động vốn. Các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng với mục đích tạo tiền để cho việc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng, các cá nhân gửi tiền vào ngân hàng với mục đích tìm kiếm thêm thu nhập qua việc ngân hàng trả lãi cho họ. Nguồn vốn từ các khoản tiền gửi mà ngân hàng nhận được không chỉ quan trọng đối với hoạt động ngân hàng mà còn có ý nghĩa với toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác, khi mà hệ thống tài chính còn kém phát triển, chủng loại các tổ chức tài chính còn nghèo nàn, qui mô của các tổ chức đó còn nhỏ bé hoạt động không phong phú, thì có thể nói vai trò của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế là rất lớn. Vai trò nổi bật nhất của ngân hàng thương mại hiện này là góp phần tạo vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế đạt đ- ược mục tiêu phát triển đúng kế hoạch. Huy động được vốn qua các khoản tiền gửi là một trong những yếu tố quan trọng giúp cho ngân hàng có thể đẩy mạnh cạnh tranh, thực hiện đầu tư vào nền kinh tế, góp phần làm lành mạnh và thúc đẩy quá trình tăng trưởng của nền kinh tế trong mọi thời điểm. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển như hiện nay với tính cạnh tranh rất cao giữa các ngân hàng thương mại với nhau và giữa các tổ chức tín dụng khác thì ngân hàng phải có chiến lược đúng đắn trong việc thu hút vốn nhàn rỗi từ dân cư. Cho nên các ngân hàng phải đa dạng hóa loại hình tiền gửi với thời hạn khác nhau và lãi suất khác nhau để thu hút vốn với chi phí thấp nhất phù hợp với điều kiện hiện có của chính bản thân ngân hàng mình. Thông thường tiền gửi ngân hàng thương mại huy động được chia thành các loại sau: - Tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi giao dịch): Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất cư lúc nào. ở nhiều nước thì phần lớn các
- giao dịch thanh toán được thực hiện bằng séc còn Việt Nam thì tài khỏan được thực hiện thường gọi là tài khỏan tiền gửi thanh toán dùng cho doanh nghiệp và tài khỏan thanh toán cho cá nhân. - Tiền gửi kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra sau một thời hạn nhất định ở Việt Nam trong những năm qua thì tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn cũng có xu hướng tăng lên trong tổng số vốn tiền gửi. - Tiền gửi tiết kiệm: Tiền gửi tiết kiệm thường là tiền gửi của dân cư do tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng ngay gửi vào ngân hàng. Ngân hàng thường trả lãi cho tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn, người gửi tiền được ngân hàng cấp một sổ tiết kiệm phục vụ cho việc ghi chép gửi và rút tiền. Tiền gửi tiết kiệm không được phát hành séc. - Chứng chỉ tiền gửi (Certificates of deposits - CDs ) do ngân hàng phát hành, ghi rõ thời gian đáo hạn và số lượng tiền gửi, lãi suất (cố định hoặc giao động) tuỳ lựa chọn của khách hàng. Chứng chỉ tiền gửi nếu không ghi tên người gửi gọi là chứng chỉ vô danh. Chứng chỉ vô danh là loại có thể chuyển nhượng được bán trên thị trường thứ cấp trước ngày đáo hạn. Tóm lại tuỳ theo tính chất của loại hình tiền gửi mà ngân hàng huy động thì ngân hàng có thể sử dụng nó sao cho phù hợp vừa đảm bảo được khả năng sinh lời vừa đảm bảo được khả năng thanh toán. Loại tiền gửi không kỳ hạn thường biến động nhiều nhất, do vậy khó có kế hoạch và sử dụng được nguồn này để cho vay dài hạn, Ngân hàng thương mại thường chỉ sử dụng vào việc lập các dự trữ sơ cấp để bổ sung cho dự trữ ngân quỹ hoặc là cho vay ngắn hạn. Loại tiền gửi có kỳ hạn là loại nguồn vốn Ngân hàng có thể kế hoạch việc sử dụng, đặc biệt là loại vốn huy động kỳ hạn một năm trở lên có thể được ngân hàng sử dụng để cho vay trung và dài hạn. 1.3- Các khoản vay từ ngân hàng thương mại và THTW Vốn đi vay là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng thương mại và ngân hàng Trung ương hoặc giữa các ngân hàng thương mại với nhau hay các tổ chức tín dụng khác, hay với thị trường vốn. Các ngân hàng thường sẽ đi vay để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng của mình mà vẫn không đủ vốn hoạt động, hay nói cách khác ngân hàng tạm thời thiếu vốn khả dụng vốn thì ngân hàng sẽ đi vay. Nguồn đi vay này bao gồm các nguồn tiền vay từ: - Vay NHNN (vay Ngân hàng Trung Ương)
- - Vay các NHTM và các tổ chức tín dụng khác. - Vay trên thị trường vốn. 1.4- Vốn tài trợ – Uỷ thác đầu tư. Nguồn vốn uỷ thác đầu tư này là các tổ chức kinh tế - xã hội, các cá nhân cả trong và ngoài nước đầu tư một cách gián tiếp vào nền kinh tế dưới dạng vốn bằng tiền hoặc là các dây chuyền sản xuất, hoặc các tổ chức nước ngoài muốn đầu tư vào nền kinh tế qua các hạng mục đầu tư, hay các nguồn tài trợ từ các quốc gia khác, các hiệp hội trên thế giới…. Ngân hàng chỉ đóng vai trò là người trung gian hưởng phí, ngân hàng không có trách nhiệm thẩm định những khách hàng này. Đây cũng là một nguồn vốn mà qua đó ngân hàng có vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư của nền kinh tế. Tuy nhiên, đối với ngân hàng thương mại ở các nước đang phát triển thì nguồn vốn này vẫn còn là một tỷ lệ nhỏ, nó chỉ mang tính chất bổ trợ mà thôi. 1.5- Vốn khác Trong quá trình làm trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại cũng tạo đ- ược một khoản vốn trong thanh toán như: vốn trên tài khoản mở thư tín dụng, tài khoản tiền gửi séc bảo chi, séc định mức, các khoản tiền phong tỏa do ngân hàng chấp nhận hối phiếu thương mại v.v... Các khoản tiền tạm thời được tính khởi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ xử lý, nên được coi là tiền nhàn rỗi. Thông qua nghiệp vụ đại lý, ngân hàng thương mại cũng thu hút được một lượng vốn đang kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho một khách hàng khác hay một dự án đầu tư. Do việc phát triển đ- ược thực hiện theo tiến độ công việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời khoản tiền đó vào kinh doanh. 2- Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng huy động nguồn vốn của ngân hàng thương mại 2.1- Các nhân tố chủ quan. - Chính sách lãi suất của ngân hàng thương mại Như chúng ta biết yếu tố quan trọng nhất mà giúp cho khách hàng gửi tiền tại ngân hàng vì họ mong được hưởng một phần thu nhập từ khoản tiền gửi đó. Như vậy, chính sách lãi suất của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng huy động vốn của họ. Theo quan điểm của các nhà ngân hàng thì lãi suất huy động phải lớn hơn tỷ lệ trượt giá và phải nhỏ hơn lãi suất cho vay, Tuỳ thuộc vào điều kiện hiện có của mọi
- ngân hàng thì các ngân hàng đều đưa ra từng mức lãi suất đối với từng loại hình tiền gửi làm sao có thể tạo tính hấp dẫn cho khách hàng và ở đâu có lãi suất hấp dẫn thì ở đó sẽ huy động được nhiều vốn hơn nếu các yếu tố khác như nhau. - Chất lượng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng thương mại Đây cũng là nhân tố không kém phần quan trọng ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại. Các tổ chức xã hội cũng như các cá nhân, ngoài mục đích hưởng một chút lợi nhuận từ đồng tiền nhàn rỗi của mình, họ cũng muốn đ- ược hưởng từ các dịch vụ như: dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ thẻ séc, thẻ tín dụng, dịch vụ tư vấn… Như vậy, những ngân hàng nào cung cấp những dịch vụ này tốt hơn, tiện ích hơn thì ngân hàng đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng và nhiều vốn hơn. - Uy tín của ngân hàng thương mại Uy tín của ngân hàng cũng tăng thêm khả năng thu hút vốn của ngân hàng thương mại vì khách hàng ngoài việc được hưởng lợi nhuận và các dịch vụ ngân hàng từ đồng tiền gửi của mình, họ cũng muốn đảm bảo rằng đồng tiền của họ không bị rủi ro và đảm bảo chắc chắn được hưởng lãi đồng đều hàng tháng. Như vậy, tính an toàn và uy tín của ngân hàng thương mại cũng là yếu tố quan trọng tạo lòng tin đối với khách hàng và những ngân hàng có nhiều uy tín sẽ thu hút được nguồn vốn nhiều hơn những ngân hàng kém uy tín cho nên các ngân hàng thương mại đều cố gắng tạo uy tín đối với khách hàng trong suất quá trình hoạt động của mình vì họ nghĩ rằng nếu khách hàng không tin tưởng vào ngân hàng không những chi không có nhiều người đến gửi mà càng có nhiều người đến ngân hàng rút tiền. - Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại, ảnh hưởng tới uy tín của chính NHTM. Ngoài các nhân tố trên thì còn có một số nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng nguồn vốn của các ngân hàng thương mại và cũng là yếu tố mà các ngân hàng của các nước đang phát triển phải đặc biệt quan tâm đầu tư để rút ngắn khoảng cách đối với các nước đang phát triển, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hút vốn cũng thực hiện các dịch vụ ngân hàng như các nhân tố mạng lưới huy động vốn, trình độ công nghệ và cơ sở vật chật của ngân hàng, trình độ làm việc của cán bộ công nhân viên ngân hàng v.v…
- 2.2- Các nhân tố khách quan. Bên cạnh đó, việc thu hút vốn của ngân hàng thương mại cũng chịu ảnh hư- ởng của nhiều nhân tố khách quan khác mà các ngân hàng phải quan tâm như: - Chính sách ngân hàng Trung ương đối với ngân hàng thương mại Sự kiểm soát chặt chẽ bởi ngân hàng Trung ương như chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá, việc quy định tỷ lệ dự trữ bặt buộc… việc ngân hàng Trung ương qui định khung lãi suất tiền gửi hoặc là qui định tăng hoặc hạ thấp lãi suất sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hút vốn của ngân hàng thương mại như việc không cho phép lãi suất được biến động tự do sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh đối với các ngân hàng thương mại trong việc huy động vốn, hoặc là việc ngân hàng hạ thấp mức lãi suất sẽ làm giảm khả năng huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Chính sách tỷ giá của ngân hàng Trung ương cũng ảnh hưởng tới khả năng thu hút vốn của ngân hàng thương mại vì chính sách tỷ giá có ảnh hưởng đến tỷ lệ trượt giá của đồng tiền do đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất tiền gửi. Việc quy định tỷ lệ dự trữ bặt buộc không hợp lý của ngân hàng Trung ương đối với ngân hàng thương mại sẽ ảnh hưởng đến chi phí huy động vốn của ngân hàng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng thương mại và cuối cùng sẽ dẫn đến uy tín của ngân hàng thương mại đối với khách hàng. - Thông tin đại chúng Chính phương tiện truyền thống cũng ảnh hưởng đến khả năng khai thác vốn của ngân hàng thương mại, bởi vì chính nó là phương tiện để chuyển tải những thông tin về ngân hàng, thông tin về chính sách lãi suất hay những tiện ích của ngân hàng thương mại đến mọi người để họ hiểu về lợi ích của việc gửi tiền vào ngân hàng đối với chính bản thân họ và nền kinh tế. - Những nhân tố liên quan đến dân cư Ngoài các nhân tố trên thì các nhân tố liên quan đến dân cư cũng là yếu tố quan trọng liên quan đến việc huy động vốn của ngân hàng thương mại như trình độ văn hóa của dân cư, thói quen của nhân dân mỗi nước, sự tin tưởng của người dân vào ngân hàng, thói quen chi tiêu của dân chúng.v.v…
- chương II các hình thức huy động vốn trong nhtm. thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tồn tại. I- Các hình thức huy động vốn trong các ngân hàng thương mại việt nam 1- Nguồn vốn tiền gửi trong các NHTM. NHTM Việt Nam là một tổ chức trung gian tài chính, kinh doanh chủ yếu là chuyển vốn từ “nhà tiết kiệm” sang “nhà đầu tư”, với phương châm hoạt động “đi vay để cho vay”. Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng thì phần lớn ngân hàng thương mại Việt Nam phải thực hiện huy động vốn. Huy động vốn tiền gửi của ngân hàng thương mại Việt Nam bao gồm: - Tiền gửi không kỳ hạn - Tiền gửi có kỳ hạn - Tiền gửi tiết kiệm. 1.1. Tiền gửi không kỳ hạn (Tiền gửi giao dịch) Một trong dịch vụ lâu đời nhất là ngân hàng cung cấp cho khách hàng gửi tiền không kỳ hạn, là loại tiền do khách hàng gửi vào ngân hàng nhằm mục đích thanh toán hoặc là để giao dịch với nhau. Trên thực tế người gửi tiền chỉ muốn đổi hình thức tiền tệ này bằng hình thức tiền tệ khác thuận tiện hơn cho họ, người gửi tiền có thể sử dụng tiền vào bất cư lúc nào khi họ muốn, có nghĩa là khách hàng có thể rút tiền khi nào họ cần, tiền gửi không kỳ hạn thường không được trả lãi hoặc là được hưởng lãi nhưng với mức lãi suất thấp do hình thức cạnh tranh giữa các ngân hang thương mại với nhau để thu hút vốn. Như vậy, loại tiền gửi không kỳ hạn mà ngân hàng huy động, ngân hàng phải trả chi phí thấp nhất nhưng nó lại có tính chất không ổn định. 1.2. Tiền gửi có kỳ hạn Ngân hàng có thể thu hút tiền nhàn rỗi với thời hạn khác nhau bằng loại hình tiền gửi kỳ hạn. Tiền gửi kỳ hạn là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích sinh lời và đến thời hạn khách hàng mới có thể rút tiền được.Tiền gửi kỳ hạn có nhiều loại hình với mức lãi suất và thời hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng và lãi suất càng cao khi thời hạn càng dài. Tuy nhiên để thu hút
- khách hàng ngân hàng thương mại cũng có thể cho phép khách hàng rút tiền trước thời hạn nhưng họ sẽ không được hưởng lãi suất hoặc được hưởng lãi suất theo tiền gửi không kỳ hạn. ở Việt Nam trong những năm qua thì tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn cũng có xu hướng tăng lên trong tổng số vốn tiền gửi. Như vậy, tiền gửi kỳ hạn ngân hàng sẽ trả chi phí cao hơn so với tiền gửi kỳ hạn khi họ huy động nhưng nó có tính ổn định cao hơn vì khi đến thời hạn khách hàng mới có thể rút tiền được. 1.3. Tiền gửi tiết kiệm Tiền gửi tiết kiệm thường là tiền gửi của dân cư do tạm thời chưa có nhu cầu sử dụng ngay gửi vào ngân hàng. Ngân hàng thường trả lãi cho tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn, người gửi tiền được ngân hàng cấp một sổ tiết kiệm phục vụ cho việc ghi chép gửi và rút tiền. Tiền gửi tiết kiệm không được phát hành séc. Việc điều hành các tài khoản tiền gửi tiết kiệm phần lớn các nước được quy định: + Sổ tiết kiệm chỉ được mở cho các thể nhân + Số dư tối đa của sổ tiết kiệm được quy định cho từng thời kỳ. + Chỉ có chủ tài khoản mới được quyền rút tiền, không được sử dùng séc. Tiền gửi tiết kiệm gồm tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn có xác định thời gian đáo hạn, khi đáo hạn, người gửi không đến rút, ngân hàng có thể tự động chuyển sang một kỳ hạn mới, lãi suất được tính khi đáo hạn. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có lãi suất thấp hơn tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, được rút theo ý muốn, lãi được tính hàng tháng nh- ưng chỉ được nhận lãi và gốc theo quý. 1.4. Tiền gửi của các NHTM khác. Một ngân hàng gửi tiền của ngân hàng mình vào một ngân hàng khác nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác. Tuy nhiên, quy mô nguồn này thuờng không lớn.
- 2. Nguồn vốn vay trong NHTM. 2.1. Vay NHNN (vay Ngân hàng Trung ương) Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay NHNN. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các Ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của Ngân hàng thương mại giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; Ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho Ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo từng hạn mức tín dụng nhất định. 2.2. Vay các tổ chức tín dụng khác Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho váỹe có thể sẽ sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang tiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng các nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp, nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Quá trình vay mượn rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lý (hoặc NHNN). Khoản vay có thể không cần đảm bảo hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và ngân hàng đi vay tăng lên. 2.3. Vay trên thị trường vốn Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều Ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện kiểm soát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách Nhà nước cấp tỉnh tại kho bạc Nhà nước Bắc Ninh
118 p | 291 | 100
-
Luận văn thạc sĩ kinh tế: Giải pháp gia tăng nguồn huy động đối với hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
77 p | 205 | 84
-
Tóm tắt luận văn Tiến sĩ Kinh tế: Giải pháp tái cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam
23 p | 73 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu đề xuất các giải pháp kiểm tra giám sát các dự án đầu tư sử dụng đất đai bằng vốn ngân sách nhà nước ở các tỉnh Trung du, miền núi Bắc Bộ
93 p | 118 | 11
-
Tóm tắt Luận văn Tiến sĩ Kinh tế: Quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam
27 p | 86 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện kiểm soát thanh toán vốn đầu tư CDCB từ nguồn NSNN cấp tỉnh tại KBNN Bắc Ninh
118 p | 61 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
111 p | 41 | 9
-
Luận văn Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện đường lối CNH,
95 p | 83 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các yếu tố kinh tế vĩ mô tác động đến lãi suất tiền gửi của Ngân hàng thương mại Việt Nam
78 p | 42 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Gia tăng nguồn vốn huy động tại Ngân hàng thương mại vổ phần Sài Gòn
116 p | 38 | 6
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp hỗ trợ nhằm tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn sản xuất kinh doanh cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Định
26 p | 49 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đảm bảo nguồn vốn tự có của ngân hàng thương mại Việt Nam theo hiệp ước Basel
122 p | 35 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp phát triển huy động vốn tại NHTMCP Công Thương Việt Nam Chi nhánh Tỉnh Đồng Nai
79 p | 16 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định gửi tiền của khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xây dựng Việt Nam - Chi nhánh Bình Dương
102 p | 27 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp hỗ trợ nhằm tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn sản xuất kinh doanh cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Bình Định
124 p | 21 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hiệu quả hoạt động tạo nguồn vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bạc Liêu
148 p | 36 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông từ nguồn vốn ngân sách trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
114 p | 15 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn