intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:28

159
lượt xem
26
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngoặt sáng suốt của Đảng, của Nhà nước ta. Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu cho công cuộc xây dựng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

  1. LUẬN VĂN: Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
  2. Lời nói đầu Trải qua một thời gian dài sau khi dành độc lập, xây dựng đất nước, Nhà nước ta đã rút ra được, định hướng ra được một hướng đi, một “con đường” đúng đắn cho mình, đó là quá trình phát triển kinh tế đất nước theo cơ chế thị trường với sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước ngoặt sáng suốt của Đảng, của Nhà nước ta. Kinh tế thị trường với sự phát triển của nó đã đưa đến thành công bước đầu cho công cuộc xây dựng đất nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vậy kinh tế thị trường đó là cái gì? hoàn cảnh ra đời, cái gì dẫn tới phải phát triển kinh tế thị trường - đặc điểm của nền kinh tế thị trường là như thế nào - các giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường ra sao? Đó là hàng loạt các câu hỏi đặt ra cần được giải quyết, tìm hiểu rõ về nó, ta có thể nắm bắt được kiên thức cơ bản nhất về nền kinh tế thị trường ở nước ta. Kinh tế thị trường phải được nghiên cứu từng bước, qua từng giai đoạn cụ thể để có thể rút ra được tính quy luật của nó, để nắm bắt nó. Vì thế đề tài “Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ” là vô cùng thiết thực và cần thiết, qua đó cộng với niềm thích thú, sự học hỏi của mình (sinh viên kinh tế) em thấy đề tài này là hoàn toàn phù hợp và thỏa mãn với mình. Đề án được viết dựa trên cơ sở thực tiễn, từ những lý luận chung của các nhà kinh tế học tiền bối.
  3. NÔI DUNG I Những vấn đề lý luận chung về kinh tế thị truờng 1. Kinh tế thị trường. Như đã biết, vào cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ, đầu thời kỳ xã hội nô lệ loại người đã có một bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực sản xuất ra của cải vật chất. Trong sản xuất đã bắt đầu có sản xuất thặng dư, tức là phần sản phẩm nhảy vọt quá phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra. Mặc dù lúc đầu sự dư thừa đó chỉ là ngẫu nhiên nhưng cùng với chế độ tư hữu được xác lập, người lao động đã có thể làm chủ những sản phẩm dư thừa đó, mang trao đổi với nhau để nhận lại những sản phẩm mà mình thiếu do kết quả phân công chuyên môn hoá đưa lại thị trường sơ khai xuất hiện từ đó. Tuy nhiên, phải trải qua quá trình phát triển lâu dài, mãi đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế thị trường mới được xác lập, và phải đến cuối giai đoạn phát triển của CNTB tự do cạnh tranh thì kinh tế thị trường mới được xác lập hoàn toàn. Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá với những đặc trưng riêng của nó là người làm ra sản phẩm với mục đích đi bán (để trao đổi) chứ không phải tiêu dùng hay ngẫu nhiên như trước. Đặc trưng đó ngày càng được bổ sung phong phú thêm. Như vậy kinh tế thị trường phát triển từ sơ khai đến hiện đại là một công trình sáng tạo của loài người trong quá trình sản xuất và trao đổi đó là trình độ văn minh mà nhân loại đạt được. Do đó mọi quan điểm cho rằng kinh tế thị trường là phát minh riêng của chủ nghĩa tư bản là không có căn cứ. Việc đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản rồi nó tránh, hoặc sử dụng nó như một công cụ tạm thời, hoặc coi việc áp dụng kinh tế thị trường là mặc nhiên chấp nhận con đường TBCN.... Đều có thể dẫn đến sai lầm đáng tiếc. Ngay trong văn kiện đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định “sản xuất hàng hoá là thành tựu văn minh chung của nhân loại”, chúng ta không chỉ kiên định “không bỏ qua kinh tế hàng hoá ” mà còn khẳng định kinh tế hàng hoá còn tồn tại khách quan cho đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng . lần này trong dự thảo văn kiện đại hội IX tiếp tục khẳng định “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
  4. hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. Kinh tế thị trường có những ưu và nhược điểm gì ? Bất cứ một nề kinh tế nào cũng có những ưu điểm và nhược điểm . Nền KTTT cũng vậy nó bao gồm những ưu và nhược điểm sau . Những mặt tích cực của nền KTTT thể hiện bằng sự phát triển kinh tế vượt bậc . Từ sự phát triển vượt bậc đó khoa học công nghệ cũng có những bước phát triển lớn, khoa học công nghệ phát triển từ đó các công cụ sản xuất ngày một phát triển hơn ,con người được sản xuất trong những điều kiện tốt hơn . Năng xuất lao đông được nâng cao hơn rất nhiều so với trước . Một nền kinh tế phát triển đã làm cho mức sống chung của các nước trên toàn thế giới được nâng cao hơn trước ... Trên đây là một số mặt tích cực của nền KTTT mà chúng ta cần phải phát huy để nền kinh tế ngày càng phát triển hơn . Những mặt tiêu cực của nền KTTT là : Do quá trình hoạt động sản xuất cần phải khai thác tài nguyên thiên nhiên , nhưng do năng xuất lao động cao cộng với việc nhu cầu của người dân ngày càng lớn đã dẫn đến khai thác tài nguyên thiên nhiên quá mức cho phép từ đó tài nguyên thiên nhiên đã dần bị cạn kiệt . Các hoạt động sản xuất chỉ chú ý tới vấn đề sản xuất mà không chú ý tới vấn đề môi trường .các hoạt động sản xuất đã gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường trầm trọng . Một mặt tiêu cực nữa đó là vấn đề đạo đức ,lối sống trong dân . Ngày nay do mức sống của con người được nâng cao , con người dễ tiếp xúc đối với những loại văn hoá độc hại làm ảnh hưởng tới tình trạng đạo đức trong dân ... Từ những mặt tích cực và tiêu cực trên ta phải tìm ra những phương pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực để nền kinh tế được phát triển toàn diện hơn , từ đó cuộc sống của người dân được nâng cao hơn mà không bị ảnh hưởng của những mặt tiêu cực. 3. có thể thực hiện được kinh tế thị trường ở nước ta không?
  5. Một điều cần khẳng định rằng, kinh tế thị trường là hoàn toàn có thể thực hiện được trong Chủ nghĩa xã hội, câu hỏi được trả lời bổi các lý do sau : a)Kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, mà kinh tế hàng hoá đã từng tồn tại trước chủ nghĩa tư bản. Những điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá, và các trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá : kinh tế hàng hoá giản đơn (kinh tế thị trường sơ khai), kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường hiện đại do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Còn bản chất cố hữu của chủ nghĩa tư bản là bóc lột lao động làm thuê và bần cùng hoá họ. Kinh tế hàng hoá không phải là cái do chủ nghĩa tư bản tạo ra, mà là thành tựu văn minh do con người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình. Theo C. Mác, sản xuất và trao đổi hàng hoá là “một nét chung cho những hình thái kinh tế – xã hội hết sức khác nhau” tức là kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội chứ không phải là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản. Vì vậy, không thể cho rằng xây dựng kinh tế thị trường là đồng nghĩa với phát triển chủ nghĩa tư bản. b) Kinh tế thị trường là thể chế kinh tế vận hành, nó không phải là cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội. Nếu quan niệm kinh tế thị trường như là cơ sở kinh tế thì tất nhiên sẽ đi đến kết luận: đã xây dựng kinh tế thị trường, thì chế độ tương ứng với nó phải là chế độ tư bản. Dĩ nhiên kinh tế thị trường và chế độ xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng đó không phải là mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế với kiến trúc thượng tầng. Cơ sở kinh tế cua một chế độ xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội là hệ thống quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cần hiểu rằng thể chế kinh tế là hình thức cụ thể của phương thức, phương pháp, qui tắc cụ thể của việc tổ chức vận hành kinh tế trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định. Thể chế kinh tế là một khái niệm thấp hơn một cấp so với chế độ kinh tế. Mọi chế độ kinh tế có thể có những thể chế kinh tế khác nhau. Do đó, dưới
  6. chủ nghĩa xã hội không phải chỉ có thể áp dụng duy nhất thể chế kinh tế kế hoạch, mà cũng có thể áp dụng thể chế kinh tế thị trường. c) Kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. Kinh tế thị trường là một thể chế kinh tế vận hành mà theo một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, chế dộ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, mà thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào đó, tác động giản tiếp đến thể chế kinh tế. Vấn đề căn bản để hình thành kinh tế thị trường là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập, tự chủ trong sản xuất kinh doanh có lợi ích riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hoá. Vì vậy, trong điều kiện chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa cũng có thể thực hiện thể chế kinh tế thị trường. Nếu sở hữu nhà nước (sở hữu toàn dân) được phân giải thành các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp, thì khi đó sẽ tạo nên những chủ thể kinh tế độc lập có lợi ích riêng, do đó sẽ hình thành được kinh tế thị trường. Sự phân giải các quyền sở hữu toàn dân được thực hiện thông qua việc phát huy tiềm năngcủa các thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 4.Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Với vai trò tích cực của nhà nước vào điều tiết nền kinh tế nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển cao và ổn định. Từ đó ta có thể thấy vai trò của nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế là rất quan trọng. Như ta đã biết vai trò quản lí của nhà nước là rất quan trọng Vai trò đó thể hiện rất rõ qua các chức năng sau : Thứ nhất, đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ pháp luật để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Thực tế chức năng này đã vượt ra ngoài chức năng kinh tế đơn thuần. Nhà nước đã tạo ra hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế phát triển trong cơ chế hoạt động của thị trường.Đồng thời với hành lang pháp lý như vậy thì
  7. các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế sẽ hoạt động trong sự quản lý, bảo trợ của nhà nước. Hai là, Điều tiết nền kinh tế để đảm bảo cho nền KTTT phát triển ổn định. Trong quá trình vận động của nền kinh tế thị trường thì nền KTTT không tránh khỏi những khủng hoảng, thất bại. Mỗi nền kinh tế đều có chu kỳ hoạt động, phát triển tức là có sự tăng, giảm GDP.Với vai trò ổn định kinh tế của mình nhà nước làm dịu đi những giao động nên xuống của các chu kỳ kinh doanh. Việc điều tiết này thông qua các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ. Do đó với vai trò quản lý của mình nhà nước đã làm giảm đi tình trạng thất nghiệp và lạm phát. Tuy nhiên nhà nước cũng không thể điều tiết một cách hoàn hảo cho nên trong nền kinh tế vẫn có những thất bại của thị trường nhưng nó đã ở mức độ thấp hơn. Ba là, Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Trong quá trình vận động của KTTT thì nền kinh tế phải chịu những tác động mà các nhà kinh tế gọi là các tác động bên ngoài. Các doanh nghiệp vì lợi nhuận của mình nên đã khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên gây ô nhiễm môi trường sống của con người và xã hội. Dựa trên sự quản lý của chính phủ buộc những doanh nghiệp gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền cho những thiệt hại đó. Chính sự can thiệp của chính phủ đã ngăn chặn những tác động bên ngoài nhằm nâng cao hiệu quả quản lý. Một nguyên nhân khác cũng làm giảm hiệu quả trong hoạt động của thị trường. Đó là việc xuất hiện các công ty độc quyền. Do xuất hiện các công ty độc quyền trên thị trường, các công ty độc quyền họ ép giá trên thị trường gây ra tình trạng các công ty khác không cạnh tranh được. Do đó làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường do đó dẫn tới tình trạnh kinh tế không phát triển được. Bốn là, nhà nước phải can thiệp vào phân phối nhằm phân phối công bằng trong xã hội, bảo vệ những thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động kinh tế. Việc phân phối công bằng sẽ làm cho cuộc sống của người nghèo trong xã hội được nâng cao. Một vai trò khác của nhà nước thể hiện ở chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Với sự quản lý của nhà nước thì các nước có một nền kinh tế tăng trưởng ổn
  8. định nhờ các chính sách của nhà nước. Nhà nước đã định hướng cho nền kinh tế, các thành phần kinh tế hướng đi. Nhà nước trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực kinh tế nhằm dẫn dắt nền kinh tế của cả nước phát triển theo. Với một môi trường vĩ mô ổn định, các thành phần kinh tế phát triển thì tình trạng thất nghiệp và lạm phát cũng giảm. Nhà nước ta phải xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng tốt để đảm bảo cho yêu cầu phát triển kinh tế. Nhà nước phải có sự quản lý chặt chẽ đối với các thành phần kinh tế nhưng không được can thiệp quá sâu vào đó. Với các chức năng như vậy, nước ta đã có một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ từ sau đại hội Đảng 6. Từ nước có một nền kinh tế lạc hậu, ngày nay nước ta đã có môt nền kinh tế tương đối phát triển và là một nước có môi trường đầu tư ổn định. II/ Sự hình thành và phát triển nên kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa 1/ Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta Về phương diện kinh tế có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là: thời kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tăng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa người lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã
  9. hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiên vật, sinh tồn, tự cung, tự cấp gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá, bắt nguồn từ kinh tế hàng hoá đơn giản, ra dời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan giã, dựa trên hai tiền đè cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay: Từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế-xã hội không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trọng xã hội phong kiến, và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là nền kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường (còn gọi là giai đoạn kinh tế thị trường sơ khai giã man). Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn phát triển kinh tế thi trường tự do. Đặc trưng quan trọng của giai đoạn này là sự phá triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba,là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc của giai đoạn này là nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích đầu tư và tiêu dùng, cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính, tín dụng, tiền tệ ... để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường
  10. trong một nền hinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng kinh tế nhanh. Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hoá (sản xuất hàng hoá nhỏ) tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” (nói theo cách nói của V.I.Lê-Nin) và sự phát triển của KTTT trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, KTTT không phải là một chế độ kinh tế-xã hội. KTTT là một hình thức và phương pháp vận hành kinh tế các qui luật của thị trường chi phối việc phân bổ các tài nguyên, qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào (bao nhiêu) và sản xuất cho ai. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Sự cạnh tranh trong cơ chế thị trường theo qui luật giá trị đòi hỏi các chủ thể sản xuất- kinh doanh không ngừng đổi mới, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, nâng cao năng xuất lao động, tiết kiệm chi phí, mở rộng qui mô của sản xuất-kinh donh. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học-công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất-kinh doanh. Sự phát triển của KTTT gắn liền với quá trình phát triển của văn minh nhân loại, của khoa học-kỹ thuật, của lực lượng sản xuất. Nhiều học giả đã khái quát rằng: Giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn gắn liền với nền văn minh nông nghiệp và kỹ thuật thủ công; Giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại gắn liền với nền văn minh trí tuệ, kỹ thuật vi điện tử-tin học ... Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số.Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Đến đại hội VII đảng ta đã xác định việc đổi mới cơ chế kinh tế nước ta là một tất yếu khách quan và trên thực trạng diễn ra việc đó tức là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là một sự thay đổi về nhận thức có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận cũng như trong thực tế lãnh đạo của
  11. đảng trên mặt trận làm kinh tế. Việc chuyển đổi trên hoàn toàn đúng đắn. Nó phù hợp với thực tế của nước ta phù hợp với các qui luật kinh tế và xu thế của thời đại. Nếu không thay đổi cơ chế vẫn giữ cơ chế kinh tế cũ thì không thể nào có đủ sản phẩm để tiêu dùng chứ chưa nói đến tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Thực tế những năm cuối của thập kỷ 80 đã chỉ rõ thực hiện cơ chế kinh tế cho dù chúng ta đã liên tục đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, nhưng hiệu quả của nền sản xuất xã hội đạt mức rất thấp. Sản xuất không đáp ứng nổi tiêu dùng ,tích luỹ hầu như không có đôi khi còn ăn lạm cả vào vốn vay của nước ngoài. Do đặc trưng của nền kinh tế tập trung là rất cứng nhắc cái đó chỉ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế . Và chỉ có tác dụng phát triển nền kinh tế theo chiều rộng .Nền kinh tế chỉ huy ở nước ta tồn tại quá dài do đó nó không những còn tác dụng đáng kể trong việc thúc đẩy sản xuất mà nó còn sinh ra nhiều hiện tượng tiêu cực làm giảm năng xuất, chất lượng và hiệu quả sản xuất. Xét về tồn tại thực tế ở nước ta những nhân tố của nền kinh tế thị trường . Về vấn đề này có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau. Nhiều nước cho rằng thị trường ở nước ta là thị trường sơ khai. Thực tế kinh tế thị đã hình thành và phát triển đạt những mức phát triển khác nhau, ở hầu hết các đô thị và vùng hẻo lánh đang được mở rộng với thị trường quốc tế.Nhưng thị trường ở nước ta phát triển chưa đồng bộ còn thiếu hẳn thị trường các yếu tố sản xuất như thị trường lao động ,thị trường vốn và thị trường đất đai về cơ bản vẫn là thị trường tự do, mức độ can thiệp của nhà nước còn rất thấp. Xét về mối quan hệ kinh tế đối ngoại ta thấy nền kinh tế nước ta đang hoà nhập với nền kinh tế thị trường thế giới ,sự giao lưu về hàng hoá dịch vụ và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với thị trường thế giới.Tương quan giá cả các loại hàng hoá trong và giá cả hàng hoá quốc tế. Xu hướng chung phát triển kinh tế thế giới là sự phát triển kinh tế của một nước không tách rời sự phát triển và hoà nhập quốc tế. Sự cạnh tranh giữi các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất không còn là dân số đông ,vũ khí nhiều ,quân đội mạnh mà là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách của các quốc gia tạo được
  12. nhiều của cải vật chất trong quốc gia của mình là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện, thất nghiệp thấp , tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu , vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ chủ yếu để bảo vệ uy tín duy trì sức mạnh của các đảng cầm quyền. Tuy vậy,nền kinh tế thị trường hướng tới của nước ta sẽ không phải là nền kinh tế thị trường thuần tuý. Lý thuyết “để mặc” cho thị trường tự do cạnh tranh là không tồn tại. Ngoài bàn tay “vô hình” , vai trò của chính phủ để điều tiết, khắc phục những khuyết tật của thị trường tạo cho nền kinh tế ổn định và phát triển. Đói với nước ta vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường cũng sẽ rất quan trọng. Sự phát triển kinh tế –xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xãhội , nhân văn nhất định. Phát triển theo nghĩa đầy đủ là bên cạnh sự gia tăng về lượng (tăng trưởng kinh tế) còn bao hàm những thay đổi về chất(những biến đổi về mặt xã hội). “Phát triển là nâng cao phúc lợi của nhân dân. Nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khoẻ và bình đẳng về cơ hội là tất cả những yếu tố cơ bản của phát triển kinh tế. Bảo đảm các quyền chính trị và công dân là một mục tiêu phát triển rộng hơn ”. Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác hoạ quy luật vận động tổng quát của lịch sử nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đói lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của loài người được đánh dấu bằng tiến bộ-xã hội của sự phát triển. Nó là cach thức giải quyết các quan hệ xã hội vì cuộc sống tốt đẹp của đại đa số nhân dân lao động, của toàn tể xã hội ,là sự thiết lập một trật tự xã hôi với mục tiêu công bằng văn minh. Sự phát triển chỉ đem lại sự giàu có và sự thống trị của tư bản, của một số ít người trong xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất tư bản chủ nghĩa là sự phát triển cổ điển.Sự phát triển đem lại sự giàu có, phồn vinh , hạnh phúc cho đại đa số nhân dân lao động cho toàn thể xã hội, thì sự phát triển đó mang tính chất xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là chủ tịch HCM nhằm giải phóng nhân dân lao động, đem lại hạnh phúc và
  13. giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh và hạnh phúc của nhân dân lao động, vì sự hùng mạnh và giàu có của cả xã hội, của toàn xã hội ,của toàn dân tộc,là sự phát triển mang tính chất xã hội chủ nghĩa, sự phát triển hiện đại. Nghiã là, chúng ta phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Điều đó không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế nhằm đạt được mục tiêu dân giàu nước mạnh,mà còn bao hàm vấn đề quan trọng mang tính hiện đại, là thiết lập một kiểu tổ chức xã hội, một trật tự xã hội với nộng dung công bằng và văn minh. Nhà nước XHCN, “của dân, do dân và vì dân” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện quan trọng đảm bảo thực hiện sự định hướng đó. 2-Những đặc điểm kinh tế thị trường nước ta Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội –xã hội chủ nghĩa ). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hạu và kém phất tiển nhưng khi nước ta chuyển sang kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và là yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên, sự phát triển kinh tế –xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cùng là nội dung, yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Nhân có giàu thì nước mới mạnh, bảo đmr độc lập, tự chủ và toàn vện lãnh thổ của quốc gia. Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu
  14. quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có thamgia bởi bàn tay “hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò ở một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ, thống nhất,không tách rời, biệt lập. Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới.Nhà nước ta là nhà nước “của dân,do dân và vì dân”,nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là môt nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường hiện có trên thế giới. Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiền thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia, quản lý của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Các qui luật kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh – hợp tác... )sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Qui luật giá trị qui định mục đích trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), qui định sự
  15. phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượg kinh tế của mình (kinh tế nhà nước), nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung – tổng cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế là: thị trường điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống nhất. Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nề kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nề sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa hội nhấp với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính là: thương mại; đầu tư; và chuyển giao khoa học – công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Thứ sáu, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, lừ tạo cho mọi tầng
  16. lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng với những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hịên sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai doạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng thu nhập và “chia đều sự nghèo đói” cho mọi người. Mức độ bảo đảm công bằng cho xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu qúa nhấn mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn co hẹp, thì chác chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Thứ bảy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn), thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được thực hiệ n theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao dộng và tư bản (vốn), giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), chủ nghĩa tư bản coi trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ. Bởi vậy, trong phân phối thu nhập, phân phối thành quả lao động, chủ nghĩa tư bản nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đén yếu tố tích luỹ - đầu tư hơn là yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong phân phối thu nhập và thành qủa lao động của xã hội, chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương của ngời lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến vai trò tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản
  17. kinh doang giờ đây đã trở thành điều bình thườn. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số ngời có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều tiết thu nhập của nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tóm lại, quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỉ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” - So sánh với đặc điểm của kinh tế thị trường các nước TBCN - Sự giống nhau: + Cũng có sự hoạt động, phương thức như nhau. + Cũng có sự bảo hộ của Nhà nước - Sự khác nhau: + Kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu làm nền tảng, thì kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dựa trên ché độ công hữu + Trong mô hình kinh tế thị trường TBCN, các thành phần kinh tế tồn tại biệt lập, cạnh tranh, liên kết loại trừ nhau thì ngược lại trong kinh tế thị trường định hội chủ nghĩa chúng không tồn tại đối lập, không loại trừ nhau mà hợp tác đi lên chủ nghĩa xã hội thông qua kinh tế hợp tác. + Mục rtiêu của chủ nghĩa tư bản là lợi cho các nhà tư sản, thì chủ nghĩa xã hội có mục tiêu cho toàn xã hội. + chính quyền của CNTB là chính quyền của giai cấp tư sản, còn chính quyền của CNXH là chính quyền của nhân dân. + Sự phân cực trong xã hội của CNTB lớn hơn, rõ ràng hơn, chủ nghĩa xã hội quan tâm tới công bằng xã hội.
  18. 3-Thực trạng. 3.1. Giai đoạn trước năm 1986. Từ năm 1975 đất nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Cách mạng Việt Nam hoàn toàn chuyển sang giai đoạn mới, cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp lại chịu ảnh hưởng nặng nền do chiến tranh lâu dài. Trong 15 năm nhân dân ta đã không ngừng phấn đấu vượt qua bao khó khăn thử thách thống nhất. Chúng ta đã có nhiều cố gằng trong việc hàn gắn vết thương chiến tranh khôi phục nền kinh tế bị tàn phá nặng nền từng bước xác lập quan hệ sản xuất mới bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển sự nghiệp văn hoá giáo dục y tế thiết lập củng cố chính quyền nhân dân trong cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ là phổ biến và nặng nề tính tự cung tự cấp. Trình độ trang thiết bị kỹ thuật trong sản xuất cũng như kết cấu hạ tầng kinh tế văn hoá xã hội lạc hậu, mất cân đối, chưa tạo được tích luỹ trong nước và lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả tiêu cực. Nền kinh tế hoạt động với hiệu quả thấp. Khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nhiều năm với đặc trưng sản xuất chậm và không ổn định, lạm phát lên đến 774,7% năm 1986. Tài nguyên thiết bị lao động và tài năng mới được sử dụng thấp. Đời sống nhân dân thiếu thốn, nếp sống văn hoá tinh thần và đạo đức kém lành mạnh, trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm, tham nhũng nhiều, tệ nạn xã hội phát triển. Trên thực tế nền kinh tế nước ta từ nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp hành trung ương khoá IV (năm 1979) các quan hệ hàng hoá tiền tệ đã được chấp nhận nhưng mới chỉ ở mức độ thứ yếu. Đó là do quá nhiều thập kỷ, qua tư tưởng kinh tế xã hội chủ nghĩa mang nặng thành kiến, quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trường. Coi nó là biểu hiện thuộc tính của chế độ tư hữu và tư bản. Mặt khác là do chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo mô hình dập khuôn giáo điều chủ quan duy ý chí các mặt bố trí cơ cấu kinh tế thiếu về phát triển công nghiệp nặng, quy mô lớn, với xoá bỏ các hình thức kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế quốc doạnh và kinh tế tập thể, nặng nền hình thức phủ nhận nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường, bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu quả. Những
  19. sai lầm đó đã kìm hãm lực lượng sản xuất và nhiều động lực phát triển. Cuộc cải cách kinh tế bị đầy lùi. Tư tưởng Lênin trong chính sách kinh tế Mác bị xem như bước lùi tạm thời bất đắc dĩ. 3.2. Giai đoạn năm 1986-1990 Trước tình hình đó, Đại hội VI đã có những tư tưởng đổi mới nhưng chưa đi ngay vào cuộc sống, còn có lực cản, nền kinh tế còn tiếp tục gặp khó khăn trong những năm đầu nhưng từ năm 1989 các biện pháp đổi mới như áp dụng chính sách lãi suất dương, xoá bỏ chế độ tem phiếu, loại bỏ một số khoản chi ngân sách bao cấp, mở rộng quan hệ thị trường... Đã thứcự đi vào cuộc sống và tạo chuyển biến rõ rệt làm cho nền kinh tế có nhiều khởi sắc. Ví dụ: như trong giai đoạn 1986-1990 đầu tư toàn xã hội tư bản là 12,5% GDP tăng trưởng kinh tế trung bình là 3,9%, kim ngạch xuất khẩu đạt 23 tỷ USD/năm. Về mặt lạm phát thì năm 1986 là 774,7% đến năm 1990 giảm xuống còn 67,1%. 3.3. Giai đoạn từ 1991-2000: Do mới có một số biện pháp được áp dụng vào cuối kỳ kế hoạch 1989-1990 nên kết quả của thời kỳ này còn hạn chế. Song cái được của thời kỳ này là chúng ta đã thực hiện chuyển đổi cơ chế mạnh mẽ, đến giai đoạn 1991-1995 sự chuyển đổi đó đã phát huy tác dụng và tạo nên thời phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Đại hội Đảng VII (6/1991) với những quyết sách quan trọng như phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục đổi mới cả về bề rộng và chiều sâu kìm chế đẩy lùi lạm phát giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Những quyết sách âý được đưa ra trong thời điểm “ngàn cân treo sợi tóc” trong bối cảnh quốc tế không thuận lợi, nguồn lực phát triển bi thiếu hụt... dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho quá trình chuyển đổi kinh tế để góp phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt 2,8% (mục tiêu là 5-6,5%), trong đó Nông nghiệp tăng 4,5%, công nghiệp và xây dựng cơ bản tăng 13,6% và dịch vụ tăng 8,8% lạm phát hạn chế ổn định ở mức thấp (bình quân 23,4%/năm). 4- Giải Pháp
  20. 4.1. Đổi mới tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện từ đổi mới kinh tế là trọng tâm, đến đổi mới chính trị văn hoá xã hội, từ đổi mới tư duy nhận thức tư tưởng đến hoạt động thực tiễn của Đảng Nhà nước và nhân dân vấn đề có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp đổi mới là Đảng phải đổi mới trên cả 3 lĩnh vực: đổi mới tư duy là đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh nghiệm, giáo tiền, chủ quan nên hình. Phải tiến hành loại bỏ những quan điểm sai trái khắc phục những quan điểm lạc hậu và chủ nghĩa xã hội. Về công nghiệp hoá ..... Đổi mới tư duy nhằm quán triệt phương pháp tư duy biện chứng duy vật, hình thành những quan điểm mới về xã hội, và con đường đi lệ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trên nền tảng lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ Đại hộ VI đến nay đã gần 15 năm, đã qua các kỳ đại hội VII, VIII đường lối đổi mới đã đựơc cụ thể hóa và phát triển, đem lại những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam. Đảng cộng sản trước sau như một vẫn khẳng định mục tiêu chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam. Nhưng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã xuất hiện bệnh chủ quan duy ý chí. Đại hội VII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu, tìm tòi xây dựng đường lối, mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí vi phạm quy luật khách quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc thúc đầy mở việc xây dựng công nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng, quán triệt nguyên tắc khách quan khắc phục bệnh chủ qyan duy ý chí là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. 4.2. Thực hiện tốt vai trò, chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế: Nhà nước có chức năng cơ bản là tổ chức và xây dựng kinh tế vì vậy có chức năng quản lý. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của Nhà nước càng đặc biệt quan
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2