LUẬN VĂN: Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
lượt xem 21
download
Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta, trước hết và trọng tâm là đổi mới kinh tế đồng thời từng bước đổi mới chính trị, được thực hiện từ quyết định quan trọng - Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986). Đổi mới kinh tế - xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, phù hợp với yêu cầu khách quan của thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- LUẬN VĂN: Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của luận văn Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở nước ta, trước hết và trọng tâm là đổi mới kinh tế đồng thời từng bước đổi mới chính trị, được thực hiện từ quyết định quan trọng - Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986). Đổi mới kinh tế - xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN là một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, phù hợp với yêu cầu khách quan của thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Trong đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam đã bước đầu đề ra nội dung, hình thức và bước đi cụ thể, thích hợp. Từng bước chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Thực hiện đường lối đó, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đóng vai trò hết sức quan trọng - quản lý và điều tiết nền KTTT, bảo đảm quá trình phát triển theo đúng định hướng XHCN. Thực tiễn từ 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta đã và đang đạt được nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng, song cũng đặt ra nhiều vấn đề phức tạp - những thách thức, trở ngại lớn như nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ - khóa VII đã chỉ rõ, đặc biệt là nguy cơ chệch hướng XHCN.
- Cùng với nguy cơ, thách thức trong nước, những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới - xu hướng khu vực hóa, quốc tế hóa và toàn cầu hóa đời sống kinh tế thế giới... đem đến thời cơ, vận hội mới và những thách thức lớn cho nước đang ta. Những năm qua, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã tích cực đổi mới theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã phát huy vai trò, hiệu lực quản lý, phát triển kinh tế - xã hội và đã đạt được một số hiệu quả rất quan trọng. Song trong quá trình thực thi quyền lực còn tồn tại nhiều thiếu sót, khuyết điểm cần được khắc phục. Trước thực trạng đó, đặt ra vấn đề khách quan là Nhà nước phải tự đổi mới và hoàn thiện mình như thế nào? Điều tiết, quản lý và can thiệp vào kinh tế bằng những nội dung, giải pháp nào để phát huy vai trò, hiệu lực quản lý của Nhà nước, bảo đảm quyền lực chính trị của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và phát triển nền KTTT đúng định hướng XHCN... Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề "Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" làm luận văn Thạc sĩ Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, vấn đề nhà nước và thị trường, vai trò của nhà nước trong nền KTTT đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Đặc biệt từ sau cuộc khủng hoảng năng lượng (những năm 70) và khủng hoảng ở các nước XHCN (Liên Xô và Đông Âu tan rã)... đã đặt lại vấn đề phải nghiên cứu về vai trò nhà nước trong đời sống kinh tế như thế nào để đạt được hiệu quả. Theo hướng trên, đã có nhiều công trình nghiên cứu nhưng nhìn chung những kết quả được rút ra đều tập trung vào một số quan điểm:
- Thứ nhất: Nhà nước không thể can thiệp vào thị trường (nhà nước tối thiểu, thị trường tối đa), thị trường có quy luật riêng, "Bàn tay vô hình" của thị trường sẽ tự nó giải quyết tất cả. ở nơi nào có sự can thiệp của nhà nước thì ở đó thị trường thất bại, kinh tế không phát triển được. Thứ hai: Nhà nước hoàn toàn lãnh đạo, quản lý kinh tế bằng các kế hoạch trong mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế. Đại diện cho những quan điểm này là những nhà tân mác xít, họ cổ vũ và khẳng định mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ (kiểu Xô viết) coi đó là mô hình tối ưu cho sự phát triển. Thứ ba: Thừa nhận KTTT, đồng thời nhà nước phải can thiệp tối đa bằng các công cụ điều tiết vĩ mô (nhà nước tối đa). Theo quan điểm này chỉ có nhà nước (bàn tay hữu hình) mới có khả năng hạn chế và khắc phục những khuyết tật của KTTT, đặc biệt là trong lĩnh vực xã hội. Thứ tư: Một quan điểm khác, không nói đến nhà nước tối đa hay tối thiểu, họ thừa nhận sự tham gia và can thiệp cần thiết theo chức năng của nhà nước trong KTTT. ở nước ta, nhận thức về vai trò nhà nước trong nền KTTT cũng có nhiều thay đổi. Từ tuyệt đối hóa vai trò nhà nước đến nhận thức ngày càng đúng đắn hơn về vai trò của nó trong nền KTTT. Mặc dù vậy, những kết quả nghiên cứu về quan hệ giữa nhà nước và thị trường còn chưa thỏa đáng, cần phải quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa. Đảng ta chủ trương xây dựng một nền KTTT định hướng XHCN là hoàn toàn đúng đắn. Song vấn đề đặt ra là: Vai trò Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong nền KTTT định hướng XHCN như thế nào? Đây là vấn đề rất lớn cả về lý luận cũng như thực tiễn và mới chỉ có những định hướng nhưng chưa được làm sáng tỏ về mặt khoa học.
- Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu khi nói đến vai trò nhà nước trong KTTT thường vấp phải cách tiếp cận cơ giới, nghĩa là phân định nhà nước "tối thiểu", "tối đa", "điều tiết vĩ mô"... Căn cứ vào kinh nghiệm nào đó, các nhà nghiên cứu dường như muốn quy định một sân chơi riêng biệt cho nhà nước trong KTTT. Theo ý kiến chúng tôi, cần khắc phục cách tiếp cận như vậy. Nên chăng, cần nhìn nhận vai trò của nhà nước trong nền KTTT là giải quyết mối quan hệ giữa quyền lực chính trị và kinh tế trong việc tìm con đường phát triển tối ưu cho một quốc gia. Nhà nước không chỉ là "tham gia", "can thiệp" mà là "chủ thể" kinh tế có quyền lực chính trị trong nền KTTT. Vì vậy luận văn này bước đầu thử đặt ra và lý giải một hướng tiếp cận như vậy. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: - Trên cơ sở lý luận khoa học chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam, kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta, và nhà nước của một số quốc gia, bước đầu xác định một cách tổng quát vấn đề vai trò quyền lực nhà nước trong KTTT định hướng XHCN. - Nêu lên một số thực trạng và giải pháp về vai trò nhà nước trong KTTT định hướng XHCN ở nước ta, dưới góc độ Chính trị học. Nhiệm vụ của luận văn:
- Một là: Hệ thống hóa một cách khái quát các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và các lý thuyết hiện đại về vai trò, chức năng của nhà nước trong quản lý kinh tế và KTTT, từ đó làm rõ và phân tích vấn đề đó ở nước ta. Hai là: Phân tích thực trạng thực thi quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Ba là: Đề xuất một số định hướng, giải pháp nhằm xác định vai trò Nhà nước trong nền KTTT ở nước ta hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Vận dụng lý luận và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về mối quan hệ chính trị và kinh tế, vai trò nhà nước trong quản lý kinh tế và kinh tế XHCN; một số lý thuyết của khoa học kinh tế và khoa học chính trị hiện đại cũng như một số kinh nghiệm nước ngoài... để lý giải những vấn đề thực tiễn đặt ra. Phương pháp nghiên cứu: Chủ yếu vận dụng phương pháp lôgíc - lịch sử và các phương pháp khác: Chính trị học so sánh; xã hội học chính trị, so sánh, thống kê, định lượng... 5. Giới hạn nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu vai trò Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đến nay. 6. Đóng góp của luận văn Trên cơ sở hệ thống hóa những thành tựu nghiên cứu về quyền lực nhà nước trong các nền kinh tế, luận văn góp phần làm rõ vai trò quyền lực Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. Đề xuất một số định hướng và giải pháp cho việc tăng cường vai trò Nhà nước trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết và danh mục tài liệu tham khảo.
- Chương 1 Lý luận chung về vai trò nhà nước trong kinh tế và kinh tế thị trường 1.1. Quyền lực nhà nước trong phát triển kinh tế 1.1.1. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước trong phát triển kinh tế và kinh tế thị trường Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng, nhà nước luôn có chức năng kinh tế. Nghĩa là, nhà nước ra đời và tồn tại không phải chỉ thuần túy để làm chính trị, không chỉ quản lý xã hội mà còn quản lý và phát triển kinh tế. Nhà nước chính là đại diện cho giai cấp thống trị về kinh tế và chức năng kinh tế của nhà nước cũng chính là nhằm củng cố địa vị của giai cấp cầm quyền. Khẳng định chức năng kinh tế của nhà nước, phân tích mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Lênin cho rằng: không có chính trị đơn thuần và kinh tế đơn thuần mà chính trị và kinh tế luôn gắn bó với nhau, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, lập luận một cách khác đi là quên mất điều thường thức của chủ nghĩa Mác" [20, tr. 349], "Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại" [23, tr. 147]. Chính trị thực chất là quan hệ giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc. Trong đó trước hết và cơ bản là quan hệ về kinh tế. Trong chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (biểu hiện tập trung ở quyền lực nhà nước) là mục tiêu và trực tiếp
- mà bất cứ giai cấp, nhóm xã hội nào cũng muốn nắm và chi phối. Vì nắm được quyền lực nhà nước là nắm được công cụ cơ bản, trọng yếu để giải quyết quan hệ lợi ích với các giai cấp khác theo hướng có lợi cho giai cấp mình. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: tất cả các cuộc đấu tranh giai cấp từ trước tới nay, xét đến cùng đều vì mục đích kinh tế - giải phóng kinh tế và được tiến hành trước hết vì lợi ích kinh tế. Và do đó một khi xã hội còn tồn tại giai cấp, còn tồn tại nhà nước thì tất cả những vấn đề chính trị và bất kỳ một thái độ nào cũng đều ảnh hưởng từ vấn đề kinh tế. Vì vậy Lênin khẳng định: Trong quá trình phát triển xã hội, kinh tế quyết định chính trị còn khi hoạch định chính sách thì chính trị phải chiếm hàng đầu, chiếm vị trí ưu tiên, phải đưa vào các chính sách, các quan hệ giai cấp các lực lượng kinh tế xã hội. "Không có một lập trường chính trị đúng thì một giai cấp nhất định nào đó không thể nào giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình trong sản xuất" [21, tr. 350]. Sự tác động của chính trị vào kinh tế thể hiện thông qua vai trò hoạt động của nhà nước - các thể chế và các chính sách của nhà nước. Sự tác động đó luôn diễn ra theo hai hướng: - Nếu sự tác động cùng chiều sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Nghĩa là, nhà nước trước hết bằng các thể chế chính trị tạo ra các quan hệ kinh tế phù hợp với sự phát triển của LLSX. Nhà nước nắm bắt các quy luật phát triển của nền kinh tế, tạo môi trường pháp lý và hoạch định các chính sách để phát huy các mặt tích cực của các xu hướng tích cực, đồng thời loại bỏ những mặt, những nhân tố tiêu cực cản trở sự tác động của các quy luật kinh tế.
- - Sự tác động của nhà nước theo hướng ngược chiều sẽ dẫn tới kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Nghĩa là, nhà nước duy trì các quan hệ kinh tế lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của LLSX hoặc bảo vệ lợi ích của giai cấp phản động chống lại lợi ích của giai cấp đang lên, lợi ích của nhân dân lao động. Hoạt động bất chấp quy luật khách quan của kinh tế - xã hội. Nhà nước với chức năng kinh tế, có vai trò hết sức to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, vai trò đó được phát huy và thực hiện có hiệu quả hay không là phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ chính trị và bản chất giai cấp của từng nhà nước. Các nhà nước (chủ nô, phong kiến, tư sản) đều bằng cách này hay cách khác kiểm soát các hoạt động kinh tế của xã hội, đặt ra những chính sách, luật lệ nhằm giữ vững vị trí thống trị của giai cấp cầm quyền. Ngay dưới CNTB, mặc dù các thể chế thị trường phát triển cao, nhà nước TBCN tham gia vào các quá trình kinh tế với rất nhiều hình thức (mà đỉnh cao là CNTB độc quyền nhà nước - sự liên minh giữa nhà nước và các tập đoàn tư bản) cũng đều nhằm củng cố vị trí thống trị của giai cấp tư sản - giai cấp cầm quyền. Khác với nhà nước của các giai cấp bóc lột, nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới - nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước thực hiện trấn áp giai cấp bóc lột - giai cấp tư sản và bọn phản động, nhà nước dân chủ với quảng đại quần chúng. Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế và vì lợi ích kinh tế của nhân dân lao động. Trong hai chức năng trấn áp và xây dựng của nhà nước XHCN, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng chức năng xây dựng là chủ yếu.
- Để làm được việc đó, giai cấp vô sản phải bằng quyền lực nhà nước của mình, tiến hành một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết, trọng tâm là phát triển kinh tế, cải tạo những cơ sở kinh tế cũ, xây dựng nền tảng kinh tế mới với các quan hệ kinh tế lành mạnh vì mục đích con người. Với tư cách là chủ thể kinh tế, nhà nước XHCN sử dụng những yếu tố vật chất (đất đai, tiền vốn, lao động, tài nguyên) và tạo ra những quan hệ cần thiết để trực tiếp quản lý, sản xuất hoặc lưu thông, dịch vụ trên những ngành, vùng chủ chốt. Đồng thời, nhà nước là người đại diện cho ý chí và quyền lực của nhân dân, nắm trong tay các công cụ, phương tiện quản lý (chính sách, kế hoạch, luật pháp, tài chính, ngân hàng...) và kiểm soát việc sử dụng tài sản quốc gia, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế theo quan điểm mục tiêu đường lối phát triển kinh tế của giai cấp lãnh đạo - giai cấp công nhân mà đại biểu là Đảng cộng sản. Trong thời kỳ này, nhiệm vụ của nhà n ước XHCN là phải làm gì, làm như thế nào để tạo ra năng suất lao động ngày càng cao để chiến thắng hoàn toàn CNTB. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định bước chuyển từ CNTB lên CNXH không phải một sớm một chiều mà là một thời kỳ quá độ lâu dài - thời kỳ quá độ lên CNXH (Mác gọi là những "cơn đau đẻ" kéo dài). Đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là kết cấu kinh tế - xã hội mới còn tồn tại đan xen với kết cấu kinh tế - xã hội cũ. Nền kinh tế có nhiều thành phần tồn tại, tác động đan xen với nhau, trong đó thành phần kinh tế XHCN thậm chí chưa thắng lợi hoàn toàn. Vì vậy việc nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu của thời kỳ quá độ. Chính Mác đã chỉ rõ: Không một hình thức kinh tế nào, biến đi trước khi nó còn phục vụ được cho các lực lượng sản xuất mà nó đã dọn khoảng đất trống cần thiết cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất ấy; Ngược lại, không một hình thức kinh tế nào có thể ra đời trước khi xuất hiện đầy đủ các tiền đề vật chất cần thiết cho nó. Vì kết cấu nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế nên hệ thống các quy luật kinh tế hoạt động trong thời kỳ này rất đa dạng. Bên cạnh những quy luật kinh tế XHCN mới hình thành nhưng chưa phát huy đầy đủ tác dụng của nó, vẫn còn những quy luật tương
- ứng với các thành phần kinh tế không XHCN còn hoạt động và phát huy tác dụng, tác động đến nền kinh tế quốc dân với mức độ khác nhau. Vì vậy trong quá trình quản lý nền kinh tế, nhà nước XHCN phải tính đến việc vận dụng toàn bộ hệ thống các quy luật đó sao cho phù hợp, có lợi cho CNXH. Một mặt tạo ra những điều kiện vật chất và xã hội để các quy luật kinh tế XHCN phát huy ngày càng đầy đủ tác dụng của mình - là nhân tố chủ đạo; mặt khác, chủ động vận dụng các quy luật kinh tế khác, hướng theo quỹ đạo của CNXH. Đây là việc khó khăn, phức tạp, dễ phạm sai lầm "tả" hoặc "hữu khuynh". Do đó đòi hỏi nhà nước XHCN phải có bản lĩnh, có khả năng tổ chức quản lý giỏi, biết tìm ra những hình thức, phương pháp mới phong phú, đa dạng để hướng các thành phần kinh tế đi theo quỹ đạo của CNXH. Từ thực tiễn nước Nga, khi chấm dứt nội chiến và chuyển sang thời bình, Lênin đã nghiêm khắc rút ra những bài học của chính sách "cộng sản thời chiến", phê phán những khuynh hướng tư tưởng chủ quan, nóng vội (muốn lập tức quốc hữu hóa, quốc doanh hóa, hạn chế không sử dụng các hình thức kinh tế quá độ đang còn tồn tại và còn tác dụng đối với việc phát triển LLSX), dẫn đến hậu quả nghiêm trọng: Kinh tế không phát triển và gây sự bất bình của nhân dân đối với chính quyền Xô viết... Theo Lênin - quá trình chuyển từ thời chiến sang thời bình "không những chỉ liên quan đến những cơ sở của công cuộc kiến thiết kinh tế mà còn liên quan đến các cơ sở của những mối quan hệ giữa các giai cấp còn tồn tại trong xã hội chúng ta". "Vấn đề này là vấn đề cần giải quyết". Không thực hiện được bước chuyển ấy sẽ là thất bại của Đảng của giai cấp công nhân. Lênin cho rằng, điều kiện thời bình phải xem xét lại tất cả các quan điểm lý luận và thực tiễn sự phát triển kinh tế - xã hội nước Nga, thậm chí thay đổi căn bản cách tiếp cận với CNXH. Chính từ thực tiễn nước Nga, Lênin đã đưa ra NEP, trong đó Người nêu rõ những nhiệm vụ và chính sách kinh tế mà nhà nước chuyên chính vô sản phải thay đổi là:
- - Nhà nước vô sản phải thực hiện xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, phát triển các quan hệ thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước XHCN. Các thành phần kinh tế đó bao gồm: (1) Kinh tế nông dân kiểu gia trưởng; (2) kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ (chủ yếu là nông dân); (3) kinh tế CNTB tư nhân; (4) kinh tế CNTB nhà nước; (5) kinh tế của CNXH [21, tr. 248]. Các thành phần kinh tế trên đây đan xen với nhau, trong đó thành phần tiểu tư sản (nông dân) chiếm ưu thế. Các thành phần này đấu tranh với nhau mà chủ yếu là cuộc đấu tranh giữa thành phần tiểu tư sản và tư bản tư nhân với CNXH và CNTB nhà nước. Nghĩa là đấu tranh giữa khuynh hướng sản xuất nhỏ và sản xuất lớn. Thắng lợi của CNXH phụ thuộc vào thắng lợi của khuynh hướng sản xuất lớn. Trong nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH, Lênin đặc biệt chú ý và luôn luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của thành phần kinh tế CNTB nhà nước, đặt hầu hết sự chú ý của nhà nước Xô viết vào việc phát triển thành phần kinh tế này. Thậm chí bước sang giai đoạn thực hiện NEP, Lênin coi đó là bắt đầu một thời kỳ quá độ, là một bước tiến từ "một nước Cộng hòa Xô viết XHCN chuyển sang CNTB nhà n ước" [21, tr. 247] và ở Nga từ kinh tế tiểu tư sản đến CNXH và CNTB nhà nước đều trải qua một con đường [21, tr. 254] CNTB nhà nước theo Lênin là "sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH, là nấc thang lịch sử mà giữa nó (nấc thang đó) với nấc thang được gọi là CNXH thì không có một nấc thang nào ở giữa cả" [21, tr. 250]. CNTB nhà nước (trong đó có cả chính sách tô nhượng) mà mục đích của nó dưới CNXH theo Lênin là kiểu quan hệ kinh tế mà bên trên có vẻ một sự liên minh với CNTB nước ngoài, cái kiểu quan hệ kinh tế ấy sẽ tạo cho chính quyền của giai cấp vô sản có khả năng tiến hành ở bên dưới việc trao đổi tự do với nông dân, Lênin còn cho rằng "hoặc là những quan hệ kiểu ấy hoặc là không có gì hết" [21, tr. 82]. Vấn đề CNTB nhà nước, vấn đề mà "ngay cả Mác cũng không viết một lời nào" là một đóng góp quan trọng của Lênin trong quá trình phát triển chủ nghĩa Mác về xây
- dựng CNXH trong điều kiện còn lạc hậu về kinh tế kỹ thuật. Đây cũng chính là một chỉ dẫn quý báu của Lênin về việc sử dụng quyền lực nhà nước của giai cấp vô sản trong phát triển kinh tế. Trong điều kiện nước Nga sau Cách mạng tháng Mười, Lênin coi CNTB nhà nước là thành phần kinh tế cao hơn, đứng trên thành phần kinh tế XHCN. Vấn đề khác nhau của CNXH và CNTB nhà nước chính là vấn đề chính trị, tức là vấn đề giai cấp cầm quyền. Lênin nêu vấn đề, mà theo Người là "chân lý": "tốt hơn là nên trước hết hãy thực hiện CNTB nhà nước để rồi sau đó, đi đến CNXH" [23, tr. 326]. Đó là một trong những nhiệm vụ mấu chốt của nhà nước vô sản. Để đánh tan những hoài nghi, phê phán cách hiểu kinh viện về CNTB nhà nước, Lênin giải thích rằng "CNTB nhà nước mà chúng ta nói đó là một thứ CNTB mà chúng ta có thể hạn chế, có thể quy định giới hạn, CNTB nhà nước đó gắn liền với nhà nước, mà nhà nước chính là công nhân, chính là bộ phận tiên tiến của công nhân, là đội tiền phong, là chúng ta" [23, tr. 102]. Khi thực hiện CNTB nhà nước Lênin coi trọng "sự lãnh đạo chính trị của giai cấp vô sản". Sự lãnh đạo này phải hướng vào giải quyết những nhiệm vụ mấu chốt, cấp thiết nhất. Mà trong một nước tiểu nông thì đó là "phục hồi ngay những LLSX của kinh tế nông dân" [21, tr. 263]. Trong lĩnh vực này những ý kiến của Lênin đặc biệt có giá trị phương pháp luận cho các Đảng cộng sản ở các nưóc nông nghiệp. Trong các nước ấy, cũng như ở nước Nga "tìm cách ngăn cấm, triệt để chặn đứng mọi sự phát triển của sự trao đổi tư nhân, không phải là quốc doanh, tức là của thương mại, tức là của CNTB, một sự phát triển không thể tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản" [21, tr. 267]. Để thực hiện được các nhiệm vụ "quy định", "giới hạn" CNTB nhà nước, Lênin nhấn mạnh nhà nước chuyên chính vô sản phải cải tiến phương pháp làm việc của bộ máy Xô viết theo hướng tăng cường quyền lực trong điều kiện nền KTTT.
- Bộ máy nhà nước Xô viết là chuyên chính vô sản, nhà nước của giai cấp công nhân và nông dân, nhưng bộ máy ấy không phải sau khi giành được chính quyền đã hoạt động tốt. Vì theo Lênin, bộ máy đó chưa thực sự là công nông, còn nhiều tàn dư phong kiến và tư sản nên phải xây dựng lâu dài. Những đảng viên cộng sản làm việc trong bộ máy còn chưa có kinh nghiệm quản lý, làm việc kém hiệu quả; bộ máy còn cồng kềnh và thiếu sự kiểm tra giám sát từ phía nhân dân. Vì vậy, việc xây dựng nhà nước Xô viết là một nhiệm vụ nối tiếp quan trọng sau khi hoàn thành cuộc cách mạng giành chính quyền vĩ đại. "Tôi biết rõ ràng chúng ta có những khuyết điểm trong bộ máy tổ chức quần chúng", nhưng "vấn đề không phải là ở chỗ lấy việc cải tổ nhanh chóng để cải tiến bộ máy đó, mà vấn đề là ở chỗ phải quán triệt cuộc cải tạo chính trị đó để đạt tới một trình độ kinh tế - văn hóa khác" [22, tr. 401]. Lênin đưa ra ví dụ về ủy ban đặc biệt toàn Nga - tổ chức an ninh đặc biệt chống lật đổ. Nhưng chuyển sang giai đoạn mới cần phải xác định rõ chức năng và quyền hạn của nó và giới hạn công tác của nó vào những nhiệm vụ chính trị, mà chủ yếu là thực hiện các chính sách kinh tế mới - KTTT. "Phải thu hẹp phạm vi hoạt động của các cơ quan chuyên giáng trả lại" [22, tr. 403-404]. "Sắc lệnh thì chúng ta có quá nhiều và chúng ta làm sắc lệnh đó một cách quá vội vàng... nhưng việc chấp hành thực tiễn đó thì không được kiểm tra lại" [23, tr. 17]. Vấn đề không chỉ ở chỗ ra sắc lệnh mà là ở chỗ làm thế nào để thực hiện được các sắc lệnh đó. Lênin đã từng chỉ rõ vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Nhưng giai cấp công nhân sau khi đã giành được chính quyền thì "cái mấu chốt không phải là chính quyền mà cái mấu chốt chính là biết lãnh đạo" [23, tr. 128]. Thực chất những quan điểm về xây dựng bộ máy chính quyền Xô viết mà Lênin nêu ra là khắc phục những sai lầm khuyết điểm trong quản lý nền kinh tế của nhà nước
- trong nền kinh tế nhiều thành phần với những quan hệ thị trường. Nghĩa là trong điều kiện mới, nhà nước phải tăng cường quyền lực của mình không phải bằng các mệnh lệnh hành chính quan liêu mà phải bằng các thể chế kinh tế - chính trị, công cụ để quản lý kinh tế. Phải có kế hoạch, chiến lược, hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế hợp lý, đúng đắn để quản lý chứ không phải can thiệp vào các quá trình hoạt động kinh tế như trong thời chiến... Tóm lại, Lịch sử phong trào XHCN thế giới đã chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của nhà nước XHCN trong phát triển kinh tế. Mặc dù ngày nay hệ thống XHCN đã tan rã do nhiều nguyên nhân khác nhau mà ở đây chúng ta không đề cập đến, nhưng mô hình phát triển kinh tế thống nhất và có kế hoạch của Liên Xô và của các nước XHCN trước những năm tám mươi của thế kỷ XX đã đưa lại những kinh nghiệm thành công mẫu mực về nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế. Những luận điểm này đã mang lại nhiều thành công trong thực tiễn của nhà nước XHCN lãnh đạo, quản lý nền KTTT như: Thời kỳ NEP của Liên Xô, giai đoạn đầu của mô hình kinh tế tự quản ở Nam Tư; những thành quả to lớn trong chính sách cải cách mở cửa của Trung Quốc; và đổi mới ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn của các nước xây dựng CNXH chỉ ra rằng, nhà nước XHCN có thể sử dụng các hình thức quản lý quá độ, hỗn hợp, trong đó có thể sử dụng các quan hệ thị trường để quản lý và phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, nhà nước quản lý nền kinh tế XHCN như thế nào, còn là vấn đề chưa có câu trả lời cuối cùng và vấn đề đó còn tùy thuộc vào điều kiện từng nước và bối cảnh chung của thế giới. Nhưng không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của nhà nước XHCN trong phát triển nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong nền KTTT định hướng XHCN hoặc thị trường XHCN.
- 1.1.2. Vài nét về một số lý thuyết và kinh nghiệm thế giới về vai trò chức năng nhà nước đối với sự phát triển kinh tế Các tác giả nổi tiếng là Ađam Smít và Đavit Ricarđô do đánh giá quá cao vai trò của lao động, đất đai và mậu dịch tự do, nên chủ trương nền kinh tế phải được điều khiển bởi "bàn tay vô hình". Các ông chưa đánh giá đúng vị trí của nhà nước trong đời sống kinh tế. Lý thuyết của các ông là c ơ sở cho chủ nghĩa tự do cũ và mới. Chủ nghĩa tự do mới cổ vũ cho sự tham gia tối thiểu của nhà nước vào KTTT. Điển hình cho mô hình KTTT theo chủ nghĩa tự do là Mỹ. Từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX, CNTB phát triển chủ yếu theo khuynh hướng này. Đặc điểm hoạt động của giai đoạn này của CNTB là dựa trên sự bóc lột không thương xót giai cấp công nhân và nhân dân lao động, lấy tự do cạnh tranh làm động lực. Sự phát triển của CNTB thường kèm theo khủng hoảng định kỳ, tổng khủng hoảng, chiến tranh xâm chiếm thuộc địa và thị trường, cao hơn là chiến tranh thế giới để phân chia thị trường. Nhà nước trong sự phát triển này thực sự là công cụ đắc lực của giới chủ tư bản. Nhân dân thế giới phải trả giá đắt về xã hội cho sự phát triển TBCN. Chính vì phải trả giá đắt về xã hội cho KTTT, chính vì sự bất lực của nhà nước trước các thế lực tài phiệt, nửa cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện sự liên minh giữa nhà nước và tư bản hình thành CNTB nhà nước. Mặc dầu vậy CNTB nhà nước cũng không giải quyết được những căn bệnh của CNTB đó là khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, phá hủy môi tr ường, chạy đua mù quáng vì lợi nhuận... Những năm 30 đến những năm 50 của thế kỷ XX những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra thường xuyên cho thấy "bàn tay vô hình" không thể bảo đảm những điều kiện cho phát triển kinh tế. Trình độ xã hội hóa càng cao đặt ra vấn đề cần phải có lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá trình kinh tế, điều tiết kinh tế. Nhà kinh tế học người Anh - J.M. Keynes đã đưa ra lý thuyết điều tiết KTTT. Ông cho rằng để khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế, nhà nước phải can thiệp vào quá trình kinh tế, phải huy động vốn để mở mang sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư, làm cho cầu tiêu dùng tăng lên, khuyến khích mở rộng sản xuất kinh
- doanh. Để làm được việc đó nhà nước phải can thiệp vào quá trình kinh tế cả ở vĩ mô và vi mô. Tuy nhiên với quan điểm này, ông gần như phủ nhận những quan hệ khách quan của KTTT. Cuối giai đoạn này đã xuất hiện sự hoài nghi đối với KTTT. Hơn thế nữa phong trào cộng sản và công nhân thế giới đấu tranh chống lại sự phát triển thị trường TBCN, đề xuất một mô hình phát triển mới cho nhân loại, mô hình XHCN dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa thống nhất. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 80 của thế kỷ XX, KTTT mất uy thế trước kinh tế kế hoạch hóa (đặc biệt theo mô hình Xô viết). Cuộc tổng khủng hoảng đầu những năm 70 đã làm tăng mối hoài nghi về KTTT. Nhiều nước, đặc biệt là các nước mới giành được độc lập dân tộc, các nước đang phát triển lựa chọn con đường phát triển phi thị trường, hướng theo con đường kế hoạch hóa tập trung kiểu Xô viết. Một số nước kết hợp mô hình KTTT với mô hình Xô viết tạo ra mô hình hỗn hợp. Giai đoạn từ những năm 80 đến nay, sau khi khắc phục được khủng hoảng, các nền KTTT có bước phát triển mới trên cơ sở thay đổi cơ cấu, đầu tư công nghệ cao, có sự tham gia điều tiết của nhà nước. Lúc này các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ những nhược điểm cơ bản, lâm vào khủng hoảng, thậm chí phải chấp nhận sụp đổ để cải tạo lại. Đó là thất bại của việc tuyệt đối hóa vai trò nhà nước trong phát triển kinh tế. KTTT đã chứng minh được ưu thế và sức sống của mình. Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới hoặc là đang tồn tại và phát triển KTTT hoặc là chuyển đổi nền kinh tế của mình sang KTTT. Hiện nay vấn đề tham gia của nhà nước vào đời sống KTTT đã trở thành vấn đề không tranh cãi. Vấn đề là nhà nước tham gia như thế nào, ở lĩnh vực gì mà thôi... ở đây chúng ta thấy câu trả lời là không đơn nghĩa.
- Nhìn chung, các nhà khoa học và quản lý đều nhất trí cho rằng, trong nền KTTT, nhà nước đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhà nước như là người điều tiết thị trường bằng cách tạo những khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động kinh tế; xây dựng những điều kiện cho cạnh tranh hợp pháp; chống độc quyền; xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong tổng thể; tham gia khắc phục những thất bại của thị trường. Nghiên cứu một số lý thuyết, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề: Nhìn chung các lý thuyết cổ điển đều cho rằng thị trường là nhân tố chính của sự phát triển, trong đó nhấn mạnh những yếu tố sản xuất trực tiếp như vốn, đất đai và tích lũy có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên các lý thuyết này chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển thấp, chủ yếu dựa vào lao động cơ bắp, vốn, tài nguyên. Một số lý thuyết hiện đại đã thấy được tầm quan trọng của khoa học kỹ thuật, thị trường và nhà nước. Nhưng còn tuyệt đối hóa KTTT, hoặc khoa học kỹ thuật, hay vai trò nhà nước mà chưa thấy được tiềm năng con người. Một số lý thuyết đã nhấn mạnh vai trò quyết định của các thể chế trong quá trình phát triển. Kinh nghiệm thế giới hiện đại cho thấy, việc phát triển kinh tế không thể áp dụng tuyệt đối một lý thuyết nào. Hầu hết các nước thành công trong phát triển kinh tế đều áp dụng một cách tổng hợp linh hoạt mềm dẻo các lý thuyết và kinh nghiệm khác nhau vào thực tiễn phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể của đất nước. Các nước HPAEs đã cung cấp những kinh nghiệm quý báu. Từ 1960 đến nay, HPAEs đã lựa chọn cho mình một khuynh hướng phát triển đúng đắn là: Kinh tế thị trường với "sự can thiệp có lựa chọn" của nhà nước; cách mạng công nghệ, đặc biệt là tin học; thực hiện công bằng xã hội.
- Từ năm 1960, HPAEs tăng trưởng nhanh gấp đôi các nền kinh tế Đông á, gấp 3 lần so với Mỹ La tinh và Nam á, gấp 5 lần so với châu Phi, cận xa mạc Xahara. Tuổi thọ trung bình tăng từ 65 tuổi năm 1960 lên 71 tuổi năm 1990. Tỷ lệ người đói giảm năm 1960: 58% xuống 17% năm 1990. Tăng trưởng GDP theo đầu người từ 1965 đến 1990: HPAEs từ 5 - 6% năm trong khi các nước Đông á (trừ HPAEs) chỉ tăng từ 2 - 3% năm, châu Phi cận xa mạc Xahara 0,5% năm... [16, tr. 21]. HPAEs đã tập trung xây dựng một nhà nước đủ mạnh để "can thiệp có lựa chọn", nhà nước đó được xây dựng dựa trên ba điều kiện: (1) Giải quyết các vấn đề hoạt động chức năng của các thị trường; (2) thực hiện diễn ra trong môi trường nền tảng đúng đắn; (3) nhà nước đưa ra và quản lý các chuẩn mực hoạt động kinh tế thích hợp. Như vậy các HPAEs đã tập trung vào xây dựng môi trường thể chế cho các hoạt động kinh tế mà trong đó hoạch định các chính sách đóng vai trò quan trọng. Nhà nước bằng các thể chế kinh tế - chính trị, đã can thiệp một cách có hệ thống thông qua nhiều kênh, với nhiều hình thức: Hỗ trợ tín dụng tới các ngành được lựa chọn, kìm giữ tỷ suất tiền gửi ở mức thấp; duy trì mức trần đối với tỷ suất cho vay để tăng lợi nhuận; bảo hộ các ngành thay thế nhập khẩu ở trong nước, tài trợ các ngành suy giảm; hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng nhà nước; đầu tư công cộng; phát triển các thị trường xuất khẩu; thông tin kịp thời... ở các nước Đông Bắc á, chính phủ không những đặt ra chuẩn mực rõ ràng cho những can thiệp có lựa chọn mà còn giám sát được các hoạt động của thị trường trong khi chi phí cho những can thiệp này đều không quá cao. Trên thực tế, sự can thiệp có lựa chọn buộc các chính phủ dựa vào quản lý kinh tế vĩ mô một cách thận trọng. Ví dụ các giải pháp chính phủ đưa ra và thực hiện là: Thực hiện đầu tư cao luôn đạt 20% GDP và phân bổ nguồn vốn hợp lý, tập trung vào các ngành có hiệu quả kinh tế cao, đầu tư lớn vào con người (nguồn nhân lực), tài chính ổn định và bảo đảm.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
ĐỀ TÀI “Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay.”
29 p | 891 | 223
-
LUẬN VĂN: Vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế. Và một số giải pháp nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta
25 p | 592 | 155
-
Luận văn tốt nghiệp "Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay"
65 p | 293 | 133
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực của FDI vào Việt Nam trong thời gian tới
31 p | 246 | 126
-
Luận văn: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hoàn thành và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay
35 p | 256 | 73
-
LUẬN VĂN: Tăng cường vai trò nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
99 p | 169 | 42
-
LUẬN VĂN: Tăng cường kiểm soát nguồn thu thuế GTGT từ các Doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội
90 p | 175 | 40
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Báo chí: Vai trò của báo chí Việt Nam trong giám sát quyền lực chính trị thời kì đổi mới
16 p | 139 | 25
-
Luận văn đề tài: Vai trò quản lý nhà nước đối với sự hình thành và phát triển thị trường BĐS ở việt nam '
46 p | 161 | 24
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tăng cường vai trò của Luật sư trong việc ký kết thỏa thuận dân sự để thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam
29 p | 100 | 14
-
Tiểu luận KTCT: “Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay.”
28 p | 97 | 13
-
Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước là nhân tố quan trọng để hình thành và hoàn thiện cơ chế quản lí kinh tế mới ở nước ta hiện nay
28 p | 125 | 12
-
Luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tăng trường vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do kiểm toán nhà nước thực hiện
204 p | 31 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Xã hội học: Vai trò của công đoàn trong bảo vệ quyền, lợi ích của người lao động tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hyundai Kefico Việt Nam, khu công nghiệp Đại An, tỉnh Hải Dương
137 p | 21 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tăng cường vai trò của lực lượng quản lý thị trường trong việc đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại trên địa bàn tỉnh Tây Ninh trong quá trình hội nhập
105 p | 40 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của Tòa án trong thi hành án hình sự từ thực tiễn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 25 | 6
-
Tóm tắt luận án Tiến sĩ Kinh tế: Tăng cường vai trò của kiểm toán hoạt ñộng ở Việt Nam do kiểm toán nhà nước thực hiện
24 p | 21 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước cấp quận trên địa bàn quận Lê Chân thành phố Hải Phòng
65 p | 5 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn