intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

15
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn trình bày các nội dung chính sau: Một số vấn đề lý luận về chính sách khen thưởng và khen thưởng cho người lao động trực tiếp; Thực trạng thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang; Giải pháp thực thi chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Chính sách công: Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI MAI XUÂN THỦY THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG Ngành: Chính sách công Mã số: 8 34 04 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. TRẦN MINH TUẤN AN GIANG - 2020 1
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Ở nước ta, công tác TĐKT luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm ngay từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác TĐKT. Người từng nói: “Thi đua khen thưởng là động lực phát triển và là biện pháp quan trọng để xây dựng con người mới”. Ngay sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 02/9/1945, Người đã quan tâm, ban hành nhiều văn bản pháp luật về TĐKT nhằm động viên mọi tầng lớp nhân dân hăng hái thi đua lao động, sản xuất, chiến đấu trên mọi mặt trận từ dựng nước đến giữ nước. Đến nay, nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về TĐKT đã được ban hành và được sửa đổi, bổ sung nhiều lần để phù hợp với tình hình thực tiễn về TĐKT trong mỗi giai đoạn đổi mới của đất nước và phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Trong đó, thi đua và khen thưởng là hai yếu tố luôn được đặc biệt xem trọng, có quan hệ chặt chẽ và tác động biện chứng lẫn nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân, tổ chức hoàn thành tốt các nhiệm vụ, trên cơ sở đó thực hiện việc khen thưởng. Khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua phát triển. Khen thưởng đúng người, đúng việc; bảo đảm khách quan, công bằng và thực hiện kịp thời sẽ có tác dụng động viên, cổ vũ cho thi đua. Để đảm bảo tính khách quan, công bằng trong công tác thi đua và khen thưởng, Luật TĐKT lần đầu tiên đã được Quốc hội Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI (kỳ họp thứ 4) thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2004. Luật TĐKT đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và năm 2013. Sau khi Quốc hội ban hành Luật TĐKT đến nay, công tác TĐKT trong cả nước đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các chủ trương, chính sách và hệ 2
  3. thống văn bản quy phạm pháp luật về TĐKT ngày càng được hoàn thiện, dần đi vào nền nếp, các phong trào thi đua đã thực sự góp phần vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của các bộ, ngành, địa phương. Công tác khen thưởng đã kịp thời động viên, khích lệ, biểu dương các tập thể, cá nhân có thành tích trong lao động, sản xuất, công tác,…. Tuy nhiên, quá trình thực hiện pháp luật TĐKT sau thời gian mới được ban hành đã bộc lộ những bất cập. Trước năm 2013, quy định khen thưởng còn chung chung, bao quát tất cả đối tượng, quá trình xét TĐKT ở nhiều tổ chức, đơn vị lao động, sản xuất thường xảy ra trường hợp nể nang, việc khen thưởng tuy có thực hiện đúng quy định nhưng kết quả bình bầu, xét TĐKT thường tập trung vào những cán bộ lãnh đạo, quản lý, do hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp chưa nhiều, còn mờ nhạt, chỉ đến khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật TĐKT 2013 và được cụ thể hoá tại Nghị định số 91/2017/NĐ-CP ngày 31/7/2017 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật TĐKT thì vấn đề khen thưởng cho NLĐ trực tiếp mới được xem là một tiêu chí đặt ra đối với từng đơn vị xét TĐKT. Nhằm cụ thể hóa các quy định của Luật TĐKT, trong đó đặc biệt đề ra các tiêu chuẩn, điều kiện khen thưởng cho nông dân, NLĐ trực tiếp, tỉnh An Giang đã ban hành Quyết định số 87/2017/QĐ-UBND ngày 12/12/2017 về Quy chế công tác TĐKT trên địa bàn tỉnh An Giang. Quá trình thực hiện pháp luật hiện hành về TĐKT trên địa bàn tỉnh An Giang và Quyết định của tỉnh nói trên cho thấy, tuy đã có những quy định cụ thể về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp, song vẫn còn một số mặt tồn tại nhất định. Luật xây dựng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng chưa phù hợp ở các cấp, nhất là ở cấp cơ sở; đặc biệt chưa có những quy định ràng buộc chặt chẽ, có hệ thống để tạo ra mô hình khen thưởng theo hình chóp; một số quy định về thẩm quyền xét tặng danh hiệu thi đua và khen thưởng còn thể 3
  4. hiện sự bất cập, không hợp lý; quy định tiêu chuẩn của một số danh hiệu thi đua và khen thưởng cao, nhưng tiêu chuẩn lại thấp hơn dẫn đến xu hướng dồn lên các hình thức khen thưởng cấp Bộ và cấp Nhà nước. Khen thưởng nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý; khen thưởng tập thể nhỏ và lao động trực tiếp còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các kỳ đại hội. Nhiều nơi phong trào thi đua còn hình thức, chưa tạo động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân; chưa gắn kết thi đua với thực hiện nhiệm vụ chính trị; nội dung, tiêu chí thi đua chưa cụ thể, chưa gắn với lợi ích của NLĐ. Một số đơn vị, địa phương chưa lấy kết quả phong trào thi đua làm căn cứ, cơ sở để khen thưởng nên tác dụng khen thưởng chưa cao; một số trường hợp còn thiếu chính xác, nể nang, cào bằng, chạy theo thành tích; cá biệt còn có tập thể, cá nhân được khen thưởng, nhưng thành tích chưa tiêu biểu và tạo sức lan tỏa… Trước tình hình trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang” làm luận văn tốt nghiệp của mình, với mong muốn bổ sung thêm kiến thức về công tác TĐKT và làm rõ những vấn đề còn còn tồn tại trong thực hiện chính sách TĐKT cho NLĐ trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang. Từ đó, có những kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng thực hiện chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Do TĐKT là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nên đến nay đã có nhiều công trình khoa học, sách tham khảo, các luận văn, các bài báo, tạp chí đề cập với nhiều góc độ khác nhau về thực hiện chính sách TĐKT cho NLĐ trực tiếp, nhưng chủ yếu là tập trung vào quản lý hoạt động TĐKT. Cụ thể như các cuốn sách, bài báo, công trình nghiên cứu sau: 4
  5. - Sách “Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu nước và công tác thi đua khen thưởng”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội (2008). Sách đã phân tích khá kỹ những vấn đề lý luận, quan điểm của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Đảng và Nhà nước ta về thi đua yêu nước và công tác TĐKT. Đồng thời, đưa ra cách tiếp cận tổng quát khi nghiên cứu về TĐKT, có thể tham khảo để nghiên cứu phát triển làm phong phú thêm lý luận về TĐKT. - Sách tham khảo: “Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác thi đua, khen thưởng” của PGS. TS Nguyễn Thế Thắng (2009). Cuốn sách phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Đảng và Nhà nước ta về TĐKT. - Đề tài nghiên cứu “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới thi đua khen thưởng trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Thị Hà (2013), Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Ban TĐKT Trung ương. Bên cạnh trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn về TĐKT, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về TĐKT, tổ chức làm công tác TĐKT và thực thi về TĐKT, tác giả đề xuất các giải pháp đổi mới hoạt động TĐKT và quản lý Nhà nước về TĐKT, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật TĐKT để TĐKT thực sự là động lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ mới. - Bài viết “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động”, đăng trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Nội vụ ngày 17/8/2020 của tác giả Phạm Thu Thuỷ - Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương. Bài viết cho thấy chính sách khen thưởng đối với NLĐ là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước ta quan tâm sâu sắc và đã được quy phạm hóa tại Nghị định số 91/2017/NĐ-CP. Tuy nhiên, đối tượng NLĐ vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và chưa có định nghĩa chính thống. Do đó, trong thực tiễn cách thức khen thưởng cho đối tượng là NLĐ được thực hiện một cách khác nhau, không theo một quy chuẩn 5
  6. cụ thể, đã có những hạn chế, vướng mắc của cơ quan nhà nước khi thực hiện trao tặng các danh hiệu TĐKT cho NLĐ. Từ đó, tác giả đã đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả chính sách khen thưởng đối với NLĐ trong giai đoạn hiện nay. - Luận văn “Hoàn thiện công tác thi đua khen thưởng” của tác giả Nguyễn Đức Hiếu, Luận văn thạc sỹ quản trị kinh doanh, Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt nam (2016). - Luận văn “Thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Hoài Thanh, Luận văn Thạc sĩ chính sách công, Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt nam (2019). Các luận văn đã tập trung nghiên cứu, phân tích nhiều khía cạnh khác nhau liên quan đến những vấn đề lý luận chung về TĐKT; Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới TĐKT; Quản lý nhà nước về TĐKT; những khó khăn trong nhận thức thực hiện chính sách TĐKT,... Tuy nhiên, rất ít các nghiên cứu khai thác cụ thể về việc thực hiện chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp, đặc biệt chưa có công trình nghiên cứu liên quan đến chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang. Do vậy, việc nghiên cứu thực hiện chính sách TĐKT cho NLĐ trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang sẽ góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận về thực thi chính sách, làm tài liệu tham khảo quan trọng cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức trên địa bàn tỉnh trong quá trình thực thi chính sách về TĐKT đảm bảo tính khách quan, công bằng cho tất cả những NLĐ trực tiếp; đồng thời, nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về TĐKT trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 6
  7. Trên cơ sở phân tích thực trạng thực thi chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang từ năm 2016 – 2020, luận văn đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện chính sách TĐKT ở địa phương trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hoá cơ sở lý luận cơ bản và các quy định pháp luật, văn bản hướng dẫn về công tác khen thưởng. - Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và thực hiện chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang. - Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực thi chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Thực thi chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp tại tỉnh An Giang. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Thực hiện chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp. - Về không gian: Tỉnh An Giang - Về thời gian: Từ năm 2016 - 2020. 5. Cơ sở lý luận Đề tài sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và quy định pháp luật Nhà nước về TĐKT nhằm làm rõ lý luận cơ bản về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp. 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: - Phương pháp phân tích: được sử dụng để đánh giá các quan điểm, đường lối của Đảng, các quy định pháp luật; đồng thời để phân tích các số 7
  8. liệu trong bảng tổng hợp, tính toán tỷ lệ nhằm chỉ ra được thực trạng công tác khen thưởng cho NLĐ trực tiếp ở tỉnh An Giang hiện nay. - Phương pháp tổng hợp: Sử dụng phương pháp này để tóm lược, rút ra những kết luận của vấn đề nghiên cứu. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu, số liệu thống kê về đối tượng khen thưởng là NLĐ trực tiếp từ năm 2016 đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh qua các báo cáo về công tác TĐKT hàng năm. - Phương pháp so sánh: Sử dụng để phân tích, đánh giá các Nghị quyết, chuyên đề của Đảng, các quy định của pháp luật về chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp qua các giai đoạn lịch sử so sánh với việc thực hiện chính sách và quy định của pháp luật trên địa bàn tỉnh An Giang. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Những khái niệm được nghiên cứu, đề xuất trong đề tài như: khen thưởng, chính sách khen thưởng, khen thưởng cho người lao động trực tiếp,... có ý nghĩa lý luận sâu sắc, góp phần bổ sung vào cơ sở lý luận trong lĩnh vực nghiên cứu chính sách về khen thưởng cho NLĐ trực tiếp hiện nay. Song song đó, đề tài còn giúp cho các nhà nghiên cứu, quản lý về thi đua khen thưởng có cái nhìn tổng quan về thực trạng và kết quả thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp tại một địa phương điển hình là tỉnh An Giang. Những giải pháp được đề xuất trong đề tài có ý nghĩa thực tiễn đối với các cơ quan quản lý TĐKT của tỉnh An Giang, phù hợp để áp dụng tại địa phương trong vấn đề thực hiện chính sách khen thưởng cho NLĐ trực tiếp. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn bao gồm 03 chương: Chương 1. Một số vấn đề lý luận về chính sách khen thưởng và khen thưởng cho người lao động trực tiếp 8
  9. Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang Chương 3. Giải pháp thực thi chính sách khen thưởng cho người lao động trực tiếp trên địa bàn tỉnh An Giang trong thời gian tới. 9
  10. CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHEN THƯỞNG VÀ KHEN KHEN THƯỞNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG TRỰC TIẾP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG 1.1. Một số khái niệm cơ bản về khen thưởng, chính sách khen thưởng và người lao động 1.1.1. Khen thưởng Trong lịch sử nước ta, việc khen thưởng đã xuất hiện từ thời dựng nước, chống giặc ngoại xăm và phát triển của đất nước. Khen thưởng thường được dành cho các bậc công thần, những người lập thành tích cho đất nước, cho cộng đồng, việc khen thưởng thực hiện thông qua lời nói hoặc bằng hiện vật, hiện kim nhằm biểu dương, khen ngợi, động viên tinh thần, nêu gương tốt để các cá nhân và cộng đồng noi theo. Trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, các Sứ thần Triều Lê, Lịch Triều Hiến chương loại chí của Phan Huy Chú ghi lại, việc khen thưởng lúc bấy giờ được nhà vua ban tặng cho người có công trong chiến trận, trong việc đi sứ, người phò tá có công lao tài đức, người có công tiến cử người hiền tài, người có lời tâu đúng, người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người quyền quý cấp trên, người có công làm thuỷ lợi, người có tài văn chương, người cao tuổi1. Hình thức khen thưởng rất đa dạng. Đối với người còn sống là những công thần khai quốc hoặc có công dẹp giặt, giữ yên bờ cỏi thì được khen thưởng công trạng với các hình thức như: ban họ vua (Quốc thính), được ghi công vào sử sách, được vẽ hình, dựng bia ghi công, được phong chức, được thưởng vàng bạc, được cấp ruộng đất. Nếu người có công đã mất thì nhà vua ban cho được phối hưởng (cúng tế tổ tiên trong một cuộc tế lễ). 1 Đại Việt Sử ký Toàn thư (1993), Tập 2, NXB Khoa học xã hội 10
  11. Sách có ghi lại rằng, lễ cho công thần được phối hưởng từ đời Tam đại đã có, nếu người có công thì được ghi tên vào cờ Thái thường, tế ở lễ Đại chưng (lễ của nhà vua tế người có công). Việc báo đức đền công được nhà vua xem trọng nhất. Việc cho các công thần được phối hưởng vừa để thỏa vong linh, tỏ được nghĩa khí, mà cũng đúng với lễ của thiên vương từ ngàn đời xưa để lại. Việc thưởng, phạt rất công minh “Những người có công thì thờ mới hợp điển lễ, kẻ tầm thường không công trạng thì không nên cho cả mà nhàm”. Qua đó, có thể thấy trong các triều đại phong kiến cũng rất chú trọng việc khen thưởng người có công, việc khen thưởng rất công bằng, không có thiên vị để giữ nghiêm kỷ cương phép nước. Nguyễn Trãi (1380-1442), nhà chính trị, nhà văn và cũng là khai quốc công thần trong triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam, đã có nhận định rằng, một Nhà nước mà thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời là Nhà nước vững mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn thưởng là Nhà nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng nhiều hơn phạt là Nhà nước phồn vinh.2 Thực vậy, Nhà nước chỉ vững mạnh khi mọi người dân đều có tinh thần yêu nước, đoàn kết, cùng đóng góp chung cho lợi ích của cộng đồng, của đất nước, có nhiều thành tích và được tuyên dương, khen thưởng. Trong Lời kêu gọi tướng sĩ vệ quốc quân, dân quân du kích nhân cuộc vận động luyện bộ đội lập chiến công trong cuộc kháng chiến chống giặc của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi tướng sĩ, dân quân du kích gắng sức đua tài, xung phong diệt địch, thi đua giữa các cán bộ với nhau, giữa đơn vị này với đơn vị khác, với các chỉ tiêu thi đua cụ thể: “Ai cướp được nhiều súng hơn, ai lập được công to hơn; Tổ quốc đang kêu gọi 2 Viện Thi đua Khen thưởng Nhà nước (1997), Những quy định cơ bản về công tác thi đua và chế độ khen thưởng, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội. (trang 21) 11
  12. anh em; Quốc dân đang trông mong anh em; Chính phủ đang sẵn sàng khen thưởng anh em; Riêng về phần tôi, tôi để dành một phần thưởng đặc biệt cho cán bộ, chiến sĩ nào hoặc đơn vị nào sẽ lập được công oanh liệt nhất, vẻ vang nhất.” 3 Hay trong Lời kêu gọi đồng bào bán gạo khao quân nhân dịp kỷ niệm ngày Quốc khánh 02/9/1949, để khao thưởng bộ đội ta, những người đang chiến đấu anh dũng để giữ gìn độc lập dân tộc, trong giai đoạn kháng chiến gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy phương châm của thánh hiền “thực túc, binh cường”, lấy lương thực mà khao thưởng để kêu gọi đồng bào góp gạo khao quân. Người nói “Lấy lương thực mà khao thưởng là đơn giản nhất, thiết thực nhất”.4 Trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc khen thưởng, Người nêu rõ: “Thưởng phạt phải nghiêm minh, có công thì thưởng, có lỗi thì phạt; có công mới có huân, phải có công huân mới được thưởng huân chương, thưởng cái nào đích đáng cái ấy… khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương.”5 Ngay sau khi giành được chính quyền, ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Quốc lệnh 10 điều thưởng của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, bao gồm: Thưởng đối với gia đình có con tòng quân; thưởng người lập được quân công; người hy sinh vì nước; người ra trận can đảm, phi thường; người làm việc với tấm lòng trong sạch, ngay thẳng; người làm việc có lợi cho nước nhà, dân tộc, được dân chúng mến phục; người bỏ 3 Sách 120 lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, trg 88 4 Sách 120 lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, trg 126 5 Viện Thi đua Khen thưởng Nhà nước (1997), Những quy định cơ bản về công tác thi đua và chế độ khen thưởng, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội. 12
  13. tiền ra xây đắp cầu cống, đê, đường; người bắt được những kẻ phản quốc; người liều mình về công việc; người cứu được người bị nạn. Sau ngày Việt Nam giành được độc lập, thống nhất đất nước cho đến ngày hôm nay, Đảng, Nhà nước ta luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác TĐKT, 10 điều khen thưởng này đã trở thành nền tảng tư tưởng, nguyên tắc pháp lý chỉ đạo việc khen thưởng trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước và trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đến ngày hôm nay. Từ thực tiễn của việc khen thưởng qua các thời kỳ lịch sử của đất nước, có thể hiểu khen thưởng là theo khái niệm chung như sau: Khen thưởng là quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm khuyến khích tinh thần của một cá nhân hay tổ chức có thành tích trong việc thực hiện các chức trách, nhiệm vụ, hoặc có thành tích trong các phong trào thi đua, khuyến khích người tham gia có tinh thần và trách nhiệm, có ý thức sáng tạo, thông qua khen thưởng nhằm tuyên dương những tập thể, cá nhân có công trong việc xây dựng lợi ích chung tổ chức, cộng đồng. Thông thường khen thưởng sẽ có khen thưởng bằng tinh thần và khen thưởng bằng vật chất. Tại khoản 2 Điều 3 của Luật TĐKT của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003 đã quy định: “Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Trong định nghĩa về khen thưởng nêu trên có hai yếu tố cơ bản là thành tích/công trạng và khen thưởng. Nếu người có thành tích tốt, xuất sắc thì sẽ được khen thưởng, việc khen thưởng đúng đối tượng, kịp thời sẽ tiếp thêm động lực để họ tiếp tục phấn đấu và còn nêu gương cho những người xung quanh, còn nếu ngược lại, việc khen thưởng có yếu tố thiên vị, không kịp thời 13
  14. sẽ làm hạn chế hoặc làm giảm sút lòng tin, ý chí phấn đấu trong lao động, sản xuất, từ đó, làm giảm hiệu quả và năng suất làm việc của cả tập thể. 1.1.2. Người lao động trực tiếp Cho đến nay còn nhiều ý kiến khác nhau và chưa có khái niệm thể hiện bằng văn bản của cơ quan quản lý nhà nước về đối tượng là NLĐ trực tiếp. Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của BLLĐ năm 2019, NLĐ là: “người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động”. Như vậy, NLĐ ở vị trí và cách nhìn nhận này có thể là người thợ, người công nhân, NLĐ trí thức như công chức, viên chức, chuyên gia ở các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, đóng góp sức lao động, chuyên môn để làm ra sản phẩm, thường được người sử dụng lao động tuyển dụng thông qua hợp đồng lao động hoặc khoán công việc theo sản phẩm, được trả lương, tiền công theo thỏa thuận trong hợp đồng lao động hoặc theo kết quả thực hiện đối với công việc, sản phẩm được giao. Ngoài ra còn có những NLĐ không chịu sự ràng buộc bởi người chủ sử dụng lao động, không nhận lương từ họ, bởi đây là những đối tượng lao động tự do, những người thuần túy làm nông nghiệp, hoặc những cá nhân lao động mang tính chất tình nguyện, thiện nguyện, không tính đến lợi nhuận hoặc công lương. Sản phẩm làm ra của đối tượng này là sản vật, nông sản phục vụ trực tiếp cho đời sống của họ, thời giờ làm việc không phụ thuộc vào khuôn phép, ràng buộc của hợp đồng hoặc các quy ước lao động. Như vậy, có thể nhìn nhận khái niệm “Người lao động trực tiếp” dưới các góc độ khác nhau như: - Dưới góc độ lao động, sản xuất, NLĐ trực tiếp được hiểu là những người trực tiếp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hay trực tiếp thực hiện các công việc nhiệm vụ nhất định. Đây là những NLĐ 14
  15. bình thường trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chẳng hạn như công nhân lao động, người nông dân trực tiếp lao động, canh tác, người giáo viên trực tiếp giảng dạy, công nhân dọn dẹp vệ sinh, các hộ lý, điều dưỡng trong các bệnh viện hoặc những người âm thầm, lặng lẽ trực tiếp làm các nhiệm vụ tình nguyện, thiện nguyện,... - Dưới góc độ quản lý nhà nước, có thể hiểu NLĐ trực tiếp là người không giữ chức vụ lãnh đạo, được tuyển dụng làm việc, theo hợp đồng hoặc trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách nhà nước, hưởng lương từ đơn vị sự nghiệp và là cá nhân trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ được giao. Ở môi trường làm việc này, NLĐ tuân thủ theo quy chuẩn của thứ bậc hành chính và chịu sự ràng buộc bởi pháp luật chuyên ngành. Sản phẩm của họ mang tính trí tuệ và đầu ra của sản phẩm là các văn bản tham mưu cho đội ngũ lãnh đạo, quản lý cơ quan nhà nước, các ý tưởng đổi mới trong cải cách, tổ chức bộ máy nhà nước, các công việc mang lại hiệu quả lớn cho xã hội như chăm sóc người bệnh, điều chế thuốc, gìn giữ văn hóa cội nguồn dân tộc. Cách nhìn nhận về NLĐ trong trường hợp này cũng để phân biệt với người giữ chức vụ lãnh đạo, là người có chức vụ, được hưởng phụ cấp lãnh đạo, thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành, phân công công việc, quản lý NLĐ trong cơ quan, đơn vị. Từ những mô tả trên có thể rút ra đặc điểm NLĐ trực tiếp như sau: Là NLĐ trực tiếp làm việc ở nhiều môi trường, nhiều công việc khác nhau trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; Không phân biệt người trẻ hay người lớn tuổi, không phân biệt nam hay nữ; Họ là những người trực tiếp làm ra sản phẩm, của cải vật chất hoặc trực tiếp tạo ra những giá trị tốt đẹp cho xã hội từ đôi tay, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của mình. 1.1.3. Chính sách, chính sách công 15
  16. Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa,… Còn theo James Anderson thì, chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm. Như vậy, có thể hiểu chính sách theo khái niệm như sau: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình. Chính sách công (public policy) được tiếp cận nghiên cứu từ những góc độ khoa học khác nhau, theo đó có những cách hiểu, xác định không hoàn toàn giống nhau về khái niệm và các thuộc tính của chính sách công, cụ thể như: William Jenkin cho rằng: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó”. Còn Peter Aucoin lại khẳng định: “Chính sách công bao gồm các hoạt động thực tế do Chính phủ tiến hành”. B. Guy Peter thì đưa ra định nghĩa: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân”,… Riêng nhà khoa học trong nước có những quan niệm cụ thể hơn: Theo TS. Tạ Ngọc Hải – Viện Khoa học tổ chức nhà nước thì: Chính sách công là những hoạt động mà chính quyền chọn làm và không làm, là 16
  17. toàn bộ các hoạt động của chính quyền trực tiếp hay gián tiếp tác động đến cuộc sống của mọi người.6 Như vậy, so sánh các quan niệm đã nêu ta thấy có những điểm tương đồng trong quan niệm về chính sách công như: tính nhà nước, tính công cộng, tính hành động thực tiễn (coi quá trình thực hiện là một phần của chính sách công). Từ những khái niệm chung về chính sách, chính sách công, có thể đi đến khái niệm về chính sách công như sau: Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển. Khái niệm trên đây vừa bao hàm những đặc trưng của chính sách công là do Nhà nước ban hành để tác động đến các đối tượng thuộc cộng đồng một cách ổn định. Vừa thể hiện được bản chất của chính sách là công cụ định hướng của Nhà nước cho mọi hành vi xã hội đối với các quá trình phát triển. 1.1.4. Chính sách khen thưởng Chính sách khen thưởng là một phần trong những chính sách công do nhà nước ban hành. Luật TĐKT do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004, tại khoản 1, 2 Điều 3 đã xác định: Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 6 Tạ Ngọc Hải (2014), Chính sách công – Tiếp cận từ khoa học tổ chức nhà nước, Tạp chí Tổ chức nhà nước, https://tcnn.vn, cập nhật ngày 09/8/2014 17
  18. Đến nay, chưa có một khái niệm cụ thể nào về Chính sách khen thưởng. Từ khái niệm chung của chính sách công và các khái niệm về thi đua, khen thưởng có thể định nghĩa: Chính sách khen thưởng là tập hợp các quy định, quyết sách của Nhà nước nhằm đưa ra các công cụ và cách thức giải quyết các vấn đề liên quan đến công tác khen thưởng và hoạt động khen thưởng. Các cơ quan trong hệ thống hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành quyết sách này trong lĩnh vực hoạt động khen thưởng theo đúng quy định của pháp luật. 1.1.5. Thực hiện chính sách khen thưởng Thực hiện chính sách khen thưởng là quá trình chuyển các quy định, quyết sách của Nhà nước liên quan đến công tác khen thưởng và hoạt động khen thưởng trở thành hiện thực, làm cho chính sách khen thưởng đi vào thực tiễn cuộc sống. Các cơ quan hành pháp và mọi cá nhân, tổ chức phải đảm bảo thực hiện đúng chính sách pháp luật về khen thưởng. Thực hiện chính sách khen thưởng là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước ta quan tâm sâu sắc. Việc thực hiện chính sách khen thưởng là một khâu quan trọng tất yếu. Nếu chính sách khen thưởng được thực hiện tốt sẽ mang lại lợi ích to lớn cho những đối tượng thụ hưởng chính sách, đồng thời làm tăng uy tín của nhà nước trong quá trình quản lý xã hội. Thực hiện chính sách khen thưởng nhằm duy trì sự tồn tại của công cụ chính sách theo yêu cầu quản lý của nhà nước và nhằm được mục tiêu của chính sách. Việc khen thưởng nhằm động viên mọi cá nhân, tổ chức tham gia vào các phong trào thi đua, tích cực phấn đấu trong sản xuất, công tác. Sự đóng góp của từng cá nhân sẽ góp phần làm cho tập thể vững mạnh, hăng hái thi đua lập thành tích, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kết quả khen thưởng là niềm tự hào, là động lực để mỗi cá nhân tiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được của mình, có 18
  19. thêm những sáng kiến và đóng góp nhằm tăng cường khả năng chuyên môn và góp phần phát triển cơ quan, tổ chức nơi mình làm việc; đồng thời, cá nhân được khen thưởng là những gương tiên tiến, điển hình để những người chưa được khen noi theo, thấy được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình để đặt ra mục tiêu phấn đấu. Do đó, việc thực hiện tốt chính sách khen thưởng sẽ phát huy được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và nhân dân; làm cho các phong trào thi đua được phát triển rộng khắp, với nhiều hình thức đa dạng lan tỏa, khích lệ cán bộ, công chức, NLĐ và các tầng lớp nhân dân, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tích cực học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh; từ đó tạo động lực thi đua hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, nhiệm vụ chính trị được giao. Chính sách khen thưởng thường được cơ quan nhà nước thẩm quyền thực hiện vào các kỳ tổng kết thành tích hoặc công trạng qua các giai đoạn cách mạng; khen thưởng thường xuyên và đột xuất đối với thành tích đạt được trong lao động, sản xuất; khen thưởng theo niên hạn công tác và khen thưởng đối ngoại, quy định tại Điều 4 của Luật TĐKT năm 2003. Khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được là hình thức khen thưởng tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc hoặc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mức độ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phải do cấp trình khen thưởng căn cứ theo quy định xem xét, đánh giá, công nhận. Khen thưởng theo đợt (hoặc chuyên đề) là khen thưởng cho tập thể, cá nhân đạt được thành tích xuất sắc sau khi kết thúc đợt thi đua do Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động. Khen thưởng đột xuất là khen thưởng cho tập thể, cá nhân lập được thành tích đột xuất ngoài chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ mà tập thể, cá 19
  20. nhân phải đảm nhiệm; hoặc thành tích đặc biệt xuất sắc đột xuất đạt được ở mức độ đặc biệt xuất sắc khi dũng cảm cứu người, cứu tài sản của nhân dân, của Nhà nước hoặc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc lập được thành tích đặc biệt xuất sắc trong các lĩnh vực được khu vực hoặc thế giới ghi nhận. Khen thưởng quá trình cống hiến là khen thưởng cho cá nhân có quá trình tham gia hoạt động trong các giai đoạn cách mạng, giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, có công lao, thành tích xuất sắc, đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Khen thưởng theo niên hạn là khen thưởng cho cá nhân thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, có thành tích, có thời gian tham gia xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân theo quy định. Khen thưởng đối ngoại là khen thưởng cho tập thể, cá nhân người nước ngoài có thành tích đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ở một trong các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao hoặc lĩnh vực khác. Theo quy định về TĐKT thì việc khen thưởng phải căn cứ vào thành tích của tập thể, cá nhân. Các bước thực hiện chính sách khen thưởng như sau: Bước 1. Đánh giá, công nhận thành tích của tập thể, cá nhân Hội đồng TĐKT bộ, ban, ngành, địa phương có trách nhiệm giúp Người đứng đầu đánh giá thành tích của tập thể, cá nhân có phạm vi ảnh hưởng trong toàn quốc; ảnh hưởng trong bộ, ban, ngành, địa phương hoặc trong ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý. Đối với các hình thức khen thưởng thuộc thẩm quyền của bộ, ban, ngành, địa phương; cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hoặc trực thuộc bộ, ban, ngành, địa phương, việc đánh giá, công nhận mức độ hoàn thành xuất sắc 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2