VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN PHÚC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ
THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
Đắk Lắk, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN PHÚC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TỪ
THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK NÔNG
Ngành: Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH KHẮC TUẤN
Đắk Lắk, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn Thạc sĩ “Thực hiện Chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực
tiễn tỉnh Đắk Nông” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi dưới sự
hướng dẫn tận tình của TS. Đinh Khắc Tuấn. Các số liệu, kết quả nghiên cứu được
công bố trong công trình hoàn toàn trung thực. Trong công trình nghiên cứu này
mọi sự tham khảo, trích dẫn đều được chú thích thỏa đáng, không có bất kỳ sự sao
chép nào mà không có trích dẫn nguồn, tác giả.
Tôi xin cam đoan những lời trên đây là đúng sự thật và xin chịu hoàn toàn
trách nhiệm về lời cam đoan của mình./.
Đắk Lắk, tháng 11 năm 2019
Học viên Cao học
Trần Văn Phúc
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, ngoài sự cố gắng của bản thân, Học viên đã
nhận được sự động viên, giúp đỡ, hướng dẫn tận tình và quý báu của quý thầy, cô
giáo cùng với sự động viên, khuyến khích của đồng nghiệp, người thân và bạn bè.
Trước hết, Học viên xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến các giảng
viên đã tận tình giảng dạy, cung cấp phương pháp nghiên cứu và giúp bản thân có
thêm nhiều hiểu biết mới về chính sách công để Học viên tự tin, chủ động xây dựng
và hoàn thành đề tài nghiên cứu của mình.
Học viên xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến TS. Đinh Khắc Tuấn,
Người Thầy đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, giúp đỡ Học viên
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn lãnh đạo Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Nông; Lãnh đạo và
cán bộ công chức các Sở, Ban, Ngành của tỉnh Đắk Nông đã quan tâm giúp đỡ, tạo
mọi điều kiện thuận lợi để Học viên học tập, nghiên cứu, thu thập thông tin, tài liệu,
số liệu để hoàn thành Luận văn này.
Với khả năng của bản thân và thời gian nhất định, chắc chắn Luận văn này
không tránh khỏi những thiếu sót; Học viên rất mong nhận được sự thông cảm
cũng như đóng góp ý kiến của quý thầy, cô giáo, các nhà khoa học và sự chia sẽ
của đồng nghiệp, bạn bè để Học viên có thể tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và toàn
diện hơn.
Xin chân thành cảm ơn./.
Đắk Lắk, tháng 11 năm 2019
Học viên Cao học
Trần Văn Phúc
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................... vii
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC ............................................................................................... 8
1.1. Các khái niệm liên quan đến chính sách phát triển nguồn nhân lực .......................... 8
1.2. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực. ...... 13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân
lực. ............................................................................................................................. 15
1.4. Nội dung quy trình tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
................................................................................................................................... 21
1.5. Phương pháp tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực ......... 26
Tiểu kết Chương 1 ..................................................................................................... 27
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC TỈNH ĐẮK NÔNG ............................................................................... 28
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu ........................................................................ 28
2.2. Mục tiêu thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông từ
năm 2011 đến nay ..................................................................................................... 34
2.3. Tình hình thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông .. 35
2.4. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk
Nông .......................................................................................................................... 60
Tiểu kết Chương 2 ..................................................................................................... 66
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TẠI TỈNH ĐẮK NÔNG .......................................................................................... 67
3.1. Mục tiêu, phương hướng về phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Đắk Nông trong
thời gian tới. .............................................................................................................. 67
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
................................................................................................................................... 69
3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực ................ 77
Tiểu kết Chương 3 ..................................................................................................... 78
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81
PHẦN PHỤ LỤC .........................................................................................................
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCHTW Ban chấp hành Trung ương
CBLĐQL Cán bộ lãnh đạo quản lý
CMCN Các mạng công nghiệp
CNXH Chủ nghĩa xã hội
CNH- HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CS; CSC Chính sách; Chính sách công
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
HĐND Hội đồng nhân dân
HNQT Hội nhập quốc tế
KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư
KH&CN Khoa học và Công nghệ
KHXH Khoa học xã hội
KHTN Khoa học tự nhiên
KHKT Khoa học kỹ thuật
KT - XH Kinh tế - xã hội
LĐ, TB&XH Lao động, Thương binh và Xã hội
LHQ Liên Hiệp quốc
NNL Nguồn nhân lực
PTNNL Phát triển nguồn nhân lực
QP - AN Quốc phòng - An ninh
TCCS Tổ chức cơ sở
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
phân theo thành thị, nông thôn ........................................................................... 33
Bảng 2.2: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm
phân theo ngành kinh tế ...................................................................................... 33
Bảng 2.3: Thống kê công tác truyền thông về công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao
............................................................................................................................ 39
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là gốc của mọi công
việc”, “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Ngay từ khi
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, xem đây là khâu then
chốt trong toàn bộ hoạt động, là nguyên nhân thành, bại của cách mạng Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt là Việt Nam đang đẩy mạnh tiến trình Công
nghiệp hóa, Hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, trong bối cảnh cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, điều đó lại được khẳng định lại một
lần nữa. Tại các kỳ Đại hội XI, XII, Đảng ta khẳng định “Phát triển nguồn nhân lực,
nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao làm một trong ba khâu đột phá của chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020”. “tiếp tục thực hiện có hiệu
quả ba khâu đột phá trong chiến lược (hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đổi mới căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo, PTNNL, nhất là NNL
chất lượng cao …” đây là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay.
Từ khi thành lập tỉnh đến nay, tỉnh Đắk Nông luôn đứng trước những thách
thức về nguồn nhân lực bởi tiến trình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh đòi hỏi rất cao về chất lượng nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, đội ngũ nhân lực của tỉnh, đặc biệt là cán bộ chủ chốt chủ yếu được điều
động từ tỉnh Đắk Lắk sang, đến nay phần lớn lực lượng này đã nghỉ hưu hoặc đến
tuổi nghỉ hưu. Đội ngũ cán bộ trẻ mới tuyển dụng hầu hết được đào tạo cơ bản
nhưng chưa có điều kiện để rèn luyện, thử thách cọ xát với thực tế nhiều nên chất
lượng còn hạn chế, chưa đủ đáp ứng được yêu cầu phát triển của tỉnh. Bên cạnh đó,
chính sách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao về công tác tại tỉnh Đắk Nông
còn gặp nhiều khó khăn, chưa mang lại hiệu quả.
Tỉnh Đắk Nông được tái lập vào ngày 01/01/2004, là tỉnh nằm ở cửa ngõ
phía Tây Nam của Tây Nguyên, có đường biên giới tiếp giáp với Campuchia dài
130km. Trong những năm qua được sự quan tâm đầu tư của Trung ương cùng với
sự nổ lực của cán bộ, quân và dân tỉnh Đắk Nông đã đạt được tốc độ phát triển khá
1
nhanh: năm 2018 dân số đạt trên 644.000 người với 8 đơn vị hành chính cấp huyện;
tốc độ tăng trưởng GDP hơn 12%; quy mô nền kinh tế của tỉnh năm 2018 tăng gấp
4,32 lần so sới năm 2004; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 40,72 triệu
đồng/người/năm 2018; cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển biến rõ nét từ chủ yếu là
nông nghiệp sang hướng công nghiệp, dịch vụ. Tuy nhiên, tỉnh Đắk Nông về cơ bản
vẫn là một tỉnh có “kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém, nội lực yếu, nguồn
nhân lực bất cập”. Trước những yêu cầu về phát triển kinh tế - xã hội, phát triển
nguồn nhân lực trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế và thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh. Ngày
10/8/2011 Tỉnh ủy Đắk Nông đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về phát triển
nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết số 35/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh
Đắk Nông về quy định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống
chính trị tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2012-2015; Ngày 09/10/2013, UBND tỉnh Đắk
Nông đã ban hành Quyết định số 1594/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề án Đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông đến năm 2015 và định hướng đến
năm 2020. Bên cạnh đó, nhiều đơn vị, địa phương trong tỉnh đã ban hành và tiếp tục
thực hiện có hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách nhằm đào tạo, phát triển và thu
hút nhân lực trên địa bàn như chính sách về công tác cán bộ; Chính sách hỗ trợ kinh
phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số tại chỗ, chính sách dạy nghề;
chính sách phát triển giáo dục và đào tạo; chính sách phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, bồi dưỡng nhân tài, xây dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành, đội ngũ cán
bộ chủ chốt đã được các cấp ủy và lãnh đạo đơn vị quan tâm thực hiện, khuyến
khích tự đào tạo sau đại học, đại học văn bằng 2, bồi dưỡng theo vị trí việc làm,
nâng cao kỹ năng lãnh đạo, quản lý, kỹ năng xử lý tình huống … Trong quá trình
triển khai thực hiện các chính sách trên, bước đầu đã mang lại hiệu quả đáng ghi
nhận trong công tác đánh giá, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ trong
hệ thống chính trị, công tác đào tạo nghề, công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân từ
cơ sở đến tỉnh. Góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của cả hệ thống chính trị,
chất lượng cán bộ, trình độ tay nghề của người lao động được nâng lên rõ rệt. Bên
2
cạnh những thành quả chung, cũng đã nhận thấy rõ những vướng mắc, bất cập. Đó
chính là lý do tôi chọn đề tài: “Thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực từ
thực tiễn tỉnh Đắk Nông” để thực hiện luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ của mình. Việc
nghiên cứu đề tài là thiết thực và phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Đắk Nông hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ngoài các tài liệu thu thập được từ Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, một số
đề tài, luận văn, sách báo, bài viết liên quan đến PTNNL được tác giả tham khảo, kế
thừa và phát triển trong luận văn này như:
- Vũ Văn Phúc, Nguyên Huy Hùng (đồng chủ biên – 2012), Phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả đã trình bày từ những vấn đề lý luận chung,
kinh nghiệm trong nước và quốc tế từ đó nêu lên thực trạng, những kiến nghị và
giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và HNQT.
Đây là cuốn sách có giá trị tham khảo trong học tập và nghiên cứu áp dụng cho thực
tiễn Việt Nam.
- Trần Văn Tùng – Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực: kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Các tác giả
luận giải một số vấn đề về cơ sở lý luận chung về NNL, phân tích thực trạng nguồn
nhân lực và khái quát một số kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực trên thế giới
và Việt Nam.
- Chu Chí Thắng (2002), Hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực Khoa
học và công nghệ sau đại học – Nghiên cứu trường hợp Trung tâm Khoa học Tự
nhiên và Công nghệ quốc gia. Đề tài đã đi sâu vào phân tích những yếu tố đã đạt
được trong quá trình hợp tác với các trường liên kết đào tạo, làm rõ những yếu
điểm, phân tích quá trình hợp tác và định hướng phát triển cho trung tâm trong
những giai đoạn tiếp theo…
- TS. Nguyễn Tuyết Mai (2000), “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của
Việt Nam”, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, do Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì. Tác
3
giả đã chỉ ra tầm quan trọng, quan điểm, mục tiêu, định hướng phát triển NNL của
nước ta.
- Nguyễn Thanh (2002), “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Dưới góc độ Triết
học, tác giả đã khẳng định phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành
công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay; Việc phát
triển nguồn nhân lực có chất lượng ở nước ta, thực trạng và một số định hướng chủ
yếu về phát triển nguồn nhân lực. Từ đó, tác giả đã đưa ra các giải pháp phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cho CND, HĐH.
- Tô Huy Rứa (2015), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở nước ta hiện nay, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 12-2014, số 1-2015, số 2+3-
2015. Tác giả đã trình bày cơ sở lý luận khẳng định: Nguồn nhân lực chất lượng cao
- nhân tố quyết định thành công trong cạnh tranh, hội nhập và phát triển và đề xuất
giải pháp nhằm phát triển NNL chất lượng cao đáp ứng kịp thời yêu cầu tiếp tục
công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
- Luận văn thạc sĩ “Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông” của Lê Thị Mỹ Hằng, năm 2017. Tác giả đã hệ
thống hóa các cơ sở lý luận, phân tích, đánh giá mục tiêu và đưa ra các giải pháp,
công cụ, vai trò của hoạt động quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông
thôn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.
Các công trình trên đã nêu lên những thực trạng chung và đã đưa ra những
giải pháp khái quát nhằm phát triển nhân lực trong điều kiện hội nhập, song chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách cụ thể về “Thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông” để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn
thiện quá trình tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk
Nông có hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh. Do đó, đề tài “Thực
hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông” là công
trình nghiên cứu có tính độc lập.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận, phân tích và đánh giá thực trạng việc thực
hiện chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, Luận
văn đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc tổ chức thực hiện chính sách PTNNL
tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận về thực thiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực;
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực tại tỉnh Đắk Nông từ năm 2011 đến nay.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc tổ chức thực hiện chính sách
phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại
tỉnh Đắk Nông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
a) Về nội dung: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về phát trển nguồn nhân
lực, chính sách phát triển nguồn nhân lực, thực hiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực tại tỉnh Đắk Nông và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông.
b) Về không gian: tại tỉnh Đắk Nông.
c) Về thời gian: Luận văn thực hiện việc phân tích, đánh giá việc thực hiện
chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông từ năm 2011 đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu: Tác giả luận văn nghiên cứu các văn bản quy phạm có
liên quan đến đề tài nghiên cứu; tài liệu sách, báo, bài viết hội thảo, hội nghị; Kết
quả nghiên cứu của các đề tài khoa học có liên quan đã được công bố.
- Phương pháp phân tích thống kê mô tả: Chủ yếu tập trung vào thống kê mô
tả, so sách thông qua các số liệu, chỉ tiêu để đánh giá chính sách, các bảng biểu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Được sử dụng để tổng hợp và phân tích
các số liệu về nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông trong thời gian từ 2011 đến 2015
và từ 2015 đến nay, từ đó chỉ ra những kết quả đạt được; những hạn chế, yếu kém
của việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông.
- Phương pháp phân tích so sánh: Kết quả việc thực hiện chính sách phát
triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông từ năm 2011 đến 2015 và từ 2015 đến nay,
từ đó đưa ra các đánh giá trong việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
tại tỉnh Đắk Nông.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn đã hệ thống hóa, cung cấp các cứ liệu, góp phần bổ sung vào
khoảng trống nghiên cứu về quá trình thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân
lực tại tỉnh Đắk Nông, làm phong phú thêm những nhận thức nghiên cứu về phát
triển nguồn nhân lực trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
Kết quả nghiên cứu của Luận văn cũng cung cấp những nhận thức mới về
quá trình thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận văn đã phân tích và đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách phát
triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông từ đó tìm ra những ưu điểm, tồn tại và bất
cập để rút ra bài học kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực tại các tỉnh khác nói chung.
- Luận văn đã đóng góp những đề xuất, ý tưởng và những giải pháp nhằm hoàn
thiện quá trình thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông.
6
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên
cứu, nhà quản lý trên địa bàn các tỉnh nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng trong
việc ban hành chính sách và thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực của tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
thành 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực
tiễn tỉnh Đắk Nông
Chương 3: Phương hướng, mục tiêu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông.
7
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC
1.1. Các khái niệm liên quan đến chính sách phát triển nguồn nhân lực
1.1.1. Nguồn nhân lực
Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là
kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để
phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng” [31, tr.3].
Theo GS.TS. Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng
lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở
các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là
những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp
ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng
CNH, HĐH” [16,tr. 269].
Theo PGS.TS. Hoàng Chí Bảo: “nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực
và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng
mới phát triển con người” [1, tr. 53].
Như vậy, khi nói đến nguồn nhân lực tức là nói đến toàn bộ những người có
khả năng tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội trực tiếp và các thế hệ những người
sẽ tiếp tục tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội (tiềm năng). Nguồn nhân lực không
đơn thuần là lực lượng lao động có và sẽ có mà là tập hợp gồm cả ba yếu tố thể lực,
trí lực và kỹ năng lao động, thái độ lao động và phong cách làm việc. Những đặc
điểm này thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực và được đánh giá bằng các chỉ tiêu
tổng hợp là văn hóa lao động.
Từ các cách hiểu nêu trên và từ thực tiễn gắn với góc độ nghiên cứu của đề
tài, có thể hiểu: NNL là nguồn lực con người, là tổng thể số dân và chất lượng con
người với những chỉ tiêu về thể chất, trí tuệ, tinh thần của các cá nhân trong một
cộng đồng, một quốc gia .. đã, đang và sẽ tham gia vào quá trình lao động sáng tạo
vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội.
8
Như vậy, trong nguồn nhân lực thì yếu tố chất lượng nguồn nhân lực đóng
vai trò quan trọng, quyết định cho sự phát triển và tiến bộ của xã hội, nhất là trong
giai đoạn hiện nay, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh
mẽ và nhanh chóng thì nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò cực kỳ quan trọng
cho sự phát triển nhanh và bền vững, thúc đẩy nền kinh tế xã hội phát triển.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực
Theo Liên Hiệp Quốc: Phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo
và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng
cao chất lượng cuộc sống nguồn nhân lực [60].
Theo GS. Nguyễn Đình Tấn: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình nâng cao
năng lực của con người về mọi mặt: Thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử
dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân
công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội [37, tr. 32].
Theo PGS. Phạm Thành Nghị: Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị
cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ
năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực
và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng gia
tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội [34, tr. 14].
Từ những khái niệm trên, tác giả cho rằng, phát triển nguồn nhân lực là sự biến
đổi cả về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực và tâm
lực nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong
từng giai đoạn phát triển. Như vậy, PTNNL bao gồm phát triển về số lượng và phát
triển về chất lượng. Trong giai đoạn hiện nay, PTNNL về chất lượng đang được đặc
biệt quan tâm để tạo ra NNL chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu CNH, HĐH và hội
nhập quốc tế của đất nước.
Phát triển về mặt số lượng là làm tăng số lượng nhân lực trẻ cơ học thông
qua các chính sách dân số, điều tiết cơ cấu vùng miền, cơ cấu sản xuất.
Phát triển về mặt chất lượng là nâng cao sức khỏe, thể lực chiều cao, cân nặng
cân đối, trình độ chuyên môn, văn hóa, kỹ năng nghề nghiệp, đạo đức, lối sống …
9
Biến đổi về cơ cấu là làm cân đối cơ cấu nguồn nhân lực phù hợp giữa các
vùng miền, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, trình độ chuyên môn, khoa học….
1.1.3. Chính sách
Chính sách là động lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương, đất nước. Chính sách đúng đắn sẽ là đòn bẩy để thúc đẩy sự phát triển của
một ngành hoặc lĩnh vực hoặc một địa phương nào đó và ngược lại. Chính sách có
vai trò quan trọng là quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng, địa
phương và của cả nước.
Qua nghiên cứu cho thấy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm của
chính sách. Tuy nhiên, tác giả đồng ý với cách hiểu:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ.
Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể
nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tuỳ thuộc tính chất của
đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Muốn đầu ra chính sách
đúng phải vừa giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong đường lối,
nhiệm vụ chung, vừa linh loạt vận dụng vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể” [30, tr.
475]. Đây là một khái niệm tương đối hoàn chỉnh về chính sách nói chung, theo
khái niệm này, nội hàm của chính sách gồm:
Thứ nhất, Chính sách là văn bản cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước đối với một lĩnh vực nào đó, một đối tượng nào đó ...
Thứ hai, CS thường được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ ba, Chính sách được ban hành phải căn cứ vào đường lối, chủ trương
của Đảng, pháp luật của nhà nước và tình hình thực tế nhắm đến một mục đích nào
đó; nhằm thực hiện mục tiêu nào đó.
Thứ tư, Chính sách muốn có tính khả thi cao khi áp dụng vào thực tế thì khi xây
dựng chính sách cần sát với tình hình thực tiễn và khi áp dụng phải có tính linh hoạt,
sáng tạo trên cơ sở vận dụng đường lối, chủ trương, nhiệm vụ để phù hợp với điều kiện
thực tế của từng ngành nghề, từng địa phương, vùng miền.
1.1.4. Chính sách công
Theo PGS.TS. Đỗ Phú Hải: “Chính sách công là một tập hợp các quyết định
10
chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu cụ thể với các giải pháp
công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của
Đảng chính trị cầm quyền” [18, tr. 37].
Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải: "Chính sách công là kết quả ý chí chính trị
của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau,
bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công
trong xã hội" [20, tr. 51].
Theo PGS.TS. Hồ Việt Hạnh: “Chính sách công là những quyết định của chủ
thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của
cộng đồng” [21, tr. 6]
Tóm lại từ các khái niệm trên, cho thấy Chính sách công đều có những đặc
trưng quan trọng đó là:
Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước. Nhà nước ở đây
được hiểu là các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước, bao gồm Quốc
hội, Chính phủ, các Bộ, chính quyền địa phương các cấp… CSC do Nhà nước đề ra
và tổ chức thực thi nên CSC luôn phản ánh bản chất của Nhà nước đó. Nhà nước ta
là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Vì vậy các CSC của Nhà nước là sự tác động
của Nhà nước lên các lĩnh vực kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất
nước, phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong giai đoạn hiện nay, các CSC của Nhà
nước hướng vào việc tạo ra những động lực và phát huy sức mạnh nội tại trong dân,
kết hợp với việc tạo dựng nguồn vốn, môi trường và điều kiện quốc tế để thực hiện
thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, CSC gồm nhiều quyết định có liên quan lẫn nhau. Khái niệm quyết
định ở đây có thể được coi như một sự lựa chọn hành động của Nhà nước. Chính
sách là một chuỗi hay một loạt các quyết định cùng hướng vào việc giải quyết một
vấn đề chính sách, do một hay nhiều cấp khác nhau trong bộ máy Nhà nước ban
hành trong một thời gian dài. Một chính sách có thể được thể chế hóa thành các văn
bản pháp luật để tạo căn cứ pháp lý cho việc thực thi.
Thứ ba, các quyết định này là những quyết định hành động. CSC trước hết thể
hiện dự định của nhà hoạch định chính sách làm thay đổi hay duy trì một hiện trạng
11
nào đó. Song, nếu chính sách chỉ là những dự định, dù được ghi thành văn bản thì
nó vẫn chưa phải là một chính sách. CSC còn phải bao gồm các hành vi thực hiện
những dự định nói trên và đưa lại những kết quả thực tế.
Thứ tư, CSC tập trung giải quyết một vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế -
xã hội theo những mục tiêu xác định. Khác với các loại công cụ quản lý khác như chiến
lược, kế hoạch của nhà nước là những chương trình hành động tổng quát, bao quát một
hoặc nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc điểm của CSC là chúng được đề ra và được
thực hiện nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề đang đặt ra trong đời sống xã hội.
Có thể nói, vấn đề chính sách là hạt nhân xuyên suốt toàn bộ quy trình chính sách.
Thứ năm, xét theo nghĩa rộng, CSC bao gồm những việc nhà nước định làm và
không định làm. Điều đó có nghĩa là, không phải mọi mục tiêu của CSC đều dẫn tới
hành động, mà nó có thể là yêu cầu của chủ thể không được hành động. Chẳng hạn,
chính sách thả nổi giá cả xác định việc Nhà nước không can thiệp vào sự lên xuống
của giá cả mà để cho chúng biến động theo cơ chế thị trường.
Thứ sáu, CSC tác động đến các đối tượng của chính sách. Đối tượng chính
sách là những người chịu sự tác động hay điều tiết của chính sách. Phạm vi điều tiết
của chính sách có thể rộng hay hẹp tùy theo nội dung của từng chính sách.
Thứ bảy, CSC được Nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của cộng
đồng hoặc của quốc gia. Tuy nhiên, trên thực tế có tình trạng là một chính sách
công đem lại lợi ích cho bộ phận dân cư này nhiều hơn so với bộ phận dân cư khác,
thậm chí có bộ phận bị thiệt thòi.
1.1.5. Chính sách phát triển nguồn nhân lực
Từ những khái niệm chung về chính sách công và khái niệm về PTNNL. Tác
giả luận văn xác định cách hiểu chính sách PTNNL như sau:
Chính sách phát triển nguồn nhân lực là những hành động ứng xử của Nhà
nước thông qua các hình thức khác nhau để chăm lo, giáo dục, đào tạo, tạo điều
kiện cho công dân trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp phát triển của xã hội, bảo vệ tổ quốc và hội nhập quốc tế.
Khái niệm nêu trên đã bao gồm các nội dung:
12
Thứ nhất, Cơ quan ban hành chính sách PTNNL là Nhà nước: Quốc hội, Chính
phủ; các bộ ngành thuộc Chính phủ và HĐND các cấp.
Thứ hai, các chính sách được thể hiện bằng các công cụ, hình thức khác nhau như
hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật: Luật, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư ….
Thứ ba, các chính sách PTNNL thể hiện việc chăm lo, giáo dục, đào tạo trình
độ chuyên môn, văn hóa, nghề nghiệp, tay nghề, kỷ thuật lao động, kỹ năng lao
động cho người lao động.
Thứ tư, Mục tiêu của các chính sách PTNNL là đào tạo công dân trở thành
nguồn lực có tay nghề, trình độ chất lượng cao để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát
triển của xã hội, bảo vệ tổ quốc và hội nhập quốc tế.
1.2. Khái niệm, vị trí, ý nghĩa thực hiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực.
1.2.1. Khái niệm thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
Thực hiện chính sách công nói chung, chính sách PTNNL nói riêng là toàn
bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách PTNNL thành hiện thực
với các đối tượng quản lý nhằm đạt được các mục tiêu định hướng của Nhà nước.
Thực hiện chính sách PTNNL là giai đoạn thứ tư, đặc biệt quan trọng của chu trình
chính sách PTNNL. Nói cách khác, đây là quá trình kết hợp giữa con người với các
nguồn lực vật chất, tài chính, khoa học công nghệ nhằm sử dụng các nguồn lực này
một cách có hiệu quả theo những mục tiêu đề ra.
1.2.2. Vị trí của thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
Nếu ví chu trình chính sách PTNNL như một sợi xích liên kết lại với nhau thì
tổ chức thực hiện chính sách là một mắt xích quan trọng trong chu trình chính sách,
nếu thiếu vắng mắt xích này thì chu trình chính sách không thể tồn tại. Trên thực tế,
khi một chính sách được triển khai vào đời sống xã hội thì sẽ có các trường hợp xảy
ra như sau: Thứ nhất, một chính sách tốt nếu thực hiện tốt thì chính sách đó thành
công; Thứ hai, một chính sách tốt nếu thực hiện không tốt thì chính sách đó thất bại;
Thứ ba, một chính sách không tốt nếu thực hiện tốt thì chính sách đó thành công; Thứ
tư, một chính sách không tốt nếu thực hiện không tốt thì chính sách đó thất bại kép.
13
Tổ chức thực hiện chính sách PTNNL là trung tâm kết nối các giai đoạn
trong chu trình chính sách PTNNL thành một hệ thống. Giai đoạn thực hiện chính
sách được coi là giai đoạn tổng hợp của cả 3 giai đoạn gồm: Hoạch định chính sách,
thực thi chính sách và đánh giá chính sách. So với các khâu khác trong chu trình
chính sách PTNNL, tổ chức thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng, vì
đây là bước hiện thực hóa chính sách PTNNL vào trong đời sống xã hội. Thực tiễn
là chân lý, nếu đưa vào thực hiện chính sách PTNNL tốt không những mang lại lợi
ích to lớn cho các nhóm đối tượng thụ hưởng mà còn củng cố niềm tin của nhân dân
vào các chính sách của Nhà nước. Điều này hoàn toàn có lợi về mặt chính trị và xã
hội, làm tăng uy tín của Nhà nước trong công tác quản lý.
Ngoài ra, chính sách PTNNL là chính sách có đặc thù vì nó tác động sâu
rộng tới toàn thể nhân dân do đó trong tổ chức thực hiện chính sách PTNNL phải
chú ý đến đặc thù này để tìm ra giải pháp phù hợp, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của
chính sách.
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL là yêu cầu tất yếu khách quan
để duy trì sự tồn tại của chính sách PTNNL với tư cách là công cụ vĩ mô theo yêu
cầu quản lý của nhà nước và cũng là để đạt mục tiêu mà chính sách phát triển NNL
theo đuổi.
1.2.3. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
- Tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL là để từng bước thực hiện các
mục tiêu chính sách và mục tiêu chung.
Thông qua quá trình thực thi chính sách để đạt được các mục tiêu chính sách,
vì thực thi chính sách bao gồm các hoạt động của các cơ quan nhà nước với các đối
tác xã hội thực hiện nhằm hướng tới đạt được các mục tiêu và mục đích của chính
sách. Khi triển khai thực hiện chính sách, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành các văn bản, hoặc chương trình, dự án để hiện thực hóa các mục tiêu và mục
đích chính sách, và tiến hành các hoạt động để thực hiện các văn bản, chương trình,
dự án đó.
- Tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL là để khẳng định tính đúng
đắn của chính sách.
14
Trong đời sống xã hội, việc nhận thấy những mâu thuẫn cần được giải quyết
bằng chính sách nhờ quá trình hoạch định chính sách. Tuy nhiên, chính sách đó có
thực sự đúng đắn hay không chỉ có thể được khẳng định trong giai đoạn thực hiện
chính sách. Thực hiện chính sách công chính là giai đoạn cung cấp thêm các bằng
chứng thực tiễn về mục tiêu chính sách công có thực sự phù hợp hay không, các giải
pháp chính sách có thực sự phù hợp với vấn đề mà nó hướng tới giải quyết hay
chưa. Về lý thuyết, khi chính sách được ban hành thì nó đã phải đáp ứng đầy đủ các
tiêu chuẩn của một chính sách tốt và đã được chủ thể ban hành chính sách thừa
nhận, nhưng khi triển khai vào đời sống xã hội thì tính đúng đắn của nó mới được
xã hội và các đối tượng thụ hưởng chính sách khẳng định một cách chắc chắn.
- Tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL là nhằm giúp cho chính sách
ngày càng hoàn thiện hơn.
Khi chính sách phát triển NNL ban đầu được ban hành thì cũng chỉ mang
tính định hướng về mục tiêu và giải pháp để giải quyết các vấn đề về phát triển
NNL. Căn cứ vào mục tiêu và giải pháp của chính sách ban đầu, tùy theo thẩm
quyền của các cơ quan nhà nước các cấp thiết kế, ban hành các quy định, chương
trình, thủ tục, dự án để cụ thể hóa các mục tiêu và giải pháp cho phù hợp với điều
kiện thực tế. Song song với đó, thông qua quá trình thực hiện chính sách, những
người thực hiện chính sách sẽ đưa ra các đề xuất điều chỉnh chính sách cho phù hợp
với điều kiện thực tế đời sống xã hội và rút ra những bài học kinh nghiệm cho các
chính sách sau này. Chính vì thế, có thể nói giữa giai đoạn hoạch định chính sách và
thực hiện chính sách có mối quan hệ hữu cơ. Việc phân tách rạch ròi giữa thực hiện
chính sách với hoạch định chính sách trước đây đã không còn phù hợp.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực.
1.3.1 Yếu tố khách quan
Yếu tố khách quan là những yếu tố xuất hiện và tác động tới tổ chức thực
hiện chính sách phát triển NLL từ bên ngoài, độc lập với ý muốn chủ chủ thể quản
lý. Những yếu tố này tốn tại và vận động theo quy luật khách quan, ít tạo ra những
thay đổi bất thường, cho nên không gây được sự chú ý của các nhà quản lý, nhưng
15
tác động của chúng đến quá trình thực hiện chính sách lại rất lớn vì cơ chế tác động
giữa chúng với các vấn đề chính sách được hình thành trên cơ sở quy luật. Vì đây là
các yếu tố khách quan nên chúng ta không thể cải biến mà chỉ tìm cách điều chỉnh
các hoạt động quản lý, điều hành cho phù hợp với quy luật vận động trong mỗi điều
kiện về không gian và thời gian. Các yếu tố khách quan chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp
đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách PTNNL gồm:
- Tính chất của vấn đề chính sách phát triển NNL:
Vấn đề chính sách phát triển NNL là vấn đề phức tạp, có quan hệ lợi ích với
nhiều đối tượng trong xã hội, thời gian thực hiện tương đối dài. Bên cạnh đó tính
cấp bách, thời sự của chính sách phát triển NNL cũng tác động lớn đến kết quả tổ
chức thực hiện. Không thể một sớm, một chiều có thể thực hiện thành công chính
sách phát triển NNL. Do đó, tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL cần phải
quan tâm đến tính chất của vấn đề chính sách.
- Môi trường thực hiện chính sách phát triển NNL:
Đây là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
an ninh quốc phòng, môi trường tự nhiên và quốc tế… Các hoạt động này diễn ra
theo quy luật trong những điều kiện cụ thể, nên nó độc lập với quá trình thực thi
chính sách. Tỉnh Đắk Nông là tỉnh có tỷ lệ người dân tộc thiểu số cao so với tỷ lệ
bình quân cả nước. Đến năm 2011, dân số tỉnh Đắk Nông là 521.677 người, gồm 40
dân tộc cùng sinh sống. Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 32% dân
số toàn tỉnh. Dân tộc M’Nông, Mạ và Ê Đê là 3 dân tộc sinh sống lâu đời ở địa
phương, chiếm trên 30% so với tổng số dân tộc thiểu số toàn tỉnh, là tỉnh có nền văn
hóa, văn nghệ dân gian phong phú và đa dạng như các nghi lễ, lễ hội, truyện cổ, lời
nói vần, sử thi (ót n’drông) với tầm vóc và số lượng đồ sộ hàng ngàn, hàng vạn câu
văn vần, đàn đá Đắk Kar, các luật tục, văn hóa công chiêng …
Năm 2011, số người trong độ tuổi lao động toàn tỉnh đang làm việc trong các
ngành kinh tế là 315.675 người, chiếm 60,5% dân số, tỷ lệ lao động qua đào tạo
chiếm 27,75%. Số lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Đắk Nông có
khoảng 16.492 người. Trong đó, nữ khoảng 6.359; Dân tộc: 1.397 người.
- Mối quan hệ giữa các đối tượng thực thiện chính sách phát triển NNL:
16
Đây là yếu tố thể hiện sự thống nhất và không thống nhất về lợi ích của các
đối tượng trong việc thực hiện mục tiêu chính sách phát triển NNL. Cho nên, trong
thực hiện chính sách phát triển NNL cần phải chú ý đến mối quan hệ này. Có giải
pháp tạo được sự đồng thuận và thống nhất cao về lợi ích giữa các đối tượng trong
tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL. Cần tuyên truyền nâng cao nhận thức
cho các đối tượng tham gia tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL về mục
đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách phát triển NNL.
- Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách phát triển NNL:
Đây là yếu tố thể hiện thực lực và tiềm năng mà mỗi nhóm có được trong
mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng khác trong chính sách phát triển NNL.
Tiềm lực các nhóm đối tượng chính là kinh tế, chính trị, xã hội …. Tiềm lực các
nhóm đối tượng trong chính sách phát triển NNL ở nước ta rất khác nhau do hoàn
cảnh tự nhiên, văn hóa lịch sử về nguồn nhân lực nước ta chưa được đồng đều,
nguồn nhân lực đa dạng, đa sắc tộc, phong phú.
- Đặc tính của đối tượng chính sách phát triển NNL:
Là các tính chất đặc trưng mà mỗi đối tượng của chính sách phát triển NNL
có được từ bản tính cố hữu hay do môi trường sống tạo nên qua quá trình vận động
mang tính lịch sử. Các đặc tính này thường liên quan đến tính kỷ luật, tính sáng tạo,
tính tự giác, lòng quyết tâm, tính truyền thống … Các đặc tính này gắn liền với đối
tượng thực hiện chính sách phát triển NNL. Do đo, các chủ thể tổ chức thực hiện
chính sách phát triển NNL cần phải biết cách khơi gợi hay hạn chế nó để có được
kết quả tốt nhất trong quá trình thực hiện chính sách phát triển NNL.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển NNL, ngoài các yếu tố khách
quan cần quan tâm thì cần cần chú ý đến các yếu tố chủ quan như:
- Các chính sách của địa phương về phát triển nguồn nhân lực:
Trên cơ sở nghiên cứu, quán triệt nôi dung Nghị quyết số 05, HĐND tinỉ,
UBND tỉnh, các huyện ủy, thi ủy, đảng ủy trực thuộc, các sở, ban, ngành, Măt trận,
đoàn thể, các doanh nghiệp của tỉnh đã cụ thể hóa Nghị quyết số 05 thành các đề án,
kế hoạch, chương trình hành động và tổ chức triển khai thực hiện như:
17
- HĐND tỉnh ban hành:
Nghị quyết số 35/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của HĐND tỉnh, quy
định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị tỉnh Đắk
Nông giai đoạn 2012-2015;
Nghị quyết số 38/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của HĐND tỉnh, về
chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk
Nông từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-2016;
Nghị quyết số 41/2012/NQ-HĐND, ngày 20/12/2012 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Nông thông qua Đề án nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc
thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm học 2012-2013 đến năm học 2015-2016;
Nghị quyết số 45/2012/NQ-HĐND, ngày 20/12/2012 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Nông về chính sách tạo quỹ đất ở và hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho cán
bộ, công chức, viên chức;
Nghị quyết số 09/2014/NQ-HĐND, ngày 16/7/2014 của HĐND tỉnh, Quy
định chính sách thu hút, đãi ngộ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học và sau đại học về
công tác tại các cơ quan, đơn vị y tế công lập trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn
2015-2020.
- UBND tỉnh ban hành:
Quyết định số 1524/QĐ-UBND ngày 17/10/2011 của UBND tỉnh phê duyệt
Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2020;
Quyết định số 04/2012/QĐ-UBND ngày 14/3/2012 của UBND tỉnh Đắk
Nông, Ban hành Quy định về số lượng, chức danh và chế độ, chính sách đối với
những người hoạt động không chuyên trách và một số đối tượng khác công tác ở xã,
phường, thị trấn, ở thôn, buôn, bon, bản, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh;
Quyết định số 1987/QĐ-UBND, ngày 15/12/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Nông về việc ban hành Đề án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020;
Quyết định số 168/QĐ-UBND, ngày 08/02/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Nông về chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc
thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm 2011-2012 đến năm học 2015-2016;
18
Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND ngày 09/3/2012 của UBND tỉnh Đắk
Nông về việc Quy định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống
chính trị tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2012-2015;
Quyết định số 18/2012/QĐ-UBND, ngày 21/9/2012 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Đắk Nông về việc ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức tỉnh Đắk Nông;
Quyết định số 1594/QĐ-UBND, ngày 09/10/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Nông về phê duyệt Đề án Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông
đến 2015 và định hướng đến năm 2020;
Quyết định số 346/QĐ-UBND về Kế hoạch thực hiện Đề án củng cố và nâng
cao chất lượng cán bộ, công chức xã phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
giai đoạn 2014-2021;
- Thực hiện đúng, đầy đủ các bước trong quy trình tổ chức thực hiện chính
sách phát triển NNL:
Quy trình thực hiện chính sách được xem là những nguyên lý khoa học được
đúc kết từ thực tiễn cuộc sống. Việc tuân thủ quy trình là một nguyên tắc hành động
của các nhà quản lý. Các bước trong quy trình thực hiện chính sách phát triển NNL
đều có vị trí, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Các bước trong quy trình thực hiện
chính sách phát triển NNL gắn kết chặt chẽ với nhau, bổ trợ và tác động lẫn nhau,
làm tốt bước này là nên tảng, ảnh hưởng, tác động đến bước kia và ngược lại. Bên
cạnh đó cần phải thực hiện đầy đủ các bước, không được bỏ qua bất cứ bước nào
trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL. Kết hợp các hoạt động
tuyên truyền, phổ biến và vận động thực thi chính sách sẽ giúp cho các đối tượng
chính sách nêu cao tinh thần tự nguyện, tự giác trong thực hiện chính sách. Như vậy
sẽ tạo điều kiện, giúp cho các hoạt động thực thi chính sách được thuận lợi.
- Năng lực thực thi chính sách của cán bộ, công chức trong bộ máy quản lý
Nhà nước:
Đây là yếu tố chủ quan có vai trò trò to lớn, quyết định đến kết quả tổ chức
thực hiện chính sách phát triển NNL. Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ
công chức bao gồm nhiều yếu tố như trình độ, năng lực được đào tạo, kỹ năng, kinh
19
nghiệm trong công tác cũng như tinh thần, thái độ thực thi công vụ, khả năng phân
tích, dự báo trước các tình huống có thể xảy ra trong quá trình thực hiện chính sách
phát triển NNL. Những cán bộ công chức được giao nhiệm vụ tổ chức, điều hành
thực hiện chính sách phát triển NNL cần nêu cao tinh thần trách nhiệm, kỷ luật để
đạt được kết quả tốt nhất. Đối với các cán bộ công chức, cơ quan có thẩm quyền
nếu thiếu năng lực thực tế thì khi được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện chính sách
có thể đưa ra ra kế hoạch dự kiến không sát với thực tế, làm lãng phí nguồn lực huy
động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của chính sách, thậm chí còn làm biến dạng
chính sách trong quá trình tổ chức thực hiện. Như vậy, năng lực thực thi của cán bộ
công chức tốt không những chủ động điều phối được các yếu tố chủ quan tác động
theo định hướng, mà còn khắc phục những tác động tiêu cực từ các yếu tố khách
quan để công tác tổ chức thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao nhất.
- Điều kiện vật chất cần cho quá trình thực hiện chính sách phát triển NNL:
Đây là yếu tố thể hiện ngày càng quan trọng để cùng phối hợp với nhân lực
và các điều kiện khác để thực hiện thành công chính sách phát triển NNL. Trong
điều kiện phát triển như hiện nay để quản lý mọi mặt hoạt động, nhà nước phải luôn
tăng cường các nguồn lực vật chất và nhân sự, trong đó nguồn lực vật chất tăng
nhanh cả về số lượng và chất lượng. Nếu điều kiện vật chất, kỹ thuật được đáp ứng
theo yêu cầu thì làm tăng tính khả thi trong việc tổ chức thực hiện chính sách phát
triển NNL. Do đó, cần đặc biệt quan tâm và tăng cường đầu tư cho điều kiện vật
chất trong việc tổ chức thực hiện chính sách phát triển NNL.
- Sự đồng tình ủng hộ của dân chúng:
Đây là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành công hay
thất bại của một chính sách. Chính sách phát triển NNL là một chính sách lớn, có sự
tham gia vào cuộc của toàn thể nhân dân. Xét cho cùng thì các chính sách nói chung
và chính sách phát triển NNL nói riêng là chính sách trong đó Nhà nước chịu trách
nhiệm chỉ đạo, điều hành công tác tổ chức thực hiện chính sách, còn các tầng lớp
nhân dân là đối tượng thực hiện chính sách. Từ đó ta thấy, nhân dân chính là người
trực tiếp tham gia hiện thực hóa mục tiêu của chính sách, vừa là người trực tiếp thụ
hưởng những lợi ích do chính sách mang lại. Nếu chính sách phát triển NNL đáp
20
ứng được yêu cầu thực tế của xã hội về mục tiêu và các giải pháp triển khai thì sẽ
nhanh chóng đi vào lòng dân và được nhân dân ủng hộ. Còn nếu không thiết thực
với dân, không sát với tình hình thực tế thì sẽ bị tẩy chay hoặc “bị bỏ rơi” thậm chí
bị phản đối. Từ những yếu tố trên để có thể nói, chính sách phát triển NNL nói riêng
và chính sách nói chung sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân là yếu tố chủ quan cực
kỳ quan trọng tác động trực tiếp đến sự thành công của việc thực hiện chính sách.
1.4. Nội dung quy trình tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực
1.4.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực
Đây là bước đầu tiên trong việc tổ chức thực hiện chính sách PTNNL. Quá
trình thực hiện chính sách PTNNL là quá trình lâu dài, phức tạp. Do đó, các cơ quan
triển khai thực hiện chính sách PTNNL cần lập ra kế hoạch, chương trình để triển
khai thực hiện chính sách PTNNL một cách chủ động hoàn toàn. Nội dung xây
dựng kế hoạch triển khai thực hiện gồm:
+ Kế hoạch tổ chức, điều hành: Đề ra hệ thống các cơ quan tham gia chủ trì và
phối hợp; số lượng và chất lượng về nhân sự tham gia; phân công, cơ chế trách nhiệm
từ cán bộ thực thi đến quản lý; cơ chế tác động giữa các cấp thực hiện chính sách.
+ Kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực: Dự kiến cơ sở kiến trúc; trang thiết
bị kỹ thuật; tài chính … để tổ chức thực hiện chính sách.
+ Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện: Dự kiến về khoảng thời gian duy trì
chính sách; các bước thực hiện cần dự kiến thời gian bắt đầu và kết thúc.
+ Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách: đưa ra các hình thức kiểm
tra tiến độ, giám sát thực hiện và các phương pháp thực hiện.
+ Dự kiến những nội quy, quy chế: Cần ban hành rõ các nội quy, quy chế về
cách thức tổ chức, điều hành, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của từng cá nhân
và của các cơ quan tham gia thực hiện chính sách. Các hình thức khen thưởng, kỷ
luật trong quá trình tổ chức thực hiện.
21
1.4.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển nguồn nhân lực
Trên cơ sở bản kế hoạch triển khai thực hiện được thông qua, các cơ quan
nhà nước tiến hành triển khai thực hiện theo đúng kế hoạch. Việc cần làm đầu tiên
trong quá trình này là tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính
sách. Đây là việc làm hết sức quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với cơ quan nhà
nước và các đối tượng thực thi chính sách phát triển NNL. Công tác tuyên truyền,
phổ biến chính sách tới toàn thể nhân dân tốt sẽ giúp cho các đối tượng chính sách
và người dân tham gia thực hiện hiểu rõ hơn về mục đích, yêu cầu của chính sách;
về tính đúng đắn, khả thi của chính sách trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định
… để từ đó họ tự giác thực hiện theo yêu cầu của quản lý của nhà nước. Bên cạnh
đó còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhận thức
được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách đối với đời sống xã hội để
chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu
chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách
phát triển NNL được giao.
Công tác phổ biến, tuyền truyền cần được tăng cường đầu tư về trình độ
chuyên môn, phẩm chất chính trị, về trang thiết bị kỹ thuật nhằm nâng cao chất
lượng tuyên truyền, vận động. Tuyên truyền, vận động thực thi chính sách cần được
thực hiện thường xuyên, liên tục kể cả khi chính sách đang trong quá trình thực thi,
để người dân và các đối tượng được củng cố lòng tin vào chính sách và tích cực
thực thi chính sách. Việc tuyên truyền, vận động chính sách có thể được thực hiện
bằng nhiều hình thức khác nhau như trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng
tiếp nhận; gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng … Tùy theo yêu cầu
của từng cơ quan quản lý và tính chất của chính sách và điều kiện thực tế mà có thể
lựa chọn các hình thức tuyên truyền, vận động cho phù hợp.
1.4.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
Bước tiếp theo là phân công, phối hợp các cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện
chính sách phát triển NNL theo kế hoạch đã được phê duyệt.
Chính sách phát triển NNL tại tỉnh Đắk Nông được thực thi trên địa bàn tỉnh, vì
thế số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất lớn. Số lượng tham
22
gia bao gồm các đối tượng chịu sự tác động của chính sách này, nhân dân thực hiện và
bộ máy tổ chức thực thi chính sách trên địa bàn tỉnh. Cho nên, muốn tổ chức thực thi
chính sách có hiệu quả phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan quản lý
ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia vào quá trình thực thi
chính sách và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách.
Trong thực tế, chính sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân
cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ
phận khác nhau. Do đó, để việc thực thi chính sách phát triển NNL tại tỉnh Đắk
Nông thực hiện được đúng mục tiêu quản lý thì cần phải phối hợp các yếu tố, bộ
phận, đối tượng tác động có liên quan.
Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách
một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.
1.4.4. Duy trì chính sách phát triển nguồn nhân lực
Duy trì chính sách tức là làm cho chính sách đó tồn tại và phát huy tác dụng
và hiệu quả. Để đảm bảo thực hiện tốt việc duy trì chính sách phát triển NNL tại
tỉnh Đắk Nông cần phải có sự đồng tâm, hiệp lực của nhiều yếu tố như người tổ
chức, người thực thi và môi trường tồn tại. Đối với các cơ quan Nhà nước, người tổ
chức thực hiện chính sách cần thường xuyên tuyên truyền, vận động các đối tượng
chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực hiện chính sách. Nếu việc thực thi
chính sách gặp phải khó khăn do môi trường thực tế thay đổi thì cơ quan Nhà nước
sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho
việc thực hiện chính sách, đồng thời điều chỉnh chính sách cho phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh mới. Trong một chừng mực nào đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã
hội, các cơ quan Nhà nước có thể kết hợp các biện pháp hành chính để duy trì chính
sách, bên cạnh đó, cần tăng cường thực hiện dân chủ để người dân mạnh dạn tham
gia quản lý xã hội, trong đó tự giác chấp hành chính sách và tham gia tìm kiếm, đề
xuất các biện pháp để thực hiện mục tiêu chính sách.
1.4.5. Điều chỉnh chính sách phát triển nguồn nhân lực
Thực tế chính sách trong quá trình thực hiện do tác động của nhiều yếu tố sẽ
23
bộc lộ sự bất cập. Do đó, Điều chỉnh chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra
thường xuyên trong quá trình tổ chức thực thi chính sách. Điều này được thực hiện
bởi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với
yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách
thì được quyền bổ sung, điều chỉnh chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh
các biện pháp, cơ chế chính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lý nhà
nước các ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực
hiện có hiệu quả chính sách, miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính sách.
Một nguyên tắc cần phải chấp hành khi điều chỉnh chính sách là: để chính
sách tiếp tục tồn tại. Chỉ được điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu,
hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế. Nếu điều chỉnh làm thay
đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi chính sách thì coi như chính sách không tồn tại.
Hoạt động điều chỉnh chính sách đòi hỏi phải chính xác, hợp lý, nếu không
sẽ làm sai lệch, biến dạng chính sách, làm cho chính sách trở nên kém hiệu quả,
thậm chí không tồn tại được. Muốn vậy, cơ quan nhà nước các cấp, các ngành phải
thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực thi mới kịp thời phát hiện những sai
sót để kịp thời điều chỉnh, bổ sung.
1.4.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực
Thực thi chính sách diễn ra trên địa bàn rộng và do nhiều cơ quan, tổ chức, các
nhân tham gia. Do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành theo
dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách. Qua đó, các mục tiêu và biện pháp
của chính sách lại được khẳng định để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức, viên chức
và mỗi đối tượng thực thi chính sách tập trung chú ý những nội dung ưu tiên trong
quá trình thực thi chính sách. Trên cơ sở kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đã được phê
duyệt, các tổ chức cá nhân có trách nhiệm thực hiện hoạt động kiểm tra có hiệu quả.
Kiểm tra thường xuyên giúp cho nhà quản lý nắm được tình hình thực thi
chính sách, nhờ đó:
Tạo ra sự tập trung thống nhất trong việc thực hiện mục tiêu chính sách;
Phát hiện, đánh giá khách quan về những điểm mạnh, điểm yếu của công tác
24
tổ chức thực thi chính sách;
Tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng các hoạt động độc lập của các cơ quan,
đối tượng thực thi chính sách;
Giúp phát hiện những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch tổ chức thực thi
để điều chỉnh;
Kịp thời khuyến khích những nhân tố tích cực trong thực thi chính sách để
tạo ra những phong trào thiết thực cho việc thực hiện mục tiêu.
Ngoài ra, công tác kiểm tra đôn đốc này còn giúp cho các đối tượng thực thi
chính sách:
Biết được những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện;
Nhận thức đúng vị trí của mình để yên tâm thực hiện có trách nhiệm công
việc được giao;
Giúp các đối tượng nắm chắc quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thực thi
chính sách để yêu cầu các cơ quan Nhà nước chấp hành đầy đủ nghĩa vụ.
Kiểm tra, theo dõi sát sao tình hình tổ chức thực thi chính sách vừa kịp thời
bổ sung, hoàn thiện chính sách, vừa chấn chỉnh công tác tổ chức thực thi chính
sách, giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách.
1.4.7. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm
Trong quá trình thực hiện chính sách, người ta có thể đánh giá từng phần hay
toàn bộ kết quả thực hiện chính sách, trong đó đánh giá toàn bộ được thực hiện sau
khi kết thúc toàn bộ chính sách. Đánh giá tổng kết bước tổ chức thực hiện chính
sách được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo - điều hành và chấp hành
chính sách của các đối tượng thực thi chính sách.
Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi
chính sách là các cơ quan trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra còn xem xét cả vai trò, chức
năng của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội và xã hội trong việc tham gia thực
thi chính sách. Cơ sở để đánh giá tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính
sách trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế
được xây dựng. Đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan
nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình
25
phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách của các tổ chức chính trị và xã hội
với Nhà nước. Bên cạnh đó còn xem xét đánh giá việc thực thi của các đối tượng
tham gia thực hiện chính sách bao gồm: đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và
gián tiếp từ chính sách. Thước đo đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng này là
tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những quy định
về cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện
mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian.
1.5. Phương pháp tổ chức thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
1.5.1. Phương pháp kinh tế
Đây là cách thức tác động lên các đối tượng tham gia thực hiện chính sách
dựa trên các biện pháp kinh tế. Ví dụ như dùng lợi ích kinh tế để kích thích hoặc
hạn chế một hoạt động hay hành vi nào đó. Đây là phương pháp liên quan trực tiếp
đến lợi ích của các nhóm đối tượng chính sách, do đó có tác dụng rất mạnh so với
các phương pháp khác.
1.5.2. Phương pháp thuyết phục
Đây là phương pháp mang tính giáo dục, tác động vào nhận thức và tình cảm
của con người nhằm nâng cao tính tự giác và nhiệt tình của họ, làm cho họ nắm
được mục tiêu, nhiệm vụ của chính sách, đồng thời để cho họ hiểu được trách
nhiệm của mỗi bản thân để góp phần vào sự nghiệp chung. Để thực hiện thành công
phương pháp này đòi hỏi người thực hiện cần có kỹ năng, phương pháp tuyên
truyền, thuyết phục.
1.5.3. Phương pháp hành chính
Đây là phương pháp tác động lên đối tượng thông qua việc các cơ quan nhà
nước ban hành các quy định, nội quy, mệnh lệnh hành chính; kiểm tra việc chấp
hành các quy định, nội quy, mệnh lệnh hành chính và xử lý vi phạm. Trên thực tế
thường hay sử dụng phương pháp kinh tế và phương pháp thuyết phục nhưng cũng
có trường hợp hai phương pháp này không mang lại hiệu quả, nên phải dùng đến
phương pháp hành chính để cưỡng chế thi hành.
1.5.4. Phương pháp kết hợp
26
Đây là phương pháp tác động lên đối tượng và quá trình chính sách bằng tất
cả các yếu tố để triển khai thực hiện chính sách có hiệu quả. Đây là phương pháp
được xây dựng bằng cách kết hợp các phương pháp trên theo một trật tự, quy mô
phù hợp. Phương pháp này không có một cấu trúc nhất định, mà tùy vào điều kiện
cụ thể, nhà quản lý sẽ kết hợp các phương pháp trên để phù hợp với yêu cầu tổ chức
thực hiện chính sách.
Như vậy, việc áp dụng các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách là
quyền chủ động của chủ thể quản lý nhằm tác động có hiệu lực hiệu quả lên các đối
tượng chính sách.
Tiểu kết Chương 1
Trong chương 1, tác giả đã nghiên cứu và trình bày, hệ thống hóa một số cơ sở
lý luận cơ bản về chính sách PTNNL, trình bày một số khái niệm liên quan như
nguồn nhân lực, PTNNL, chính sách PTNNL và thực hiện chính sách PTNNL.
Chương này tác giả đã làm rõ nội dung vị trí, ý nghĩa của việc thực hiện
chính sách PTNNL cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính
sách PTNNL. Các yêu cầu của việc thực hiện chính sách PTNNL.
Thực hiện chính sách PTNNL nói riêng và thực hiện chính sách công nói
chung là 1 trong 5 bước của chu trình chính sách và được tổ chức thực hiện thông
qua quy trình gồm 7 bước: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; Phân
công phối hợp thực hiện chính sách; Duy trì chính sách; Điều chỉnh chính sách;
Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách và Đánh giá, rút kinh nghiệm.
Ngoài ra, tác giả đã nêu lên các phương pháp tổ chức thực hiện chính sách như:
Phương pháp kinh tế; Phương pháp thuyết phục; Phương pháp hành chính và
phương pháp kết hợp.
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ mới nêu, phân tích và
tổng hợp được một số cơ sở lý luận cơ bản có liên quan đến đề tài. Những cơ sở lý
luận này sẽ là tiền đề quan trọng để tác giả đi nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực
hiện chính sách PTNNL từ thực tiễn tỉnh Đắk Nông ở chương 2.
27
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỈNH ĐẮK NÔNG
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu
2.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Đắk Nông
Tỉnh Đắk Nông được thành lập vào đầu năm 2004 trên cơ sở chia tách tỉnh
Đắk Lắk cũ thành 2 tỉnh (Đắk Lắk và Đắk Nông) theo Nghị quyết số 22/2003/NQ-
QH11 Khóa XI, kỳ họp thứ 4 ngày 26/11/2003 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Đến nay, tỉnh Đắk Nông có 8 đơn vị hành chính cấp huyện
(gồm thị xã Gia Nghĩa và các huyện Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk R’Lấp, Krông
Nô, Đắk G’Long, Tuy Đức) với tổng số 71 xã, phường, thị trấn [45].
Nằm ở cửa ngõ phía Tây Nam của Tây Nguyên, được xác định trong khoảng
tọa độ địa lý: 11045' đến 12050' vĩ độ Bắc, 107013' đến 108010' kinh độ Đông [65].
Đắk Nông là tỉnh nằm trong khu vực tam giác phát triển Việt Nam - Lào -
Campuchia. Phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, Phía Bắc và Đông Bắc
giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp
Vương quốc Campuchia.
Quốc lộ 14 chạy qua tỉnh Đắk Nông nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh
vùng Đông Nam bộ với các tỉnh Tây nguyên, trung tâm tỉnh Đắk Nông cách thành
phố Hồ Chí Minh 230 km về phía Bắc và cách thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk
Lăk) 120 km về phía Tây Nam; Tuyến Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với tỉnh Lâm
Đồng, tỉnh Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách thành phố Đà Lạt
(tỉnh Lâm Đồng) 180 km và thành phố Phan Thiết (tỉnh Bình Thuận) 230 km về
phía Đông. Tỉnh Đắk Nông có 130 km đường biên giới với nước bạn Campuchia,
có 02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Peur nối thông với các tỉnh Mondulkiri, Kratie,
Kandal, Pnom Penh, Siem Reap, v.v.
Các dự án tuyến đường sắt Đắk Nông-Chơn Thành-Di An ra cảng Thị Vải,
Đắk Nông – Tân Rai ra cảng Kê Gà trong tương lai, khi được triển khai thì sẽ mở ra
cơ hội lớn cho Đắk Nông đẩy mạnh khai thác các thế mạnh của tỉnh.
28
Tỉnh Đắk Nông có mạng lưới sông suối, hồ, đập phân bố tương đối đồng đều
khắp tỉnh. Đây là điều kiện tự nhiên thuận lợi để khai thác nguồn nước phục vụ cho
sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng các công trình thủy điện, du lịch và
phục vụ nhu cầu dân sinh. Các sông chính chảy qua địa bàn tỉnh gồm: Sông
Sêrêpôk, sông Krông Nô, sông Đồng Nai. Ngoài ra còn có các hồ, đập lớn có tác
dụng giữ nước cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện, du lịch như Hồ
Tây, EaSnô, Ea T’Linh, Đắk Rông, Đắk Đier, Đắk R’tik, Đồng Nai 3, 4 .v.v.
Diện tích đất tự nhiên của tỉnh Đắk Nông là 650.927 ha, nằm trên cao
nguyên M’Nông, độ cao trung bình khoảng từ 600m đến 700m so với mặt nước
biển, có những điểm lên tới 1.982m (Tà Đùng) [62]. Đắk Nông là tỉnh có địa hình
đa dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ,
hiểm trở với các cao nguyên rộng lớn, đốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ
các dãi đồng bằng trũng thấp.
Đắk Nông nằm giữa hai tiểu vùng khí hậu Tây Nguyên và Đông Nam Bộ,
chế độ khí hậu mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng
có sự nâng lên của địa hình nên có đặc trưng của khí hậu cao nguyên nhiệt đới ẩm,
vừa chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam khô nóng..
Diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 306.749ha, đất lâm nghiệp có rừng
khoảng 279.510 ha, đất phi nông nghiệp khoảng 42.307ha, dất chưa sử dụng khoảng
21.327 ha, trong đó đất sông suối và núi đá không có cây rừng khoảng 17.994 ha.
Đắk Nông có nhiều loại khoáng sản như: Boxit, wolfram, antimoal, bazan bọt,
bazan cột, bazan khối, cát xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch gói, than bùn,
opal, thiết sa khoáng, saphir … trong đó Boxit là khoáng sản có trữ lượng lớn nhất
dự đoán 5,4 tỉ tấn[62].
2.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Nông
Sau 15 năm kể từ khi thành lập đến nay, tỉnh Đắk Nông đã đạt được những
thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của
tỉnh giai đoạn 2011-2015 đạt khoảng (GRDP giá 1994) 12,6% . Trong đó, khu vực
nông nghiệp tăng 9,3%; khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 16,83%; khu vực
dịch vụ tăng 15%. [56, tr3]; Giai đoạn 2016-2018 đạt khoảng 9,26%, trong đó: Khu
29
vực công nghiệp - xây dựng tăng 16,78%; Khu vực nông nghiệp tăng 3,33%; khu
vực dịch vụ tăng 18,54%.[57, tr2] Như vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn
duy trì ở mức khá và ổn định. Khu vực nông nghiệp duy trì mức tăng trưởng cao,
góp phần đáng kể cho việc duy trì tăng trưởng kinh tế của tỉnh ở mức cao và ổn
định, trong khi Khu vực công nghiệp - xây dựng thấp hơn so với kế hoạch (25,2%)
chủ yếu là do một số dự án hạ tầng và khu công nghiệp lớn chậm tiến độ; Khu vực
dịch vụ tuy chưa đạt kế hoạch (19%) nhưng vẫn đạt mức khá.
Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP giá 2010) năm 2015 đạt trên khoảng 14.776
tỷ đồng, quy mô nền kinh tế tăng 1,33 lần so với năm 2011(11.143 tỷ đồng) [7];
năm 2018 đạt 19.217 tỷ đồng, tăng 1,30 lần so với năm 2015[58].
Cơ cấu kinh tế có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng khu vực nông nghiệp
giảm dần, khu vực công nghiệp, dịch vụ tăng dần, đúng định hướng. Đến năm 2015,
tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 49,61% giảm 4% so với đầu nhiệm kỳ; tỷ trọng
ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 26,71%, tăng 2,6% so với đầu nhiệm kỳ; tỷ
trọng ngành dịch vụ chiếm 23,68%, tăng 1,4% so với đầu nhiệm kỳ [56, tr3]. Đến
năm 2018, khu vực nông nghiệp chiếm 46,2%; khu vực công nghiệp – xây dựng
chiếm 15,89%, khu vực dịch vụ chiếm 32,85%; khu vực thuế chiếm 5,06%.[58, tr2]
GRDP bình quân đầu người tăng dần theo từng năm, thể hiện đời sống kinh
tế của người dân có những bước cải thiện và dần được nâng cao. GRDP bình quân
dầu người năm 2011 đạt 27,75 triệu động; 2015 đạt 35 triệu đồng[56, tr3]; năm
2018 đạt 45,24 triệu đồng [58, tr2]
Đến cuối năm 2016, toàn tỉnh có trên 2.782 cơ sở, nhà máy chế biến công
nghiệp, tăng 1.387 cơ sở so với năm 2004. Tổng số khu, cụm công nghiệp toàn tỉnh
hiện nay 07 khu, cụm; tỉnh đang triển khai khu công nghiệp Nhân cơ 2 để đáp ứng
nhu cầu phát triển công nghiệp sau Nhôm. Quy mô của các ngành công nghiệp năm
2018 tăng 21 lần so với năm 2004, tăng bình quân 24,6%/năm. Trong đó, các ngành
chủ lực như: công nghiệp khai khoáng tăng bình quân 17,4%/năm; công nghiệp chế
biến tăng bình quân 11,92%/năm; công nghiệp năng lượng tăng bình quân
46,4%/năm [64]. Thu hút và triển khai đầu tư một số dự án công nghiệp lớn, tác
30
động lan tỏa đến phát triển kinh tế xã hội. Bước đầu hình thành chuỗi công nghiệp
Alumin - luyện nhôm và sau nhôm trọng điểm của quốc gia.
Hoạt động văn hóa, thể dục và thể thao tiếp tục được đẩy mạnh từ tỉnh đến
cơ sở và đã có những bước phát triển sâu rộng, thu thút đông đảo quần chúng tham
gia. Cấp tỉnh tổ chức từ 14-16 giải/năm, cấp huyện tổ chức từ 06-08 giải/năm và cấp
xã tổ chức từ 01-03 giải/năm [57]. Phong trào thể dục thể thao quần chúng tiếp tục
được duy trì và phát triển. Hoạt động thể thao thành tích cao có sự phát triển, công
tác tuyển chọn, đào tạo, huấn luyện vận động viên được chú trọng nhằm xây dựng
và kiện toàn các đội tuyển thể thao thành tích cao của tỉnh để tham gia các giải khu
vực và quốc tế. Kết quả vận động viên tham gia 28 giải thi đấu khu vực và toàn
quốc, kết quả đạt được 127 huy chương các loại [57].
Quy mô giáo dục tiếp tục phát triển và mở rộng. Đến năm 2018, toàn tỉnh
Đắk Nông có 402 cơ sở giáo dục, tổng số học sinh là 170.592 học sinh[58, tr8]; tăng
82 cơ sở và 36.958 học sinh so với năm 2011[7]. Tổng số trường chuẩn quốc gia là
121 trường, tăng 20 trường so với năm 2015 [58, tr8]. Chất lượng giáo dục tiếp tục
được nâng cao toàn diện, tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm sau cao hơn năm trước. Số
lượng học sinh đạt giải thi khoa học kỹ thuật, học sinh giỏi quốc gia ngày càng tăng.
Công tác tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý và
giáo viên luôn được chú trọng và thực hiện thường xuyên. Tuy nhiên, cơ sở vật chất
trường lớp chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, trang thiết bị vừa thiếu vừa
không đồng bộ ảnh hưởng đến công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Chất
lượng giáo dục chưa đồng đều, nhất là vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số; công tác xã hội hóa giáo dục chưa đạt chất lượng cao.
Công tác khám chữa bệnh được duy trì thường xuyên, chất lượng liên tục
được cải thiện và ngày càng đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, đặc
biệt tạo điều kiện thuận lợi để người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ em dưới
6 tuổi, các đối tượng chính sách được khám chữa bệnh miễn phí, góp phần thực
hiện công bằng xã hội. Cơ sở vật chất, nguồn nhân lực ngành y tế ngày càng được
đầu tư và phát triển. Năm 2011, toàn tỉnh có 80 cơ sở y tế khám chữa bệnh (trong
đó có 8 bệnh viện, 01 nhà hộ sinh và 71 trạm y tế xã, phường) với 1066 giường
31
bệnh và 1471 nhân lực y tế thì đến cuối năm 2017, số giường bệnh tăng lên là 1.456
giường, tăng gần 1,37 lần và số nhân lực y tế là 1.782 người, tăng 1,21 lần. Số
giường bệnh bình quân 1 vạn dân năm 2017 là 23,18 giường bệnh, tăng so với bình
quân 20,43 giường bệnh của năm 2011 [4];[7].
Năm 2011, dân số tỉnh Đắk Nông là 522 nghìn người, năm 2015 là 578
nghìn người, đến năm 2017, dân số tỉnh Đắk Nông là 628 nghìn người. Trong đó:
dân số thành thị: 95.281 người, chiếm 15,17%; dân số nông thôn: 532.786 người,
chiếm 84,83%; dân số nam: 322.864 người, chiếm 51,41%; dân số nữ: 305.203
người, chiếm 48,59% [6, tr45]. Với cộng đồng dân cư gồm 40 dân tộc cùng sinh
sống. Trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 32% dân số toàn tỉnh. Dân
tộc M’Nông, Mạ và Ê Đê là 3 dân tộc sinh sống lâu đời ở địa phương, chiếm trên
30% so với tổng số dân tộc thiểu số toàn tỉnh.
Đến năm 2017, Số người trong độ tuổi lao động toàn tỉnh đang làm việc
trong các ngành kinh tế là 388 ngàn người, chiếm 61,6% dân số. Đắk Nông là tỉnh
có cơ cấu kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, do vậy lực lượng lao động tham
gia sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn; tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực
nông thôn tiếp tục giảm mạnh. Cơ cấu lao động có bước chuyển dịch tích cực theo
hướng công nghiệp hóa, tăng dần tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công nghiệp -
xây dựng - khai khoáng (năm 2011 có 2,47%, năm 2018 tăng lên 13,93%); lĩnh vực
dịch vụ (năm 2011 có 10,23%, năm 2018 tăng lên 23,71%) và giảm dần trong lĩnh
vực nông-lâm-thủy sản (năm 2011 có 87,3%, năm 2018 giảm xuống còn 62,36%).
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng dần, năm 2011 là 27,75%; năm 2015 là 35%; đến
này khoảng 40,5% [63]. Dân số tăng đồng đều qua các năm với cơ cấu dân số vàng
mang lại nhiều lợi thế phát triển cho tỉnh Đắk Nông. Như vậy, ưu điểm của nguồn
nhân lực tỉnh Đắk Nông là rất dồi dào, cần cù, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
trong sản xuất nông, lâm nghiệp và đang dần chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hướng đến xây dựng tỉnh Đắk Nông
thành tỉnh CNH, HĐH trong thời gian tới. (xem Bảng 2.1, Bảng 2.2)
32
Bảng 2.1: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo thành thị, nông thôn
Năm Tổng số Thành thị Đơn vị: người Nông thôn
2011 315.675 44.226 271.449
2012 324.618 46.323 278.295
2013 330.635 48.405 282.230
2014 340.196 51.779 288.417
2015 371.979 55.014 316.965
2016 379.948 55.409 324.539
2017 387.949 53.028 334.921
[4]; [5]; [6];[ 7]
Bảng 2.2: Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế
Ngành 2011 2016 Đơn vị: tỷ lệ % 2017 2018
Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản 87,30 63,61 62,78 62,36
Công nghiệp và xây dựng 2,47 12,69 13,38 13,93
Dịch vụ 10,23 23,70 23,84 23,71
[44]; [56];[ 57]
Như vậy, điều kiện tự nhiên, đặc điểm KT-XH của tỉnh Đắk Nông cơ bản rất
thuận lợi cho quá trình phát triển của tỉnh. Những yếu tố này tác động lớn đến việc
hoạch định và thực hiện các chính sách PTNNL của tỉnh, chuyển dịch cơ cấu lao
động của tỉnh Đắk Nông theo hướng tăng về công nghiệp, dịch vụ.
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên, tỉnh Đắk Nông cũng gặp không ít khó khăn,
hạn chế như: Xuất phát điểm về kinh tế - xã hội của tỉnh thấp, GDP bình quân đầu
người còn thấp so với một số tỉnh trong khu vực. Trong những năm qua, kết cấu hạ
tầng đã được cải thiện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển KT-XH. Trong
thời gian tới tỉnh Đắk Nông cần nổ lực phát huy các tiềm năng sẵn có, xây dựng định
33
hướng và có những giải pháp đúng đắn để phát triển nhanh, bắt kịp hội nhập với xu thế
phát triển chung của vùng và cả nước.
2.2. Mục tiêu thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk
Nông từ năm 2011 đến nay
Chính sách PTNNL là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và là nhiệm vụ
trọng tâm, là khâu đột phá, vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lược lâu dài,
nhằm từng bước đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng
nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng cao
trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta với các nước trong khu vực và
trên thế giới. Trên cơ sở đó, tỉnh Đắk Nông đã xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm,
mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh giai đoạn
2011-2020. Từ đó đề ra các mục tiêu về PTNNL của tỉnh như sau:
Nguồn nhân lực có cơ cấu trình độ, ngành nghề đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội của một tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại; có đủ năng lực đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế; đến năm 2015 Đắk Nông thoát khỏi tỉnh nghèo,
đến năm 2020 đạt mức trung bình khá của cả nước; không ngừng nâng cao năng lực
cạnh tranh và vị thế của tỉnh trong nền kinh tế của cả nước, góp phần bảo đảm vững
chắc an ninh - quốc phòng của đất nước.
Nguồn nhân lực của Đắk Nông được phát triển toàn diện về thể lực, trí lực và
đạo đức; năng động, chủ động; có năng lực tự học, tự đào tạo cao; có khả năng thích
nghi và hội nhập vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Phải xây dựng được một bộ phận nhân lực trình độ cao trong các lĩnh vực
quản lý (quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh),
khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa…, có ý nghĩa quyết định đến
sự phát triển nhanh, bền vững đến năm 2020.
Nâng cao trình độ học vấn để làm tiền đề, cơ sở cho đào tạo nghề nghiệp:
đến năm 2015, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; tăng cường
dạy tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở bậc tiểu học; duy trì kết quả phổ cập
giáo dục trung học cơ sở bền vững; mở rộng quy mô học sinh trung học phổ thông
34
(phấn đấu đến năm 2015 có 50% và năm 2020 có 70% dân số trong độ tuổi được
phổ cập trung học phổ thông).
Tạo bước đột phá, tăng tốc về phát triển chất lượng nguồn nhân lực khu vực
nông thôn; phấn đấu đến năm 2015 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 35%, đến năm
2020 đạt 45%; trong đó: tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 30% vào năm 2015 và
40% vào năm 2020.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực,
đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh; 100% cán bộ đạt chuẩn ngạch công chức theo
quy định; 100% cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn chức danh và đảm bảo cơ cấu tỷ
lệ hợp lý về độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành, lĩnh vực.
Tạo nguồn cán bộ trẻ: trong nhiệm kỳ 2011-2015 đào tạo, bồi dưỡng từ 300-
500 người sau đại học; trong đó, đào tạo và thu hút từ 05-10 tiến sỹ. Xây dựng đội
ngũ giáo viên Cao đẳng cộng đồng, trung học chuyên nghiệp và trường Chính trị có
trên 300 người đạt chuẩn theo quy định.
Bình quân hàng năm đào tạo nghề từ 5.000 - 6.000 lao động và giải quyết
việc làm cho 17.000 lao động; phấn đấu tăng năng suất lao động bình quân giữa các
ngành lên 1,2 lần vào năm 2015 và 1,5 lần vào năm 2020 so với năm 2005; giảm tỷ
lệ lao động thất nghiệp còn 1,15% vào năm 2015 và 1,1% năm 2020. Quy mô dân
số đến năm 2020 khoảng 830 nghìn người; cần có 418 nghìn lao động được bố trí
việc làm; trong đó lĩnh vực công nghiệp - xây dựng 21,2%; nông, lâm nghiệp
54,1%; khu vực dịch vụ 24,7%.
2.3. Tình hình thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk
Nông
2.3.1. Thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 579/QĐ-TTg,
ngày 19/4/2011 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển nhân
lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020 và Quyết định 1216/QĐ-TTg, ngày 22/7/2011
của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt
Nam giai đoạn 2011 – 2020; tỉnh Đắk Nông đã triển khai xây dựng, thực hiện các
35
chính sách PTNNL của tỉnh nhằm từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nhân
lực trong tỉnh, đưa nhân lực trở thành lợi thế của địa phương để thúc đầy phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh. Sau gần 10 năm xây dựng, triển khai thực hiện chính sách
phát triển nguồn nhân lực, tỉnh Đắk Nông đã cụ thể hóa các nội dung như: Kế hoạch
tổ chức, điều hành, kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực; kế hoạch thời gian triển
khai thực hiện; kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi và những nội quy, quy chế để
thực hiện đầy đủ, đảm bảo các yêu cầu về tổ chức thực hiện chính sách trong các
văn bản. Cụ thể như:
Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 10/8/2011 của Tỉnh ủy Đắk Nông về việc phát
triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020;
Quyết định số 1524/QĐ-UBND ngày 17/10/2011 của UBND tỉnh phê duyệt
Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2020;
Nghị quyết số 35/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của HĐND tỉnh, quy
định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị tỉnh Đắk
Nông giai đoạn 2012-2015;
Nghị quyết số 38/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của HĐND tỉnh, về
chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk
Nông từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-2016;
Quyết định số 1987/QĐ-UBND, ngày 15/12/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Nông về việc ban hành Đề án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020;
Quyết định số 168/QĐ-UBND, ngày 08/02/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Nông về chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc
thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm 2011-2012 đến năm học 2015-2016;
Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND ngày 09/3/2012 của UBND tỉnh Đắk
Nông về việc Quy định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống
chính trị tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2012-2015;
Quyết định số 04/2012/QĐ-UBND ngày 14/3/2012 của UBND tỉnh Đắk
Nông, Ban hành Quy định về số lượng, chức danh và chế độ, chính sách đối với
36
những người hoạt động không chuyên trách và một số đối tượng khác công tác ở xã,
phường, thị trấn, ở thôn, buôn, bon, bản, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh;
Quyết định số 18/2012/QĐ-UBND, ngày 21/9/2012 của Ủy ban nhân dân
tỉnh Đắk Nông về việc ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức tỉnh Đắk Nông;
Nghị quyết số 41/2012/NQ-HĐND, ngày 20/12/2012 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Nông thông qua Đề án nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc
thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm học 2012-2013 đến năm học 2015-2016;
Nghị quyết số 45/2012/NQ-HĐND, ngày 20/12/2012 của Hội đồng nhân dân
tỉnh Đắk Nông về chính sách tạo quỹ đất ở và hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho cán
bộ, công chức, viên chức;
Quyết định số 1594/QĐ-UBND, ngày 09/10/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Nông về phê duyệt Đề án Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông
đến 2015 và định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết số 09/2014/NQ-HĐND, ngày 16/7/2014 của HĐND tỉnh, Quy
định chính sách thu hút, đãi ngộ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học và sau đại học về
công tác tại các cơ quan, đơn vị y tế công lập trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn
2015-2020.
Quyết định số 1844/QĐ-UBND, ngày 24/10/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh
Đắk Nông về việc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên dân tộc
thiểu số (DTTS) thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tỉnh Đắk Nông từ năm học
2016-2017 đến năm học 2020-2021;
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy Đắk Nông ban hành Quyết định số 82-QĐ/TU ngày
24/02/2011 về việc điều chỉnh, bổ sung nhân sự Ban Chủ nhiệm chương trình phát
triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông, giai đoạn 2011-2015; Công văn số
4111/UBND-TH ngày 20/9/2013 của UBND tỉnh Đắk Nông về việc tiếp tục triển
khai Nghị quyết 05-NQ/TU về phát triển nguồn nhân lực; Kế hoạch số 51-KH/TU
ngày 26/9/2014 của Tỉnh ủy Đắk Nông về khảo sát tình hình thực hiện Nghị quyết
số 05-NQ/TU về phát triển nguồn nhân lực; Thông báo số 1858-TB/TU ngày
20/11/2014 của Tỉnh ủy Đắk Nông về việc phân công các cơ quan, đơn vị có liên
37
quan tiếp tục chỉ đạo, tham mưu thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày
10/8/2011 của Tỉnh ủy; Công văn số 5277/UBND-TH ngày 03/12/2014 của UBND
tỉnh Đắk Nông về việc tham mưu thực hiện Nghị quyết 05 của Tỉnh ủy …
Nhìn chung, việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách PTNNL
của tỉnh đã được quan tâm triển khai thực hiện. Tuy nhiên, một số chính sách đưa
vào thực tiễn vẫn còn có nhiều điểm chưa phù hợp nên hiệu quả đạt được chưa cao.
2.3.2. Thực trạng phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Xác định được vị trí và tầm quan trọng của việc triển khai phổ biến, tuyên
truyền thực hiện chính sách PTNNL; Sau khi Nghị quyết số 05-NQ/TU về phát
triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm
2020 được ban hành, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã tổ chức Hội nghị quán triệt đến tất
cả cán bộ chủ chốt của tỉnh; đồng thời, chỉ đạo các huyện ủy, thị ủy, đảng ủy trực
thuộc, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các sở, ban, ngành, Mặt trận, đoàn thể, doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh quán triệt Nghị quyết đến toàn thể cán bộ, đảng viên để
triển khai thực hiện. Việc tổ chức học tập, quán triệt Nghị quyết được các địa
phương, đơn vị tổ chức nghiêm túc và kịp thời.
Trên cơ sở nghiên cứu, quán triệt nội dung nghị quyết, HĐND tỉnh, UBND
tỉnh, các huyện ủy, thị ủy, đảng ủy trực thuộc, các sở, ban, ngành, Mặt trận, đoàn
thể, các doanh nghiệp của tỉnh đã cụ thể hóa Nghị quyết 05 thành các đề án, kế
hoạch, chương trình hành động và tổ chức triển khai thực hiện.
Công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông được
các cấp ủy đảng, địa phương, đơn vị, các sở, ban, ngành thực hiện đa dạng, bằng
nhiều hình thức phong phú khác nhau như: Tổ chức giao ban định kỳ, sơ kết 06
tháng, tổng kết hàng năm; hội nghị theo chuyên đề; sao gửi các văn bản, tài liệu
kèm theo công văn hướng dẫn thực hiện chính sách tới toàn thể cán bộ công chức,
viên chức và người dân; lồng ghép việc phổ biến quán triệt chính sách tại các lớp
tập huấn, các cuộc họp của đơn vị; lồng ghép với việc quán triệt chủ trương của
Đảng, chính sách khác của Nhà nước tới toàn thể cán bộ công chức, viên chức đang
công tác trên địa bàn tỉnh.
38
Công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông được
triển khai thực hiện thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như loa đài, báo
chí và trên các trang thông tin điện tử của tỉnh để cán bộ công chức, viên chức và
người dân có thể theo dõi, nắm bắt, tiếp cận được các chính sách của tỉnh về
PTNNL của tỉnh. Định kỳ hàng năm Đài Phát thanh – truyền hình tỉnh phát sóng
khoảng 50 tin, bài trên các chuyên mục “Ứng dụng công nghệ cao”, “Dân tộc và
phát triển”, “Đưa thông tin về cơ sở”, “Khoa học công nghệ với đời sống”, “Giáo
dục và phát triển”, “Pháp luật và đời sống” …; hệ thống Đài Truyền thanh các
huyện, thị xã phát sóng chuyên mục Nông nghiệp – Nông thôn; Đài Truyền thanh
các xã, phường, thị trấn phát sóng các tin, bài thông tin về công tác đào tạo nghề
cho người lao động nông thôn … Báo Đắk Nông có chuyên trang “Khởi nghiệp”
phản ánh về hoạt động hướng nghiệp, đào tạo PTNNL tay nghề cao. Số tin, bài,
phóng sự về công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao tăng dần qua các năm (năm
2014 có 12 bài, năm 2018 có 23 bài). Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh mở
03 lớp bồi dưỡng, tập huấn cho trên 300 cán bộ và lực lượng trực tiếp triển khai đề
án đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao ở cấp huyện, cấp xã [46]. Từ đó, góp phần
đảm bảo việc xây dựng, triển khai các hoạt động, kế hoạch thực hiện chính sách
bám sát được các nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu đề ra phù hợp với đặc thù của từng
cơ quan, đơn vị. (xem Bảng 2.3)
Bảng 2.3: Thống kê công tác truyền thông về công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao
Stt 2014 2015 2016 2017 2018
01 12 15 13 20 23 Nội dung Số tin, bài, phóng sự được phát sóng trên hệ thống phát thanh
[46]
Cùng với, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách được thực hiện thường
xuyên, liên tục, ngay cả khi chính sách đang được thực hiện và đã có nhiều hình
thức tuyên truyền như tiếp xúc trực tiếp; gián tiếp, trao đổi … nhằm tạo điều kiện
tốt nhất để chính sách đi vào cuộc sống của toàn thể cán bộ công chức, viên chức và
người dân nhằm giúp cho họ hiểu được mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của
39
chính sách PTNNL của tỉnh từ đó nâng cao nhận thức và trách nhiệm của từng cán
bộ, công chức và người dân trong việc tham gia tổ chức thực hiện chính sách.
2.3.3. Thực trạng phân công, phân phối thực hiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Trên cơ sở Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Hội nghị Ban Chấp hành
Đảng bộ tỉnh về việc thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 10/8/2011 của Tỉnh
ủy về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
Nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả và hoàn thành các chỉ tiêu của Nghị quyết đề
ra, Thường trực Tỉnh ủy ra thông báo phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng sở ngành
có liên quan tham mưu thực hiện Nghị quyết, Thông báo số 1858-TB/TU ngày
20/10/2014 về việc phân công các cơ quan, đơn vị có liên quan tiếp tục chỉ đạo,
tham mưu thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/U, ngày 10/8/2011 của Tỉnh ủy. Giao
cho UBND tỉnh chỉ đạo trực tiếp các đơn vị thuộc UBND việc thực hiện các chính
sách PTNNL ban hành kèm theo Quyết định số 1254/QĐ-UBND ngày 17/10/2011
về việc phê duyệt quy hoạch quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông
giai đoạn 2011-2020, Công văn số 5277/UBND-TH, ngày 03/12/2014 của UBND
tỉnh Đắk Nông về việc tham mưu thực hiện Nghị quết số 05-NQ/TU cụ thể:
- Sở Nội vụ
+ Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình nâng cao đội ngũ cán bộ công
chưc, viên chức; Thực hiện tốt Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2011-
2020. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức hàng năm phù hợp,
đáp ứng được yêu cầu về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực quản lý.
Tham mưu xây dựng chính sách, chế độ ưu đãi thỏa đáng trong tuyển dụng nhân lực
có chất lượng cao trong cơ quan quản lý nhà nước.
+ Phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Trường Chính trị tỉnh tham mưu cho
UBND tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
của tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; đồng thời
hàng năm xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo cán bộ, công chức, viên chức của
tỉnh phải gắn với Đề án đã dược UBND tỉnh phê duyệt, phấn đấu thực hiện các chỉ
tiêu của Nghị quyết đề ra.
40
+ Phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Sở Tài chính và các ngành có liên quan
xây dựng Đề án Quỹ biên chế dự phòng để bố trí sử dụng hợp lý số thanh niên dân
tộ thiểu số đã dược đào tọa cao đẳng, đại học nhưng chưa có việc làm theo Nghị
quyết số 07 của Tỉnh ủy. Đề án này phải trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến
trước khi trình HĐND tỉnh thông qua.
+ Phối hợp với Ban Tổ chức Tỉnh ủy tham mưu xây dựng Phương án tổ chức
thí điểm thi tuyển chức danh trưởng, phó phòng cấp Sở, nhằm dánh giá hiệu quả
trong công tác tổ chức thi tuyển, báo cáo Thường trự Tỉnh ủy trước khi tổ chức thực
hiện rộng rãi.
- Sở Giáo dục và Đào tạo
+ Tiếp tục xây dựng kế hoạch thực hiện các chương trình, đề án nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục – đào tạo; đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng đội ngũ
giáo viên cho giáo dục – đào tạo và dạy nghề theo quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Xây dựng hệ thống cơ sở đào tạo mới phù hợp với Quy hoạch. Thực hiện
tốt công tác kiểm định chất lượng đào tạo và dạy nghề trên địa bàn.
+ Chủ trì phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài chính và các đơn vị có liên quan
xây dựng chính sách hỗ trợ cho những con em học sinh là người địa phương, có học
lực giỏi, thi đậu vào các trường đại học trọng điểm quốc gia, các ngành học phù hợp
với định hướng nguồn nhân lực của tỉnh, để tạo nguồn nhân lực cho tỉnh. Đề án,
chính sách này phải trình Ban Thường vụ Tỉnh ủy cho ý kiến trước khi trình HĐND
tỉnh thông qua.
+ Tham mưu cho UBND tỉnh các chương trình, giải pháp đồng bộ để phấn
đấu thực hiện các chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Cụ thể, xây dựng kế hoạch, lộ trình để
thực hiện đạt chỉ tiêu đến năm 2015 có 50% và đến năm 2020 có 70% dân số trong
độ tuổi được phổ cập trung học phổ thông; tiếp tục nâng cao chất lượng phổ thông
để làm tiền đề cho việc đào tạo có chất lượng nguồn nhân lực tỉnh.
+ Phối hợp với Sở Nội vụ, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Dân tộc tỉnh và UBND
MTTQ Việt Nam tỉnh rà soát toàn bộ các trường hợp được tỉnh xét cử tuyển đang đi
học và đã tốt nghiệp tại các trường cao đẳng, đại học để tham mưu cho UBND tỉnh
trong việc bố trí, sử dụng.
41
+ Phối hợp với Sở Kế hoạch – Đầu tư và các ngành liên quan tham mưu cho
UBND tỉnh triển khai các bước để khởi công xây dựng Trường Cao đẳng Cộng
đồng tỉnh vào năm 2015; triển khai giai đoạn 2 Trường chuyên Nguyễn Chí Thanh.
+ Phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh và các đơn vị liên quan có kế hoạch liên kết với các đơn vị đào tạo để phát huy
hiệu quả cơ sở vật chất của Trường Trung cấp ngề và Trung tâm giới thiệu việc làm
của hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh.
- Sở Kế hoạch và Đầu tư
+ Sở KH&ĐT chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan theo dõi tổng
hợp tình hình thực hiện Quy hoạch; tham mưu cân đối vốn đầu tư phát triển cho các
chương trình, dự án đầu tư PTNNL hàng năm.
+ Trên cơ sở kế hoạch PTNNL của tỉnh giai đoạn 2011-2015 và quy hoạch
PTNNL của tỉnh giai doạn 2011-2020 đã được UBND tỉnh ban hành, Sở KH&ĐT
phối hợpvới các ngành tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh hàng năm phải gắn với kế hoạch và quy hoạch PTNNL đã
được phê duyệt và xác định nguồn ngân sách để thực hiện.
+ Phối hợp với Sở Nội vụ, Liên minh Hợp tác xã tỉnh và các ngành liên quan
xây dựng chương trình, kế hoạch bồi dưỡng một số chức danh lãnh đạo, quản lý của
các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trang trại, hợp tác xã.
- Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
+ Tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù, phù hợp về đào tạo công
nhân kỹ thuật trình độ cao. Tổ chức xây dựng chương trình, giáo trình, học liệu;
triển khai đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý dạy nghề cho các đơn vị
tham gia dạy nghề lao động nông thôn.
+ Phối hợp với Sở NN&PTNT, Sở KH&ĐT tham mưu cho UBND tỉnh các
giải pháp để tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án về đào tạo nghề
cho lao động nông thôn, phấn đấu đến cuối năm 2015 tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề đạt 30%, đến năm 2020 đạt 40%.
42
+ Tham mưu phương án giải quyết lao động cho số đối tượng dân tộc thiểu
số; khuyến kích các doanh nghiệp tuyển dụng và sử dụng lao động là người đồng
bào dân tộc thiểu số.
- Sở Tài chính
Căn cứ dự toán ngân sách đào tạo hàng năm, đảm bảo cấp đủ kinh phí cho
công tác PTNNL. Phối hợp với các ngành kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh phí,
đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Phối hợp với Sở Nội vụ xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
khuyến nông viên cho các xã, thôn, buôn, bon.
- Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Phối hợp với Ban Dân tộc tỉnh và các huyện, thị xã để có giải pháp tổ chức
quản lý, sử dụng phát huy tốt hiệu quả hoạt động Nhà văn hóa cộng đồng ở các
thôn, buôn, bon.
- Ban Tổ chức Tỉnh ủy
+ Tiếp tục triển khai kế hoạch liên kết với Viện Đào tạo Quốc tế - Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh để đào tạo ngoại ngữ Tiếng Anh theo chương
trình đào tạo cán bộ nguồn dài hạn của tỉnh. Làm việc với Sở Giáo dục và Đào tạo
lựa chọn một số giáo viên dạy Tiếng Anh (trước mắt là những giáo viên dạy Tiếng
Anh tại thị xã Gia Nghĩa, trung tâm của các huyện) để tiếp tục đào tạo, nâng cao
trình độ, phục vụ cho công tác giảng dạy tại các trường học phổ thông và các trung
tâm ngoại ngữ trên toàn tỉnh.
+ Hoàn thiện báo cáo sở kết, tổng kết về thực hiện chính sách PTNNL tỉnh
Đắk Nông giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020 trình Ban Thường vụ
Tỉnh ủy.
- Các sở, ngành và địa phương triển khai lồng ghép Quy hoạch PTNNL tỉnh
Đắk Nông giai đoạn 2011-2020 vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
2.3.4. Thực trang duy trì chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Để đảm bảo thực hiện tốt việc duy trì chính sách PTNNL của tỉnh đã ban
hành. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Nông đã có nhiều văn bản chỉ đạo tiếp tục duy trì,
43
tổ chức thực hiện các chính sách về PTNNL của tỉnh như: Kết luận số 149-KL/TU
ngày 19/8/2013 của Tỉnh ủy Đắk Nông về mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục
triển khai thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh ủy Đắk Nông về phát triển
nguồn nhân lực; Công văn số 4111/UBND-TH ngày 20/9/2013 của UBND tỉnh Đắk
Nông về việc tiếp tục triển khai Nghị quyết 05-NQ/TU của Tỉnh ủy Đắk Nông về
phát triển nguồn nhân lực.
Sau gần 10 năm triển khai thực hiện các chính sách phát triển NNL, các cấp
ủy đảng và chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã nhận thức rõ vai trò, vị trí của NNL,
xác định PTNNL là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình thực hiện nhiệm
vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Quan điểm phát triển và sử dụng NNL được nhận
thức đúng đắn; Công tác quy hoạch, bố trí sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công
chức, người lao động, chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển văn hóa,
thể dục thể thao… nhằm PTNNL của tỉnh giai đoạn 2011đến nay đã được duy trì và
đạt được một số kết quả như:
- Về xây dựng quy hoạch và tăng cường quản lý quy hoạch phát triển nguồn
nhân lực
Quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trên phạm vi toàn tỉnh, phù
hợp với ngành nghề đào tạo, với vị trí công tác, với các tiêu chuẩn chức danh cán
bộ. Nhằm chủ động và từng bước khắc phục tình trạng hẫng hụt trong đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm tính kê thừa trong công tác cán bộ; trên cơ sở đó,
định hướng đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo về tiêu chuẩn chức danh cán bộ, từng bước
nâng cao chất lượng NNL trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Trong những năm
qua, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý được quan tâm triển khai thực
hiện và đạt được kết quả như sau:
+ Bổ sung nhiệm kỳ 2010 - 2015: Trong giai đoạn 2011- 2015, Ban Thường
vụ Tỉnh ủy đã phê duyệt quy hoạch bổ sung chức danh cán bộ lãnh đạo nhiệm kỳ
2010 - 2015 của 41 cơ quan, đơn vị, với tổng số là 70 chức danh và 145 lượt cán bộ
được đưa vào quy hoạch.
+ Nhiệm kỳ 2015 - 2020: Công tác quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2015 - 2020
ở cả 3 cấp (tỉnh, huyện và xã) được tiến hành một cách đồng bộ, đúng nguyên tắc,
44
quy trình; chất lượng đội ngũ cán bộ đưa vào quy hoạch được nâng lên đáng kể cả
về trình độ học vấn, chính trị và chuyên môn nghiệp vụ; đảm bảo số lượng, cơ cấu
hợp lý; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ người dân tộc thiểu số ngày càng tăng
(phụ lục 01). Trên cơ sở kết qủa quy hoạch cán bộ, việc xây dựng kế hoạch đào tạo,
đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, điều động, luân chuyển cán bộ được thực hiện một cách
chủ động hơn, cơ bản khắc phục tính hình thức trong quy hoạch cán bộ.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn một số tồn tại trong quá trình thực hiện quy
hoạch đó là: chất lượng cán bộ đưa vào quy hoạch ở một số địa phương, đơn vị
chưa cao; tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ là người đồng bào dân tộc thiểu sổ đưa
vào quy hoạch ở một số nơi chưa đạt yêu cầu. Công tác quy hoạch và tăng cường
quản lý quy hoạch PTNNL chỉ mới dừng lại ở nội dung quy hoạch đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý mà chưa tiến hành quy hoạch để định hướng phát triển các nguồn
lực khác.
- Về bố trí sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực
Viêc sắp xếp, bố trí đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của các cơ quan, đơn vị
của tỉnh trong những năm qua cơ bản được thực hiện đúng nguyên tắc, đảm bảo tiêu
chuẩn chức danh cán bộ, qua đó góp phần củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh
đạo các cấp, kịp thời đáp ứng yêu cầu trong công tác cán bộ; tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao.
Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức các cấp còn thiếu đồng bộ và
chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, chưa bảo đảm tính kế thừa và sự chuyển tiếp
vững vàng giữa các thế hệ trong giai đoạn mới. Cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý
và tham mưu ở tầm chiến lược, chuyên gia giỏi đầu ngành còn quá ít. Đối với các
doanh nghiệp nhà nước, việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa xuất phát từ nhu cầu nội
tại, dẫn đến chất lượng hiệu quả thấp, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ xây dựng ngành
nông nghiệp công nghệ cao và ngành công nghiệp khai khoáng, thủy điện, dịch vụ,
du lịch
Mặc dù quy hoạch PTNNL của tỉnh đã có dự báo về số lượng, chất lượng
45
nhân lực cho từng ngành đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Tuy nhiên,
do sự phát triển nhanh của nền kinh tế nên nhu cầu NNL thay đổi, trong khi đó công
tác thống kê thực trạng, dự báo nhu cầu lao động chưa được thực hiện thường
xuyên, chất lượng thấp đã ảnh hưởng đến công tác đào tạo PTNNL.
Với điều kiện cơ sở vật chất và lực lượng giáo viên phục vụ cho đào tạo nghề
còn rất hạn chế, nên các chương trình, kế hoạch đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật
chất lượng phục vụ cho ngành nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao hiện nay vẫn
chưa được triển khai. Việc đào tạo công nhân kỹ thuật phục vụ công nghiệp khai thác
bauxit đã được Tập đoàn Than Khoáng sản Việt Nam thực hiện với lớp công nhân
đầu tiên (khoảng 300 người). Tuy nhiên, hiện mới bố trí sử dụng được hơn 30 công
nhân, việc sử dụng số công nhân này còn phụ thuộc vào tiến độ xây dựng nhà máy.
Công tác đào tạo nhân lực đáp ứng nhiệm vụ xây dựng ngành nông nghiệp
công nghệ cao và ngành công nghiệp khai khoáng, thủy điện, dịch vụ, du lịch chưa
được các ngành chuyên môn quan tâm đúng mức, chưa có biện pháp kịp thời triển
khai tháo gở để thực hiện nội dung Nghị quyết 05 đề ra.
- Chủ động nguồn tài chính tập trung phát triển nguồn nhân lực và tổ chức
thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Tỉnh đã triển khai thực hiện có hiệu quả các nguồn vốn của Trung ương và
đảm bảo ngân sách đối ứng của địa phương cho PTNNL. Thực hiện Nghị quyết 05,
ngoài nguồn vốn sự nghiệp hàng năm đảm bảo cho công tác PTNNL, nguồn kinh
phí trước đây hỗ trợ cho cán bộ điều động đã được chuyển cho chương trình
PTNNL trong hệ thống chính trị. Tổng kinh phí ngân sách tỉnh đã bố trí cho
PTNNL trong 5 năm qua là 73.677.000.000 đồng [44], ngân sách tỉnh chủ yếu được
bố trí cho đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ nguồn của tỉnh.
Bên canh đó, thực hiện Nghị quyết 32/2010/NQ-HĐND, ngày 23/12/2010
của HĐND tỉnh về việc thông qua quy định về chính sách khuyến khích xã hội hóa
đối với các hoạt động, giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông, tỉnh đã kêu gọi được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất trường học công lập trên địa bàn tỉnh (tiếp nhận
32.000 USD của Quỹ Harris Freeman; 3,5 tỷ đồng của Công ty cổ phần Him Lam; 2
46
tỷ đồng của Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam; 2,5 tỷ đồng của doanh nghiệp
Tân Lập Thành - Thành phố Hồ Chí Minh...) [44].
- Đổi mới công tác cán bộ, tăng cường sức chiến đấu, năng lực lãnh đạo của
các tổ chức cơ sở đảng
Nhằm từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng trong công tác quản lý cán
bộ, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác xây
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức như: Quyết định về phân cấp
quản lý cán bộ; Quy chế bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử; Quy định công tác
đào tạo, bồi dưõng cán bộ, công chức, viên chức; Quy chế cán bộ nguồn; Đề án
nâng cao chất lượng cán bộ công chức xã, phường, thị trấn... ủy ban nhân dân tỉnh
đã ban hành Quy định về phân cấp quản lý tổ chức bộ máy, biên chế và cán bộ,
công chức, viên chức tỉnh Đắk Nông. Việc thực hiện các quy định, quy chế nêu trên
đã tạo ra nhiều đổi mới và góp phần thực hiện một cách chặt chẽ và hiệu quả hơn
công tác quản lý, sử dụng cán bộ.
Trong những năm qua, công tác xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng trong toàn Đảng bộ đặc biệt được quan tâm.
Để thực hiện hiệu quả nội dung Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương (khóa X) về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCS
đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình
hành động số 26-CTr/TU để triển khai thực hiện Nghị quyết trên. Qua thực hiện
Chương trình hành động, đến nay đã có sự chuyển biến tích cực trong việc củng cố,
nâng cao chất lượng của các TCCS đảng; từng bước khắc phục tồn tại của những tổ
chức đảng yếu kém, đồng thời kiện toàn, sắp xếp các loại hình TCCS đảng đi vào
hoạt động ổn định và có hiệu quả, toàn tỉnh hiện có 390 tổ chức cơ sở đảng, với
tổng số 23.978 đảng viên[45]. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít TCCS đảng chưa thể
hiện tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị; hàng năm vẫn còn một số tổ chức đảng
xếp loại yếu kém.
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và công cụ khuyến khích, thúc
đẩy phát triển nguồn nhân lực
Trên cơ sở rà soát, điều chỉnh, bổ sung những chính sách đã có, tỉnh đã ban
47
hành thêm nhiều cơ chế, chính sách mới để nâng cao công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức và thu hút cán bộ có chất lượng cao về công tác tại tỉnh nhằm
thúc đẩy PTNNL của tỉnh. Nhìn chung, việc xây dựng hệ thống chính sách thu hút
PTNNL của tỉnh đã được quan tâm triển khai thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những
kết quả đạt được, một số chính sách đưa vào sử dụng chưa phù hợp nên hiệu quả
chưa cao, như chính sách thu hút và hỗ trợ đào tạo ban hành theo Quyết định
03/2012/QĐ-UBND ngày 09/3/2012 của UBND tỉnh, trong giai đoạn từ năm 2012
đến năm 2015 có kết quả hết sức hạn chế, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đặt ra;
phạm vi thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo quá rộng dẫn đến tình trạng đào tạo tràn
lan, không có trọng tầm, trọng điểm trong khi tỉnh cần tập trung đào tạo sâu các
ngành nghề mà tỉnh đang cần hoặc các ngành phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội trên địa bàn tỉnh.
- Phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề để đáp ứng yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực
Trong hơn 5 năm qua, ngành giáo dục đã chú trọng phát triển cả về quy mô
và chất lượng nhằm thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp đổi mới và phát triển giáo
dục. Toàn tỉnh hiện có 445 cơ sở đào tạo (với 109 trường mầm non, 142 trường tiểu
học, 83 trường THCS, 31 trường THPT, 07 trung tâm giáo dục thường xuyên, 01
trung tâm ngoại ngữ tin học, 01 trung tâm giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật và 71
trung tâm học tập cộng đồng), so với năm 2011 tăng 143 cơ sở, số trường đạt chuẩn
quốc gia 91 trường, đạt tỷ lệ 25% số trường chuẩn trong toàn tỉnh. Đội ngũ giáo
viên, cán bộ quản lý và nhân viên không ngừng tăng, toàn ngành giáo dục hiện có
11.414 giáo viên, cán bộ quản lý và nhân viên, trong đó có 8.624 giáo viên trực tiếp
giảng dạy, 99,8% giáo viên đạt trình độ chuẩn trờ lên (so với năm 2011 số lượng
giáo viên tăng gấp đôi) đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong tình hình mới [44].
Song song với đó, hệ thống các cơ sở dạy nghề của tỉnh hiện có 18 cơ sở dạy
nghề và có chức năng dạy nghề (giảm 01 cơ sở 18/19 so với năm 2014), trong đó có
3 cơ sở ngoài công lập và 15 cơ sở dạy nghề công lập, trong giai đoạn 2011 - 2015
đã kết hợp với công tác liên kết đào tạo, kêu gọi doanh nghiệp cùng tham gia đào
tạo nghề cho lao động, đã đào tạo nghề cho 24.020 lượt người, giải quyết việc làm
48
cho 88,55 ngàn lượt người [44].
Trong giai đoạn 2011 - 2016, công tác đào tạo và dạy nghề đã được triển
khai nhân rộng, các mô hình dạy nghề thí điểm có hiệu quả, xây dựng mô hình đào
tạo nghề gắn với các làng nghề, vùng chuyên canh, đã đào tạo nghề cho 24.000
người lao động nông thôn, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế, chương trình đào tạo
chưa gắn với công tác giải quyết việc làm cho người học nghề, đặc biệt đối với học
sinh học hệ trung cấp nghề; ngân sách đầu tư cho lĩnh vực dạy nghề còn thấp, chủ
yếu phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư của Trung ương. Đào tạo trung cấp nghề còn
ít, chủ yếu đào tạo sơ cấp ngắn hạn. Đội ngũ giáo viên dạy nghề còn thiếu về số
lượng, hạn chế về chuyên môn kỹ thuật, chất lượng dạy nghề chưa đáp úng được
yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Về phát triển sự nghiệp y tế đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Nhiệm vụ phát triển và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã
được chú trọng. Cơ chế, chính sách quản lý, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
tiếp tục được đổi mới; tích cực huy động các nguồn lực xã hội vào phát triển y tế,
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, mở rộng dịch vụ y tế; đẩy mạnh công tác bảo vệ,
chăm sóc trẻ em.
Toàn tỉnh hiện có 80 cơ sở y tế, trong đó có 08 bệnh viện, 01 nhà hộ sinh, 71
trạm y tế xã, phường; số cơ sở y tế đạt chuẩn quốc gia đạt 30,98% (tăng gấp 3 lần so
với trước năm 2011) [57]. Bên cạnh công tác phát triển hệ thống y tế cơ sở, ngành y
tế đã chú trọng tuyển chọn đào tạo đội ngũ cán bộ trong ngành y tế đủ về số lượng,
từng bước nâng cao chất lượng. Năm 2011 tổng số nhân lực y tế do Nhà nước quản
lý là 1.471 người, trong đó nhân lực ngành y 1.186 người, nhân lực ngành dược sĩ
285 người. Đến nay, NNL toàn ngành đã tăng lên 1.782 người, trong đó nhân lực
ngành y 1.577 người, nhân lực ngành dược sĩ 205 người, số bác sỹ bình quân 1 vạn
dân đã tăng từ 4,95 người năm 2011 lên 6,48 người năm 2017; số trạm y tế có bác sĩ
từ 46,2% tăng lên đạt 100% [4];[7].
Đến nay, 8/8 Trung tâm Y tế (TTYT) huyện, thị xã đã được xây dựng mới,
được đầu tư trang bị thiết bị, phương tiện làm việc; 66,2% Trạm Y tế xã, phường,
49
thị trấn được đầu tư xây dựng mới, 47,8% Trạm Y tế đã đạt bộ tiêu chí quốc gia về
y tế xã; 100% thôn, bản, tổ dân phố có nhân viên y tế hoạt động; y tế dự phòng và
chăm sóc sức khỏe cộng đồng được quan tâm, các bệnh dịch được khống chế kịp
thời, không để xảy ra dịch lớn, tỷ lệ tiêm chủng mở rộng hàng năm cho trẻ em luôn
đạt từ 90% đến 95%, tiếp tục duy trì tốt công tác thanh toán bại liệt, loại trừ uốn ván
sơ sinh; loại trừ bệnh phong cấp tỉnh, 85% Trạm Y tế xã, phường, thị trấn thực hiện
dự phòng quản lý điều trị một số bệnh không lây nhiễm; điều kiện vệ sinh an toàn
thực phẩm (VSATTP) tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm bước đầu được
cải thiện, tình trạng ngộ độc thực phẩm hàng loạt (>30 người) không xảy ra, không
có tử vong do ngộ độc thực phẩm; dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe
bà mẹ và trẻ em đã phát huy hiệu quả, tuổi thọ trung bình này càng được tăng cao
đạt 72,24 tuổi so với 71,65 tuổi vào năm 2010, số năm sống khỏe đạt 63 tuổi, tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng (thể nhẹ cân) đã giảm từ 25,2% năm 2011 xuống
còn 21,1% năm 2018, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm từ
45,4% xuống còn 32,9%, tỷ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi còn 33,4‰, tỷ suất tử
vong trẻ em dưới 1 tuổi còn 26‰, tỷ lệ béo phì ở người trưởng thành còn 14,9%, tỷ
lệ dân số được quản lý sức khỏe đạt 75%, chiều cao trung bình nam thanh niên 18
tuổi đối với nam đạt 163,0cm và đối với nữ đạt 153cm; công tác truyền thông, giáo
dục sức khỏe được tăng cường; mô hình kết hợp quân dân y được đẩy mạnh, phát
huy hiệu quả, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới; quy mô và chất lượng
khám, chữa bệnh từng bước được nâng cao, triển khai được nhiều kỹ thuật mới tại
bệnh viện đa khoa tỉnh như kỹ thuật kết hợp xương hiện đại, kỹ thuật thay khớp (kết
hợp xương trên màng hình tăng sáng), kỹ thuật vi phẫu, nội soi tiết niệu, bơm
surfactan, thay máu cho trẻ sơ sinh tăng Bilirubin gián tiếp, hồi sức sơ sinh..., đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tạo bước chuyển biến tích cực trong các hoạt
động, đặc biệt là trong khám chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT); tỷ lệ dân số tham
gia BHYT đạt từ 70% năm 2015 tăng lên 83% năm 2018; khả năng tiếp cận các
dịch vụ y tế của người dân thuận lợi hơn, tỷ lệ chi trực tiếp từ tiền túi của hộ gia
đình cho y tế đạt 43%; mức độ hài lòng với các dịch vụ y tế công ngày càng tăng
(đạt trên 80%); công tác chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi,
50
người cao tuổi, người dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác được quan
tâm đặc biệt. Ngoài ra ngành Y tế đã thực hiện tốt Đề án 1816, ngày 26/5/2008 về
cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện
tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh của Bộ Y tế; công tác kết
hợp quân dân y trong chăm sóc bảo vệ sức khoẻ nhân dân ở vùng biên giới được
thực hiện thường xuyên, Chương trình hợp tác phát triển y tế giữa Sở Y tế Đắk
Nông và thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2016 - 2020; chính sách tài chính cho
ngành Y tế từng bước được đổi mới và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực đầu
tư phục vụ tốt công tác khám chữa bệnh (KCB) và chăm sóc sức khỏe người dân.
Chính sách dân số, kế hoạch hoá gia đình, phấn đấu đạt chỉ tiêu giảm sinh và
ngăn ngừa mất cân bằng giới tính được quan tâm thực hiện. Nâng cao chất lượng
cung cấp dịch vụ dân số gắn với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và kế
hoạch hóa gia đình. Công tác tuyên truyền, vận động và giáo dục về dân số, kế
hoạch hoá gia đình, nhất là với đối tượng vị thành niên, thanh niên và người dân
nông thôn, vùng sâu, vùng xa được đẩy mạnh.
Nhìn chung, trong gần 10 năm qua, tỉnh Đắk Nông đã duy trì, triển khai thực
hiện có hiệu quả nhiều chính sách phát triển sự nghiệp y tế. Tuy nhiên, một số chính
sách khi triển khai vào thực tế chưa phát huy hiệu quả, có nhiều bất cập và chậm
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp như: Chính sách thu hút cán bộ y tế có trình độ
chuyên môn giỏi; Chính sách thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bằng bảo hiểm y
tế còn rườm rà, phức tạp; Chính sách về vận động nhân dân tham gia phòng chống
bệnh tật và các chương trình như nước sạch và vệ sinh môi trường, xây dựng và sử
dụng nhà tiêu hợp vệ sinh, phòng chống các bệnh xã hội, an toàn thực phẩm ở một
số ít cơ sở hiệu quả chưa cao…
- Phát triển văn hóa, thể dục thể thao
Việc đầu tư xây dựng các công trình văn hóa, truyền thanh, truyền hình và
các cơ sở văn hóa, thể thao đã được tỉnh coi trọng, gắn liền với việc bảo tồn và phát
huy văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng các dân tộc. Toàn tỉnh có 95.849
hộ dân cư đạt chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 87,12% (tăng 25,5% so với năm 2011), tỷ lệ
hộ dân cư, xã, phường, thị trấn, thôn, buôn, tổ dân phố đạt chuẩn văn hóa so với
51
năm 2011 tăng 26,03%. Hoạt động thể thao tiếp tục được duy trì và phát triển, số
người tham gia tập luyện thể thao thường xuyên là 25,6%[44]. Nhìn chung, phong
trào thể dục thể thao phát triển đều khắp ở các huyện, thị; toàn tỉnh hiện có 60 câu
lạc bộ thể thao với các môn như võ thuật, thể hình, bóng bàn, cầu lông, quần vợt...
Bên cạnh đó, các loại hình và phương thức tổ chức thể dục thể thao gắn với
các hoạt động văn hóa, du lịch, dịch vụ được đa dạng hóa. Cuộc vận động “Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương
Bác Hồ vĩ đại” tiếp tục được duy trì. Trong hơn 5 năm qua, có 12 dự án đầu tư xây
dựng hạ tầng các khu du lịch trọng điểm của tỉnh với tổng vốn đăng ký đầu tư 798,2
tỷ đồng.
- Mở rộng hợp tác phát triển thị trường lao động và tranh thủ các nguồn lực
trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Nhu cầu lao động đã qua đào tạo, nhất là lao động có chất lượng cao phục vụ
cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp khai khoáng của Đắk Nông
hiện tại rất cần thiết. Tuy nhiên, việc hợp tác với các tỉnh như Đắk Lắk, Lâm Đồng,
các tỉnh miền Đông Nam bộ trong việc liên kết đào tạo được triển khai thực hiện
chưa đạt yêu cầu. Việc tham gia thị trường lao động xuất khẩu còn hạn chế, mới
dừng ở lao động phổ thông, đề án đào tạo NNL trình độ cao ở nước ngoài mới bước
đầu được triển khai.
Trong điều kiện tỉnh còn khó khăn, việc tranh thủ các nguồn lực của Trung
ương, của các tổ chức trong và ngoài nước trong đào tạo, PTNNL của tỉnh có ý
nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, trong những năm qua, tỉnh chưa huy động được
nguồn tài trợ thích hợp, các chương trình, dự án đang triển khai đều thực hiện theo
kế hoạch của Trung ương.
2.3.5. Thực trạng điều chỉnh chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Việc điều chỉnh chính sách là cần thiết, diễn ra thường xuyên trong quá trình
tổ chức thực hiện chính sách. Thời gian qua, việc thực hiện chính sách PTNNL tại
tỉnh được thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện để phù hợp
với chính sách PTNNL, có những giai đoạn, thời điểm Tỉnh đã điều chỉnh các biện
pháp, cơ chế thực hiện, cách thức phối hợp, tổ chức thực hiện giữa các sở, ban,
52
ngành được giao nhiệm vụ thực hiện các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
NNL về chuyên môn nghiệp vụ, về tâm lực, thể lực với mục đích đạt được kết quả
tốt nhất để PTNNL tại tỉnh. Đồng thời, trên cơ sở rà soát, điều chỉnh, bổ sung những
chính sách đã có, tỉnh đã ban hành thêm nhiều chính sách mới để nâng cao công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức và thu hút cán bộ có chất lượng cao về công
tác tại tỉnh nhằm thúc đầy PTNNL của tỉnh đó là:
Chính sách hỗ trợ đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc diện điều động,
luân chuyển; Chính sách hỗ trợ kinh phí đối với cán bộ, công chức được cử đi đào
tạo;Chính sách thu hút đối với sinh viên tốt nghiệp đại học trở lên, được đào tạo
chính quy và có chuyên ngành phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương được
tuyển dụng, tiếp nhận bố trí về công tác trong hệ thống chính trị cấp xã; chính sách
thôi việc, nghỉ việc đối với cán bộ cấp xã. Việc triển khai thực hiện điều chỉnh các
chính sách trên bước đầu cũng đã tạo được hành lang pháp lý và giải quyết được
một số khó khăn cho cán bộ nằm trong đối tượng được thụ hưởng chính sách.
2.3.6. Thực trạng theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Cùng với việc chỉ đạo triển khai cụ thể hóa các văn bản, chỉ thị, nghị quyết,
kết luận của Trung ương, của tỉnh trong việc thực hiện chính sách PTNNL, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy cũng quan tâm chỉ đạo ban hành chương trình, kế hoạch phân
công nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan, đơn vị có liên quan, các đồng chí cấp ủy
viên, ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy phụ trách các ngành, lĩnh vực, địa phương
tiến hành công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc triển khai thực hiện các chính
sách PTNNL của Trung ương, của tỉnh, qua đó kịp thời chấn chỉnh những tập thể,
cá nhân trong quá trình tham mưu, thực hiện nhiệm vụ được giao để xảy ra những
sai phạm, khuyết điểm: Chương trình số 28-CTr/TU, ngày 17/12/2013 về công tác
kiểm tra, giám sát của tỉnh ủy năm 2014; Quyết định số 1033-QĐ/TU ngày
13/3/2014 của Tỉnh ủy Đắk Nông về Giám sát vài trò lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức
thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU.
Ban Thường vụ Tỉnh ủy luôn kịp thời chỉ đạo các ngành, các cáp tiến hành
sơ kết, tổng kết các chủ trương, nghị quyết, chị thị … của Trung ương, của tỉnh đề
53
ra, từ đó có những biện pháp phù hợpvới tình hình thực tiễn để lãnh đạo, chỉ đạo
thực hiện hiệu qua các yêu cầu nhiệm vụ của chính sách PTNNL theo từng thời
điểm, từng giai đoạn.
2.3.7. Thực trạng đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm thực hiện chính sách phát
triển nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Từ khi có Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 10/8/2011 của Tỉnh ủy về phát
triển nguồn nhân lực, tỉnh đã tổ chức nhiều đợt sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh
nghiệm thường xuyên về tình hình thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh cụ thể
như: Sơ kết 02 năm (Báo cáo số 214-BC/TU ngày 24/7/2013 của Tỉnh ủy Đắk
Nông); Sơ kết 03 năm (Báo cáo số 317-BC/TU ngày 18/11/2014 của Tỉnh ủy Đắk
Nông); Tổng kết 05 năm (Báo cáo số 100-BC/TU ngày 31/10/2016 của Tỉnh ủy
Đắk Nông) và Tổng kết 10 năm (Kế hoạch số 114-KH/TU ngày 04/5/2019 của Tỉnh
ủy Đắk Nông). Bên cạnh đó, Tỉnh ủy đã tổ chức kiểm tra trực tiếp tại các huyện, thị
về tình hình sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính sách PTNNL.
Tại các hội nghị sơ kết, tổng kết, tỉnh Đắk Nông đã tập trung đánh giá kết quả
đào tạo, bồi dưỡng, chương trình phát triển về các mặt thể lực, trí lực, kỷ năng, hành
vi, ý thức chính trị, đạo đức xã hội, đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội phát triển cho tất
cả các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau. Từ đó rút kinh nghiệm trong công tác
tổ chức thực hiện các chính sách trên tất cả các bước thực hiện: từ xây dựng kế
hoạch, tuyên truyền phổ biến … đến hình thức và phương pháp tổ chức thực hiện và
tổng kết, đánh gía để đề ra các giải pháp, biện pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong quá trình thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh.
Kết quả đánh giá, tổng kết về một số chỉ tiêu như: Chỉ tiêu nâng cao trình độ
học vấn đề làm tiền đề, cơ sở cho đào tạo nghề nghiệp; chỉ tiêu tạo bước đột phá, tăng
tốc về phát triển chất lượng NNL khu vực nông thôn; chỉ tiêu xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng nhu cầu phát triển của
tỉnh; chỉ tiêu tạo nguồn cán bộ trẻ:
- Mục tiêu
+ Chỉ tiêu nâng cao trình độ học vấn để làm tiền đề, cơ sở cho đào tạo nghề
nghiệp: đến năm 2015, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; tăng
54
cường dạy Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số ở bậc tiểu học; duy trì kết quả
phổ cập giáo dục trung học cơ sở bền vững; mở rộng quy mô học sinh trung học
phổ thông (phấn đấu đến năm 2015 có 50% và năm 2020 có 70% dân số trong độ
tuổi được phổ cập trung học phổ thông).
Đánh giá kết quả: Để đảm bảo tiền đề cho tạo NNL, trong những năm qua
tỉnh đã tập trung phát triển mạng lưới giáo dục các cấp học. Quy mô giáo dục và
mạng lưới các trường, lớp học trên địa bàn tỉnh phát triển phù hợp với tình hình
thực tế của địa phương. Nếu như năm 2011, toàn ngành chỉ có 321 trường, với
133.941 học sinh các cấp học; thì đến năm 2017, toàn tỉnh có 385 cơ sở giáo dục
(tăng 1,2 lần so với năm 2011), với 168.405 học sinh (tăng 1,26 lần sơ với năm
2011) (phụ lục 02). Toàn tỉnh hiện nay đã hoàn thành chỉ tiêu phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ 5 tuổi và phổ cập THCS xã, phường, thị trấn, tỷ lệ trẻ em 5 tuổi đi
học mẫu giáo năm 2011 là 20.182 em, đến năm 2015 là 28.239 em đạt 97,8%, tăng
28,5%, đến năm 2017 là 33.115 em đạt 100%, tăng 25,91% [7]. Qua 5 năm triển
khai thực hiện tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số, tỷ lệ học sinh
khá giỏi môn tiếng Việt tăng từ 36,3% lên 67,2%, tỷ lệ học sinh yếu giảm từ
14,46% xuống còn 3,7%. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở tăng từ 96,5%
(năm 2011) lên 97,7% (năm 2015); tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông
được duy trì mở mức cao (năm 2011 đạt 99,5%, năm 2012 đạt 98,83%, năm 2013
đạt 98,35%, năm 2014 đạt 94,43%, năm 2015 đạt 95,58%[44], năm 2018 đạt
97,43%[58]).
Việc thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục
THCS, trình độ học vấn của những người từ 15 tuổi trở lên từng bước được cải
thiện (đạt 79,8%). Nhìn chung, trình độ học vấn của NNL ngày càng được nâng
cao, số người chưa biết chữ giảm dần; năm 2011 có 3.645 người không biết chữ
(chiếm 2,93%), đến năm 2015 giảm xuống còn 1.453 người (chiếm 1,19%); số
người không biết chữ trong độ tuổi lao động tham gia vào lực lượng lao động trong
các ngành kinh tế giảm dần, những người này chủ yếu làm việc ở khu vực nông
thôn; số người có trình độ học vấn tốt nghiệp THPT từ 42.94 người (năm 2011)
tăng lên 76.546 người (năm 2015) [44].
55
+ Chỉ tiêu tạo bước đột phá, tăng tốc về phát triển chất lượng NNL khu vực
nông thôn; phấn đấu đến năm 2015, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 30%, đến
năm 2020 đạt 40%.
Đánh giá kết quả: Đắk Nông là tỉnh có cơ cấu kinh tế chủ yếu là sản xuất
nông nghiệp, do vậy lực lượng lao động tham gia sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm
tỷ trọng lớn. Tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế hiện nay là
gần 388 ngàn người (bao gồm: nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 62,3%; công
nghiệp – xây dựng chiếm 15,4%; dịch vụ chiếm 22,3%) [63]. Qua hơn 5 năm thực
hiện chính sách PTNNL, chất lượng NNL ngày càng được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ lao
động trong toàn tỉnh đã qua đào tạo chiếm khoảng 41% (năm 2018) tăng 6% so với
năm 2015 (35%); 2010(26,64%). Trong đó: lao động qua đào tạo nghề năm 2018
đạt 32%, tăng 4,25% so với năm 2015 (27,75%); 2011 (21,5%) [46]; tỷ lệ thiếu việc
làm ở khu vực nông thôn tiếp tục giảm, cơ cấu lao động có bước chuyển dịch tích
cực theo hướng công nghiệp hóa, dần tăng tỷ trọng lao động trong lĩnh vực công
nghiệp – xây dựng – khai khoáng (năm 2011 có 2,47%, năm 2015 tăng lên 3,77%,
năm 2018 tăng lên 15,4%) và lĩnh vực dịch vụ (năm 2011 có 10,23%, năm 2015
tăng lên 14,83%, năm 2018 tăng lên 22,3%) và giảm dần trong lĩnh vực nông - lâm
- thủy sản (năm 2011 có 87,3%, năm 2015 giảm xuống còn 81,4%, năm 2018 giảm
xuống còn 62,3%). Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành,
nghề của tỉnh diễn ra chậm, lao động trong ngành công nghiệp khai khoáng, xây
dựng, chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng nhỏ và tăng không đáng kể.
Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn cũng được chú trọng, đặc biệt
là chương trình đào tạo nghề cho lao động theo nguồn kinh phí Đề án 1965 ngày
27/11/2009 của Chính phủ, trên cơ sở đó UBND tỉnh Đắk Nông đã phê duyệt đề án
“Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Đắk Nông đến năm 2020” ban hành
kèm theo Quyết định số 04/2011/QĐ-UBND ngày 10/01/2011, qua hơn 5 năm triển
khai thực hiện đã mang lại hiệu quả thiết thực, đào tạo nghề cho 10.548 lượt lao
động nông thôn (phụ lục 03). Bên cạnh đó, thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày
06/6/2014 của Ban Bí thư (khóa XI) về “tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao” cơ bản đáp ứng được nhu cầu của một bộ
56
phận lao động, nâng cao tay nghề, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp
phần nâng cao chất lượng đời sóng cho người dân. Các ngành nghề đào tạo cơ bản
đáp ứng được nhu cầu của người dân, bám sát kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương, phát huy, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, tạo điều kiện cho các ngành
nghề truyền thống phát triển, có cơ hội cạnh tranh với thị trường (phụ lục 04).
+ Chỉ tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất,
năng lực, đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh; 100% cán bộ, công chức đạt chuẩn
ngạch công chức theo quy định; 100% cán bộ, công chức cấp xã đạt tiêu chuẩn chức
danh và đảm bảo cơ cấu tỷ lệ hợp lý về độ tuổi, giới tính, dân tộc, ngành, lĩnh vực.
Đánh giá kết quả: Qua hơn 5 năm thực hiện chính sách PTNNL, đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh đã phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến
năm 2018 là 18.543 người (trong đó: nữ 10.941 người, dân tộc thiểu số 1.564
người)[45] so với năm 2011 là 16.492 người (trong đó: nữ 6.359 người, dân tộc
thiểu số 1.397 người) tăng 1.12 lần [44]. Việc quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức,
viên chức trên địa bàn tỉnh cơ bản phù hợp với vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức
danh cán bộ. Công tác tuyển dụng được thực hiện nghiêm túc theo quy định của
pháp luật, tổ chức thi tuyển theo nguyên tắc cạnh tranh, thực hiện đúng biên chế
được giao, tuyển chọn những cá nhân có năng lực, trình độ chuyên ngành phù hợp
với yêu cầu vị trí việc làm. Trong giai đoạn 2011-2015, tỉnh đã tổ chức 03 kỳ thi
tuyển công chức (Khối Đảng, đoàn thể 01 và Khối nhà nước 02) với tổng số 1.398
thí sinh tham dự, qua đó đã tuyển dụng được 569 công chức bố trí công tác trong
các cơ quan, đơn vị hành chính Khối Đảng và Nhà nước; các đơn vị sự nghiệp của
tỉnh đã tuyển dụng được 2.860 viên chức trong tổng số 4.137 thí sinh đăng ký dự
tuẻn để bố trí trong các đơn vị sự nghiệp công lập[45].
Bên cạnh đó, việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ đào tạo, thu hút
PTNNL trong hệ thống chính trị được ban hành kèm theo Quyết định số
03/2012/QĐ-UBND, ngày 09/3/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh đã giúp cho đội ngũ
cán bộ, công chức có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, lý luận
chính trị, góp phần quan trọng trong việc nâng cao mặt bằng chung về trình độ,
năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh. Trong hơn 5 năm, các
57
cơ quan, ban, ngành của tỉnh đã xét cử 1.382 cán bộ, công chức, viên chức tham gia
đào tạo tại các trường đại học, học viện trong và ngoài nước. Trong đó, có 11
nghiên cứu sinh, 299 người được đào tạo cao học và 1.072 người được đào tạo đại
học. Các cơ quan trong tỉnh đã tổ chức đào tạo lý luận chính trị cho 1.795 cán bộ
(Cao cấp 586 cán bộ và Trung cấp 1.209 cán bộ). Bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng
– An ninh đối tượng I là 13 đồng chí, đối tượng II là 122 đồng chí và đối tượng III
là 730 đồng chí; bồi dưỡng quản lý chương trình chuyên viên chính 90 học viên,
chuyên viên cao cấp 50 học viên, chuyên viên 720 học viên; 10 lớp bồi dưỡng kiến
thức kỹ năng chuyên ngành theo vị trí việc làm với khoảng 500 học viên tham gia;
16 lớp bồi dưỡng dành cho cán bộ, công chức cấp xã với hơn 1.000 học viên; mở 05
lớp bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp với 720 học
viên; 46 học viên tham gia 02 lớp bồi dưỡng ngoại ngữ; 84 học viên tham gia 02 lớp
bồi dưỡng nâng cao năng lực lãnh đạo quản lý dành cho cán bộ nguồn[45]. So với
năm 2011, đến nay đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh đã có bước phát
triển về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, cơ bản đáp ứng yêu cầu
về tiêu chuẩn đối với chức danh cán bộ và vị trí việc làm, cụ thể ở trình độ sau đại
học tăng từ 1,6% nâng lên 6%, đại học từ 57% nâng lên 73%; về lý luận chính trị:
trình độ cử nhân, cao cấp tăng từ 19% nâng lên 25%, trung cấp lý luận chính trị từ
25% nâng lên 35% [45]. Đa số cán bộ, công chức, viên chức sử dụng tin học vào
công tác quản lý điều hành, chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu quả
công tác, sử dụng tối đa được nguồn lực vào quá trình thực thi công vụ.
Để thực hiện tốt công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy có Quyết định số 1277-QĐ/TU, ngày 18/11/2014 về việc ban
hành Đề án “Củng cổ và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2014 - 2021”; Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành
Quyết định số 346/QĐ-UBND, ngày 13/3/2015 vê kế hoạch thực hiện Đề án củng
cố và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông giai đoạn 2014 - 2021. Việc triển khai thực hiện Đề án 1277 của Ban
Thường vụ Tỉnh ủy, bước đầu đã nâng cao nhận thức cho các tổ chức trong hệ
thống chính trị, cán bộ, đảng viên về vai trò, trách nhiệm trong việc nâng cao chất
58
lượng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở, từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức ở cơ sở vững mạnh. So với thời điểm cuối năm 2014, có thể nói chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức cấp xã của tỉnh đã được nâng lên một bước trên tất cả các
mặt trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị (phụ lục 05).
+ Chỉ tiêu tạo nguồn cán bộ trẻ: trong nhiệm kỳ 2011-2015, đào tạo, bồi
dưỡng từ 300-500 người sau đại học; trong đó, đào tạo và thu hút tiến sĩ từ 05-10
người. Xây dựng đội ngũ giáo viên Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và trường
Chính trị, có trên 300 người.
Đánh giá kết quả: Công tác tạo nguồn cán bộ trẻ trong những năm qua được
chú trọng, năm 2011 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã chỉ đạo rà soát lựa chọn 308 cán
bộ, công chức trẻ dưới 40 tuổi được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ hệ chính quy và
có năng lực nổi trội trong thực tiễn công tác để đưa vào quy hoạch cán bộ nguồn dài
hạn của tỉnh. Đến nay đội ngũ cán bộ nguồn toàn tỉnh hiện có 338 đồng chí (phụ lục
06). Đây là đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống tốt, lập trường
tư tưởng chính trị vững vàng, hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; năng nổ,
chủ động, sáng tạo trong công việc. Trong hơn 5 năm qua, đội ngũ cán bộ nguồn
của tỉnh đã được bổ nhiệm 78 trường hợp, luân chuyển 141 trường họp, có 149
đồng chí được bổ nhiệm, luân chuyển đảm nhiệm các chức danh quản lý, lãnh đạo
cao hơn so với thời điểm được quy hoạch cán bộ nguồn. Bên cạnh đó, từ năm 2011
đến nay, toàn tỉnh có 225 cán bộ, công chức, viên chức tham gia đào tạo trình độ
sau đại học (trong đó có 11 trường hợp đào tạo tiến sỹ và 214 trường hợp đào tạo
thạc sỹ). Tuy nhiên, chỉ tiêu đào tạo và thu hút từ NNL có trình độ sau đại học là
chưa đạt được (Nghị quyết đề ra phấn đấu đến cuối năm 2015 đào tạo và thu hút từ
300 - 500 người có trình độ sau đại học).
Việc xây dựng đội ngũ giáo viên Trường Cao đẳng, Trường Trung cấp
chuyên nghiệp và Trường Chính trị tỉnh không đạt được chỉ tiêu Nghị quyết 05 đề
ra (trên 300 người), hiện nay toàn tỉnh chỉ có 157 giáo viên dạy nghề, 43 giảng viên
Trường Chính trị tỉnh [44]; mặt khác Trường Cao đẳng của tỉnh mới có quyết định
thành lập và đang trong giai đoạn xây dựng nên việc thu hút và đào tạo lực lượng
giáo viên chưa được tiến hành.
59
2.4. Đánh giá tình hình thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh
Đắk Nông
2.4.1. Ưu điểm
Triển khai thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông, các cấp ủy đảng
và chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã nhận thức rõ vai trò của PTNNL, xác định
PTNNL là nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Quan điểm phát triển và sử dụng
NNL được nhận thức đúng đắn, từ đó việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
người lao động đã gắn với nhu cầu sử dụng; công tác đào tạo, thu hút nhân lực chất
lượng cao bước đầu được triển khai thực hiện đem lại hiệu quả. Trên cơ sở những
chính sách của nhà nước về PTNNL nói chung, UBND tỉnh Đắk Nông đã tổ chức
thực hiện nhiều chính sách về PTNNL phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của
tỉnh và đã thu được nhiều kết quả quan trọng đó là:
Thứ nhất, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Đắk Nông đã chủ động, tích cực
trong việc chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách PTNNL, đảm bảo thực hiện đầy
đủ các bước trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh.
HĐND, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ
nhằm PTNNL cả trong và ngoài hệ thống chính trị như: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng
cho cán bộ, công chức, viên chức, chính sách thu hút PTNNL trong hệ thống chính
trị; hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên dân tộc là người dân tộc thiểu số …
Các bước trong quy trình tổ chức thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh, từ
bước xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đến bước tổng kết, rút kinh
nghiệm đều được triển khai thực hiện theo tuần tự, đầy đủ.
Các yêu cầu về tổ chức thực hiện chính sách như: Bảo đảm thực hiện mục
tiêu chính sách; bảo đảm tính hệ thống trong thực hiện; Bảo đảm yêu cầu khoa học,
tính pháp lý trong tổ chức thực hiện và bảo đảm sự hài hòa lợi ích cho các đối tượng
thụ hưởng cũng được tỉnh đảm bảo trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách.
Viêc đảm bảo thực hiện đầy đủ các bước, các yêu cầu trong quy trình tổ chức thực
hiện chính sách đã giúp cho việc triển khai chính sách đảm bảo tính thống nhất,
khoa học, liên tục và đạt được kết quả cao.
60
Thứ hai, mặc dù điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn,
nhưng các sở, ban, ngành, huyện, thị xã đã tích cực, ưu tiên cho công tác PTNNL,
tạo điều kiện về thời gian và hỗ trợ tài chính cho cán bộ, công chức được học tập,
nâng cao trình độ chuyên môn. Công tác quy hoạch, đào tạo, luân chuyển cán bộ
được các cấp ủy và lãnh đạo quan tâm chỉ đạo thực hiện đúng quy trình; chất lượng
từng bước được nâng lên; tỷ lệ, cơ cấu tương đối phù hợp với thực trạng cán bộ của
tỉnh, bước đầu đáp ứng được nguồn cán bộ để kiện toàn bộ máy cấp ủy, lãnh đạo các
cấp nhiệm kỳ 2010-2015 và 2015-2020 và những năm tiếp theo.
Thứ ba, chính sách về cơ bản đã có những tác động đến đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức trong toàn tỉnh từng bước được cũng cố, kiện toàn theo hướng tích
cực, chất lượng từng bước được nâng lên; công tác tạo nguồn cán bộ trẻ, cán bộ nữ,
cán bộ người đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng; công chức cấp tỉnh và
huyện đa số đạt chuẩn ngạch công chức theo quy định; Sự nghiệp giáo dục đào tạo
đã có sự chuyển biến ở các cấp học, ngành học; quy mô phát triển trường lớp, số
lượng học sinh đến trường năm sau cao hơn năm trước; cơ sở trường, lớp học cơ
bản đáp ứng được yêu cầu dạy và học. Chương trình kiên cố hóa và chuẩn hóa
trường lớp, nhà công vụ cho giáo viên đến năm 2020 bước đầu đã đem lại hiệu quả;
Sự nghiệp y tế, văn hóa thể thao được quan tâm đầu tư phát triển; công tác đào tạo,
dạy nghề cho người lao động từng bước được mở rộng.
2.4.2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức thực hiện chính sách PTNNL
của tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011 – 2015, định hướng đến năm 2020 vẫn còn một
số hạn chế, bất cập như sau:
Thứ nhất, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong
quá trình tổ chức thực hiện chính sách chưa thực sự chặt chẽ, kịp thời.
Trong quá trình triển khai thực hiện các chính sách PTNNL như thực hiện
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức, viên chức của tỉnh Đắk Nông sự phối
hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc đăng ký, cử cán bộ tham gia đào
tạo, bồi dưỡng chưa thật sự chặt chẽ, kịp thời; việc dự báo tình hình, xây dựng nhu
cầu và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của một số cơ quan, đơn vị, địa phương chưa bám
61
sát với thực tế dẫn đến số lượng cán bộ, công chức, viên chức tham gia các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng chưa đạt được chỉ tiêu đề ra; một số cán bộ, công chức, viên
chức tham gia các chuyên ngành đào tạo sau đại học chưa phù hợp với vị trí việc làm,
chuyên môn đã được đào tạo ở bậc đại học, một số cán bộ được cử đi đào tạo nhiều
lớp trùng lặp về nội dung chương trình gây lãng phí nguồn ngân sách, một số nơi còn
tình trạng cục bộ, lợi ích nhóm, ưu tiên bố trí người thân, người nhà … giữ một số
chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị, tạo dư
luận không tốt; bên cạnh đó, những vấn đề như “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy
bằng cấp”, “chạy luân chuyển’ đã có dư luận.
Thứ hai, một bộ phận đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình
tổ chức thực hiện chính sách chưa có tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu
cầu của nền công vụ hiện đại.
Có thể khẳng định rằng, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là nhân tố
quan trọng để việc thực hiện chính sách PTNNL đạt được mục tiêu đề ra. Hiện nay,
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã từng bước được chuẩn hóa, tuy nhiên vẫn
còn không ít cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình triển khai thực hiện chính
sách tính chuyên nghiệp chưa cao, chưa phát huy hết năng lực, sở trường của mình
trong công tác, thiếu chủ động; vận dụng chủ trương, chính sách còn chậm, máy
móc; còn thiếu gương mẫu trong lối sống, sinh hoạt; năng lực lãnh đạo, điều hành
còn hạn chế .., chưa thực sự tự lực vươn lên trong học tập, rèn luyện; chưa có nhiều
sáng kiến, sáng tạo, đóng góp đáng kể cho cơ quan, đơn vị, địa phương. Tỷ lệ cán
bộ, công chức viên chức có trình độ sau đại học còn thấp, thiếu các chuyên gia đầu
ngành giỏi. Lực lượng cán bộ xã, phường, thị trấn tuy được quan tâm bố trí, đào tạo
nhiều nhưng tỷ lệ đạt chuẩn còn thấp, tỷ lệ cán bộ đạt chuẩn theo Quyết định số
04/2004/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ mới đạt khoảng 56,28%.
Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện chính sách chưa được
thực hiện thường xuyên,chưa chặt chẽ và thiếu quyết liệt nên không phát hiện kịp
thời những hạn chế, bất cập để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, rút kinh
nghiệm kịp thời cho việc tổ chức thực hiện chính sách.
62
Việc kiện toàn hệ thống thanh tra, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát,
chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí hiện được coi là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của việc thực hiện chính sách PTNNL. Tuy nhiên, Công tác kiểm tra,
giám sát, đôn đốc thực thiện chính sách cũng chỉ mới thực hiện theo đoàn, theo đợt,
chưa thực hiện được việc kiểm tra, giám sát thường xuyên. Hoạt động kiểm tra,
giám sát trong việc thực hiện chính sách PTNNL chưa thường xuyên kịp thời và
còn thiếu nghiêm minh. Một số cấp ủy, tập thể lãnh đạo, người đứng đầu địa
phương, cơ quan, đơn vị chưa thật sự quan tâm, chú trọng, chưa có những cơ chế và
cách làm mới, cụ thể để phát huy hiệu quả; lực lượng cán bộ làm công tác kiểm tra,
giám sát còn mỏng, không có chuyên sâu.
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách PTNNL, một số chính sách đào
tạo, thu hút NNL chưa có sự điều chỉnh kịp thời. Các chính sách khi triển khai chưa
thu hút được lực lượng cán bộ khoa học, quản lý và lao động có trình độ, tay nghề
cao; các chính sách về đào tạo nghề cho người dân khi triển khai còn đang dàn trải,
phần nhiều chưa chú trọng vào nhu cầu lao động của các doanh nghiệp phù hợp với
hoạt động sản xuất, kinh doanh; một bộ phận tri thức trẻ, được đào tạo chính quy,
có chuyên môn giỏi có xu hướng muốn chuyển đến làm việc ở những nơi có điều
kiện, môi trường làm việc tốt hơn. Nhiều học sinh có thành tích học tập tốt, trúng
truyển vào các trường đại học chất lượng cao trong và ngoài nước với những ngành
mà tỉnh đang cần nhưng không muốn trở về địa phương công tác sau khi tốt nghiệp
vì các chính sách thu hút chưa được thỏa đáng và điều kiện làm việc còn gặp nhiều
khó khăn.
Thứ tư, công tác xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chưa được rõ ràng, các
tiêu chí để đánh giá việc thực hiện chính sách vẫn còn chung chung, chưa khoa học
Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển NNL còn mang tính
chung chung, chưa cụ thể về cơ quan chủ trì và phối hợp thực hiện triển khai chính
sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực hiện; dự kiến những cơ
chế trách nhiệm của cán bộ quản lý và công chức thực hiện chưa quy định rõ; kế
hoạch cung cấp các nguồn lực tài chính, trang thiết bị chưa đáp ứng yêu cầu thực tế
hiện nay. Đặc biệt là cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo, dạy
63
nghề. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện, một số chính sách chưa tuân thủ các
kế hoạch kiểm tra, dự kiến thời gian duy trì chính sách. Các nội quy, quy chế trong
thực hiện chính sách còn mang nặng tính hình thức, chưa được áp dụng triệt để và
có hiệu quả.
Khi đánh giá việc tổ chức thực hiện chính sách, người ta cần căn cứ vào các
kết quả thực hiện được so với mục tiêu của chính sách đề ra ban đầu. Công tác đánh
giá việc thực hiện chính sách sẽ dễ dàng hơn nếu các mục tiêu chính sách được thể
hiện dưới dạng định lượng, song đa số các mục tiêu của chính sách PTNNL của tỉnh
Đắk Nông vẫn đang thể hiện ở dạng định tính, nhiều khi mục tiêu của chính sách
không rõ ràng. Từ đó, gây khó khăn cho việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề
ra và không phản ánh hết các giá trị của chính sách. Do đó, để đánh giá chính sách
cần có bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính sách. Nếu không có
bộ tiêu chí đánh giá chính sách thì khi đánh giá chính sách sẽ mang tính phiến diện,
không đầy đủ và toàn diện.
Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục về nội dung, mục đích và
yêu cầu của chính sách còn chưa đầy đủ, kịp thời và sơ sài.
Một số cấp ủy, chính quyền chưa làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến về
nội dung, mục đích và yêu cầu của chính sách PTNNL. Công tác tuyên truyền trên
các phương tiện truyền thông đại chúng chưa được thường xuyên, nội dung chưa
thực sự phong phú; nhận thức về vai trò, vị trí của NNL chưa đầy đủ; vai trò của
NNL hiện có tại địa phương chưa được phát huy. Chưa có văn bản chỉ đạo chuyên
đề về đào tạo nhân lực có tay nghề cao; công tác tuyên truyền, tư vấn về học nghề
chưa được triển khai thường xuyên và sâu rộng, công tác hướng nghiệp và phân
luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở chưa được quan tâm đầy đủ.
2.4.3. Nguyên nhân
Những tồn tại, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện chính sách PTNNL tại
tỉnh Đắk Nông do nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân khách quan và
nguyên nhân chủ quan.
Nguyên nhân chủ quan
64
Một là, một bộ phận nhận thức về vai trò của chính sách PTNNL của lãnh
đạo cũng như của cán bộ, công chức, viên chức và người dân chưa thật sự sâu sắc,
đầy đủ. Do đó, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Nông chưa có những kế hoạch cụ thể, một
quy trình hệ thống để giám sát, theo dõi quá trình tổ chức thực hiện chính sách,
thiếu sự kiểm tra, giám sát, tổng kết đánh giá hiệu quả của từng chính sách tác động
đến NNL của tỉnh.
Hai là, cơ sở vật chất, nguồn ngân sách chi cho việc thực hiện chính sách còn
hạn hẹp. Đặc biệt là các cơ sở giáo dục, đào tạo, tỷ lệ ngân sách chi cho một số hoạt
động hành chính và hoạt động chuyên môn ở một số lĩnh vực đào tạo còn thấp, chưa
đáp ứng được yêu cầu. Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác PTNNL như các đơn vị
đào tạo nghề có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất thiếu, mạng lưới các trường trung cấp
nghề, trung tâm dạy nghề của tỉnh chưa đáp ứng nhu cầu học nghề. Chất lượng cán
bộ giảng dạy trong các cơ sở đào tạo, dạy nghề của tỉnh còn hạn chế. Nội dung đào
tạo nặng về lý thuyết, chưa cập nhật được các tiến bộ của khoa học, công nghệ; mối
quan hệ giữa đơn vị đào tạo và người sử dụng lao động thiếu gắn bó nên xảy ra tình
trạng thiếu cân bằng giữa đào tạo và sử dụng, gây lãng phí kinh phí đào tạo.
Nguyên nhân khách quan
Một là, hệ thống chính sách, pháp luật PTNNL của tỉnh Đắk Nông còn thiếu
đồng bộ, có nhiều điểm bất hợp lý. Các chính sách về thu hút NNL chất lượng cao
còn chưa hiệu quả, chưa thực sự phát huy tác dụng, chưa sát với thực tế nên hiệu
quả không cao; chính sách về đào tạo chưa được sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp
thời nên chưa phù hợp với tình hình mới, môi trường làm việc không đủ sức hấp
dẫn để thu hút được NNL chất lượng cao bổ sung cho một số ngành mà tỉnh còn
thiếu. Nền kinh tế của tỉnh phát triển chưa mạnh, việc làm tạo ra hàng năm thấp hơn
so với nhu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động; nhiều sinh viên giỏi, công
nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề, môi trường làm việc không đủ sức hấp dẫn để
thu hút được NNL chất lượng cao bổ sung cho một số ngành mà tỉnh còn thiếu.
Hai là, đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị của tỉnh còn hạn chế về trình độ
chuyên môn, lý luận chính trị, năng lực, kinh nghiệm công tác gây khó khăn trong
quá trình tổ chức triển khai thực hiện các chính sách về PTNNL.
65
Tiểu kết Chương 2
Trong chương 2 tác giả đã khái quát về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế
– xã hội của tỉnh; hệ thống các chính sách của nhà nước, của Tỉnh ủy, HĐND,
UBND tỉnh Đắk Nông về chính sách PTNNL đã và đang trực tiếp tác động đến việc
PTNNL của tỉnh.
Tác giả đã tập trung phân tích, làm rõ thực trạng thực hiện chính sách
PTNNL tại tỉnh Đắk Nông. Trên cơ sở đó tác giả đã chỉ ra những kết quả đạt được,
những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trong việc tổ chức
thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh.
Những phân tích, đánh giá trên trong việc thực hiện chính sách PTNNL tại
tỉnh Đắk Nông là cơ sở, tiền đề để tác giả đề xuất các giải pháp khắc phục mặt hạn
chế, phát huy mặt tích cực nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức thực hiện chính
sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông ở chương 3.
66
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TẠI TỈNH
ĐẮK NÔNG
3.1. Mục tiêu, phương hướng về phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Đắk Nông
trong thời gian tới.
Trên cơ sở các mục tiêu, quan điểm của Đảng và Nhà nước về PTNNL Việt
Nam trong thời gian tới. Chúng tôi kiến nghị đề xuất các mục tiêu, phương hướng
nhằm nâng cao, phát triển chất lượng NNL của tỉnh trong thời gian tới. Trong đó sử
dụng đa dạng các giải pháp để tổ chức thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh đảm
bảo theo mục tiêu, quan điểm chỉ đạo chung của Nhà nước. Mục tiêu, phương
hướng PTNNL của tỉnh Đắk Nông trong giai đoạn hiện nay đó là:
Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vị trí vai trò quan trọng của chất
lượng NNL trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh quốc
phòng của tỉnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế;
Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có
đủ trình độ, năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, đảm bảo về số lượng và
chất lượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thời kỳ hội nhập sâu rộng và phát triển đất nước đến năm 2030;
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, lý luận chính trị cho cán
bộ, công chức, viên chức; đào tạo sau đại học theo cơ cấu hợp lý tập trung các
chuyên ngành khoa học; quan tâm cán bộ trẻ có triển vọng, có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng tạo nguồn; khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức tự học tập,
bồi dưỡng nâng cao trình độ đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, đặc biệt là đáp
ứng yêu cầu đặt ra của cuộc cách mạng 4.0;
Đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác nâng cao chất lượng NNL, Giảm tỷ lệ mắc
bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khỏe cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ,
chất lượng cuộc sống của người dân. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu
quả và hội nhập. Phát triển nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng. Bảo đảm mọi
67
người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe. Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế “Thầy
thuốc phải như mẹ hiền”, có năng lực chuyên môn vững vàng, tiếp cận trình độ khu vực
và cả nước. Nâng cao năng lực cạnh tranh về cung ứng dịch vụ y tế;
Đổi mới tư duy, cơ chế và phương thức quản lý hoạt động giáo dục nghề
nghiệp theo hướng tăng dần phân cấp, phân định rõ ràng trách nhiệm của từng cấp
quản lý. Nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị các cơ sở đào tạo nghề hiện có;
xây dựng và hoàn thiện các cơ sở dạy nghề đang chuẩn bị đầu tư xây dựng; đồng
thời bố trí mạng lưới giáo dục, đào tạo hợp lý đảm bảo phục vụ nhu cầu đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng nhân lực, nhất là cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất
lượng cao; gắn với đổi mới công tác quản lý, chương trình dạy và học; nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy và quản lý đảm bảo đủ về số lượng, đồng bộ
về cơ cấu, chuẩn về trình độ. Chú trọng công tác đào tạo chuẩn hóa, nâng chuẩn cho
đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên, đảm bảo đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư; trước mắt là nâng cao khả năng sử dụng công nghệ thông tin
và ngoại ngữ;
Tăng cường gắn kết giáo dục nghề nghiệp với thị trường lao động và việc
làm bền vững. Xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp với các doanh nghiệp, các tổ chức, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong việc
tổ chức cho học sinh, sinh viên thực hành, nâng cao kỹ năng nghề và tiếp cận công
nghệ mới, tiên tiến. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học,
mở rộng liên kết đào tạo và hợp tác quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp. Mở rộng
các phương thức đào tạo, tuyển sinh đào tạo, đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực; chú
trọng các ngành nghề trọng điểm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh cũng như các vùng lân cận và nhu cầu xã hội;
Hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa, đạo đức và con người tỉnh Đắk
Nông; tạo môi trường và điều kiện để phát triển nhân cách, đạo đức, năng lực sáng
tạo, trí tuệ, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân
thủ pháp luật; có lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước, lương tâm, trách nhiệm
với bản thân mình, với gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước;
68
Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thể chất và thể thao trường học nhằm
tăng cường sức khỏe, phát triển thể lực toàn diện, trang bị kiến thức, kỹ năng vận
động cơ bản và hình thành thói quen tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên cho
trẻ em, học sinh, sinh viên; gắn giáo dục thể chất, thể thao trường học với giáo dục
ý chí, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống; đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh
cho trẻ em, học sinh, sinh viên, đồng thời góp phần phát hiện, đào tạo năng khiếu và
tài năng thể thao cho địa phương và cả nước.
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển nguồn
nhân lực
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp về
phát triển nguồn nhân lực
Quán triệt quan điểm con người là nền tảng, là yếu tố quyết định trong phát
triển bền vững kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng của tỉnh; tạo sự
chuyển biến mạnh về nhận thức đối với các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức
chính trị, xã hội trong PTNNL; Huy động cả hệ thống chính trị trong việc quan tâm
chỉ đạo triển khai thực hiện chính sách PTNNL, coi đây là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu, cấp bách và lâu dài để phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đẩy mạnh tuyên
truyền, giáo dục thuyết phục cán bộ, công chức, viên chức, người dân về vai trò, ý
nghĩa và tầm quan trọng về PTNNL trong giai đoạn mới như: Xây dựng, ban hành
các kế hoạch triển khai thực hiện như nghị quyết, chỉ thị, chương trình, kế hoạch
hành động … chứa đựng các nội dung chuẩn bị, tính toán phương án về nguồn lực,
tiến độ, cơ chế vận hành, thể chế kèm theo, .. để giải quyết mục tiêu và hiện thực
hóa các giải pháp trong chính sách đã được thông qua, sớm đưa chính sách đi vào
cuộc sống và phát huy tác dụng.
3.2.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức trong việc triển khai các
bước thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực của tỉnh Đắk Nông
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức trong xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông. Tập trung nâng cao về kiến
thức, hiểu biết chuyên môn, kỹ năng tác nghiệp và tinh thần, thái độ, trách nhiệm
của đội ngũ cán bộ, công chức trong xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách
69
PTNNL của tỉnh. Yêu cầu mỗi cán bộ, công chức tham gia xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện phải hiểu rõ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy
mô, tầm quan trọng của chính sách. Từ đó xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ,
nguồn lực, vật lực, thời gian, hình thức và phương pháp tổ chức thực hiện chính
sách PTNNL của tỉnh.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong việc phân
công, phối hợp tổ chức thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông: Nâng cao
khả năng tổ chức điều hành chính sách PTNNL một cách khoa học, chặt chẽ và hợp
lý; có sự phân công trách nhiệm của các cá nhân, tập thể, tổ chức tham gia phối hợp
trong quá trình triển khai thực hiện chính sách một cách nhịp nhàng, có hệ thống sẽ
phát huy được nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong duy trì chính
sách PTNNL của tỉnh: Nâng cao khả năng, kiến thức, kỹ năng của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức trong tham mưu đề xuất các giải pháp, biện pháp nhằm đảm
bảo cho chính sách được duy trì, tồn tại và phát huy hiệu quả trong các điều kiện cụ
thể, các môi trường thực tế của tỉnh. Trong quá trình thực hiện sẽ gặp những khó
khăn do môi trường thực tế biến động, thay đổi do đó đòi hỏi đội ngũ làm công tác
thực hiện chính sách phải có năng lực, kiến thức, sử dụng các công cụ quản lý của
nhà nước để vận dụng một cách linh hoạt nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho
việc thực hiện chính sách.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong điều chỉnh
chính sách PTNNL của tỉnh: Khi triển khai thực hiện chính sách vào môi trường thực
tế sẽ gặp không ít những bất cập, hạn chế chưa phù hợp với thực tiễn cần phải có
những điều chỉnh nhất định để đáp ứng yêu cầu quản lý và phù hợp với mỗi giai
đoạn. Về nguyên tăc, thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách là do cơ quan, tổ
chức ban hành chính sách. Nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện pháp, các cơ
chế chính sách diễn ra rất năng động và linh hoạt trong quá trình thực hiện chính
sách. Do đó, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện chính sách cần phải có
năng lực, kiến thức, kỹ năng để đề xuất các giải pháp, biện pháp, cơ chế để thực hiện
chính sách một cách có hiệu quả, đảm bảo mục tiêu chính sách đề ra; cần có kiến thức
70
để phân tích các hạn chế, bất cập của chính sách, các yêu cầu thực tiễn đặt ra trong tổ
chức thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong nhiệm vụ
theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh: Theo dõi, đôn
đốc, kiểm tra thực hiện chính sách là hoạt động tiến hành nhằm xem xét, đánh giá
việc thực hiện các chính sách của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; từ đó
tiến hành các biện pháp theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền áp
dụng các biện pháp phù hợp nhằm đảm bảo thực hiện chính sách PTNNL. Do đó,
nhân tố chủ yếu tác động đến kết quả của hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc
thực hiện chính sách là nhân tố con người, bao gồm phẩm chất chính trị, năng lực
chuyên môn và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm
công tác này. Vì vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là
một trong những giải pháp hàng đầu để nâng cao kết quả hoạt động theo dõi, đôn
đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách PTNNL.
Trong đó, cần tiêu chuẩn hóa và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng
cao năng lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác theo dõi, đôn đốc,
kiểm tra việc thực hiện chính sách; để làm được việc này cần có những quy định và
hướng dẫn về những tiêu chuẩn nghiệp vụ cấn thiết đối với lực lượng chuyên trách
theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách cho phù hợp với yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ của mỗi cơ quan. Để đáp ứng được yêu cầu của việc nâng cao năng
lực, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện chính sách PTNNL, bên cạnh việc nâng cao năng lực chất lượng
tuyển chọn cán bộ cần phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ
cán bộ, công chức đang làm nhiệm vụ. Ngoài ra, cần chú trọng nâng cao phẩm chất
dạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức làm công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm
tra việc thực hiện chính sách PTNNL. Trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải
pháp nhằm nâng cao phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ, công chức làm
công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các chính sách PTNNL, trong đó
cần phát huy tốt vai trò giám sát của tổ chức đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm
71
công tác thanh tra nói chung và công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện
chính sách PTNNL nói riêng.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong đánh giá, tổng
kết rút kinh nghiệm quá trình thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh: Công tác đánh
giá, tổng kết rút kinh nghiệm phải chỉ ra được chính xác ưu điểm, nhược điểm, kinh
nghiệm tực tiễn trong quá trình thực hiện chính sách của các đơn vị, cá nhân thực
hiện tốt hoặc chưa tốt việc tổ chức thực hiện chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông.
Thước đo, căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện chính sách của các đối tượng này là
tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách, ý thức chấp hành những quy định về
cơ chế
3.2.3. Tích cực đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách và các văn bản
có liên quan đến việc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực tại tỉnh
Đắk Nông
Như đã nêu, một trong những nguyên nhân làm cho việc thực hiện chính
sách PTNNL chưa đạt hiệu quả cao là do một số văn bản nhằm thực hiện chính sách
PTNNL còn thiếu đồng bộ, thậm chí đang chồng chéo nhau. Do đó, trong thời gian
tới tỉnh Đắk Nông cần hoàn thiện hệ thống các văn bản liên quan đến việc thực hiện
chính sách PTNNL. Hệ thống các văn bản có vai trò rất quan trọng, tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp, tạo động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm quá trình thực hiện
chính sách PTNNL. Trên thực tế, trong những năm qua tỉnh Đắk Nông đã ban hành
nhiều chính sách và hệ thống các văn bản liên quan việc thực hiện chính sách phát
triển NNL đã có tác động tích cực đến việc phát triển NNL. Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện, các chính sách đã bộc lộ không ít những bất cập, hạn chế, hiệu quả
magn lại chưa tương xướng. Do vậy, để tiếp tục pháp triển NNL có hiệu quả đòi hỏi
phải thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống các chính sách và
các văn bản liên quan nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc PTNNL của
tỉnh Đắk Nông trước những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 như hiện
nay.
Việc đổi mới, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các chính sách và văn bản liên
quan việc thực hiện chính sách để tạo động lực cho sự PTNNL, đặc biệt là NNL
72
chất lượng cao phải được thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, như giáo dục –
đào tạo, môi trường làm việc, khoa học – công nghệ, chính sách việc làm, thu nhập,
an sinh xã hội, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, chăm sóc sức khỏe, các điều kiện nhà ở,
sinh sống, định cư … Trong đó, trước hết cần coi trọng việc tạo lập các chính sách
về thu hút, sử dụng và đãi ngộ NNL chất lượng cao. Các chính sách về tuyển dụng,
bố trí sử dụng NNL cần phải được triển khai một cách công khai, khách quan, chính
xác, dựa trên cơ sở phẩm chất và năng lực thực chất. Đặc biệt, những người lãnh
đạo cần mạnh dạn sử dụng NNL trẻ chất lượng cao; khuyến kích họ nổ lực thể hiện
những kiến thức, chuyên môn đã được học tập, tích lũy thông qua những chính sách
sử dụng hợp lý.
Có sự đột phá về đãi ngộ, tôn vinh những cá nhân xuất sắc trong công tác,
thực hiện chính sách tiền lương linh hoạt theo tiêu chí tài năng và hiệu quả cống
hiến; tạo môi trường làm việc thuận lợi và cơ hội phát triển, thăng tiến để tạo động
lực, kích thích, khuyến khích lao động sáng tạo và đạt hiệu quả cao nhất. Bảo đảm
đầy đủ các điều kiện về cơ sở vật chất và phương tiện làm việc, nghiên cứu cho các
nhà khoa học, những tài năng trẻ. Phát hiện và tôn vinh nhân tài đi kèm với cơ chế
khuyến kích về lợi ích vật chất đối với những người cống hiến mang lại nhiều lợi
ích, đóng góp tích cực cho xã hội.
Bên cạnh đó, tỉnh Đắk Nông cần có chính sách thỏa đáng để tạo nguồn lực
và khai thác hiệu quả nguồn lực mới. nhất là trong những ngành mũi nhọn của tỉnh;
nâng cao chất lượng hoạt động của ngành nông nghiệp công nghệ cao, ngành công
nghiệp chế biến và các khu công nghiệp; có chính sách hỗ trợ hình thành và phát
triển các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp sách, công nghệ cao trên địa bàn tỉnh, đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và chuyển giao công nghệ nông nghiệp
sách. Đồng thời tăng cường sự hợp tác hiệu quả giữa 3 nhà: Nhà nước, Nhà doanh
nghiệp và Nhà trường.
3.2.4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Nhận thức đầy đủ, đúng đắn các nội dung của chính sách PTNNL của tỉnh
Đắk Nông là yêu cầu quan trọng đầu tiên trong quá trình đưa chính sách vào cuộc
73
sống. Các chủ thể tổ chức thực hiện chính sách, các lực lượng tham gia và cán bộ,
công chức chịu ảnh hưởng của chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông cần hiểu rõ
mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, từ đó tạo ra
sự đồng thuận, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách.
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông đến
cán bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là thế hệ thanh niên về vai trò của tri
thức, của kỹ năng lao động, ý thức tổ chức kỹ luật, tinh thần hợp tác, tính tự chủ, sự
cần thiết và tác dụng của kiến thức và đào tạo nghề. Lồng ghép các hoạt động này vào
chương trình hướng nghiệp tại các trường học từ trung học cơ sở đến cao đẳng, đại
học; các cơ quan thông tin đại chúng đưa tin, bài phản ánh một cách đầy đủ về tầm
quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng đối với việc nâng cao chất lượng NNL;
tuyên truyền về giáo dục đào tạo và pháp luật lao động làm sao để người dân đều biết,
hiểu để thực thi và thực hiện nghiêm chỉnh những văn bản tỉnh đưa ra. Xây dựng
thông tin về nhân lực được đào tạo hàng năm, tình hình sử dụng nhân lực, để kịp thời
điều chỉnh cho hợp lý. Xây dựng sàn giao dịch việc làm, cung cấp thông tin về thị
trường lao động, việc làm và xuất khẩu lao động.
Tuyên truyền, phổ biến đi đôi với khuyến kích, hỗ trợ các doanh nghiệp, chủ
sử dụng lao động tổ chức đào tạo, dạy nghề cho người lao động và đầu tư phát triển
dạy nghề cho người lao động làm việc trong tổ chức, công ty của mình. Cung cấp
những thông tin cần thiết, tổ chức phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cho người đồng
bào dân tộc thiểu số, người dân vùng nông thôn hiểu được sự cần thiết và tác động
của việc đi học và đào tạo nghề nghiệp. Hướng dẫn, giới thiệu và tổ chức cung cấp
các dịch vụ hỗ trợ cho người dân, người đồng bào dân tộc thiểu số về các thủ tục,
phương pháp để tiếp cận được các lớp học và dạy nghề, đặc biệt là những lớp dạy
nghề được tổ chức theo chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm, xóa đói giảm
nghèo, các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến công …
Duy trì tốt các nguồn lực phục vụ cho việc thực hiện chính sách. Bên cạnh
đó cần huy động, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực: nhân lực, vật lực, kinh phí ....
từ trung ương và các tổ chức doanh nghiệp. Có thể khai thác, huy động nguồn lực
trong nhân dân nhằm giảm bớt kinh phí từ ngân sách nhà nước, sử dụng tối đa hiệu
74
quả các khoản tài trợ của các doanh nghiệp. Tăng cường vai trò giám sát, kiểm tra
chặt chẽ trong việc sử dụng các nguồn kinh phí và đánh giá hiệu quả việc sử dụng
kinh phí.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểmtra việc thực hiện chính sách PTNNL
trên địa bàn tỉnh. Mục đích của việc thanh tra, kiểm tra là nhằm phát hiện, phòng
ngừa và xử lý vi phạm (nếu có); phát triện lỗ hổng trong cơ chế quản lý, trong chính
sách và pháp luật để kiến nghị với cơ quan cso thẩm quyền có biện pháp khắc phục.
Bên cạnh đó, thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát để phát huy những
nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và các lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên
quan.
3.2.5. Xây dựng các tiêu chí đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách phát triển
nguồn nhân lực tại tỉnh Đắk Nông
Để hoàn thiện việc thực hiện chính sách PTNNL trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
thì việc xây dựng các tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện chính sách là điều có vai
trò quan trọng. Tùy theo từng lĩnh vực cụ thể sẽ có các tiêu chí đánh giá tập trung
vào các nội dung: Tính hiệu lực chính sách; tính hiệu quả của chính sách; tính công
bằng của chính sách; mức độ giải quyết vấn đề chính sách … Từ đó có thể xây dựng
bộ tiêu chí đánh giá thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông, cụ thể như:
Tính hiệu lực của chính sách PTNNL trên địa bàn tỉnh Đắk Nông phản ánh
mức độ tác động, ảnh hưởng của chính sách PTNNL đến số lượng, chất lượng NNL
trên thực tế tại tỉnh Đắk Nông đã dạt được mục tiêu của tỉnh đề ra hay chưa?
Tính hiệu quả của chính sách PTNNL phản ánh tương quan so sánh giữa kết
quả đạt được do chính sách đem lại với chi phí bỏ ra. Giữa chi phí đầu tư cho việc
thực hiện chính sách như chi phí đào tạo, bồi dưỡng, chi phí mời giảng viên giảng
dạy, chi phí thực hiện các chương trình nâng cao thể lực, tâm lực, trí lực cho NNL
trên địa bàn tỉnh … Nếu kết quả đạt được so với mục tiêu đề ra với những chi phí
thấp nhất thì chính sách đó cũng được xem là hiệu quả.
75
Tính công bằng của chính sách PTNNL thể hiện ở sự phân bổ hợp lý giữa chi
phí và lợi ích, các quyền lợi và nghĩa vụ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa cán bộ công
chức, viên chức và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách.
Mức độ giải quyết vấn đề chính sách PTNNL trên địa bàn tỉnh. Chính sách
góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của NNL trên địa bàn tỉnh hay chưa? Số
lượng, chất lượng và cơ cấu NNL trên địa bàn tỉnh đã đáp ứng được yêu cầu, đòi
hỏi của tỉnh trong tình hình mới hay chưa?
Chú trọng đánh giá tác động của chính sách PTNNL đến các đối tượng
hưởng lợi từ chính sách. Tác động của chính sách PTNNL phản ánh kết quả đầu ra
hay kết quả cuối cùng của chính sách. Đây là một tiêu chí rất quan trọng trong đánh
giá chính sách PTNNL. Song việc đánh giá tác động của chính sách là khâu khó
nhất trong đánh giá chính sách, bở lẽ các tác động này đôi khi rất khó đo lường.
3.2.6. Tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính phục vụ cho việc thực hiện chính
sách phát triển nguồn nhân lựccủa tỉnh Đắk Nông
Xây dựng kế hoạch vốn ngân sách hàng năm từ 0,8 – 1% tổng chi ngân sách
của tỉnh và kế hoạch vốn dài hạn cho đầutư PTNNL; cải tạo, nâng cấp cơ sở vật
chất phục vụ cho công tác quy hoạch, đào tạo, quản lý, sử dụng NNL; Tranh thủ sự
hỗ trợ tối đa của Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương để tăng nguồn vốn cho
PTNNL của tỉnh; Nâng dần tỷ trọng vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo, đầu tư
thích đáng vào đào tạo nghề và cho các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ.
Tăng cường huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân
cho PTNNL; thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi như: chính sách ưu đãi về đất
đai, thuế và các nguồn lực khác .. để khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân đầu tư
sản xuất kinh doanh, đầu tư dào tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã
hội, thu hút nhân tài phục vụ nền kinh tế, xã hội.
Huy động nguồn vốn của nhân dân (kể cả các tổ chức cộng đồng, tổ chức xã
hội …) để PTNNL và trong đầu tư xây dựng các cơ sở đào tạo, tổ chưucs các loại
quỹ khuyến học, khuyến tài …
76
Triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội cho các đối
tượng lao động là người nghèo; chính sách hỗ trợ người lao động đi làm việc ở
ngước ngoài; chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp cho người lao động.
Để có NNL chất lượng cao thực hiện những nhiệm vụ đột phá của tỉnh, từ nay đến
những năm tiếp theo, các ngành cần có sự chủ động, tích cực trong việc xác định
nhu cầu sử dụng gắn với kế hoạch tổ chức đào tạo giữa các ngành, địa phương.
3.3. Một số kiến nghị về thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực
Đề nghị với Trung ương và các Bộ ngành tăng cường nguồn vốn đầu tư cơ
sở hạ tầng cho Đắk Nông; ưu tiên các nguồn vốn ODA, các chương trình, dự án
quốc gia để phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu như giao thông, trường học, bệnh viện,
trung tâm văn hóa công cộng tạo cơ sở vật chất, tiền để để PTNNL của tỉnh, đặc
biệt là các vùng khó khăn.
Gắn kết Đắk Nông với các chương trình, dự án phát triển của các vùng và cả
nước; tạo cơ hội tham gia và hợp tác phát triển với các địa phương khác trong cả nước,
đặc biệt với các tỉnh, thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Phước, Bình
Dương, Lâm Đồng, Đắk Lắk … trong sản xuất – chế biến – tiêu thụ - xuất khẩu sản
phẩm, trong đào tạo NNL, chuyển giao kỹ thuật – công nghệ.
Dành cho tỉnh những nguồn vốn vay tín dụng ưu đãi dài hạn cho các thành phần
kinh tế để phát triển sản xuất, đặc biệt là cho các hộ nghèo từ các nguồn vốn tạo việc
làm, đào tạo nghề, giảm nghèo nhằm góp phần giải quyết việc làm, tăng số người đi
xuất khẩu lao động, cải thiện đời sống nhân dana các dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Tiếp tục xây dựng hoàn thiện hành lang pháp lý, điều kiện thuận lợi cho đội
ngũ trí thức sáng tạo, cống hiến; có cơ chế, chính sách ưu đãi đối với tri thức trẻ
công tác ở vùng sâu, vùng khó khăn; ưu tiên đào tạo trí thức đang làm việc trong
các ngành trực tiếp nghiên cứu khoa học. Rà soát, bổ sung và ban hành các chính
sách hỗ trợ thiết thực, tạo điều kiện cho người lao động học tập nâng cao kỹ năng
nghề, đặc biệt là các đối tượng chính sách.
Trung ương cần sớm tổng kết các mô hình thí điểm về công tác cán bộ trong
thời gian qua; đối với những mô hình thí điểm thấy thật sự hiệu quả thì để nghị chỉ
đạo nhân rộng triển khai rộng rãi trong toàn quốc; trường hợp việc thí điểm mang
77
lại hiệu quả thấp thì cần nghiên cứu điều chỉnh lại mô hình cho phù hợp hoặc chỉ
đạo dừng không tiếp tục thực hiện thí điểm để phù hợp với tình hình thực tế của
từng địa phương.
Hiện nay, nhu cầu cần được đào tạo cao cấp lý luận chính trị của tỉnh là
tương đối lớn, trong khi đó chỉ tiêu phân bổ hàng năm còn hạn chế, do đó, đề nghị
Ban Tổ chức Trung ương tăng chỉ tiêu đào tạo cao cấp lý luận chính trị nhằm đáp
ứng kịp thời nhu cầu đào tạo của tỉnh.
Hiện nay các nguồn vốn hỗ trợ lao động học nghề được giao cho nhiều
ngành tham gia quản lý theo các chương trình, đề án khác nhau, do vậy sẽ gặp nhiều
khó khăn trong công tác quản lý, theo dõi, tổng hợp, thống kê báo cáo và quản lý
chất lượng đào tạo nghề, vì vậy đề nghị quy định thống nhất một đầu mối để quản
lý đối tượng lao động được thụ hưởng các chính sách hỗ trợ đào tạo nghề.
Tiểu kết Chương 3
Trên cơ sở nội dung cơ sở lý luận thực hiện chính sách PTNNL trình bày ở
Chương 1; kết quả phân tích, đánh giá việc thực hiện chính sách PTNNL tại tỉnh
Đắk Nông ở Chương 2 và căn cứ vào mục tiêu, phương hướng, quan điểm PTNNL
của tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới. Chương 3, tác giả đã đưa ra một số giải pháp
hoàn thiện thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông trong thời gian tiếp
theo. Các giải pháp nêu trong chương 3 nếu được đảm bảo thực hiện sẽ có tác dụng
nâng cao chất lượng thực hiện chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông. Từ đó xây
dựng một đội ngũ NNL đảm bảo đầy đủ các yếu tố như trí lực, thể lực và những
phẩm chất đạo đức, tinh thần phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk
Nông nói riêng và của cả nước nói chung.
78
KẾT LUẬN
Thực hiện chính sách PTNNL là nhiệm vụ quan trọng luôn được Đảng, Nhà
nước nói chung và tỉnh Đắk Nông nói riêng đặc biệt quan tâm, thực hiện. Trong xu
thế mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng, đặc biệt là cuộc cách mạng công nghiệp
4.0 đang dần đi sâu vào mỗi gia đình, cơ quan, tổ chức như hiện nay, có thể khẳng
định chất lượng NNL đóng vai trò quyết định đến tình hình phát triển KT-XH, QP-
AN của địa phương do đó việc nghiên cứu, phân tích tình hình thực tiễn, chỉ ra
những kết quả đạt được, những mặt hạn chế, tồn tại trong việc thực hiện chính sách
PTNNL để đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách PTNNL
là rất cần thiết.
Trong giai đoạn từ năm 2011 - 2018 việc thực hiện chính sách PTNNL tại
tỉnh Đắk Nông đã đạt được những kết quả nhất định, tác động không nhỏ đến số
lượng, chất lượng, cơ cấu và hiệu quả NNL của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết
quả đã đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế trong việc thực hiện chính sách
PTNNL trên địa bàn tỉnh. Do đó, để hoàn thiện thực hiện chính sách PTNNL, tỉnh
Đắk Nông cần khắc phục những hạn chế, tồn tại và thực hiện đồng bộ các giải pháp
để chính sách phát huy được vai trò, ý nghĩa trên thực tế, góp phần thúc đẩy phát
triển KT-XH của tỉnh.
Luận văn đã tập trung nghiên cứu tài liệu, số liệu và thực trạng thực hiện
chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông và đề xuất các giải pháp hoàn thiện việc thực
hiện chính sách PTNNL trong thời gian tới. Luận văn đã phân tích và làm rõ các nội
dung sau:
Thứ nhất, luận văn đã hệ thống hóa, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của
thực thi chính sách PTNNL; thông qua đó luận văn đã làm rõ nội dung vị trí, ý
nghĩa của việc thực hiện chính sách PTNNL cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến tổ
chức thực hiện chính sách PTNNL và quy trình thực hiện chính sách;
Thứ hai, trên cơ sở các chính sách đã ban hành và số liệu thống kê thực hiện
trong giai đoạn 2011 đến nay. Luận văn đã phân tích, đánh giá được thực trạng việc
thực hiện chính sách PTNNL thông qua quy trình 7 bước tại tỉnh Đắk Nông, chỉ ra
79
kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện
chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông.
Thứ ba, căn cứ vào quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và định hướng
PTNNL của tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới. Luận văn đã trình bày phương
hướng thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông, đồng thời đề xuất các giải
pháp đảm bảo thực thi chính sách PTNNL gồm 6 nội dung: tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp về PTNNL; nâng cao năng lực đội
ngũ cán bộ, công chức trong việc triển khai thực hiện các bước thực hiện chính sách
PTNNL của tỉnh Đắk Nông; tích cực đổi mới, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính
sách và các văn bản có liên quan đến việc thực hiện chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk
Nông; Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc thực hiện chính sách PTNNL tại
tỉnh Đắk Nông; xây dựng các tiêu chí đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách
PTNNL tại tỉnh Đắk Nông và tăng cường đầu tư nguồn lực tài chính phục vụ cho
việc thực hiện chính sách PTNNL của tỉnh Đắk Nông.
Với phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ từ thực tiễn thực hiện chính
sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ của
mình với hy vọng công tác tổ chức thực hiện chính sách PTNNL trên địa bàn tỉnh
Đắk Nông được thực hiện này càng tốt hơn, góp phần xây dựng NNL của tỉnh đáp
ứng được nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội, từng bước nâng cao năng lực canh
tranh của nhân lực trong tỉnh, tiến tới tiếp cận với trình độ trong khu vực và thế
giới, đưa nhân lực trở thành lợi thế cạnh tranh của địa phương để thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế và ổn định xã hội.
Đây là một đề tài tương đối mới, đối tượng nghiên cứu là việc thực hiện
chính sách PTNNL tại tỉnh Đắk Nông. Do thời gian nghiên cứu có hạn, học viên
cũng chưa có nhiều kinh nghiệm nên luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế.
Học viên kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy, cô và các bạn.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Chí Bảo (2009), Nghiên cứu các giải pháp bảo đảm quyền bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội tại các vùng đa dân tộc ở miền núi, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Trung ương (2014), Kết luận số 86-KL/TW, ngày 24/01/2014 “về chỉnh sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ ”
3. Chính phủ (2009), Quyết định số 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chỉnh phủ, ngày 27/11/2009 về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”
4. Cục thống kê tỉnh Đắk Nông (2014), Niên giám thống kê 2014.
5. Cục thống kê tỉnh Đắk Nông (2015), Niên giám thống kê 2015.
6. Cục thống kê tỉnh Đắk Nông (2016), Niên giám thống kê, 2016.
7. Cục thống kê tỉnh Đắk Nông (2017), Niên giám thống kê 2017.
8. Vũ Cao Đàm (chủ biên), Phạm Xuân Hằng ,Trần Văn Hải, Đào Thanh Trường (2012), “Kỹ năng Phân tích và Hoạch định Chính sách ”, Nxb Thế giới, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội
13. Trần Kim Dung (2006), Quản trị nguồn nhân lực, Nxb Thống kê, Hà Nội 14. Trương Quang Dũng (2007), Góp một sổ ý kiến về tuyển dung và sử dụng lao động có trình độ cao cho khu vực cồng, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 137 (6/2007).
15. Phạm Minh Hạc (2001), Phát triển văn hóa, con người và NNL thời kỳ CNH- HĐH đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
16. Phạm Minh Hạc (2012), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ CNH- HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Hữu Hải (2008), Giáo trình hoạch định và phân tích chính sách công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
18. Đỗ Phú Hải (2014), Quá trình xây dựng chính sách công tại các nước đang phát triển, tạp chí Tổ chức nhà nước, Bộ Nội vụ.
81
19. Nguyễn Hữu Hải - Lê Văn Hòa (đồng chủ biên) (2013), Đại cương về chính sách công, Nxb Chính trị Quốc gia-sự thật, Hà Nội.
20. Nguyễn Hữu Hải (2014), Chính sách công - Những vấn đề cơ bản, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
21. PGS.TS. Hồ Việt Hạnh (2017), Bàn về khái niệm chính sách công, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (số 12), Tr.03-06 , Hà Nội.
22. Lê Văn Hòa (2017), Hoạch định và thực thi chính sách công, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
23. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Nghị quyết số 35/2011/NQ- HĐND, ngày 09/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông về quy định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2012-2015.
24. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Nghị quyết số 38/2011/NQ- HĐND, ngày 09/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông về chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm học 2011-2012 đến năm học 2015-2016.
25. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2012), Nghị quyết số 41/2012/NQ- HĐND, ngày 20/12/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông thông qua Đề án nâng cao chất lượng giáo dục học sinh dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm học 2012-2013 đến năm học 2015-2016.
26. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2012), Nghị quyết số 45/2012/NQ- HĐND, ngày 20/12/2012 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông về chính sách tạo quỹ đất ở và hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho cán bộ, công chức, viên chức.
27. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2014), Nghị quyết số 09/2014/NQ- HĐND, ngày 16/7/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông Quy định chính sách thu hút, đãi ngộ đối với bác sĩ, dược sĩ đại học và sau đại học về công tác tại các cơ quan, đơn vị y tế công lập trên địa bàn tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2015-2020.
28. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2016), Nghị quyết số 46/NQ-HĐND, ngày 22/12/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 35/2011/NQ-HĐND ngày 09/12/2011 của Hội đồng nhân dân tỉnh quy định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị tỉnh Đắk Nông.
29. Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông (2015), Nghị quyết số 22/2015/NQ- HĐND, ngày 10/12/2015 của Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Nông thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016-2020 tỉnh Đắk Nông.
30. Hội đồng quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1 A-Đ, Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội.
31. Liên Hiệp Quốc (2007), Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người, Nxb Thống kê, Hà Nội.
82
32. Nguyễn Tuyết Mai (2000), Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Nhà nước, Bộ Kế hoạch và đầu tư.
33. Lê Thị Ngân (2005), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34. Phạm Thành Nghị (2010), Phát triển con người vùng Tây Bắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Vũ Văn Phúc, Nguyên Huy Hùng ( 2012), Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
36. Tô Huy Rứa (2015), Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay, Tạp chí Xây dựng Đảng số 12-2014, số 1-2015, số 2+3-2015.
37. Nguyễn Đình Tấn và Trần Thị Bích Hằng (2010), Nhận thức thái độ, hành vi của cộng đồng các dân tộc thiểu số đối với chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Chu Chí Thắng (2002), Hợp tác quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực Khoa học và công nghệ sau đại học – Nghiên cứu trường hợp Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia
39. Nguyễn Thanh (2002), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 579/QĐ-TTg, ngày 19/4/2011 về phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020. 41. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg, ngày 22/7/2011 về phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. 42. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 291/QĐ-TTg, ngày 05/02/2013 về việc ban hành Hệ thống chỉ tiêu đánh giá phát triển nhân lực phục vụ giảm sát và đảnh giả thực hiện Quy hoạch và Chiến lược phát triển nhân lực thời kỳ 2011-2020.
43. Tỉnh ủy Đắk Nông (2011), Nghị quyết số 05-NQ/TU, ngày 10/8/2011 của Tỉnh ủy Đắk Nông về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020.
44. Tỉnh ủy Đắk Nông (2016), Báo cáo số 100-BC/TU, ngày 31/10/2016 của Tỉnh ủy Đắk Nông Tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TU, ngày 10/8/2011 của Tỉnh ủy về phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020.
45. Tỉnh ủy Đắk Nông (2018), Báo cáo số 374-BC/TU, ngày 15/01/2018 của Tỉnh ủy Đắk Nông Tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
83
46. Tỉnh ủy Đắk Nông (2019), Báo cáo số 518-BC/TU, ngày 26/04/2019 của Tỉnh ủy Đắk Nông sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đào tạo nhân lực có tay nghề cao".
47. Trần Văn Tùng - Lê Ái Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực: kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 48. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Quyết định số 1524/QĐ-UBND, ngày 17/10/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Dắk Nông giai đoạn 2011-2020. 49. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2012), Quyết định số 04/2012/QĐ-UBND, ngày 14/3/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc quy định số lượng, chức danh và chế độ, chính sách dối với những người hoạt động không chuyên trách và một số đối tượng khác công tác ở xã, phường, thị trấn, ở thôn, buôn, bon, bản, tổ dân phố trên địa bàn tỉnh.
50. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2011), Quyết định số 1987/QĐ-UBND, ngày 15/12/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc ban hành Đề án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020.
51. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2012), Quyết định số 168/QĐ-UBND, ngày 08/02/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Nông từ năm 2011-2012 đến năm học 2015-2016.
52. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2012), Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND, ngày 09/3/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về quy định các chính sách phát triển nguồn nhân lực trong hệ thống chính trị tỉnh Đắk Nông giai đoạn 2012-2015.
53. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2012), Quyết định số 18/2012/QĐ-UBND, ngày 21/9/2012 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về việc ban hành Quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức tỉnh Đắk Nông. 54. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2013), Quyết định số 1594/QĐ-UBND, ngày 09/10/2013 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông về phê duyệt Đề án Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tỉnh Đắk Nông đến 2015 và định hướng đến năm 2020.
55. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông (2016), Báo cáo số 323/BC-UBND, ngày 05/8/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông sơ kết 5 năm thực hiện Quy hoạch phát triển nhân lực giai đoạn 2011-2020.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Báo cáo số 516/BC-UBND, ngày 25/11/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, tình hình phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 và xây dựng kế hoạch giai đoạn 2016-2020.
84
57. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Báo cáo số 434/BC-UBND, ngày 21/8/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2018 và ước đạt kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2020.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, Báo cáo số 600/BC-UBND, ngày 15/11/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, tình hình phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng năm 2018 và xây dựng Kế hoạch năm 2019. 59. Vũ Thị Hải Yến (2017), Chính sách phát triển nguồn nhân lực từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sỹ, Học viện Khoa học xã hội.
Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
60. UNDP (1998), Expanding choices for the Rural Poor Hunman Develpoment in Viet
61. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn đội ngũ cán bộ chủ chốt của tỉnh, https://daknong.gov.vn/tieu-diem/-/view_content/12627461-cong-tac-dao- tao-boi-duong-tao-nguon-doi-ngu-can-bo-chu-chot-cua-tinh.html, truy cập cuối cùng ngày 31 tháng 3 năm 2019.
62. Điều kiện tự nhiên - xã hội, https://daknong.gov.vn/dieu-kien-tu-nhien1, truy cập cuối cùng ngày 31 tháng 3 năm 2019.
63. Đắk Nông với những thành tựu sau 15 năm xây dựng và phát triển, http://www.tinhdoandaknong.org.vn/thoi/832-dak-nong-voi-nhung-thanh- tuu-sau-15-nam-xay-dung-va-phat-trien.html, truy cập cuối cùng ngày 31 tháng 3 năm 2019.
64. Ngành công nghiệp Đắk Nông: “Điểm sáng” trên hành trình 15 năm, https://congthuong.vn/nganh-cong-nghiep-dak-nong-diem-sang-tren-hanh- trinh-15-nam-109570.html, truy cập cuối cùng ngày 30 tháng 6 năm 2019.
65. Đắk Nông vài nét tổng quan, https://dantocmiennui.vn/xa-hoi/dak-nong-vai- net-tong-quan/169953.html, truy cập cuối cùng ngày 30 tháng 6 năm 2019.
85
PHẦN PHỤ LỤC
Phụ lục 01: Kết quả công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (nhiệm kỳ 2015-2020)
Cấp tỉnh
Cấp huyện
Cấp xã
TT
Quy hoạch cán bộ các cấp
Số lượng
Số lượng
Số lượng
Tỷ lệ cán bộ nữ
Tỷ lệ cán bộ nữ
Tỷ lệ cán bộ nữ
Tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi
Tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi
Tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi
Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
1 Quy hoạch Ban chấp hành
108
32,41% 12,00% 15,70%
636
50,47% 20,60% 9,59%
854
48,95% 26,81% 19,32%
2 Quy hoạch Ban Thường vụ
27
22,22% 25,93% 22,22%
204
42,16% 18,14% 11,76%
285
16,30% 22,41% 15,53%
3
38
15,79% 10,53% 5,26%
4
98
15,31% 20,41% 1,02%
5
48
20,83% 4,17% 10,42%
6
88
20,50% 14,77% 7,95%
Quy hoạch Trưởng các ban Đảng; Giám đốc các sở, ngành, doanh nghiệp, Chủ tịch MTTQ và các đoàn thể Quy hoạch Phó Trưởng các ban Đảng; Giám đốc các sở, ngành, doanh nghiệp, Chủ tịch MTTQ và các đoàn thể Quy hoạch Bí thư, chủ tịch NĐND, Chủ tịch UBND huyện, thị, Bí thư các đảng ủy khối Quy hoạch Phó Bí thư, Phó chủ tịch HĐND, Phó Chủ tịch UBND huyện, thị, Bí thư các đảng ủy khối
Cấp tỉnh
Cấp huyện
Cấp xã
TT
Quy hoạch cán bộ các cấp
Số lượng
Số lượng
Số lượng
Tỷ lệ cán bộ nữ
Tỷ lệ cán bộ nữ
Tỷ lệ cán bộ nữ
Tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi
Tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi
Tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi
Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
7
507
28,68% 9,75% 23,59%
Quy hoạch Bí thư, Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND xã
8
635
37,73% 19,44% 21,67%
Quy hoạch Phó Bí thư, Phó Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND xã
[45]
Phụ lục 02: Quy mô trường, lớp các cấp học
Tổng số trường Tổng số học sinh Tổng số giáo viên Số học sinh bình quân một giáo viên Số học sinh bình quân một lớp học Stt Cấp học
Năm 2011 Năm 2017 Năm 2011 Năm 2017 Năm 2011 Năm 2017 Năm 2011 Năm 2017 Năm 2011 Năm 2017
25 26 35 39 31 29 35 37
88 132 79 21 1 123 148 84 29 1 20.182 58.791 37.363 17.298 307 38.115 68.509 41.431 19.763 587 1.011 2.973 2.123 1.075 16 1.954 3.525 2.370 1.259 28 20 20 18 16 19 20 19 17 16 21
1 Mầm non 2 Tiểu học 3 Trung học cơ sở 4 Trung học phổ thông 5 Trung cấp chuyên nghiệp 6 Trường Cao đẳng 7 Trường Đại học
132 321 385 7.198 9.136 93 93 125 Tổng cộng 133.941 168.405
[4];[7]
Phụ lục 03: Kết quả công tác dạy nghề theo đề án 1956 của Chính phủ (giai đoạn 2011-2015)
(ĐVT: người)
Năm TT Trình độ đào tạo, ngành nghề Kết quả thực hiện 05 năm Ghi chú 2011 2012 2013 2014 2015
1 Dệt thổ cẩm 456 321 397 290 150 1.614
2 Tin học 464 661 542 157 120 1.944
3 Các nghề tròng trọt - bảo vệ thực vật, chăn nuôi - thú y 412 836 1.868 1.544 2.330 6.990
Tổng cộng 1.332 1.818 2.807 1.991 2.600 10.548
[44]
Phụ lục 04: Kết quả đào tạo nghề cho lao động hàng năm theo
Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 06/6/2014 của Ban Bí thư (khóa XI)
Stt Nội dung 2014 2015 2016 2017 2018
Tổng số được đào tạo nghề 1.077 962 1.523 1.540 716
1 Nghề Nông nghiệp 227 212 304 310 150
Nghề phi nông nghiệp 850 750 1.219 1.230 566
Trình độ đào tạo
Dưới 12 tháng 1.032 937 1.483 1.495 671 2 Trung cấp 25 25 40 45 45
Cao đẳng (liên kết đào tạo) 20 0 0 0 0
[46]
Phụ lục 05: Chất lượng cán bộ công chức cấp xã, phường, thị trấn
(Sau khi đề án 1277-QĐ/TU ngày 18/11/2014 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy được triển khai thực hiện)
Học vấn Lý luận chính trị
TT Chức danh cán bộ, công chức cấp xã
THCS THPT Sơ cấp Chuyên môn nghiệp vụ Cao đẳng, Đại học Trung cấp Cao cấp, trung cấp
A Thống kê năm 2014
1 86,53% 35,10% 38,10% 76,16% Cán bộ chuyên trách giữ các chức vụ chủ chốt (Bí thư, phó bí thư; Chủ tịch; Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND)
2 31,12% 65,42% 10,95% 42,07% 51,88% Cán bộ chuyên trách giữ chức vụ trưởng đoàn thể (Chủ tịch UBMTTQ, bí thư đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội LHPN, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cự chiến binh)
96,20% 40,05% 50,76% 9,19% 35,94%
3 Công chức cấp xã B Thống kê đến thời điểm hiện nay
1 88,94% 47,50% 38,14% 80,73% Cán bộ chuyên trách giữ các chức vụ chủ chốt (Bí thư, phó bí thư; Chủ tịch; Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND)
2 27,09% 70,78% 12,41% 43,86% 61,99% Cán bộ chuyên trách giữ chức vụ trưởng đoàn thể (Chủ tịch UBMTTQ, bí thư đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội LHPN, Chủ tịch Hội Nông dân, Chủ tịch Hội Cự chiến binh)
3 Công chức cấp xã 97,92% 48,28% 46,56% 17,81% 43,01%
[44]
Phụ lục 06: Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ nguồn của tỉnh sau 5 năm thực hiện
Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 10/8/2011