intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Địa lý: Biến động dân số thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007 - Nguyên nhân và giải pháp

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:130

153
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Địa lý: Biến động dân số thành phố Hồ Vhí Minh thời kì 1997 - 2007 - Nguyên nhân và giải pháp trình bày đánh giá biến động dân số thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007, từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục những hạn chế trong quá trình gia tăng dân số thành phố, phục vụ sự phát triển CNH, ĐTH của thành phố hiện tại cũng như tương lai.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Địa lý: Biến động dân số thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007 - Nguyên nhân và giải pháp

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHẠM THỊ BẠCH TUYẾT BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THỜI KÌ 1997 - 2007: NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP Chuyên ngành: Địa lí kinh tế - xã hội Mã số: 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ Thành phố Hồ Chí Minh - 2010
  2. Lôøi caûm ôn Vôùi loøng kính troïng vaø bieát ôn saâu saéc, taùc giaû xin göûi lôøi caûm ôn tôùi TS. Phaïm Thò Xuaân Thoï - Tröôûng khoa Ñòa lí tröôøng Ñaïi hoïc Sö phaïm Tp. Hoà Chí Minh ñaõ taän tình höôùng daãn taùc giaû trong suoát quaù trình tìm hieåu, nghieân cöùu vaø hoaøn thaønh luaän vaên. Xin chaân thaønh caûm ôn Ban Giaùm Hieäu nhaø tröôøng, Phoøng KHCN vaø SÑH, Khoa Ñòa lí tröôøng Ñaïi hoïc Sö phaïm Tp Hoà Chí Minh ñaõ taïo ñieàu kieän thuaän lôïi cho taùc giaû trong quaù trình hoïc taäp vaø thöïc hieän ñeà taøi. Taùc giaû xin traân troïng caûm ôn caùc cô quan: Cuïc Thoáng keâ Tp. Hoà Chí Minh, Vieän Nghieân cöùu phaùt trieån kinh teá Tp. Hoà Chí Minh, Chi cuïc Daân soá keá hoaïch hoùa gia ñình Tp. Hoà Chí Minh ñaõ cung caáp cho taùc giaû nhieàu nguoàn tö lieäu, taøi lieäu quyù giaù vaø höõu ích ñeå taùc giaû nghieân cöùu phuïc vuï cho ñeà taøi. Cuoái cuøng, taùc giaû xin caûm ôn gia ñình, baïn beø ñaõ ñoäng vieân, giuùp ñôõ vaø taïo moïi ñieàu kieän thuaän lôïi cho taùc giaû trong suoát thôøi gian hoïc taäp vaø thöïc hieän luaän vaên. Thaønh phoá Hoà Chí Minh, ngaøy thaùng naêm 2010. Taùc giaû luaän vaên Phaïm Thò Baïch Tuyeát
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CNH : Công nghiệp hóa CSHT : Cơ sở hạ tầng DS – KHHGĐ : Dân số - kế hoạch hóa gia đình DHNTB : Duyên hải Nam Trung Bộ ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng ĐTH : Đô thị hóa GDP : Tổng sản phẩm quốc dân KCN : Khu công nghiệp KCX : Khu chế xuất TP. HCM : Thành phố Hồ Chí Minh TNGT : Tai nạn giao thông VKTTĐPN : Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Địa lí dân cư là một ngành khoa học thuộc hệ thống của khoa học địa lí. Đối tượng của địa lí dân cư là nghiên cứu tính quy luật và những đặc điểm phát triển về dân cư theo lãnh thổ (gia tăng dân số, quy mô, mật độ, động lực, phân bố dân cư…) nhằm góp phần giải quyết những nhiệm vụ kinh tế, trong phân công lao động, sử dụng hợp lí nguồn nhân lực, đáp ứng những nhu cầu sản xuất và tiêu thụ trên các địa bàn với những khác biệt về dân số từng vùng. Hiện nay, quy mô dân số thế giới đang ở mức cao và có sự khác nhau về gia tăng dân số giữa hai nhóm nước phát triển và đang phát triển, đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của hai nhóm nước này. Phát triển dân số là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến quá trình phát triển kinh tế. Trong điều kiện hiện nay, giải quyết vấn đề gia tăng dân số là một yếu tố quan trọng trong những giải pháp để phát triển kinh tế, vừa có tính cấp bách vừa là vấn đề phải giải quyết lâu dài cùng với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của các nước. Thành phố Hồ Chí Minh - thành phố lớn nhất cả nước về quy mô dân số và tiềm lực kinh tế, là trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị, khoa học kĩ thuật, trung tâm công nghiệp, đầu mối giao thông vận tải và giao dịch quốc tế lớn nhất Việt Nam. Thành phố đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế cả nước. Trong thời gian qua, dân số TP. HCM gia tăng nhanh chóng, trong đó chủ yếu do gia tăng dân số cơ học. Người nhập cư tự do từ các vùng, các khu vực khác nhau của cả nước đổ về thành phố để học tập, lao động, sinh sống... Sự gia tăng nhanh chóng dân cư vào đô thị có ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM, đặt ra nhiều vấn đề giải quyết. Tác giả chọn đề tài: “Biến động dân số thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007: nguyên nhân và giải pháp”. Nghiên cứu biến động dân số TP. HCM thời kì 1997 - 2007 nhằm rút ra những kết luận có ý nghĩa lí luận và thực tiễn về sự biến động dân số của thành phố, qua đó tìm hiểu những nét khái quát về các đô thị lớn của Việt Nam. Luận văn cũng nhằm tìm hiểu nguyên nhân của biến động dân số và tác động của nó đến phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM. Từ đó rút ra cơ sở khoa học nhằm đề ra phương hướng, giải pháp về gia tăng dân số, phân bố dân cư phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa của thành phố, giảm bớt áp lực về dân số đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt góp phần điều chỉnh mức di dân tự do vào TP. HCM hợp lí. Gia tăng dân số phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa là một yếu tố
  5. quan trọng nhằm góp phần để kinh tế - xã hội TP. HCM phát triển và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài 2.1 Mục tiêu đề tài Tìm hiểu thực trạng biến động dân số TP. HCM thời kì 1997 – 2007 và những nguyên nhân sự biến động đó. Đánh giá những ảnh hưởng biến động dân số đến phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM. Trên cơ sở biến động dân cư đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm khắc phục những hạn chế trong quá trình gia tăng dân số thành phố, phục vụ sự phát triển CNH, ĐTH của thành phố hiện tại cũng như tương lai. 2.2 Nhiệm vụ đề tài  Thu thập số liệu thống kê, thông tin và nguồn tư liệu về biến động dân số và sự phát triển kinh tế - xã hội của TP. HCM.  Phân tích, tổng hợp thông tin, số liệu về tốc độ gia tăng dân số của TP. HCM trong giai đoạn 1997 - 2007. Đánh giá nguyên nhân và tác động của biến động dân số ở TP. HCM.  Tìm hiểu các định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó dự báo sự gia tăng dân số, phân tích các khó khăn, hạn chế nhằm đưa ra các giải pháp phát triển và phân bố dân cư thành phố hợp lí hơn trong thời gian tới. 2.3 Phạm vi nghiên cứu đề tài 2.3.1 Về không gian Đề tài tập trung phân tích, đánh giá biến động dân số TP. HCM thời kì 1997 - 2007 bao gồm gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học. Đặc biệt chú ý đến sự biến động dân số các quận nội thành cũ, quận đô thị hóa mới và các huyện ngoại thành trong thời gian gần đây. Phân tích nguyên nhân và đánh giá những ảnh hưởng của gia tăng dân số đến phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM. 2.3.2 Về thời gian Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích biến động dân số TP. HCM trong thời kì đổi mới nền kinh tế, đặc biệt trong giai đoạn 1997 - 2007. Đây là thời kì mở cửa nền kinh tế, TP. HCM có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, các ngành kinh tế phát triển sôi động, đa dạng nhiều ngành nghề đã tạo lực hút mạnh mẽ đối với người lao động từ mọi miền đất nước đến TP. HCM, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, làm cho dân số thành phố gia tăng nhanh chóng. Đề tài cũng cập nhật các số liệu mới bổ sung vào phần đánh giá của mình.
  6. 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Biến động số dân có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự tăng lên hay giảm đi của dân số (tăng giảm tự nhiên hay cơ học) đều ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, mật độ dân số và lao động của một quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Vấn đề biến động dân số từ lâu đã thu hút được sự nghiên cứu của các nhà khoa học, đặc biệt từ sau khi đất nước bước vào thời kì đổi mới, gia tăng dân số diễn ra với tốc độ nhanh chóng càng làm các nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm hơn. Năm 1994 đề tài luận án TS của tác giả Nguyễn Kim Hồng về “Sự phát triển dân số và mối quan hệ của nó với phát triển kinh tế - xã hội ở TP. HCM”. Đề tài phân tích sâu sắc sự phát triển dân số của thành phố và xác định được những mối quan hệ thuận nghịch giữa sự phát triển dân số và sự phát triển kinh tế - xã hội ở TP. HCM. Đề tài cũng đã đưa ra nhiều phương hướng giải quyết nhằm phát triển dân số thành phố một cách hợp lí, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM. Luận án TS của tác giả Phạm Thị Xuân Thọ (2002) với đề tài: “Di dân ở TP. HCM và tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đề tài đi sâu phân tích đánh giá quá trình di dân ở TP. HCM, bao gồm quá trình nhập cư ngoại tỉnh vào thành phố và quá trình di dân giữa các quận huyện ở TP. HCM. Tác giả đã đánh giá nguyên nhân và phân tích ảnh hưởng của di dân tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của quá trình di dân. Tác giả Trần Cao Sơn có khá nhiều tác phẩm nghiên cứu về dân số và mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội. Hai cuốn: “Dân số và tiến trình đô thị hóa - động thái phát triển và triển vọng”(1995) và “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa dân số và sự phát triển”(1997) đều phân tích mối quan hệ giữa gia tăng dân số với sự phát triển kinh tế - xã hội. Gia tăng dân số có những tác động tích cực cũng như tiêu cực đến nền kinh tế đất nước. Các đề tài của Viện nghiên cứu phát triển TP. HCM như “Một số vấn đề biến đổi và phát triển dân số và nguồn lao động trên địa bàn TP. HCM” năm 1996 do PTS Bạch Văn Bảy chủ nhiệm đề tài. Năm 2006 hội thảo “Dân số với phát triển kinh tế - xã hội TP. HCM”, và đề tài “Phân tích các mối quan hệ giữa biến động dân số và tăng trưởng kinh tế trên địa bàn TP. HCM” do Cao Minh Nghĩa chủ nhiệm đề tài năm 2007. Các đề tài đã tập trung nghiên cứu giải quyết một số vấn đề về lí luận và thực tiễn sự phát triển dân số trong quá trình đô thị hóa của thành phố. Đưa ra nhiều kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển dân số phù hợp với quá trình
  7. công nghiệp hóa, đô thị hóa thành phố. Các đề tài nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo quý giá, thực sự bổ ích cho tác giả khi tiến hành nghiên cứu, thực hiện đề tài của mình. Nhiều đánh giá, nhận định của các nhà nghiên cứu là gợi ý quan trọng cho tác giả đi sâu nghiên cứu chi tiết hơn. 4. Hệ quan điểm và phương pháp nghiên cứu 4.1 Hệ quan điểm 4.1.1 Quan điểm tổng hợp lãnh thổ Dân số, kinh tế, xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, vì vậy khi nghiên cứu sự phát triển dân số của một vùng, một nước nào đó phải dựa trên nhiều yếu tố, xem xét trong mối quan hệ tổng hợp tự nhiên, kinh tế, xã hội để làm cho gia tăng dân số phù hợp với phát triển nhằm đạt hiệu quả cao nhất về kinh tế, xã hội, môi trường. 4.1.2 Quan điểm hệ thống Các đối tượng, hiện tượng địa lí đều có sự tác động qua lại với nhau trong một hệ thống nhất định, khi một thành phần của hệ thống bị tác động làm nó thay đổi phát triển thì nó gây ra những ảnh hưởng đến các thành phần khác của hệ thống, làm cho các thành phần đó cũng thay đổi theo và cuối cùng làm cho cả hệ thống thay đổi. TP. HCM là một trong hai đô thị lớn nhất và có tầm ảnh hưởng quan trọng nhất trong hệ thống đô thị Việt Nam. Trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế từ bao cấp sang cơ chế thị trường, TP. HCM đã có những thay đổi lớn về kinh tế, văn hóa, xã hội làm cho quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ và kéo theo là sự gia tăng dân số đô thị, phân hóa giàu nghèo, vệ sinh môi trường… Do đó, khi nghiên cứu sự biến động dân số thành phố cần phải được nghiên cứu trong mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau trong hệ thống kinh tế - xã hội không chỉ riêng TP. HCM mà rộng hơn là vùng Đông Nam Bộ và cả nước nói chung. 4.1.3 Quan điểm lịch sử, viễn cảnh Các hiện tượng địa lí đều có quá trình phát sinh, phát triển và thay đổi không ngừng theo không gian và thời gian. Do đó, để đánh giá hiện tượng địa lí trong hiện tại và dự báo sự phát triển của chúng trong tương lai, phải đứng trên quan điểm lịch sử, nghiên cứu quá khứ, hiện tại và dự báo tương lai mới chính xác. TP. HCM có lịch sử hình thành và phát triển hơn 300 năm với nhiều giai đoạn tăng giảm dân số khác nhau. Mỗi giai đoạn lịch sử đều mang các bản sắc riêng do tác động của nhiều nguyên nhân và ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội thành phố ở mức độ khác nhau. Vận dụng quan điểm lịch sử, viễn cảnh trong nghiên cứu gia tăng dân số ở TP. HCM thời
  8. kì 1997 - 2007, luận văn phân tích đánh giá gia tăng dân số trong giai đoạn 1997 - 2007, nhưng cũng đặc biệt chú ý đến các thời điểm lịch sử quan trọng và những biến động về kinh tế - xã hội trong những điều kiện cụ thể khác nhau. 4.1.4 Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững Gia tăng dân số có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, gia tăng dân số quá mức không phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội sẽ gây ra nhiều hậu quả lên môi trường sinh thái như cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường sống… Trong khi nghiên cứu gia tăng dân số cần chú ý đến sự gia tăng nhanh số lượng dân cư đô thị, đặc biệt là sự phân bố dân cư đô thị hợp lí phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng cũng phải gắn liền với bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái bền vững, không làm tổn hại đến môi trường. Các biện pháp kiến nghị phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững để giảm tác động đến môi trường tự nhiên TP. HCM. 4.2 Hệ phương pháp nghiên cứu 4.2.1 Phương pháp thống kê Đối tượng nghiên cứu khá rộng liên quan tới nhiều vấn đề, vì vậy luận văn đã sử dụng và phân tích cơ sở số liệu thống kê phong phú từ cơ sở dữ liệu và kết quả của các cuộc Tổng điều tra dân số, thống kê kinh tế - xã hội của Tổng cục thống kê, Cục thống kê thành phố, Chi cục dân số - KHHGĐ và các tài liệu của Viện phát triển kinh tế TP. HCM cũng như từ các cơ quan khác của thành phố. Từ những nguồn tài liệu này, tác giả đã có cơ sở để đánh giá biến động dân số TP.HCM thời kì 1997 - 2007. 4.2.2 Phương pháp phân tích, so sánh Trên cơ sở các số liệu thu thập được, tác giả sắp xếp, phân loại và phân tích các thông tin về biến động dân số ở TP. HCM thời kì 1997 - 2007, so sánh sự khác biệt về gia tăng dân số trong các giai đoạn lịch sử nhất định, sự gia tăng khác nhau giữa các quận, huyện; phân tích nguyên nhân của sự biến động đó. 4.2.4 Phương pháp bản đồ biểu đồ Khi nghiên cứu các vấn đề địa lí nói chung và kinh tế - xã hội nói riêng thì phương pháp bản đồ, biểu đồ là phương pháp rất quan trọng cũng là một đặc thù của khoa học địa lí. Các bản
  9. đồ cho phép chúng ta tìm hiểu vấn đề chính xác hơn, phong phú hơn thuận tiện trong việc so sánh, đánh giá. 4.2.5 Phương pháp dự báo Đây là giai đoạn khái quát hóa, hệ thống hóa thông tin ở mức cao nhằm xác định một vấn đề trong tương lai. Phương pháp dự báo mang tính chất phức tạp và tính xác suất, tính chính xác của dự báo còn phụ thuộc vào mối quan hệ với sự biến động kinh tế - xã hội của thành phố. 4.2.6 Phương pháp hệ thống thông tin địa lí (GIS) Hệ thống thông tin địa lí (GIS) được sử dụng phổ biến để lưu trữ, phân tích xử lí các thông tin không gian lãnh thổ. Hệ GIS cho phép chồng xếp các thông tin địa lí để thấy được nét đặc trưng riêng của các đối tượng địa lí. Luận văn sử dụng phần mềm MapInfo7.5 để thiết lập hệ thống bản đồ minh họa cho đề tài. 5. Các đóng góp chính của đề tài  Tổng quan có chọn lọc một số vấn đề cơ bản lí luận về dân cư, các đặc điểm của biến động dân số và vận dụng vào TP. HCM để tìm hiểu sự biến động dân số ở thành phố thời kì 1997 - 2007.  Phân tích sự biến động dân số ở TP. HCM thời kì 1997 - 2007, đánh giá nguyên nhân và những tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.  Dự báo tốc độ gia tăng dân số thành phố trong tương lai, đưa ra các giải pháp phát triển dân số và phân bố dân cư phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. 6. Cấu trúc luận văn Luận văn: “Biến động dân số thành phố Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007: nguyên nhân và giải pháp”. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài có 3 chương chính: Chương 1: Cơ sở lí luận về dân số, biến động dân số. Chương 2: Thực trạng biến động dân số TP. Hồ Chí Minh thời kì 1997 - 2007 Chương 3: Dự báo biến động dân số và giải pháp phát triển dân số, phân bố dân cư thành phố Hồ Chí Minh.
  10. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DÂN SỐ VÀ BIẾN ĐỘNG DÂN SỐ 1.1 Những vấn đề chung về dân số 1.1.1 Khái niệm dân số Dân số luôn là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học, chuyên gia dân số và cả các chính phủ, tổ chức xã hội. Không chỉ ngày nay mà ngay cả trước kia, các nước đều quan tâm đến vấn đề dân số vì sức ép của sự bùng nổ dân số ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế - xã hội và ảnh hưởng đến sức mạnh quốc gia. Ngày nay, vấn đề dân số không chỉ hạn chế mà nhiều nước còn khuyến khích phát triển. Bởi vì dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu thụ sản phẩm. Quy mô dân số, cơ cấu dân số, tốc độ gia tăng dân số và chất lượng dân số tác động lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Dân số theo nghĩa thông thường: là số lượng dân số trên một vùng lãnh thổ, một địa phương nhất định trong một khoảng thời gian xác định. Dân số theo nghĩa rộng: được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp này không chỉ là số lượng mà cả cơ cấu và chất lượng bao gồm nhiều cá nhân hợp lại, nó không cố định mà thường xuyên biến động. Ngay cả bản thân mỗi cá nhân cũng thường xuyên biến động: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già và tử vong [9, tr 9]. Dân số thường được định nghĩa như sau: là những tập hợp người sống trên một lãnh thổ trong một thời gian xác định, được đặc trưng bởi quy mô, kết cấu, mối quan hệ qua lại với nhau về mặt kinh tế, bởi tính chất của việc phân công lao động và cư trú theo lãnh thổ. Dân số được thể hiện theo quy mô, cơ cấu và phân bố: - Quy mô dân số: là tổng số người sống trên một lãnh thổ nhất định trong một khoảng thời gian xác định. - Cơ cấu dân số: là tỉ lệ dân số được phân loại theo giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác. Đây là những đặc trưng biểu thị chất lượng dân số, có liên quan chặt chẽ với quy mô và tốc độ gia tăng dân số. - Phân bố dân số: là sự sắp xếp số dân một cách tự phát hoặc tự giác trên một lãnh thổ phù hợp với điều kiện sống của họ và với các yêu cầu nhất định của xã hội [28]. 1.1.2 Các học thuyết dân số Từ xưa đến nay trong dân số học đã xuất hiện nhiều học thuyết dân số nhằm mục đích giải thích sự phát triển dân số của thế giới nói chung và từng khu vực nói riêng. Cách đây khoảng 4000 năm người Ai Cập đã chú ý đến vấn đề sinh đẻ, nhân khẩu. Hippocrat, Aristote, Platon đã bàn đến vấn đề dân số. Thời La Mã đã có những chính sách quốc gia về vấn đề dân
  11. số. Các quốc gia phong kiến phương Đông cũng quan tâm đến vấn đề dân số trong chinh chiến và xây dựng… Các học thuyết dân số này rất khác về cơ sở khoa học, độ tin cậy và mục đích sử dụng. Nhiều lí thuyết thiên về màu sắc chính trị và tôn giáo, là công cụ cho các thế lực cai trị đất nước. Trong các học thuyết có ba học thuyết tiêu biểu là học thuyết Malthus, học thuyết của K. Marx và Engels và học thuyết quá độ dân số. 1.1.2.1 Học thuyết Malthus về dân số Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) là mục sư, nhà kinh tế học người Anh, người xây dựng nên học thuyết dân số. Thuyết Malthus một mặt bao gồm hệ thống quan điểm về tái sản xuất dân cư và vai trò của nó trong việc phát triển xã hội và mặt khác, phản ánh đặc điểm lịch sử của các quy luật dân số. Căn cứ vào cơ sở thực tiễn về biến đổi dân số ở Hoa Kì vào cuối thế kỉ XVII và đầu thế kỉ XVIII (dân số tăng gấp 2 lần trong vòng 15 năm). Malthus cho rằng “dân số có khuynh hướng gia tăng nhanh hơn các tư liệu về sinh hoạt (lương thực, thực phẩm)”. Theo luận chứng của ông thì sở dĩ quần chúng nhân dân sống nghèo đói và chịu đau khổ là do dân số tăng lên theo cấp số nhân, còn tư liệu sinh hoạt chỉ tăng theo cấp số cộng. Tác phẩm “ Những hiểu biết về quy luật dân số và tác động của nó với việc nâng cao đời sống xã hội, trả lời những nhận xét của ngài Godwin, N.Condorce và các tác giả khác”, xuất bản năm 1789 tại London là một trong những cuốn sách cơ bản trình bày học thuyết Malthus, đó là: - Bản chất của quá trình dân số là sinh học chứ không phải mang tính xã hội. - Nạn dư thừa nhân khẩu là tự nhiên, vĩnh cửu không thể bị xóa bỏ. - Dân số tăng nhanh là nguồn gốc của đói nghèo, không liên hệ gì hoặc liên hệ rất ít với cách quản lí xã hội và phân phối thu nhập. Những người theo học thuyết Malthus sau này cho rằng muốn xóa bỏ sự nghèo đói, sự không phù hợp giữa tăng dân số và tăng của cải vật chất chỉ có một biện pháp làm giảm dân số xuống một cách mạnh mẽ bằng chiến tranh, dịch bệnh. Họ cho rằng người nghèo phải chịu trách nhiệm về sự nghèo túng của mình và cần phải điều chỉnh mức sinh đẻ bằng kìm chế tình dục hoặc xây dựng gia đình muộn hơn. Mặc dù học thuyết của Malthus về dân số có nhiều điểm hạn chế, những sai lầm trong học thuyết đã bị lên án rất nhiều, nhưng cũng cần phải ghi nhận công lao của Malthus, người đầu tiên chỉ ra rằng dân số tăng lên rất nhanh và thực tế các thế kỉ tiếp theo đã chứng minh điều đó. Ông cũng khuyến cáo rằng “xã hội chỉ sống sung sướng khi giữ được một số người hạn chế”.
  12. Từ học thuyết của ông, cả những người ủng hộ cũng như phê phán đã nhận thức được vai trò quan trọng và sự cần thiết phải thu thập thông tin trong việc nghiên cứu khuynh hướng phát triển của dân số, và cho bất cứ một khảo cứu nào về mối quan hệ trong quy mô và tốc độ tăng trưởng của dân số với các điều kiện kinh tế - xã hội [15], [35]. 1.1.2.2 Học thuyết của K. Marx và Engels về dân số Học thuyết của Malthus bị K. Marx phê phán toàn bộ vì nó không phù hợp với tư tưởng của Người về một chế độ Cộng sản chủ nghĩa. Mặc dù K. Marx và Engels không xây dựng một học thuyết dân số cụ thể, các ông chỉ đưa ra những nguyên tắc cơ bản mà theo các ông sẽ quyết định quy mô dân số và các quan hệ kinh tế - xã hội. Theo quan điểm của K. Marx “dân số là cơ sở và là chủ thể của nền sản xuất xã hội” và cùng với phương thức sản xuất, hoàn cảnh địa lí tạo nên tồn tại xã hội. K. Marx cho rằng không có một quy luật tự nhiên hoặc phổ biến nào chung cho dân số và nói mỗi một phương thức lịch sử có các quy luật riêng về dân số, có tính lịch sử và chỉ có giá trị trong phạm vi đó. Engels, trong khi hoàn toàn ủng hộ quan điểm của K. Marx, cũng bổ sung thêm một số ý kiến. Ông cho rằng, dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, dư thừa nhân khẩu gắn với dư thừa tư bản và mâu thuẫn đó của chủ nghĩa tư bản có thể khắc phục bằng sự tổ chức lại xã hội. Trong tuyên ngôn Đảng Cộng sản và trong tác phẩm “Nguồn gốc loài người", K. Marx và Engels cũng đã nói đến việc giải phóng phụ nữ. Mặc dù không nói đến điều đó sẽ làm giảm mức sinh nhưng dù sao cũng là ý tưởng liên quan đến vấn đề dân số. Có thể tóm tắt những ý chung nhất về học thuyết dân số của K. Marx và Engels như sau: - Mỗi hình thái xã hội có quy luật riêng về dân số. Nguyên nhân của sự nghèo khổ nằm ngay chính trong lòng của chủ nghĩa tư bản, mà sự thể hiện là ở sự bần cùng hóa giai cấp vô sản. - Mỗi dân tộc có trách nhiệm xác định số dân tối ưu của mình, căn cứ vào những điều kiện địa lí, tự nhiên và kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước mình. - Sự nghèo khổ không phải là định mệnh đi suốt lịch sử của mọi dân tộc. Xóa bỏ nghèo khổ là phải xóa bỏ bất công, muốn vậy phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó chính là con đường để thực hiện được mối quan hệ tối ưu giữa dân số và phát triển, giữa dân số và tài nguyên, tái tạo vật chất [15], [35].
  13. 1.1.2.3 Học thuyết quá độ dân số (Demographic transition) Hiện nay, quá độ dân số là một quan niệm được sử dụng rộng rãi trong dân số học để lí giải sự thay đổi các kiểu tái sản xuất dân cư trên thế giới. Sự gia tăng dân số thế giới là kết quả tác động qua lại giữa số người sinh ra và số người chết đi. Những thay đổi về mức sinh và mức tử diễn ra khác nhau theo thời gian. Căn cứ vào sự thay đổi này, thuyết quá độ dân số phân biệt 3 giai đoạn: - Mức sinh và mức tử đều cao, dân số tăng chậm. - Mức sinh và mức tử đều giảm, nhưng mức tử giảm nhanh hơn, dân số tăng nhanh. - Mức sinh và mức tử đều thấp, dân số tăng chậm. Tỉ lệ sinh Tỉ lệ cao Tỉ lệ thấp Tỉ lệ tử Mô hình quá độ dân số Học thuyết quá độ dân số đã chú ý tới sự thay đổi về tỉ suất sinh và tỉ suất tử ở các giai đoạn khác nhau của các nước chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp và đô thị, tức là trải qua thời kì tỉ suất sinh, tỉ suất tử cao sang một thời kì tỉ suất sinh, tử thấp. Công nghiệp hóa làm giảm đáng kể mức tử vong, phá vỡ tính hợp lí của xã hội về tình trạng đông con, tạo nên những tiền đề làm giảm mức sinh. Sinh con trở thành một lĩnh vực lựa chọn có ý thức, còn định hướng ít con phổ biến đối với mỗi cá nhân. Như vậy đã xác định được nhân tố chìa khóa làm giảm tỉ suất sinh (CNH và các vấn đề liên quan như đô thị hóa, nâng cao mức thu nhập và trình độ học vấn, giải phóng phụ nữ…) và cơ chế của nó (phổ biến trong mọi tầng lớp xã hội, từ thành thị đến nông thôn, từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển...) [15], [35]. 1.2 Biến động dân số 1.2.1 Biến động dân số tự nhiên Quá trình dân số (sinh, tử, di dân) ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Biến động dân số (tăng giảm tự nhiên hay cơ học) đều ảnh hưởng đến quy mô, cơ cấu, phân bố dân số và lao động của các nước, từ đó tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội quốc
  14. gia. Trong đó, nghiên cứu biến động dân số tự nhiên là một trong những nội dung cơ bản của dân số học. Biến động dân số tự nhiên bao gồm quá trình sinh, tử của con người. 1.2.1.1 Mức sinh a. Khái niệm Mức sinh là biểu hiện khả năng sinh sản tự nhiên của con người trên thực tế. Mức sinh được chia làm hai loại: mức sinh tự nhiên và mức sinh thực tế. Mức sinh tự nhiên: là sự sinh sản không có kiểm soát của con người. Trong xã hội kém phát triển, con người thường sinh đẻ tự nhiên do không có ý thức hoặc không biết sử dụng các biện pháp tránh thai chính vì vậy mức sinh rất cao. Người ta đưa ra những con số khác nhau về mức sinh đẻ tự nhiên. Theo K.Pali (Liên Xô) khả năng sinh đẻ tự nhiên trung bình là 10,54 con. Theo M.Verhacghe ở Pháp mức sinh đẻ tự nhiên ước tính của một gia đình trung bình là 6 đến 7 con. Theo Alfrea Sauvy thì số con là 10 đối với những cặp vợ chồng kết hôn từ tuổi dậy thì và ăn ở với nhau cho tới khi mãn kinh. Theo Đinh Quang Thắng khả năng sinh đẻ của đời người phụ nữ thường là 8 đến 10 con [35]. Mức sinh thực tế: là mức sinh có sự can thiệp của con người trong quá trình sinh sản. Năm 1999 tổng tỉ suất sinh của Việt Nam là 2,33 con/phụ nữ, năm 2007 giảm xuống còn 2,07 con/phụ nữ. Ngày nay hầu hết các nước đều tiến hành kiểm soát mức sinh, nhằm đạt mức sinh phù hợp thông qua thực hiện các biện pháp tránh thai, nhất là biện pháp tránh thai hiện đại. b. Các chỉ tiêu đánh giá mức sinh  Tỉ suất sinh thô (Crude Birth Rate): được sử dụng rộng rãi trong dân số học, tính bằng tỉ số giữa số trẻ em sinh ra trong năm so với dân số trung bình ở cùng thời gian ấy (đơn vị 0/00). B Công thức: CBR = P CBR: tỉ suất sinh thô. B: số trẻ em sinh ra sống trong một năm. P: dân số trung bình của địa phương trong năm. Tỉ suất sinh thô không cho phép so sánh các dân cư cấu trúc khác nhau. Vì thế trong nghiên cứu dân số, người ta còn sử dụng tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi và tổng tỉ suất sinh.  Tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi (Age-Specific Fertility Rate): là số trẻ em sinh ra sống trong năm tính trên 1000 phụ nữ của một độ tuổi hoặc một nhóm tuổi nhất định (đơn vị 0/00). Công thức: ASFRx = B fx P wx
  15. ASFRx: tỉ suất sinh đặc trưng ở độ tuổi x. Bfx: số trẻ em sinh ra trong năm của những phụ nữ ở độ tuổi x. Pwx: số phụ nữ ở độ tuổi x.  Tổng tỉ suất sinh (Total Fertility Rate): là số con trung bình của một phụ nữ trong suốt cuộc đời nếu như họ trải qua những năm tháng sinh sản phù hợp với tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi vào một năm nhất định. 49  ASFRx Công thức: TFR = 15 1000 Bảng 1.1: Mức sinh của các vùng trên thế giới năm 2008 Dân số CBR TFR (triệu người) (0/00) (con) Toàn thế giới 6.705 21 2,6 + Trong đó: - Các nước phát triển 1.227 12 1,6 - Các nước đang phát triển 5.479 23 2,8 + Theo các châu lục - Châu Phi 967 37 4,9 - Bắc Mĩ 338 14 2,1 - Mĩ Latinh và vùng biển Caribe 577 21 2,5 - Châu Á 4.052 19 2,4 - Châu Âu 736 11 1,5 - Châu Đại Dương 35 18 2,4 Nguồn: World Population Data Sheet 2008 Số liệu bảng 1.1 cho thấy, nhìn chung, tỉ suất sinh thô và tổng tỉ suất sinh có quan hệ chặt chẽ với trình độ phát triển của các nước. Đối với các nước phát triển, tỉ suất sinh thô và tổng tỉ suất sinh thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển. Ở các châu lục khác nhau, do trình độ phát triển khác nhau nên các chỉ số này cũng khác nhau. c. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh Mức sinh chịu sự tác động đa dạng, phức tạp của nhiều yếu tố cả về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Sinh đẻ không chỉ là hiện tượng sinh học, nó còn chịu sự tác động trực tiếp và gián tiếp của nhiều yếu tố khác nhau. Có thể phân các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh thành các nhóm sau:  Tự nhiên, sinh học
  16. Sinh đẻ trước hết là hiện tượng sinh học, vì vậy nó chịu sự tác động của yếu tố này. Mọi sinh vật, theo quy luật tự nhiên, đều trải qua các giai đoạn sinh ra, trưởng thành, phát triển và tàn lụi. Con người cũng vậy, khả năng sinh sản chỉ thực hiện được ở một nhóm tuổi nhất định (tuổi có khả năng sinh sản). Vì vậy, cơ cấu tuổi tác của dân cư (đặc biệt của phụ nữ) có ảnh hưởng rất lớn đến mức sinh. Nếu số người trong độ tuổi có khả năng sinh sản càng lớn thì mức sinh càng cao và ngược lại. Ngay trong tuổi sinh đẻ, đối với các độ tuổi khác nhau, mức sinh cũng khác nhau. Mức sinh cao nhất ở độ tuổi từ 20 - 24, 25 - 29. Sau độ tuổi này, mức sinh giảm dần và thấp nhất ở độ tuổi từ 40 - 44, 45 - 49. Đối với các nước đang phát triển cơ cấu dân số trẻ cũng là một trong những nguyên nhân làm cho mức sinh cao. Việt Nam có cơ cấu dân số trẻ nên mức sinh vẫn còn ở mức cao (năm 2007 tổng tỉ suất sinh là 2,07 con/phụ nữ). Cơ cấu giới tính cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Trong tái sản xuất dân số, dân số nữ đóng vai trò rất quan trọng. Vì vậy số lượng và cơ cấu nữ có ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh. Tuy nhiên sinh đẻ chỉ đạt được mức tối đa khi quan hệ tỉ lệ nam và nữ trong độ tuổi sinh đẻ phù hợp. Tộc người cũng là yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh. Tộc người được xét đến ở nhiều khía cạnh khác nhau. Về mặt tự nhiên sinh vật, tộc người trước hết là một giống người. Mỗi giống người có khả năng sinh đẻ khác nhau, do cấu tạo gen, máu và các đặc tính sinh lí khác. Ngoài ra, mỗi tộc người đều phân bố ở những vùng lãnh thổ nhất định, có điều kiện tự nhiên, khí hậu khác nhau, trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, tập quán và tâm lí xã hội khác nhau nên mức sinh cũng khác nhau.  Văn hóa - xã hội Mỗi nước, mỗi dân tộc, mỗi thời kì, mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có các phong tục tập quán và tâm lí xã hội khác nhau. Những phong tục, tập quán và tâm lí xã hội này xuất hiện và tồn tại trên những cơ sở thực tế khách quan. Khi những cơ sở này thay đổi thì phong tục tập quán và tâm lí xã hội cũng thay đổi. Tuy nhiên, nhiều khi điều kiện vật chất, tồn tại xã hội đã thay đổi nhưng ý thức và tư tưởng trong đó có tập quán, tâm lí xã hội chưa thay đổi ngay. Phong tục tập quán và tâm lí xã hội có tác động rất lớn đến mức sinh và được chia thành hai loại: - Phong tục tập quán và tâm lí xã hội cũ, lạc hậu biểu hiện ở chỗ: kết hôn sớm, muốn có nhiều con, thích con trai, muốn “có nếp có tẻ”… chính vì vậy làm tăng mức sinh. Tư tưởng này xuất hiện và tồn tại ở các nước có trình độ phát triển kinh tế thấp, văn hóa lạc hậu, ở đó thường
  17. tồn tại quan niệm “trời sinh voi, trời sinh cỏ” đã khuyến khích đẻ nhiều và tự hào khi có nhiều con. - Khi cơ sở kinh tế - xã hội đã có nhiều thay đổi, đời sống của người dân được cải thiện, phong tục tập quán và tâm lí xã hội cũ mất đi, xuất hiện phong tục tập quán và tâm lí xã hội mới. Tồn tại trong xã hội phát triển với những đặc điểm kết hôn muộn, gia đình ít con, nam nữ bình đẳng dẫn đến mức sinh giảm. Trình độ học vấn cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Thông thường, trình độ học vấn tỉ lệ nghịch với mức sinh. Những người có học vấn cao, nhất là phụ nữ thường sinh ít con hơn so với những người có trình độ học vấn thấp. Bởi vì khi đã đạt đến một trình độ học vấn nhất định, người phụ nữ thường kết hôn muộn, đẻ muộn, đẻ ít. Họ hiểu biết hơn, có điều kiện tiếp cận các biện pháp tránh thai phù hợp, dành thời gian cho học tập, giao lưu văn hóa, tìm việc làm có thu nhập khá.  Kinh tế Yếu tố này rất đa dạng và tác động theo nhiều hướng khác nhau. Có nhiều quan điểm khác nhau về ảnh hưởng của nó đối với sự biến động mức sinh. Theo quan điểm của đa số các nhà nhân khẩu học và bằng hiện tượng thực tế, người ta xác minh rằng đời sống thấp thì mức sinh cao và ngược lại. Mức sinh đẻ trong thời đại phong kiến cao hơn chế độ tư bản chủ nghĩa. Đối với các nước kém phát triển tỉ lệ sinh cao hơn so với các nước kinh tế phát triển. Hoặc trong cùng một nước, một thời kì nhóm xã hội có trình độ phát triển, có mức sống khác nhau thì mức sinh cũng khác nhau. Bảng 1.2: Biến động mức sinh giữa các nước, các thời kì (CBR 0/00) 1960- 1975- 1985- 1999 2002 2008 Thời kỳ 1965 1980 1990 Toàn thế giới 33,7 33,1 27 23 21,4 21 Trong đó: - Các nước phát triển 20,4 17,4 15 11 11,1 12 - Các nước đang phát triển 39,9 36,4 31 26 23,9 23 Nguồn: Giáo trình dân số và phát triển - NXB ĐH Kinh tế quốc dân, trang 77; World population data sheet 2008. Qua bảng 1.2 ta thấy rằng trong hơn nửa thế kỉ qua, mức sinh giảm một cách liên tục cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội (chung cho toàn thế giới cũng như đối với từng nhóm nước). Hoặc trong cùng một thời kì mức sinh của các nước phát triển thấp hơn nhiều so với các nước đang phát triển.
  18.  Di dân và đô thị hóa Tác động của di dân đến mức sinh khá phức tạp, theo chiều hướng khác nhau. Di dân có thể làm giảm mức sinh vì quá trình di chuyển cần có thời gian ổn định nơi ăn chốn ở, tìm việc làm sẽ làm gián đoạn việc kết hôn và sinh con. Trái lại, di dân cũng có thể làm tăng mức sinh cục bộ đối với cộng đồng dân cư nào đó với mục đích tăng cường sức lao động, sức mạnh của gia đình, dòng họ ở nơi cư trú mới. Đô thị hóa cũng ảnh hưởng đến mức sinh: đô thị hóa là quá trình chuyển từ hoạt động nông nghiệp sang hoạt động phi nông nghiệp. Quá trình đô thị hóa góp phần làm thay đổi đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các vùng lãnh thổ, cư dân nông thôn và có tác động làm giảm mức sinh. Mức sống vật chất và tinh thần của đô thị cao hơn ở nông thôn nên mức sinh thường thấp hơn ở nông thôn. Thêm vào đó, dân cư đô thị có cơ hội và điều kiện nâng cao trình độ học vấn. Đây là cơ sở thuận lợi để họ nâng cao nhận thức, chấp nhận và thực hiện các biện pháp tránh thai làm cho mức sinh thấp. Lối sống đô thị có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mức sinh, phá bỏ những rào cản là phong tục, tập quán lạc hậu trong hôn nhân và gia đình. Các yếu tố kết hôn muộn, tình trạng li hôn, li thân, nạo phá thai ở đô thị tăng cũng làm cho mức sinh giảm. Ngoài ra, mạng lưới y tế, vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch ở đô thị phát triển đã làm giảm mức tử trẻ em, nâng cao sức khỏe của dân cư cũng là các yếu tố gián tiếp tác động tới việc giảm tỉ lệ tăng tự nhiên.  Khoa học kĩ thuật Trình độ phát triển khoa học kĩ thuật, những thành tựu về y học càng tạo điều kiện cho loài người chủ động điều tiết mức sinh. Y học phát triển đã sáng chế ra các phương tiện tránh thai hiện đại, đáp ứng kịp thời dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Bằng các biện pháp kĩ thuật chuyên môn (triệt sản, đặt vòng, tiêm và uống thuốc, bao cao su…) giúp các cặp vợ chồng sinh đẻ có kế hoạch (sinh muộn, sinh ít, giãn khoảng cách sinh, thôi sinh đẻ…) thực hiện việc sinh đẻ theo mong muốn. Như vậy, nhờ có khoa học kĩ thuật đã giúp con người điều tiết mức sinh, làm cho loài người chủ động sinh đẻ theo ý muốn của mình, điều tiết quy mô, cơ cấu dân số hợp lí.  Chính sách dân số Chính sách dân số là những chủ trương và biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm định hướng và điều tiết quá trình phát triển dân số theo những mục tiêu nhất định. Các chính sách dân số đã phát huy tác dụng to lớn trong việc điều tiết mức sinh theo hướng cần thiết. Tùy
  19. thuộc vào quan niệm, điều kiện phát triển trong từng thời kì mà mỗi quốc gia có chính sách khuyến khích hay giảm sinh. Các nước phát triển nơi tỉ lệ gia tăng dân số thấp thường có chính sách khuyến khích sinh đẻ nhằm tăng tỉ lệ gia tăng dân số với nhiều biện pháp tuyên truyền khuyến khích sinh và nhiều chính sách kinh tế - xã hội ưu đãi những gia đình đông con. Ngược lại, các nước đang phát triển có chính sách hạn chế sinh nhằm giảm tỉ lệ gia tăng dân số như Việt Nam, Ấn Độ… 1.2.1.2 Mức tử a. Khái niệm Có nhiều khái niệm khác nhau diễn đạt cái chết. Liên Hợp Quốc và tổ chức Y tế Thế giới đã thống nhất đưa ra định nghĩa sau: Chết là sự mất đi vĩnh viễn tất cả những biểu hiện của sự sống, tại một thời điểm nào đó sau khi có sự kiện sinh sống sảy ra mà không có khả năng nào khôi phục lại được. Theo định nghĩa trên thì sự kiện chết chỉ sảy ra sau khi có sự kiện sinh sống (loại trừ hình thức chết lâm sàng hoặc chết bào thai). Mức tử là sự biểu thị mức độ chết của con người tính trung bình trên một số dân xảy ra trong một khoảng thời gian nào đó. Thông qua mức tử có thể đánh giá, so sánh và biết được tần suất, cường độ chết của các nhóm dân cư khác nhau từ đó đánh giá được trình độ phát triển kinh tế - xã hội của nước đó. b. Các chỉ tiêu đánh giá mức tử Trong đo lường mức tử, người ta dùng các thước đo khác nhau. Mỗi thước đo phản ánh khía cạnh này hay khía cạnh khác của mức tử và có những ưu, nhược điểm riêng.  Tỉ suất tử thô (Crude Death Rate): phản ánh mức tử của dân số nói chung xảy ra trong một năm nào đó là nhiều hay ít, được tính bằng tỉ số giữa số người chết trong năm so với dân số trung bình cùng thời điểm (đơn vị 0/00). D Công thức: CDR = P CDR: tỉ suất tử thô. D: số người chết trong năm. P: dân số trung bình của năm. Ưu điểm của tỉ suất tử thô là dễ tính toán nhưng nó không phản ánh chính xác những trường hợp chết đặc thù. Do không loại trừ hết được ảnh hưởng của các yếu tố như cấu trúc tuổi, giới tính nên sẽ không phản ánh đầy đủ và chính xác tần suất tử theo các đối tượng và theo nguyên nhân. Để thể hiện được điều này, trong nghiên cứu thường sử dụng chỉ tiêu tỉ suất tử
  20. đặc trưng để đánh giá. Tỉ suất tử đặc trưng thường được sử dụng như là: tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi, tỉ suất tử vong trẻ em.  Tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi (Age Specific Death Rate): phản ánh mức tử của dân cư theo từng độ tuổi hay nhóm tuổi khác nhau xảy ra trong một năm nào đó (đơn vị 0/00 ). Dx Công thức: ASDR = Px ASDR: tỉ suất tử đặc trưng theo tuổi. Dx: số người ở độ tuổi x chết trong năm. Px: số lượng dân số của độ tuổi x tính trung bình trong năm hoặc giữa năm.  Tỉ suất tử vong trẻ em 0 - 1 tuổi (Infant Mortality Rate): phản ánh mức tử của số trẻ em mới sinh trong năm đầu tiên của cuộc đời (đơn vị 0/00 ). D Công thức: IMR = B IMR: tỉ suất tử vong trẻ em 0 – 1 tuổi. Do: số trẻ em 0 - 1 tuổi chết trong một năm nào đó. Bo: số trẻ em mới sinh sống trong cùng một năm nào đó. Mức tử trẻ em 0 - 1 tuổi cao hay thấp phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một nước. Vì vậy nghiên cứu mức tử trẻ em có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong nghiên cứu mức tử và dân số nói riêng, phát triển nói chung. c. Các yếu tố ảnh hưởng đến mức tử Tử chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, có thể chia thành các nhóm yếu tố như sau:  Mức sống dân cư Trình độ phát triển kinh tế - xã hội được phản ánh qua mức sống của dân cư. Mức sống, thu nhập bình quân đầu người càng cao thì người dân càng có điều kiện chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, khám chữa bệnh do đó hạn chế mức tử. Chính vì vậy, các nước có trình độ phát triển khác nhau có mức tử vong khác biệt nhau, đặc biệt là mức tử của trẻ em. Thực tế cho thấy, các nước kinh tế phát triển thì mức tử trẻ em dưới 1 tuổi thấp hơn rất nhiều so với các nước kinh tế đang phát triển và chậm phát triển. Sở dĩ các nước đang phát triển và chậm phát triển có mức tử trẻ em cao bởi vì ở các nước này mức sống còn thấp, trẻ em không được chăm sóc tốt, tình trạng suy dinh dưỡng cao, bệnh tật không được cứu chữa kịp thời.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2