BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hiển

DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG

: Địa lí học : 60 31 95

Chuyên ngành Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM THỊ XUÂN THỌ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2009

LỜI CẢM ƠN

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới TS. Phạm Thị Xuân Thọ -

người đã tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.

Tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trường Đại học Sư phạm thành

phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề

tài.

Tác giả cũng trân trọng cảm ơn các cơ quan: Cục Tống kê tỉnh Bình Dương, Ủy ban Dân số - gia

đình và trẻ em tỉnh Bình Dương và các huyện thị, Sở Y tế Bình Dương, Sở Lao động – Thương binh –

Xã hội tỉnh Bình Dương đã giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập số liệu, tài liệu và thông tin có liên

quan đến nội dung nghiên cứu.

Cuối cùng, tác giả xin lời cảm ơn đến bạn bè, đồng nghiệp và người thân đã giúp đỡ, tạo mọi

điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt thời gian học tập và thực hiện luận văn.

Bình Dương, ngày………tháng……….năm 2009

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hiển

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, được Trung ương xác định là một trong 4

tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cùng với TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng

Tàu. Là tỉnh được tái lập năm 1997 với 7 huyện thị gồm 79 phường, xã, thị trấn; diện tích tự nhiên là 2.681km2 và mật độ dân số gần 300 người/km2.

Với lợi thế về vị trí địa lí, Bình Dương có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu kinh tế,

văn hoá, khoa học kĩ thuật với các tỉnh trong cả nước và quốc tế. Đây cũng là lợi thế thu hút các nhà

đầu tư, dân cư, lao động đến làm ăn, sinh sống. Chính điều này đã làm cho đặc điểm dân số và tình

hình phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dương có nhiều biến động đặc biệt là từ năm 1997 đến nay.

Do nhu cầu tăng trưởng kinh tế, tỉnh đã thu hút rất nhiều lao động ngoại tỉnh đến làm việc làm cho quy

mô dân số Bình Dương ngày càng lớn và phần lớn là do gia tăng cơ học. Vấn đề dân số bao gồm cả

quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số và phân bố dân cư có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã

hội của tỉnh và vẫn là thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cả

trong hiện tại và tương lai.

Dân số và mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh là một vấn đề cần được

quan tâm, nhìn nhận, phân tích và đánh giá. Làm được điều này sẽ góp phần lớn vào việc thực hiện tốt

chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. Chính vì vậy, tác giả luận văn đã chọn

đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương” để làm luận văn tốt nghiệp.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu

2.1. Mục tiêu

- Phân tích đặc điểm dân số và sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương từ 1997 – 2007.

- Phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương; định hướng

sự phát triển dân số của tỉnh trong tương lai, đưa ra giải pháp nhằm phát triển cân đối giữa dân số và

kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quan cơ sở lí luận về dân số, phát triển; mối quan hệ giữa dân số và phát triển.

- Phân tích các đặc điểm về dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Từ đó rút ra

mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

- Căn cứ thực trạng dân số và tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh để định hướng sự phát triển dân

số của tỉnh trong tương lai đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm tạo sự cân đối hài hòa giữa phát

triển dân số và phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương.

2.3. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đi sâu vào nghiên cứu mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội

tỉnh Bình Dương trên địa bàn toàn tỉnh theo ranh giới hành chính hiện nay (gồm 7 huyện, thị).

- Về thời gian: đề tài nghiên cứu tình hình phát triển dân số và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương

từ năm 1997 đến nay (tức là từ khi Bình Dương chính thức tách ra khỏi tỉnh Sông Bé, tái thành lập vào

năm 1/1/1997). Đây là giai đoạn có những biến đổi sâu sắc và mạnh mẽ về tình hình kinh tế - xã hội và

những thay đổi rõ rệt về quy mô và đặc điểm dân số của tỉnh.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội là một trong những vấn đề được quan tâm

hàng đầu của nhiều nhà nghiên cứu về nhân khẩu, chính trị, kinh tế trên thế giới. Nó là một quá trình,

trong đó mỗi yếu tố phát triển theo những quy luật riêng và giữa chúng luôn tồn tại những mối quan hệ

chặt chẽ.

Ảnh hưởng của dân số tới phát triển kinh tế - xã hội đã được các nhà dân số, kinh tế và chính trị

trên thế giới quan tâm nghiên cứu. Chẳng hạn như trong các tác phẩm của R.C. Sharma – Population

Resources Environment and Quality of Life; Frank T.Denton và Byron G.Spener – Population and the

Economy; Parks.s – Tăng trưởng và phát triển.

Ở Việt Nam, những năm cuối thập kỉ 80 đến nay đã có các công trình nghiên cứu của GS.TS.

Đặng Thu, PGS.TS. Nguyễn Minh Tuệ, GS. Đào Thế Tuấn…. về vấn đề mối quan hệ giữa dân số và

phát triển kinh tế - xã hội; tác phẩm “Dân số và phát triển ở Việt Nam” của Patrick Gubry, Nguyễn

Hữu Dũng, Phạm Thuý Hương. Ngoài ra còn có luận án tiến sĩ với đề tài “Phát triển dân số và mối

quan hệ của nó với phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM” của PGS.TS. Nguyễn Kim Hồng – Trường Đại

học Sư phạm TP.HCM, luận án P.TS “Lượng hoá một số tương quan chủ yếu giữa các chỉ tiêu về dân

số và phát triển kinh tế tại TP.HCM” của Nguyễn Thuấn – Trường Đại học Kinh tế TP.HCM”…. Bên

cạnh đó còn có 2 cuộc hội thảo Quốc gia và Quốc tế về vấn đề dân số và phát triển kinh tế - xã hội

(năm 1987 và 1992). Các cuộc hội thảo nói trên đã đề cập đến nhiều lĩnh vực và biện pháp làm giảm áp

lực của gia tăng dân số, tận dụng mọi tiềm năng về tự nhiên và lao động để phát triển nhanh chóng nền

kinh tế - xã hội nước ta.

Bình Dương có một số đề tài nghiên cứu liên quan đến một số khía cạnh của dân số như “Chiến

lược dân số Bình Dương, giai đoạn 2001 – 2010” – UBND tỉnh Bình Dương, “Báo cáo 15 năm công

tác dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương 1990 – 2005” - Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh

Bình Dương, “Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện công tác dân số, gia đình và trẻ em năm 2006 và

nhiệm vụ công tác năm 2007” – Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương, “Chương trình

giải quyết việc làm tỉnh Bình Dương giai đoạn 2001 – 2005” – Ban chỉ đạo xây dựng chương trình việc

làm - UBND tỉnh Bình Dương, “Đề án xúc tiến lao động” – Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh

Bình Dương…..

Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách đầy đủ và chi tiết vấn đề mối

quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương. Các công trình nghiên cứu kể trên

sẽ là những tài liệu tham khảo quý giá cho tác giả nghiên cứu đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã

hội tỉnh Bình Dương” được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn.

4. Hệ quan điểm nghiên cứu

4.1. Quan điểm hệ thống

Dân số và phát triển kinh tế - xã hội là một bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế – xã hội. Sự

thay đổi về quy mô, đặc điểm dân số có thể chịu ảnh hưởng của sự phát triển kinh tế - xã hội và ngược

lại. Vì vậy, phải coi các vấn đề dân số và phát triển như là một hệ thống nằm trong hệ thống kinh tế -

xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng.

4.2. Quan điểm tổng hợp lãnh thổ

Việc nghiên cứu các vấn đề dân số và phát triển của tỉnh không thể tách rời vấn đề dân số và phát

triển của các tỉnh lân cận, của vùng Đông Nam Bộ và cả nước. Vì dân số và phát triển kinh tế - xã hội

của tỉnh Bình Dương cũng là một bộ phận của dân số và phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ

và cả nước.

4.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh

Sự phát triển dân số và kinh tế - xã hội trong quá khứ, tương lai ảnh hưởng rất lớn đến quy mô,

đặc điểm dân số và phát triển kinh tế - xã hội hiện tại. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề dân số và phát

triển kinh tế - xã hội trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại – tương lai sẽ làm rõ được bản chất của vấn

đề theo một chuỗi thời gian, đảm bảo được tính logic, khoa học và chính xác khi nghiên cứu.

4.4. Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững

Nghiên cứu những vấn đề dân số phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững. Phát

triển dân số, kinh tế - xã hội phải đi đôi với sử dụng hợp lí, bảo vệ và tái tạo tài nguyên thiên nhiên,

chống gây ô nhiễm môi trường; kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội

nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp sưu tầm

Đây là một phương pháp rất quan trọng vì trên cơ sở sưu tầm được những số liệu có liên quan đến

nôi dung nghiên cứu, chúng ta mới rút ra được các đặc điểm về dân số tỉnh Bình Dương cũng như nhìn

nhận, đánh giá chính xác mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

5.2. Phương pháp phân tích – tổng hợp

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, việc vận dụng phương pháp phân tích – tổng hợp nhuần

nhuyễn mang lại nhiều lợi ích. Vì dựa trên việc phân tích tài liệu đã có cũng như thực tế, chúng ta mới

có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ

nhất đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đã đặt ra.

5.3. Phương pháp bản đồ - biểu đồ

Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn

đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng

phần mềm Mapinfo 7.0, dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và xử lý.

Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ.

5.4. Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa

Thực địa là phương pháp cần thiết trong quá trình nghiên cứu các vấn đề địa lí kinh tế - xã hội. Vì

vậy, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp này để kiểm tra độ chính xác, tin

cậy của các nguồn tài liệu đã thu thập được.

V.5. Phương pháp dự báo

Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu đã thu thập được và sự

phát triển có tính quy luật của các sự vât, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

6. Các đóng góp chính của đề tài

- Tổng quan có chọn lọc một số vấn đề lí luận về dân số, phát triển và mối quan hệ giữa dân số và

phát triển.

- Phân tích các đặc điểm dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.

- Phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội ở Bình Dương.

- Dự báo sự phát triển dân số của tỉnh trong tương lai và đề xuất những giải pháp nhằm phát triển

cân đối mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.

7. Cấu trúc luận văn

Mở đầu

Chương 1 : Cơ sở lí luận

Chương 2 : Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương

Chương 3 : Định hướng và các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020

Kết luận

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN

1.1. Dân số và sự phát triển dân số

1.1.1. Các khái niệm dân số

Dân số là tổng số người dân sinh sống trên một lãnh thổ nhất định, được tính ở một thời điểm

nhất định.

1.1.1.1. Gia tăng dân số

a. Gia tăng tự nhiên: Sự biến động dân số trên thế giới (tăng lên hoặc giảm đi) là do hai nhân tố

chủ yếu quyết định: sinh đẻ và tử vong.

- Tỉ suất sinh thô (Crude Birth Rate)

B P

CBR =

Trong đó:

CBR: tỉ suất sinh thô

B: Số trẻ em sinh ra trong năm của địa phương

P: Dân số trung bình của địa phương trong năm

Tỉ suất sinh thô biểu thị số trẻ em sinh ra tính trung bình so với 1000 người dân trong một năm.

Đơn vị tính là phần nghìn (0/00). Đây là thước đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá mức sinh.

Tỉ suất sinh thay đổi theo không gian và thời gian. Có nhiều yếu tố tác động đến mức sinh trong

đó quan trọng nhất là các yếu tố tự nhiên – sinh học, phong tục tập quán và tâm lí xã hội, trình độ phát

triển kinh tế - xã hội và các chính sách phát triển dân số của từng nước.

Tỉ suất sinh thô trên toàn thế giới và 2 nhóm nước giảm theo thời gian. Trong nửa thế kỉ qua, tỉ

suất sinh ở các nhóm nước đều có xu hướng giảm mạnh (1,6 lần) nhưng các nước phát triển giảm

nhanh hơn (2 lần). Ở các nước đang phát triển, tỉ suất sinh thô thường cao hơn các nước phát triển. Tỉ suất sinh thời kì 1950 – 1955 của các nước đang phát triển cao hơn các nước phát triển 190/00, đến năm 2004 – 2005 vẫn còn 130/00.

Hình 1.1. Tỉ suất sinh thô thời kì 1950 - 2005

phần ngàn

45

42

40

36

36

35

Toàn thế giới

31

31

30

27

26

24

25

23

23

Các nước phát triển

21

20

17

15

15

12

Các nước đang phát triển

11

10

5

0

Nhóm nước

1950 - 1955

1975 - 1980

1985 - 1990

1995 - 2000

2004 - 2005

- Tổng tỉ suất sinh (Total Fertility Rate TFR)

Tổng tỉ suất sinh là số con trung bình sinh ra còn sống của một phụ nữ (hay một nhóm phụ nữ

49

trong suốt cuộc đời mình [6, tr.47]

 ASFRx

15

1000

TFR =

Trong đó:

fx

ASFR: Tỉ suất sinh đặc trưng theo tuổi được tính bằng công thức

wx

ASFR =

B P

Với:

Bfx: số trẻ em sinh ra trong năm bởi số phụ nữ trong độ tuổi x

Pwx: Số phụ nữ trong độ tuổi x

- Tỉ suất tử thô (Crude Death Rate):

D P

CDR =

Trong đó:

CDR: Tỉ suất tử thô

D: Số người chết trong năm của địa phương

P: Dân số trung bình trong năm của địa phương.

Tỉ suất tử thô là số người tử vong trong năm tính trung bình so với 1000 dân. Đơn vị tính là phần

nghìn (0/00).

Tỉ suất tử thô chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó những nguyên nhân dẫn đến tử suất tử

thô cao chủ yếu là do quy luật tự nhiên, kinh tế - xã hội (chiến tranh, đói nghèo, bệnh tật…) và thiên tai

(động đất, núi lửa, hạn hán…). Tỉ suất tử thô trên toàn thế giới cũng như các khu vực nói chung và

trong từng nước nói riêng có xu hướng giảm đi rõ rệt so với thời gian trước đây nhờ các tiến bộ về mặt

y tế, khoa học – kĩ thuật, đặc biệt là nhờ các điều kiện sống, mức sống và thu nhập ngày càng được cải

thiện.

Hình 1.2. Tỉ suất tử thô thời kì 1950 - 2005

phần ngàn 30

28

25

25

Toàn thế giới

20

17

15

15

Các nước phát triển

15

12

11

10

10

9

9

10

Các nước đang phát triển

9

9

9

8

5

0

Nhóm nước

1950 - 1955

1975 - 1980

1985 - 1990

1995 - 2000

2004 - 2005

Nhìn chung, tỉ suất sinh thô có xu hướng giảm dần nhờ những biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội

và cả trong mức sinh. Đầu thế kỉ XX, mức tử vong còn khá cao, nhưng từ sau chiến tranh thế giới thứ

hai đã giảm nhanh. Đối với các nước phát triển, mức chết giảm nhanh, nhưng sau đó chững lại và có chiều hướng tăng lên (150/00 giai đoạn 1950 – 1995, 90/00 giai đoạn 1960 – 1965 và 1975 – 1980 rồi lại tăng lên 100/00 từ năm 1985 đến nay) là do cơ cấu dân số già, tỉ lệ người lớn tuổi cao. Ngược lại, đối với các nước đang phát triển, mức chết giảm chậm hơn (từ 280/00 giai đoạn 1950 – 1955 xuống 120/00

giai đoạn 1975 – 1980) nhưng hiện nay đã đạt mức thấp hơn so với các nước phát triển do cơ cấu dân

số trẻ.

- Tỉ suất tử vong trẻ em (Infant Mortality Rate – IMR)

Tỉ suất tử vong trẻ em là tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi trong năm tính trên 1000 đứa trẻ sinh

D

0

ra trong năm. Đơn vị tính là phần nghìn ((0/00). [6, tr.54].

0

B

IMR =

Trong đó:

D0: Số trẻ tử vong dưới 1 tuổi trong năm

B0: Số trẻ sinh ra trong năm.

- Gia tăng tự nhiên (Natural Increase): Là hiệu số giữa số sinh và tử trong một thời gian nhất

định.

NI = B – D

Trong đó:

B: Số sinh

D: Số tử vong trong cùng thời kì.

- Tỉ suất gia tăng tự nhiên (Rate of Natural Increase): là tỉ số giữa gia tăng tự nhiên và dân số

trung bình trong cùng thời kì [6, tr.60].

DB  P

RNI =

- Tỉ suất gia tăng tự nhiên còn được xác định bằng hiệu số giữa tỉ suất sinh thô và tỉ suất tử thô.

Đơn vị tính là phần trăm (%).

RNI = CBR – CDR

Tỉ suất gia tăng tự nhiên có ảnh hưởng rõ rệt đến tình hình biến động dân số và được coi là động

lực phát triển dân số.

Trong bất kì thời gian nào, mức chết và mức sinh có ảnh hưởng mạnh mẽ đến gia tăng dân số tự

nhiên và diễn ra theo một xu hướng nhất định. Trong giai đoạn đầu của xã hội loài người, do mức sinh

khá cao nhưng mức chết cũng rất lớn nên gia tăng dân số chậm, hàng trăm năm dân số chỉ tăng vài

phần trăm, thậm chí có khi không tăng. Đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, do trình độ phát triển

kinh tế - xã hội và những thành tựu y học đã đạt được nên tỉ suất tử giảm nhanh, trong khi tỉ suất sinh

giảm chậm hoặc có nơi vẫn tiếp tục tăng, làm cho dân số tăng nhanh. Khi mức tử đã đạt thấp, sẽ không

tiếp tục giảm nữa, trong khi mức sinh lại giảm nhanh, dân số tăng chậm. Đó là tính quy luật của gia

tăng dân số tự nhiên. Tuy nhiên trong cùng thời kì, giữa các nước có trình độ khác nhau, gia tăng tự

nhiên diễn ra không như nhau.

Bảng 1.1. Biến động tự nhiên dân số trên thế giới giai đoạn 1800 - 2005 (%)

Thời kì Các vùng Thế giới Trong đó: Châu Phi Châu Á Mỹ Latinh Bắc Mỹ Châu Âu Châu Đại Dương 1800 - 1850 0,5 0,1 0,5 0,9 2,7 2 - 1900 - 1950 0,8 1,0 0,8 1,6 1,4 0,6 1,6 1975 - 1980 1,9 2,7 2,0 2,7 1,0 0,6 1,9 1995 1,5 2,8 1,7 1,9 0,7 - 0,1 1,2 2005 1,2 2,3 1,3 1,6 0,6 - 0,1 1,0 1985 - 1990 1,7 3,0 1,8 2,2 0,8 0,2 1,4 Nguồn: World Population Data Sheet 2005

Nơi nào có tốc độ tăng tự nhiên dân số cao, nơi đó dân số tăng nhanh và thời gian dân số tăng gấp

đối rút ngắn lại. Hiện nay, tốc độ tăng dân số ở các nước đang phát triển cao hơn nhiều so với các nước

phát triển. Do đó, trong tương lai, dân số các nước đang phát triển chiếm tuyệt đại bộ phận dân số thế giới.

b. Gia tăng cơ học

Gia tăng cơ học liên quan đến hiện tượng chuyển cư của con người. Chuyển cư bao gồm 2 bộ

phận: xuất cư (những người rời khỏi nơi cư trú) và nhập cư (những người đến nơi cư trú mới). Trên

phạm vi toàn thế giới, gia tăng cơ học không ảnh hưởng đến số dân, nhưng đối với từng khu vực, từng

quốc gia và từng địa phương thì gia tăng cơ học nhiều khi lại có ý nghĩa quan trọng làm thay đổi số

lượng dân, thay đổi cấu trúc tuổi và các hiện tượng kinh tế - xã hội khác. Gia tăng cơ học được xác

định bằng các yếu tố sau:

- Tỉ suất nhập cư (Immigration Rate – IR) là tỉ số giữa số người nhập cư và dân số trung bình

năm. Đơn vị tính là phần trăm (%) [6, tr.58]

I P

IR =

Trong đó:

I: Số người nhập cư trong năm

P: Dân số trung bình năm.

- Tỉ suất xuất cư (Emigration Rate – ER) là tỉ số giữa số người di chuyển khỏi nơi sinh sống trên

tổng số dân của vùng mà họ chuyển khỏi. Đơn vị tính là phần trăm (%) [6, tr.58].

E P

ER =

Trong đó:

E: số người xuất cư trong năm

P: Dân số trung bình năm của vùng xuất cư.

- Chuyển cư thực (Gia tăng cơ học) (Net Migration): là hiệu số giữa số người nhập cư và số người

xuất cư [6, tr.59].

NI = I – E

Trong đó:

I: số người nhập cư trong năm

E: số người xuất cư trong năm.

- Tỉ suất chuyển cư thực (Tỉ suất gia tăng cơ học) (Net Migration Rate – NMR) là tỉ số giữa

chuyển cư thực với dân số trung bình của vùng [6, tr.59].

EI  P

= IR – ER NMR =

c. Gia tăng dân số (PGR: Population Growth Rate)

Đây là thước đo phản ánh đầy đủ và trung thực tình hình biến động dân số của một quốc gia, một

vùng. Nó được thể hiện bằng tổng số giữa tỉ suất gia tăng tự nhiên và tỉ suất chuyển cư thực.

PGR = RNI + NMR

Po

Tỉ suất gia tăng dân số còn được tính theo công thức:

Pt  Po

PGR =

Po: dân số ở thời điểm điều tra ban đầu

Pt: dân số ở thời điểm điều tra cuối.

Nếu thời điểm điều tra cách nhau một năm thì công thức trên cho biết tốc độ tăng trưởng dân số

trong một năm. Nếu tốc độ tăng trưởng dân số theo thời gian nhiều năm, các nhà dân số học thường sử

dụng công thức hàm mũ để dự báo dân số:

Pt = Po.ert

Trong đó:

Pt: dân số ở năm dự báo

Po: dân số ở năm gốc.

r: tỉ lệ tăng trưởng dân số

t: thời gian tính từ năm gốc đến năm dự báo.

rt

ln

ln

ln

ln*

e

e

rt 

rt 

r 

1 t

Pt Po

Pt Po

Pt Po

Pt Po

Từ đó ta có:

1.1.1.2. Cơ cấu dân số

a. Cơ cấu theo tuổi và giới tính

- Cơ cấu theo tuổi:

Cơ cấu tuổi của dân số thể hiện tình hình sinh tử, khả năng phát triển dân số và nguồn lao động

của một quốc gia, một vùng.

Trong dân số học, người thường phân chia lớp tuổi cách nhau từ 5 – 10 năm. Ví du: 0 – 4, 5 – 9,

10 – 14, 15 – 19….

Các nhà dân số học còn chia 3 nhóm tuổi liên quan đến việc sử dụng lao động:

- Nhóm dưới tuổi lao động: 0 – 14 tuổi.

- Nhóm tuổi lao động: 15 – 59 tuổi (hoặc đến 64 tuổi)

- Nhóm trên tuổi lao động: trên 60 tuổi (hoặc trên 65 tuổi).

Số người trong nhóm tuổi lao động là nguồn nhân lực quan trọng, là vốn quý của quốc gia, cần

phải sử dụng số người trong nhóm tuổi này một cách tối ưu để tạo ra sức sản xuất cao nhất cho xã hội.

 Dân số già và dân số trẻ:

- Dân số già là dân số có tỉ lệ người già (60 tuổi trở lên) chiếm trên 10% dân số, thể hiện tỉ suất

sinh rất thấp, tỉ suất tử rất thấp, trẻ em (0- 14 tuổi) dưới 30 – 35% và tuổi thọ trung bình (kì vọng sống)

cao.

- Dân số trẻ là dân số có tỉ suất sinh cao, tỉ suất tử thấp, số trẻ em từ 0 – 14 tuổi chiếm đến trên

35% dân số, số người già (từ 60 tuổi trở lên) chiếm dưới 10% dân số, tuổi thọ trung bình (kì vọng

sống) thấp.

- Tỉ số phụ thuộc: còn gọi là "gánh nặng phụ thuộc", là số người ngoài độ tuổi lao động tương ứng

với 100 người trong độ tuổi lao động.

Số trẻ em + Số người cao tuổi

Tỷ số phụ thuộc = ------------------------------------

Số người trong độ tuổi lao động

Bảng 1.2. Tỷ số phụ thuộc ở nước ta giai đoạn 1979 - 2005

Năm Tỷ số phụ thuộc 1989 86 2005 55 1999 69 1979 95 Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình dân số - sức khỏe sinh sản

- Tỷ số phụ thuộc không ngừng giảm xuống: Năm 1979 là 95, năm 1989: là 86, năm 1999 là 69

và năm 2005 là 55. Như vậy, nếu năm 1979, cứ 100 người trong độ tuổi lao động phải nuôi 95 người

ngoài độ tuổi lao động (bình quân mỗi người phải nuôi 0,95 người phụ thuộc) thì con số này năm 2005

chỉ còn 55, giảm tới hơn 42%. Theo dự báo, tỷ lệ này đến năm 2014, chỉ còn khoảng 48, nghĩa là chỉ

còn bằng gần nửa năm 1979. Người ta nói rằng, đây là “cơ cấu dân số vàng”, hay “ Dư lợi dân số" tức

là mỗi người lao động gánh nhẹ dần số người ăn theo, tạo điều kiện tốt cho kinh tế quốc dân, kinh tế gia

đình có tiết kiệm để đầu tư phát triển. Điều này chắc chắn tác động lớn đến chất lượng cuộc sống.

Nghiên cứu chi tiết hơn về "gánh nặng phụ thuộc ", người ta tính: Tỷ số trẻ em phụ thuộc, và Tỷ số

người già phụ thuộc, bằng cách, trong công thức tính nói trên, ở tử số, tương ứng là số lượng "trẻ em" hoặc

"người già".

Dân số dưới tuổi lao động Tỷ số phụ thuộc trẻ em = Dân số trong tuổi lao động

Dân số trên tuổi lao động Tỷ số phụ thuộc người già = Dân số trong tuổi lao động

- Cơ cấu theo giới tính:

Việc nghiên cứu cơ cấu dân số theo giới tính có một ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc phân công

lao động xã hội và áp dụng chính sách kinh tế - xã hội của một quốc gia.

Tỉ suất giới tính nam nữ thường chênh lệch nhau, tỉ suất này lại thay đổi theo các nhóm tuổi.

Cơ cấu dân số theo giới biểu thị tương quan giữa giới nam so với giới nữ hoặc so với tổng số dân.

Đơn vị tính là %.

Pm P

Pf P

Pm Pf

hoặc hoặc

Trong đó:

Pm: dân số nam

Pf: dân số nữ.

 Tháp tuổi hay tháp dân số: là sự biểu thị kết hợp cơ cấu tuổi và giới tính của dân số dưới

dạng hình học. Trục hoành thể hiện số lượng tuyệt đối (hoặc %) một bên là nam, một bên

là nữ, trục tung thể hiện độ tuổi [6, tr.121].

Tháp dân số bao gồm những thanh ngang thể hiện những nhóm tuổi liên tiếp nhau từ độ tuổi thấp

nhất ở đáy của tháp đến độ tuổi cao nhất ở đỉnh tháp. Tháp dân số được chia thành 2 phần bởi trục

thẳng đứng (trục tung) vuông góc với trục ngang (trục hoành) từ đáy lên đỉnh tháp. Phần bên trái của

tháp chỉ cơ cấu tuổi của nam giới, phần bên phải – nữ giới.

Các nhà dân số học chia ra 3 kiểu tháp tuổi:

- Kiểu mở rộng: là của những nước có cơ cấu dân số trẻ. Các nước đang phát triển phần lớn là

kiểu tháp tuổi mở rộng.

- Kiểu thu hẹp: Dân số tăng chậm, nhóm tuổi từ 0 – 14 chiếm tỉ lệ nhỏ. Những thế hệ sau mới sinh

thu hẹp dần, tạo nên một kiểu cấu trúc chuyển tiếp từ “mở rộng” sang “thu hẹp”.

- Kiểu ổn định: Dân số gần như không tăng, tỉ suất sinh rất thấp và tỉ suất tử vong cũng rất thấp ở

nhóm tuổi trẻ, nhưng ở nhóm tuổi già tỉ suất tử vong cao, dần dần thu hẹp lại ở nhóm tuổi già. Kiểu

+ 80

+ 80

75-79

75-79

70-74

70-74

65-69

65-69

NAM

NỮ

60-64

60-64

NỮ

NAM

55-59

55-59

50-54

50-54

45-49

45-49

40-44

40-44

35-39

35-39

30-34

30-34

25-29

25-29

20-24

20-24

15 -19

15 -19

10-14

10-14

5 - 9

5 - 9

0 - 4

0 - 4

%

8

6

4

2

0

0

2

4

6

% 8

0

2

4

% 6

4

20

% 6

Năm 1999

Năm 2004

tháp tuổi này phổ biến ở các nước phát triển.

Hình 1.3. Tháp tuổi dân số Việt Nam, thời kì 1999 - 2004

b. Cơ cấu dân tộc và xã hội của dân số

- Cơ cấu dân tộc:

Dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành trong quá trình lịch sử, có những quan

hệ chung về lãnh thổ cư trú, tâm lí dân tộc, ngôn ngữ, kinh tế và một số đặc trưng về văn hoá, hình

thành trên cơ sở phát triển của các bộ tộc.

Trên thế giới có nhiều chủng tộc. Những dấu hiệu để phân loại chủng tộc là các đặc điểm về hình

thái. Đặc điểm bề ngoài dễ nhận thấy nhất là màu da, mắt, dạng tóc, song quan trọng hơn cả là hình

dạng hộp sọ.

Trong sự phát triển của các chủng tộc, điều kiện tự nhiên có vai trò đặc biệt. Việc cư trú của các

nhóm người ở các vùng với các điều kiện tự nhiên khác nhau là tiền đề cho việc hình thành các chủng

tộc. Vào thời kì sơ khai, nhiều hàng rào tự nhiên như núi cao khó vượt qua, sông sâu, biển rộng đã dần

ngăn cách các nhóm người. Sự tách biệt về mặt địa lí đã dẫn tới sự phân hoá mạnh mẽ giữa các chủng

tộc.

Do sự thay đổi các điều kiện tự nhiên, của các điều kiện sinh thái trên Trái Đất và các hoạt động

kinh tế xã hội của loài người đã dẫn đến các cuộc chuyển cư của con người. Dần dần, loài người cư trú

hầu hết các lãnh thổ thuận lợi cho việc sinh sống của con người.

Khi mật độ dân số tăng lên do có người từ nơi khác tới thì xảy ra sự tiếp xúc giữa nhóm người

này với nhóm người khác. Bằng cách này đã dẫn tới sự pha trộn giữa các chủng tộc và làm giảm bớt sự

phân hoá ban đầu. Quá trình này xảy ra lâu dài và liên tục.

Ngày nay, nhân loại càng phát triển, càng tiến tới văn minh hơn, nhân bản hơn, mối quan hệ giữa

con người càng trở nên phức tạp hơn. Bất cứ dân tộc, cá nhân nào cũng đều chịu sự tác động qua lại

trong mối quan hệ nhiều chiều giữa các cộng đồng khác nhau. Các mối quan hệ đó đan xen nhau,

chồng chéo nhau, tác động cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhưng ý tưởng thường trực, trong đó cao hơn hết,

thiêng liêng hơn hết là họ thuộc về dân tộc và cộng đồng chính trị - xã hội nào. Đó là quê hương, là

nguồn cội, là ý nghĩa cuộc sống của họ. Vấn đề dân tộc, tộc người trong một quốc gia luôn luôn là một

vấn đề lâu dài nhưng đầy rẫy tính thời sự nóng bỏng.

Việt Nam có 54 dân tộc cùng chung sống, gắn bó với nhau trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất

nước. Mỗi dân tộc có những nét văn hóa riêng, thể hiện trong ngôn ngữ, trang phục, quần cư, phong

tục, tập quán… làm cho nền văn hóa Việt Nam thêm phong phú, giàu bản sắc.

Trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, dân tộc Kinh có số dân đông nhất, chiếm khoảng 86%

dân số cả nước. Đây là dân tộc có nhiều kinh nghiệm trong thâm canh lúa nước, các nghề thủ công đạt

mức độ tinh xảo. Người Kinh là lực lượng lao động đông đảo trong các ngành nông nghiệp, công

nghiệp, dịch vụ, khoa học – kĩ thuật.

Các dân tộc ít người có số dân và trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Mỗi dân tộc có kinh

nghiệm riêng trong một dân số lĩnh vực như trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, làm nghề

thủ công…. Các hoạt động công nghiệp, dịch vụ, văn hóa, khoa học – kĩ thuật… của nước ta đều có sự

tham gia của các dân tộc ít người.

- Cơ cấu xã hội

+ Cơ cấu dân số theo lao động:

 Nguồn lao động:

Bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn lao động

gồm dân số hoạt động kinh tế và dân số không hoạt động kinh tế.

- Dân số hoạt động kinh tế: Dân số hoạt động kinh tế hay còn gọi là lực lượng lao động bao gồm

toàn bộ những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc không có việc làm nhưng đang có nhu

cầu tìm việc.

Dân số hoạt động kinh tế trong độ tuổi lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động

(nam từ đủ 15 tuổi đến hết 60 tuổi, nữ từ đủ 15 tuổi đến hết 55 tuổi).

Dân số hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng là những người từ 15 tuổi trở lên có tổng

số ngày làm việc và có nhu cầu làm thêm lớn hơn hoặc bằng 183 ngày và ngược lại là dân số không

hoạt động kinh tế thường xuyên.

Căn cứ vào hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng của những người từ đủ 15 tuổi trở lên,

số người hoạt động kinh tế thường xuyên chia làm 2 loại:

+ Dân số có việc làm thường xuyên trong 12 tháng bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có

tổng số ngày làm việc thực tế lớn hơn hoặc bằng tổng số ngày có nhu cầu làm thêm.

+ Dân số không có việc làm thường xuyên gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có tổng số ngày

làm việc thực tế nhỏ hơn số ngày có nhu cầu làm thêm.

- Dân số không hoạt động kinh tế: Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm toàn bộ những người

từ đủ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và không có việc làm. Những người này không

hoạt động kinh tế vì những lí do:

 Đang đi học;

 Hiện đang là nội trợ cho gia đình;

 Già cả, ốm đau;

 Tàn tật, không có khả năng lao động;

 Hoặc ở tình trạng khác (gồm những người không muốn làm việc và những người nghỉ

hưu không làm việc).

- Người thất nghiệp: là những người đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế mà

trong tuần lễ trước cuộc điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc:

+ Có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động đi tìm việc trong 4 tuần

qua vì lí do không biết tìm việc ở đâu hoặc tìm mãi mà không được.

+ Hoặc trong tuần lễ trước cuộc điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 8 giờ, muốn làm thêm

nhưng không tìm được việc.

Tỉ lệ dân số hoạt động kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố: tỉ lệ lớp tuổi trẻ và già trong tổng số

dân, số người đang đi học hoặc ở trong quân đội chiếm bao nhiêu phần trăm. Việc giải quyết công ăn,

việc làm hoặc đầu tư vốn để mở mang nền kinh tế quốc dân ở từng quốc gia như thế nào...

 Dân số hoạt động chia theo khu vực hoạt động kinh tế:

Theo các nhà kinh tế, có 3 khu vực hoạt động kinh tế xã hội ứng với 3 khu vực có số lượng lao

động nhất định. Mỗi khu vực có tính chất sản xuất, chất lượng và giá trị sản phẩm, hiệu quả kinh tế

riêng, phản ánh sức sản xuất, trình độ sản xuất của xã hội.

- Khu vực I: bao gồm lao động trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp

- Khu vực II: lao động hoạt động trong ngành công nghiệp, xây dựng.

- Khu vực III: bao gồm lao động trong các ngành dịch vụ.

Các nước có nền kinh tế phát triển, tỉ trọng lao động trong khu vực III rất cao (chiếm khoảng 70%

dân số trở lên), ngược lại các nước đang phát triển còn thấp (chỉ chiếm khoảng 20% dân số). Trên bình

diện toàn cầu hiện nay, hơn 40% dân số hoạt động trong khu vực I, 30% khu vực II và gần 30% ở khu

vực III.

+ Cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá:

Cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá phản ánh trình độ dân trí và học vấn của dân cư, là một trong

những tiêu chí để đánh giá chất lượng cuộc sống ở mỗi quốc gia. Trình độ dân trí của dân cư cao là

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, thúc đẩy

các mặt khác của đời sống xã hội.

Để xác định cơ cấu dân số theo trình độ văn hoá, người ta thường dùng 2 tiêu chí: tỉ lệ biết chữ

(số % những người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết) và số năm đến trường (số năm bình quân đến

trường học của những người từ 25 tuổi trở lên).

Hiện nay, trên thế giới có trên 1 tỉ người mù chữ. Tỉ lệ người mù chữ cao nhất là ở các nước Châu

Phi, Nam Á và các nước Ả Rập. Trong khi đó, tại các nước có phát triển, tỉ lệ người biết chữ rất cao, từ

90 đến 100%. Số năm đi học của người dân ở các nước phát triển khá cao, từ 10 – 14 năm, trong khi đó

ở các nước đang phát triển, con số đó chỉ dao động từ 3 - 5 năm.

1.1.2. Các học thuyết dân số

1.1.2.1. Học thuyết quá độ dân số [6, tr.36]

Là học thuyết về sự biến đổi dân số từ tỉ suất gia tăng cao, tỉ suất sinh cao xuống tỉ suất gia tăng

thấp, tỉ suất tử thấp dẫn đến gia tăng dân số thấp.

Học thuyết quá độ dân số dựa trên cơ sở những biến đổi về dân số ở châu Âu vào lúc bắt đầu cuộc

cách mạng công nghiệp. Mô hình xây dựng là dựa trên việc quan sát các biến đổi dân số ở châu Âu là

một mô hình kinh điển về quá độ dân số. Hiện tượng biến đổi dân số được chia thành 4 giai đoạn:

Giai đoạn 1: từ 1750 – 1800: tỉ suất sinh và tỉ suất tử tương đối cao, gia tăng tự nhiên thấp

(khoảng 0,5% mỗi năm).

Giai đoạn 2: Từ năm 1800 – 1875: tỉ suất sinh tiếp tục tăng cao nhưng tỉ suất chết ngày càng

giảm, dẫn đến tỉ suất gia tăng tự nhiên cao (2%/năm).

Giai đoạn 3: Từ năm 1875 – 1950: tỉ suất sinh giảm và tỉ suất tử tiếp tục giảm đến mức thấp nhất,

tỉ suất gia tăng tự nhiên bắt đầu giảm dần.

Giai đoạn 4: Từ năm 1950 – 1975: tỉ suất sinh và tỉ suất tử đều ở mức độ thấp: tỉ suất gia tăng tự

nhiên thấp và tạo nên ổn định dân số.

Giai đoạn 2 và giai đoạn 3 được gọi là giai đoạn quá độ dân số.

Học thuyết quá độ dân số đã chú ý đến sự thay đổi về tỉ suất sinh và tỉ suất tử ở các giai đoạn khác

nhau của những nước phát triển, khi mà các nước chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp truyền thống

sang nền kinh tế công nghiệp và dịch vụ, tức là trải qua thời kì tỉ suất sinh, tỉ suất tử cao sang thời kì tỉ

suất sinh, tỉ suất tử thấp.

Đánh giá về mối quan hệ giữa tiến trình phát triển kinh tế - xã hội với các biến động dân số, các

nhà nhân khẩu học đã rút ra nhận xét là “tất cả các dân tộc trong kỉ nguyên hiện đại đã chuyển từ nền

kinh tế truyền thống sang nền kinh tế công nghiệp lớn trên cơ sở đô thị hoá, hiện đại hoá đều chuyển từ

mức sinh và mức chết cao sang mức sinh và mức chết thấp”.

Như vậy, quá độ dân số là giai đoạn nhất thiết phải trải qua, mặc dù thời gian dài ngắn có thể khác

nhau. Theo lí thuyết này, việc giảm mức sinh là quá trình đi kèm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa.

Tuy vậy, đối với các nước đang phát triển, dân số tăng rất nhanh, không thể chờ đợi công nghiệp hoá,

hiện đại hoá mà phải chấp nhận chương trình kế hoạch hoá gia đình nhằm tác động trực tiếp đến sự gia

tăng dân số.

1.1.2.2. Học thuyết dân số tối ưu [6, tr.40]

Hiện nay có nhiều quốc gia có dân số quá đông khiến việc làm và cuộc sống gặp nhiều khó khăn,

tình trạng đói ăn diễn ra thường xuyên, nạn suy dinh dưỡng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, ở một số quốc

gia lại có mật độ dân số không cao, dân cư thưa thớt. Cả hai trường hợp trên đều dẫn đến những khó

khăn trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề trên, nhiều nhà nhân khẩu học đã đề xuất học thuyết “dân số tối ưu”.

Trước khi nghiên cứu dân số tối ưu, cần tìm hiểu thế nào là dân số tối đa.

Dân số tối đa của một quốc gia hay một địa phương là dân số đã đạt đến mức giới hạn không

được vượt qua mức đó, nếu vượt qua dân cư sẽ nhanh chóng lâm vào tình trạng bần cùng, đói khổ.

Hiện nay chỉ còn một vài nơi trên thế giới có dân số thưa thớt như ở Bắc cực, Nam cực…. Những

nơi này cũng không thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Từ hai hình ảnh tương phản trên, thuyết “dân số tối ưu” ra đời nhằm xây dựng một dân số hợp lí

để có thể phát triển kinh tế - xã hội thuận lợi.

Sự gia tăng dân số khác nhau sẽ kéo theo sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm khác nhau. Có hai

cách để giải quyết: Một là phải tìm cách giảm sự gia tăng dân số, hai là phải đẩy mạnh nền sản xuất xã

hội nhằm tạo ra nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu của dân số.

Nếu sự gia tăng dân số không đi đôi với sự gia tăng sản xuất thì kết quả sẽ vô cùng tồi tệ, bởi vì

mức sống của con người sẽ nhanh chóng giảm sút.

Sự gia tăng dân số của nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay không hợp lí. Bởi vì, sự gia tăng dân

số nhanh khiến cho ngân sách quốc gia phải gánh chịu nhiều tốn kém. Chẳng hạn ở Pháp cứ 1% dân số

tăng thêm thì chính phủ phải chi thêm 6,3 – 8% thu nhập quốc dân để đảm bảo mức sống không bị sụt

giảm; còn ở Mĩ cứ 1% dân số tăng thêm thì chính phủ phải chi 2 – 3% ngân sách quốc gia để ổn định

mức sống dân cư.

Đối với các quốc gia đang phát triển, do nền kinh tế kém phát triển, ngân sách quốc gia vốn đã eo

hẹp, sản xuất không có tích luỹ nên dân số tăng lên không hợp lí sẽ đẩy nền kinh tế vốn kém phát triển

vào tình trạng khó khăn hơn, tốc độ phát triển kinh tế có thể bằng 0 hoặc âm.

Như vậy, một quốc gia muốn phát triển kinh tế - xã hội một cách thuận lợi thì cần có một dân số

phù hợp, tức là “dân số tối ưu”.

1.2. Các khái niệm về phát triển và chỉ số đo sự phát triển

1.2.1. Khái niệm phát triển

- Tăng trưởng kinh tế:

Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên của tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội hoặc

mức tăng của tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người [2, tr.115].

- Phát triển kinh tế:

Theo các nhà kinh tế chính trị học thì sự phát triển là quá trình mà xã hội đạt đến thoả mãn các

nhu cầu về vật chất và tinh thần mà xã hội đó coi là cơ bản. khi nói đến nền kinh tế phát triển là muốn

nhấn mạnh mức độ lớn lên của nền kinh tế và mặt chất lượng [2, tr.115].

Phát triển không chỉ đơn thuần là sự tăng trưởng. Không phải mọi sự tăng trưởng đều dẫn đến sự

phát triển, nhưng không có một sự phát triển nào mà lại không bao hàm sự tăng trưởng. Ngoài tăng

trưởng, phát triển còn bao hàm nhiều yếu tố khác, trong đó phát triển phải đi kèm sự thay đổi về cơ cấu

kinh tế, lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống…

Đặc trưng của sự phát triển kinh tế là sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế, tức là tăng tỉ trọng

ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu tổng sản

phẩm quốc dân. Từ đó kéo theo việc tăng tỉ lệ người sống trong các đô thị và giảm tỉ lệ người sống ở

nông thôn.

Qua đó, chúng ta có thể thấy:

- Có một số quốc gia trên thực tế có sự tăng trưởng mà không có sự phát triển. Đó là những nước

chọn sự phát triển thuần tuý tức là chỉ chú trọng tới việc tăng thêm về số lượng.

- Ở một vài quốc gia khác tuy không đạt đến sự tăng trưởng nhưng lại thực hiện được công bằng

xã hội tốt hơn, giảm bớt lãng phí để mang lại lợi ích cho người dân.

Thông thường, tăng trưởng và phát triển thường đi đôi với nhau. Khi có sự gia tăng về thu nhập

và sản phẩm theo đầu người thì ít nhiều có sự gia tăng về phúc lợi xã hội. Vì thế không thể có sự phát

triển mà không có tăng trưởng. Như vậy, đã có phát triển thì chắc chắn có tăng trưởng nhưng có tăng

trưởng chưa chắc đã có phát triển.

1.2.2. Các chỉ số đo sự phát triển

1.2.2.1. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP hay GNI) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị thị trường của tất cả hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng

cuối cùng được tạo ra do một quốc gia ở một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). GNP

không chỉ bao gồm tổng sản phẩm cuối cùng về hàng hoá và dịch vụ được tạo ra bên trong lãnh thổ

một quốc gia mà còn tính đến các khoản thu nhập do đầu tư ở nước ngoài và các khoản tiền của công

nhân từ nước ngoài gửi về, nhưng phải trừ đi giá trị sản phẩm mà nền kinh tế nước đó phải trả cho

người nước ngoài dưới dạng lợi nhuận do việc họ đã đầu tư vào nền kinh tế của nước mình [2, tr.34].

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): là tổng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng mà

một nền kinh tế tạo ra bên trong một quốc gia không phân biệt do người trong nước hay người nước

ngoài làm ra, ở một thời kì nhất định, thường là một năm [2, tr.35].

GDP thường dùng để phân tích cơ cấu kinh tế, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, trình độ phát

triển và mức sống con người.

1.2.2.2. Kì vọng sống hay tuổi thọ trung bình (Life expectancy):

Kì vọng sống hay tuổi thọ trung bình là số năm trung bình của người sinh ra có khả năng sống

được. Tuổi thọ trung bình không tính tới những trường hợp chết không bình thường (chết tai nạn, chết

chiến tranh…) [6, tr.98].

Kì vọng sống là một trong những chỉ tiêu để đánh giá trình độ phát triển kinh tế, điều kiện sống,

mức thu nhập, điều kiện y tế, chăm sóc sức khoẻ của một quốc gia, một khu vực….

1.2.2.3. Chỉ số calo bình quân đầu người

Thức ăn là nguồn cung cấp năng lượng cho con người. Theo quy ước, người dùng đơn vị calo để

đo nhu cầu năng lượng và khả năng cung cấp năng lượng cho con người. Theo tổ chức lương thức thế

giới (FAO) thì chính lương thực thực phẩm là nguồn cung cấp năng lượng thiết yếu cho con người.

Những hoạt động sinh hoạt và sản xuất khác nhau đòi hỏi mức cung cấp năng lượng khác nhau. Nhu

cầu năng lượng còn thay đổi theo độ tuổi và giới tính, mức lao động và trọng lượng cơ thể.

Ở các nước công nghiệp phát triển, lượng calo cung cấp cho một người cao gấp 1,5 lần các nước

đang phát triển và vượt nhu cầu năng lượng của cơ thể (khoảng 3500 calo/người/ngày). Lượng calo

cung cấp thực tế ở các nước đang phát triển thấp hơn (khoảng 2600 calo/người/ngày). Ở các nước

chậm phát triển, lượng calo bình quân hàng ngày của một người khoảng 2100 và lại không được phân

phối đều nên số người thiếu dinh dưỡng ngày càng tăng. Hàng triệu trẻ em và người già ở châu Phi vẫn

bị nạn đói đe dọa hàng ngày.

Thiếu thức ăn, suy dinh dưỡng để lại nhiều hậu quả trong đời sống và phát triển của mỗi người,

mỗi quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. Ở các nước có thu nhập thấp, 5% số trẻ em dưới 1 tuổi bị

thiếu máu. Tỉ lệ tử vong ở nhóm này rất cao. Thiếu dinh dưỡng thì năng suất lao động giảm, kì vọng

sống thấp.

1.2.2.4. Trình độ biết đọc, biết viết của dân cư

Trình độ học vấn của một nước phản ánh mức độ phát triển của một xã hội cũng như trình độ văn

minh của mỗi quốc gia. Trình độ học vấn cao là điều kiện rất quan trọng để con người phát triển toàn

diện, dễ thích ứng với những biến đổi của trong công nghệ sản xuất cũng như yêu cầu của xã hội. Nhu

cầu về học tập để hiểu biết và theo kịp đà phát triển của xã hội là nhu cầu chính đáng của mỗi cá nhân

và cần thiết cho xã hội.

Để đo trình độ học vấn của một quốc gia người ta thường dùng tỉ lệ phần trăm (%) người biết đọc,

biết viết của dân cư từ 15 tuổi trở lên hoặc dùng chỉ tiêu số năm học trung bình cho một người ở trong

độ tuổi đi học.

Đối với các nước đang phát triển, sản xuất trì trệ, dân số phát triển quá nhanh, chất lượng cuộc

sống còn thấp, cơ sở vật chất nghèo nàn nên việc đầu tư cho giáo dục còn thấp, tỉ lệ người mù chữ cao.

Ngược lại, đối với các nước phát triển, số lượng người mù chữ chiếm tỉ lệ rất thấp (bảng 1.3).

Bảng 1.3. Tỉ lệ biết chữ và số năm đến trường theo nhóm nước, năm 2005

Các nhóm nước Tỉ lệ người biết chữ (%) Số năm đi học

Các nước phát triển >90 11,0

Các nước đang phát triển 70 4,0

Nguồn: World Development Indications, 2006

Các nước kém phát triển 48 1,9

1.2.2.5. Cơ cấu nền kinh tế quốc dân

Cơ cấu nền kinh tế của một nước là một trong những chỉ tiêu đánh giá sự phát triển. Theo cách

phân loại tiêu chuẩn quốc tế của các hoạt động kinh tế thì nền kinh tế hiện đại được cấu thành từ 3 khu

vực sản xuất: nông – lâm – ngư nghiệp (khu vực I), công nghiệp – xây dựng (khu vực II) và dịch vụ

(khu vực III).

Theo số liệu thống kê của nhiều tổ chức trên thế giới thì chỉ tiêu về cơ cấu của nền sản xuất rất

khác nhau giữa các nhóm nước và phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế. Ở những nước công nghiệp hoá

có nền kinh tế phát triển cao, số người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp rất thấp. Đối với những

nước đang phát triển thì ngược lại, tỉ lệ lao động nông nghiệp khá cao, có thu nhập bình quân đầu

người thấp. Ở các nước này, nông nghiệp giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân.

Ở các nước đang phát triển hiện nay đang diễn ra sự thay đổi cơ cấu trong GDP. Nhiều nước chọn

chiến lược công nghiệp hoá và thu hút sức lao động ngày càng nhiều vào lĩnh vực công ngjiệp và dịch

vụ.

1.2.1.6. Một số chỉ tiêu đánh giá khác

Ngoài các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển đã trình bày ở trên, chúng ta có thể dùng một số chỉ tiêu

sau để đánh giá sự phát triển, đó là các chỉ tiêu về sự thay đổi trong cơ cấu dân cư; tỉ lệ trẻ em đến

trường trong tổng số trẻ em ở độ tuổi đi học; tỉ lệ dân cư đô thị; tốc độ đô thị hoá….

Cũng cần đưa thêm các chỉ số về y tế như số bác sĩ trung bình/vạn dân, số người khám và điều

trị/tổng số dân… để đánh giá trình độ phát triển.

1.3. Mối quan hệ giữa phát triển dân số với sự phát triển kinh tế - xã hội

1.3.1. Sự thống nhất biện chứng giữa sản xuất vật chất và tái sản xuất con người

Nền sản xuất xã hội bao gồm 2 mặt: sản xuất vật chất và tái sản xuất con người. Hai kiểu sản xuất

này có mối quan hệ mật thiết với nhau, có tác động lẫn nhau trong sự thống nhất biện chứng. Sản xuất

vật chất quyết định trực tiếp sự sống của con người, là cơ sở tái sản xuất con người. Sự phát triển sản

xuất vật chất tạo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển dân số cả về số lượng cũng như chất lượng. Ngược

lại, tái sản xuất con người là tiền đề của tái sản xuất vật chất, có con người mới có sản xuất; nếu không

có tái sản xuất con người thì không có sự thay thế, đổi mới, tăng cường sức lao động. Sự phát triển về

số lượng và chất lượng dân số một cách hợp lí thúc đẩy sự phát triển của sản xuất vật chất, đáp ứng

nhu cầu của xã hội. Nếu số dân và tỉ lệ tăng dân số không cân đối với sản xuất vật chất thì sự phát triển

của nền sản xuất xã hội sẽ bị cản trở và kìm hãm.

Hai kiểu sản xuất vật chất và sản xuất bản thân con người trong một nền sản xuất xã hội thống

nhất bao giờ cũng ở thế cân bằng thì xã hội mới phát triển toàn diện và do đó chúng đòi hỏi một sự

điều khiển thống nhất.

1.3.2. Quan hệ giữa phát triển dân số và tăng trưởng kinh tế

1.3.2.1. Dân số với phát triển kinh tế

Gia tăng dân số và phát triển kinh tế có mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Sự

biến động dân số trong từng thời kì ở mỗi quốc gia đều tác động sâu sắc và toàn diện đến mọi lĩnh vực,

trước hết là các hoạt động kinh tế.

Chúng ta biết rằng khi dân số tăng lên thì lực lượng lao động cũng tăng lên với tốc độ thường cao

hơn tốc độ gia tăng dân số. Các nguồn tài nguyên như đất đai, mặt nước, khoáng sản… đều có hạn. Vì

thế, số lao động trên một đơn vị diện tích đất đai tăng lên. Điều này có thể làm cho tổng sản phẩm tăng

lên nhưng sản phẩm bình quân đầu người, thậm chí là bình quân cho một lao động cũng có thể giảm đi.

Trong quá trình sản xuất, nếu số lao động tăng nhanh hơn nhiều so với số vốn vật chất thì lượng

vốn đó phải dàn trải ra cho nhiều lao động, dẫn đến tỉ lệ vốn/lao động giảm xuống. Khi dân số tăng

nhanh có thể làm cho chất lượng vốn con người giảm xuống hoặc ở mức thấp và khó cải thiện được.

Điều này trước hết liên quan đến việc cung cấp không đầy đủ chất dinh dưỡng và chăm sóc y tế cho trẻ

em và cho cả người lao động; trình độ học vấn thấp và phần lớn lao động không được đào tạo. Do đó,

năng suất lao động không cao, khiến cho tổng sản phẩm quốc dân tăng chậm.

Đối với yếu tố công nghệ, có nhiều lập luận cho rằng quy mô dân số lớn và tăng trưởng nhanh có

thể là sức ép làm nảy sinh các phát minh khoa học và đẩy nhanh tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, tiến bộ

công nghệ cũng cần có thời gian và cần có những đầu tư lớn mà các nước nghèo chưa thể đáp ứng

ngay được.

Từ những lập luận trên có thể thấy rằng: Tăng nhanh dân số ở các nước nghèo là bất lợi cho nền

kinh tế.

Kết luận này có thể được chứng minh cụ thể thông qua mối quan hệ sau:

Tỉ lệ gia tăng GNP/người = tỉ lệ tăng GNP – tỉ suất gia tăng dân số [2, tr.116].

Như vậy để tăng GNP/người thì tỉ lệ tăng GNP phải cao hơn tỉ suất gia tăng dân số. Và việc hạ

thấp tỉ suất gia tăng dân số bao giờ cũng sẽ làm tăng GNP/người. Nếu gia tăng dân số quá nhanh so với

mức tăng trưởng kinh tế sẽ làm giảm mức sống người dân, đồng thời hạ thấp vai trò của nhân tố con

người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, huỷ hoại môi trường thiên nhiên, hệ sinh thái và điều kiện

sống của con người.

Để cuộc sống của mỗi người dân ngày càng được nâng cao cần phải có sự phát triển hài hoà giữa

dân số và phát triển kinh tế - xã hội. Theo tính toán của tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên Hiệp

Quốc (FAO): nếu dân số tăng 1% thì thu nhập quốc dân tăng ít nhất là 4% thì mới đảm bảo việc làm

cho số lao động tăng thêm và giữ mức sống như cũ của dân cư. Khi nền kinh tế phát triển, của cải vật

chất được sản xuất ngày càng nhiều hơn, cuộc sống của con người ngày càng sung túc hơn và lúc đó tỉ

suất gia tăng dân số tự nhiên giảm xuống. Đây là tác động ngược lại của phát triển kinh tế với sự gia

tăng dân số.

Bảng 1.4. Mức tăng dân số trung bình hàng năm ở các nhóm nước (%)

1950 - 1960 1960 - 1970 1970 - 1980 1995 - 2000 2002-2005

Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản

Các nước Thu nhập cao Thu nhập trung bình Thu nhập thấp 1,2 2,4 1,9 0,7 2,3 2,3 0,3 1,6 2,7 0,3 1,3 2,5 1,0 2,5 2,5

Có thể thấy rằng ở các nước đang phát triển, gia tăng dân số hàng năm tăng gấp 2 – 3 lần các

nước phát triển, song thu nhập bình quân đầu người kém hàng chục lần thậm chí hàng trăm lần. Năm

1960, mức chênh lệch về GDP/ người ở các nước giàu so với các nước nghèo là 23 lần, đến năm 2005,

khoảng cách này tăng lên 63 lần (bảng 1.4 và 1.5).

Bảng 1.5. GDP bình quân đầu người hàng năm theo nhóm nước (USD)

Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản

Các nhóm nước Thu nhập cao Thu nhập trung bình Thu nhập thấp 1950 3.841 625 164 1960 5.197 802 174 1980 9.864 1.521 245 1990 19.790 1.940 320 2000 25.710 1.970 420 2005 32.000 2200 510

Ở Việt Nam, mối quan hệ giữa gia tăng dân số và tăng trưởng kinh tế thể hiện rất rõ qua bảng sau:

Bảng 1.6. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỉ suất gia tăng dân số Việt Nam

giai đoạn 1995 - 2005

6,8 1,36

Nguồn: Điều tra biến động dân số 1/4/2004, Tính toán từ Niên giám Thống kê năm 2005.

1995 1997 1999 2000 2005 8,4 4,8 8,2 9,5 - Tốc độ tăng trưởng kinh tế (%) - Tỉ suất gia tăng dân số (%) 1,30 1,51 1,65 1,57 GDP/người thực tế (USD/người) 1010 1208 1630 1860 3071 100 119,6 161,4 184,2 304,1 Tốc độ tăng trưởng (%)

Bảng 1.7. Tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỉ suất gia tăng dân số Việt Nam

phân theo vùng năm 2005

Tỉ suất gia tăng dân số (%) Tỉ lệ bình quân đầu người so với cả nước (%) Tốc độ tăng trưởng kinh tế 2001 – 2005 (%)

Nguồn: Điều tra biến động dân số 1/4/2004, Tính toán từ Niên giám Thống kê năm 2005.

Toàn quốc Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Hồng Đồng bằng sông Cửu Long Duyên hải Nam Trung Bộ Tây Nguyên Đông Bắc Bắc Trung Bộ Tây Bắc 7,5 9,1 8,6 6,8 7,8 6,1 6,0 7,8 6,0 Thu nhập bình quân đầu người/năm (triệu đồng) 5,5 10,0 6,3 5,7 5,0 4,7 4,6 3,8 3,2 100 181,8 114,5 103,6 90,9 85,4 83,6 69,1 58,2 1,30 1,32 1,27 1,40 1,34 1,85 1,32 1,33 1,60

Ở nước ta, trong suốt hơn thập kỉ vừa qua, việc giảm tỉ suất gia tăng tự nhiên dân số đã góp phần

không nhỏ vào quá trình tăng trưởng kinh tế và nhờ vậy bình quân thu nhập đầu người ngày càng được

nâng cao (bảng 1.6).

Giữa các vùng kinh tế, mức gia tăng dân số không giống nhau và mức tăng trưởng kinh tế, thu

nhập bình quân đầu người theo các vùng cũng khác nhau. Hai vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông

Hồng dân số tăng chậm (1,27% và 1,32%) đã góp phần làm cho tăng trưởng kinh tế tương đối cao

(8,6% và 9,1%) và thu nhập bình quân đầu người cao hơn mức trung bình của cả nước. Các vùng Tây

Bắc, Tây Nguyên, mặc dù đã có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao, song do tỉ suất gia tăng tự

nhiên còn cao (1,6% và 1,85%) nên bình quân thu nhập đầu người chỉ bằng 58% và 85% so với cả

nước (bảng 1.7).

1.3.2.2. Dân số với lao động, việc làm

Nguồn lao động là vốn quý, là nhân tố của sản xuất ngay cả trong điều kiện sản xuất tự động hoá.

Vì thế, người lao động được xem là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất xã hội. Ngày nay,

khi mà trình độ khoa học kĩ thuật phát triển mạnh, ở các nước tiên tiến đều sử dụng máy móc tự động,

robot làm việc thay thế cho người… nhưng con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong sản xuất.

Quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển dân số quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ tăng nguồn lao

động. Nếu dân số nhóm tuổi 14 – 59 chiếm tỉ lệ lớn và tăng hàng năm thì sức ép về nhu cầu việc làm

của dân số đối với xã hội ngày càng lớn. Vì vậy, mối quan hệ dân số - việc làm chính là mối quan hệ

dân số - nguồn lao động. Dân số tăng nhanh gây sức ép cho vấn đề việc làm của địa phương. Khi giải

quyết tốt các nhu cầu việc làm của nguồn lao động sẽ có tác dụng tăng thu nhập cá nhân, gia đình và

địa phương, thúc đẩy kinh tế phát triển; từ đó góp phần ổn định xã hội, phát triển văn hoá, giáo dục và

bảo vệ môi trường.

1.3.2.3. Dân số với giáo dục

- Ảnh hưởng của dân số đến giáo dục

Sự thay đổi về quy mô và chất lượng dân số sẽ ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của hệ

thống giáo dục. Ở các nước đang phát triển, khi tỉ lệ tăng dân số cao, cơ cấu dân số trẻ trong khi kinh tế

chậm phát triển, vốn đầu tư cho giáo dục ít sẽ dẫn đến gánh nặng cho sự phát triển của nền giáo dục.

Dân số đông và tăng nhanh thì số dân đi học cũng đông và đòi hỏi phải mở thêm nhiều trường

lớp, phải đầu tư nhiều và nhanh, cung cấp sách giáo khoa, đồ dùng dạy học, giấy bút và các học phẩm

khác nhiều hơn, nhanh hơn, đào tạo giáo viên và bồi dưỡng cán bộ giáo dục cũng phải tăng lên.

Mặt khác, dân số đông và tăng nhanh sẽ tác động đến quy mô và chất lượng giáo dục thông qua

chất lượng cuộc sống. Thí dụ, tỉ lệ tăng dân số trên 1% hàng năm trở lên, nhưng sản xuất lương thực

chỉ tăng dưới 2,5% và tổng thu nhập quốc nội chỉ tăng dưới 4% hàng năm, thì mức sống vật chất sẽ

thấp, đời sống sẽ khó khăn, nhiều trẻ em không được tới trường, chất lượng dạy và học sẽ giảm sút, trẻ

em phải bỏ học, nạn mù chữ tăng lên, trường sở không được tu bổ kịp thời.

Dân số tác động đến giáo dục một cách tích cực hoặc tiêu cực là do chiều hướng và tính chất của sự

biến động dân số.

+ Dân số nếu phát triển hợp lí, cân đối thì sẽ trở thành điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển

giáo dục cả về chất lượng cũng như số lượng. Vì dân số phát triển cân đối với của cải do xã hội làm ra, tức

là tái sản xuất con người phù hợp với sản xuất ra của cải vật chất, chất lượng cuộc sống ngày một cao hơn,

giáo dục được đầu tư thích đáng.

+ Nếu dân số tăng quá nhanh sẽ dẫn đến sự gia tăng tỉ trọng dân số trong độ tuổi đi học. Hậu

quả là chất lượng và quy mô phát triển của giáo dục đều sút kém do tác động tiêu cực trực tiếp và gián

tiếp của dân số. Chất lượng giáo dục là một bộ phận của chất lượng cuộc sống xã hội nói chung. Chất

lượng giáo dục sẽ giảm sút một cách tất yếu nếu như chất lượng cuộc sống giảm sút do mất cân đối

giữa sản xuất của cải vật chất với tái sản xuất con người.

Ở nước ta do quy mô dân số tăng nhanh nên số lượng học sinh cũng không ngừng tăng, nhưng

những năm gần đây có xu hướng giảm do tỉ suất sinh giảm dần (bảng 1.8).

Bảng 1.8. Sự phát triển dân số và số lượng học sinh ở Việt Nam, thời kì 1995 – 2007

1995 – 1996

1997 – 1998

1999 – 2000

2001 – 2002

2003 – 2004

2005 – 2006

2006 – 2007

15561,0 16970,2 17685,3

17875,6 17505,4 16650,6

16256,6

số

(nghìn

72576

74882

77116

79207

81467,1

82569

84155,8

21,44

22,66

22,93

22,56

21,48

20,16

19,31

Số lượng HS (nghìn HS) Dân người) % số HS /tổng số dân

Nguồn: Niên giám Thống kê, 2006.

Tác động gián tiếp của quy mô và tốc độ tăng dân số thể hiện thông qua ảnh hưởng của sự gia

tăng dân số nhanh đến chất lượng cuộc sống, mức thu nhập, từ đó ảnh hưởng đến đầu tư cho giáo dục,

ảnh hưởng đến quy mô, chất lượng giáo dục và sự bình đẳng trong giáo dục.

+ Cơ cấu dân số theo tuổi cũng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của giáo dục

Cơ cấu dân số trẻ dẫn đến số người trong độ tuổi đi học đông, nhu cầu giáo dục lớn và ngược lại.

Ở hầu hết các nước đang phát triển, do mức sinh cao nên cơ cấu dân số trẻ. Do đó, quy mô của nền

giáo dục tương ứng với dân số này thông thường có số học sinh cấp I (tiểu học) > cấp II (THCS) > cấp

III (THPT). Ngược lại, những nước có cơ cấu dân số già, cấu trúc của nền giáo dục tương ứng sẽ có số

lượng học sinh cấp I < cấp II < cấp III. Điều này cũng đúng với Việt Nam (bảng 1.9).

Bảng 1.9. Số lượng học sinh các cấp của Việt Nam, thời kì 1995 – 2007

Số HS (nghìn HS) 1995 – 1996 1999 – 2000 2003 – 2004 2006 – 2007

Nguồn: Niên giám Thống kê, 2006.

Số HS tiểu học Số HS THCS Số HS THPT Tổng số 10228,8 4312,7 1019,5 15561 7029,4 8346,0 10033,5 6152,0 6569,8 5694,8 1957,0 3075,2 2589,6 17685,3 17505,4 16256,6 Tỉ lệ HS năm học 2006 – 2007 (%) 43,24 37,84 18,92 100,0

+ Sự phân bố dân số cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của giáo dục

Ở thành thị và các vùng đông dân, kinh tế phát triển mạnh và cơ sở hạ tầng khá tốt. Vì vậy, những

nơi này hệ thống giáo dục thường phát triển hơn nên trẻ em có nhiều cơ hội đến trường hơn những

vùng nông thôn kinh tế kém phát triển, dân cư thưa thớt. Mật độ dân số quá lớn, số trẻ em đi học cao

gây nên sự quá tải, học sinh phải học cả ca 3. Ngược lại, ở nơi dân cư thưa thớt, số trẻ em trong độ tuổi

đi học không nhiều, khoảng cách từ nhà đến trường lớn cũng là một yếu tố gây khó khăn cho ngành

giáo dục.

- Ảnh hưởng của giáo dục đến dân số

+ Ảnh hưởng của giáo dục đến quá trình hôn nhân

Ảnh hưởng của giáo dục đến quá trình hôn nhân thể hiện qua quyền lựa chọn bạn đời; tuổi kết

hôn lần đầu và li hôn. Thanh niên nam nữ có trình độ học vấn cao, đặc biệt là phụ nữ có quyền tự do

lựa chọn người bạn đời mà mình sẽ chung sống, lựa chọn thời điểm kết hôn và li hôn khi cần thiết.

+ Ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh

Trên thế giới có rất nhiều công trình nghiên cứu ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh. Hầu hết

các công trình nghiên cứu đều khẳng định rằng giáo dục có vai trò quyết định trong việc giảm mức

sinh. Ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh được thể hiện như sau: trình độ học vấn cao sẽ làm thay

đổi nhận thức và phương pháp sinh đẻ, về số con và thời điểm sinh con. Điều đó thúc đẩy sự tự nguyện

sử dụng các biện pháp tránh thai, làm giảm mức sinh. Số lượng trẻ em sinh ra lại tạo điều kiện cho phụ

nữ nâng cao trình độ học vấn. Trình độ học vấn cao lại là tiền đề làm giảm mức sinh.

Tuy nhiên, không phải khi phụ nữ có trình độ học vấn cao thì họ thôi không sinh con nữa. Nhiều

công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng để giáo dục có ảnh hưởng đến việc giảm sinh thì trình độ

của dân số phải đạt đến một mức gọi là “ngưỡng” và đến một “ngưỡng” nhất định thì mức sinh không

giảm nữa. Ngưỡng học vấn có ảnh hưởng đến mức sinh ở các nước khác nhau thì khác nhau, tuỳ thuộc

vào điều kiện kinh tế - xã hội của nước đó.

+ Giáo dục có ảnh hưởng đến mức chết

Trình độ giáo dục có ảnh hưởng đến mức chết, đặc biệt mức chết trẻ em. Hầu hết các công trình

nghiên cứu về mức chết trẻ em ở các nước đang phát triển đều cho rằng trình độ giáo dục, đặc biệt là

trình độ giáo dục của người phụ nữ là “chìa khoá” để giảm mức chết trẻ em. Phụ nữ có trình độ học

vấn thấp thường sinh nhiều con hơn, khoảng cách giữa 2 lần sinh thường ngắn hơn 24 tháng. Đồng thời

những phụ nữ có trình độ học vấn thấp thường ít hiểu biết về cách nuôi con và phòng chống các bệnh

tật, họ cũng thường là những người có thu nhập thấp nên ít có điều kiện để chăm sóc con tốt hơn khi

ốm đau. (bảng 1.10)

Bảng 1.10. Mối quan hệ giữa giáo dục và mức chết của trẻ em năm 2005

Nhóm nước

Thế giới Tỉ lệ người lớn biết chữ (%) 78,6 Tỉ lệ phụ nữ biết chữ (%) 68 Tỉ suất chết dưới 5 tuổi (‰) 84

Thu nhập thấp Thu nhập trung bình Thu nhập cao 60,2 90,0 91,0 51 80 98

119 40 7 Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình dân số - sức khỏe sinh sản

Tóm lại, giáo dục có ảnh hưởng đến mức sinh và mức chết của dân số. Tuy nhiên, giáo dục là một

trong các nhân tố thuộc yếu tố kinh tế - xã hội, tác động đến sinh và chết của dân số thông qua các yếu

tố trung gian như tuổi của bà mẹ, khoảng cách giữa 2 lần sinh con, số con sinh ra trong gia đình và tỉ lệ

thực hiện các biện pháp tránh thai, điều kiện chăm sóc con khi bệnh tật, ốm đau….

Ngoài ra, giáo dục còn ảnh hưởng đến di dân, đặc biệt là di dân từ nông thôn ra thành thị. Phần

lớn các nước đang phát triển, thành thị là nơi có điều kiện sống tốt hơn và dễ kiếm việc làm hơn nông

thôn. Do đó, những người có trình độ học vấn cao thường ra thành thị làm ăn sinh sống.

1.3.2.4. Dân số với y tế

Mối quan hệ giữa dân số và y tế có tính chất tương hỗ. Một mặt y tế tác động đến toàn bộ quá

trình tái sản xuất dân số, mặt khác sự “bùng nổ dân số” cũng đang tạo sức ép mạnh mẽ đối với ngành y

tế.

- Tác động của dân số với hệ thống y tế

Dân số là một yếu tố có tính chất khách quan và cùng với các yếu tố khác như trình độ phát triển

kinh tế - xã hội, điều kiện vệ sinh môi trường, chính sách của nhà nước đối với y tế… quy định sự phát

triển của y tế về số lượng, chất lượng, hiệu quả cũng như cơ cấu ngành y tế.

+ Quy mô và tỉ lệ gia tăng dân số ảnh hưởng đến hệ thống y tế

Quy mô dân số quy định số lượng y bác sĩ và số lượng cơ sở y tế.

Ở các nước đang phát triển, dân số tăng nhanh dẫn đến nhiều vấn đề như: nghèo đói, môi trường

sống ô nhiễm, tệ nạn xã hội…. Những nguyên nhân này góp phần làm tăng bệnh tật, thương tật. Từ đó,

đòi hỏi các nước này phải đẩy mạnh kế hoạch hoá gia đình, công tác chăm sóc sức khỏe, do đó gây sức

ép lớn lên ngành y tế.

+ Sức khoẻ, tình trạng mắc bệnh, nhu cầu kế hoạch hoá gia đình phụ thuộc rất lớn vào độ tuổi,

giới tính của con người

Lứa tuổi thanh niên, trung niên có sức khoẻ tốt hơn và do đó tỉ lệ mắc bệnh và mức chết thấp hơn

so với trẻ em và người già. Nhu cầu kế hoạch hoá gia đình cũng cao hơn các nhóm tuổi khác.

Cơ cấu dân số theo giới cũng tác động đến y tế. Do đặc điểm tâm lí, sinh lí và các nhu cầu khác

nhau của phụ nữ và nam giới trong cuộc sống nên tình trạng ốm đau, bệnh tật, nhu cầu kế hoạch hoá

gia đình của phụ nữ khác nam giới.

+ Phân bố dân cư ảnh hưởng đến hệ thống y tế

Ở các khu vực địa lí khác nhau như đồng bằng, miền núi, thành thị, nông thôn có sự khác nhau về

điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nên có cơ cấu bệnh tật khác nhau. Ví dụ, ở vùng đồng bằng, vùng

ven biển miền Bắc Việt Nam thì các bệnh về đường tiêu hoá, bệnh hô hấp là phổ biến, nhưng ở vùng

núi cao thì có bệnh sốt rét, bướu cổ lại là những bệnh cần quan tâm phòng chống. Các bệnh xã hội

nguy hiểm và hay lây lan như giang mai, hoa liễu, AIDS… thường tập trung ở các thành phố lớn có

mật độ dân số cao.

+ Mật độ dân số cũng ảnh hưởng đến hiệu quả phục vụ của các hệ thống y tế

Ở những nơi mật độ dân số quá thấp, một cán bộ hay một cơ sở y tế chỉ phục vụ được một số ít

dân nên hiệu quả không cao. Ngược lại, nếu mật độ dân số quá cao, không đủ cán bộ và các phương

tiện y tế cần thiết thì xảy ra tình trạng ngược lại. Nhiều bệnh nhân không được chăm sóc đầy đủ dẫn

đến tử vong tăng lên. Mật độ dân số quá thấp hoặc quá cao đều ảnh hưởng đến công tác y tế dự phòng.

+ Kế hoạch hoá gia đình tác động đến y tế

Mức sinh cao, mức chết thấp, dân số phát triển mạnh đã dẫn đến việc xuất hiện nhu cầu kế hoạch

hoá gia đình, đòi hỏi y tế phát triển vì số lượng sử dụng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình ngày càng tăng.

Cùng với việc thực hiện các dịch vụ, các cán bộ y tế còn phải tuyên truyền trong nhân dân về dân số,

sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình. Ngành y tế cũng tiến hành sản xuất và phân phối rộng rãi các

phương tiện tránh thai. Sức ép của gia tăng dân số đã làm biến đổi cơ cấu hoạt động và cơ cấu tổ chức

của ngành y tế.

- Tác động của y tế với dân số

+ Y tế tác động đến mức sinh

Sự phát triển của hệ thống y tế, nhất là mạng lưới y tế cơ sở có những tác động tích cực đến việc

chăm sóc sức khoẻ cho con người, phòng chống và hạn chế các bệnh dịch lây nhiễm, giảm mức chết,

nâng cao tuổi thọ. Ngành y tế đã đóng góp trực tiếp trong việc tạo ra phương tiện và phương pháp hạn

chế sinh đẻ, tổ chức cung cấp dịch vụ tránh thai, tránh đẻ. Còn bộ y tế cũng tham gia tuyên truyền vận

động, tư vấn về KHHGĐ. Đó là một giải pháp cơ bản để giảm sinh.

Công tác chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ bà mẹ trẻ em được tăng cường làm giảm mức chết ở trẻ sơ

sinh cũng đã gián tiếp góp phần làm giảm mức sinh. Nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra rằng ở các

nước lạc hậu một trong những nguyên nhân thúc đẩy các bà mẹ đẻ nhiều là dự phòng khi con chết. Khi

điều kiện y tế, chăm sóc sức khoẻ tốt hơn, khả năng chết của trẻ em thấp thì các bà mẹ yên tâm không

cần đẻ dự phòng nữa.

Việc tăng cường các điều kiện xã hội chăm sóc sức khoẻ cho người già trong đó có sự đóng góp

của y tế cũng góp phần làm giảm nhu cầu có con. Như vậy, muốn giảm mức sinh phải phát triển hệ

thống y tế nói chung và hệ thống chuyên ngành kế hoạch hoá gia đình nói riêng.

+ Y tế tác động đến mức chết

Ngày nay, trẻ em được tiêm phòng các bệnh như sởi, lao, ho gà, uốn ván, bạch hầu. Nhờ vậy, mức

chết đã giảm nhiều. Đối với người lớn, y tế đã chữa được những bệnh gây tử vong cao. Từ đó, hạ thấp

mức chết, nâng cao tuổi thọ trung bình của dân số.

Tác động của y tế đến mức chết đặc biệt thấy rõ ở các nước đang phát triển nhờ sử dụng rộng rãi

hệ thống y tế dự phòng mang lại hiệu quả cao về mặt kinh tế - xã hội.

1.3.2.5. Dân số với chất lượng cuộc sống và môi trường

Để tồn tại được loài người đòi hỏi những nhu cầu rất lớn về ăn, mặc, nhà ở, tiêu dùng chất đốt và

những tư liệu tiêu dùng khác. Đáp ứng những nhu cầu này, người ta phải khai thác nguồn tài nguyên

thiên nhiên để tiến hành sản xuất. Số dân càng đông thì quy mô sản xuất càng lớn, hậu quả là tài

nguyên cạn kiệt nhanh và chất thải độc hại từ quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm ngày càng lớn,

môi trường sống bị ô nhiễm ngày một nặng nề, cuộc sống loài người bị đe doạ. Với cùng một trình độ

của phát triển khoa học, kĩ thuật và công nghệ thì khối lượng tài nguyên thiên nhiên bị khai thác và

khối lượng chất thải gây ô nhiễm, đương nhiên tỉ lệ thuận với số dân, gây nên hậu quả là tài nguyên

thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, môi trường sống bị ô nhiễm ngày một nặng nề, cuộc sống của loài

người bị đe doạ.

Bảng 1.11. Độ che phủ rừng thế giới năm 2005

Diện tích rừng năm 2005 Khu vực Sự thay đổi trung bình 2000 - 2005

Nguồn: Nguyễn Minh Tuệ - Giáo trình dân số - sức khỏe sinh sản

Nghìn ha Độ che phủ % 3.952.025 635.412 571.577 1.001.394 705.849 831.540 206.254 30,3 21,4 18,5 44,3 39,2 47,7 24,3 Nghìn ha + 82.570 - 584.454 + 23.784 - 37.857 + 136.545 - 24.078 + 8.631 % + 0,7 - 0,4 + 0,8 - 1,7 + 13,5 - 2,8 + 1,0 Thế giới Châu Phi Châu Á Châu Âu Bắc và Trung Mỹ Nam Mỹ Châu Đại Dương

Sự gia tăng dân số quá nhanh ở châu Phi với các hoạt động khai thác rừng bừa bãi cùng với thiên

tai, chiến tranh… là những nguyên nhân làm cho diện tích rừng ở châu lục này ngày càng giảm dần. Ở

châu Á, dân số quá đông, các hoạt động khai thác rừng diễn ra mạnh mẽ làm cho tỉ lệ che phủ rừng rất

thấp (18,5%).

Chương 2: DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG

2.1. Khái quát tỉnh Bình Dương

Bình Dương thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, được tái

lập từ tỉnh Sông Bé từ ngày 01/01/1997.

Về vị trí: Bình Dương nằm ở vĩ độ: 11052’Bắc – 12018’Bắc, kinh độ: 106045’ – 107067’Đông,

phía Bắc giáp tỉnh Bình Phước, phía Nam giáp thành phố Hồ Chí Minh, phía Đông giáp tỉnh Đồng Nai,

phía Tây giáp tỉnh Tây Ninh và thành phố Hồ Chí Minh.

Tỉnh có địa hình tương đối bằng phẳng, cơ cấu địa chất vững chắc, với khí hậu thuận lợi, thích

hợp cho việc sinh trưởng, phát triển của các loại cây công nghiệp dài ngày và cho việc xây dựng các

khu công nghiệp tập trung, các khu dân cư và các trung tâm thương mại; có hệ thống giao thông đường

thuỷ, bộ quan trọng (quốc lộ 1A, quốc lộ 13, sông Sài Gòn, sông Đồng Nai), thuận lợi cho việc đi lại

và vận chuyển hàng hoá.

Với những ưu thế về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng và các điều kiện kinh tế xã hội khác, trong

những năm qua, nền kinh tế Bình Dương tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao: GDP năm 1997 tăng

17,7%, năm 2007 tăng 15,3%.

Bình Dương chủ động phát huy nội lực và thực hiện chủ trương, chính sách mở cửa thông thoáng

thu hút nhân tài, vật lực từ khắp mọi miền tổ quốc và từ nhiều nước trên thế giới đầu tư phát triển kinh

tế - xã hội. Tính đến năm 2007, toàn tỉnh có khoảng 5.067 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số tiền

vốn khoảng 29.030 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân của ngành công nghiệp là 35,6%/năm, nông nghiệp

là 6,2%/năm, dịch vụ là 15,5%/năm.

Dân số năm 2007 là 1.075.457 người, trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 97,08%, dân tộc thiểu

số chiếm khoảng 0,91%, chủ yếu là dân tộc Khơ – me, Nùng, Chăm. Dân số có tín ngưỡng tôn giáo

chiếm khoảng 12%, trong đó Thiên chúa giáo: 53,58%, Phật giáo: 40,8%, Cao đài: 3,96%, Tin lành:

1,2%....

Đơn vị

Số xã, phường

Diện tích

Mật độ dân số (người/km2)

6 8 6 20 10 14 11

87,88 84,26 60,10 613,44 543,78 584,37 721,39

Dân số trung bình 2007 (người) 178.029 231.763 185.422 162.586 72.085 143.911 101.661

2.026 2.751 3.085 265 133 246 141

TX. Thủ Dầu Một Thuận An Dĩ An Tân Uyên Phú Giáo Bến Cát Dầu Tiếng

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 2007.

Bảng 2.1. Diện tích và dân số các đơn vị hành chính tỉnh Bình Dương

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 2007

Hình 2.1. Lược đồ hành chính tỉnh Bình Dương

2.2. Tình hình phát triển dân số tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997 - 2007

2.2.1. Quy mô, cơ cấu dân số

2.2.1.1. Quy mô dân số

Bình Dương có 1.075.457 ngàn người (2007), tỉ lệ gia tăng tự nhiên ở mức trung bình nhưng tỉ lệ

gia tăng cơ học cao vì có sức hút mạnh dân cư từ các tỉnh khác đến.

Dân số từ 1997 đến nay liên tục tăng với tốc độ gia tăng dân số hàng năm là 4,84%, dân số năm

2007 gấp 1,58 lần năm 1997.

Bảng 2.2. Dân số và tỉ lệ gia tăng dân số tỉnh Bình Dương (1997 – 2007)

1997

1999

2001

2003

2005

2007

679,044 721,933 769,946 853,807 1.030,722 1.075,457

Dân số (ngàn người) Tỉ lệ gia tăng dân số (%)

3,1

3,6

2,4

5,4

11,39 3,1 Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

Trong giai đoạn 1997 – 2000, tỉ lệ gia tăng dân số vào khoảng 3%, trong đó gia tăng cơ học là

1,43%, nhưng từ giai đoạn 2000 – 2007 tỉ lệ gia tăng dân số lại rất cao (trung bình là 5,3%). Năm1997

gia tăng dân số trung bình của tỉnh là 3,1%, năm 2007 giảm xuống còn 2,4%.

Năm 2007, Bình Dương chiếm khoảng 7% dân số toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. So với

các tỉnh có ngành công nghiệp phát triển trong vùng thì quy mô dân số Bình Dương thấp hơn Đồng Nai

và TP. HCM nhưng tỉ lệ gia tăng dân số cao hơn hẳn.

Bảng 2.3. Dân số một số tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (1997 - 2007) Đơn vị: nghìn người

Đồng Nai TP.HCM Bà Rịa – Vũng Tàu

1997 1920,0 4852,3 752,7

1999 1999,5 5073,1 805,1

2001 2067,2 5378,1 839,0

2003 2142,7 5554,8 884,9

2007 2253,3 6347,0 947,3

Nguồn: Niên giám Thống kê 2007.

TP. HCM là nơi có gia tăng dân số nhanh trong vùng thì tỉ lệ gia tăng dân số cũng chỉ vào khoảng

3%, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu có tỉ lệ gia tăng dân số dưới 2%, trong khi ở Bình Dương con số

này thường là trên 5%. Dù vậy, tỉ lệ gia tăng tự nhiên của Bình Dương lại ở mức thấp (vào năm 2004

và 2007 lần lượt là 1,16% và 1,05%). Điều này cho thấy trong thời gian gần đây, sự phát triển công

nghiệp của tỉnh đã thu hút một luồng nhập cư không nhỏ từ các khu vực khác trong nước đến Bình

Dương làm việc.

Nhìn chung, dân số của các huyện thị trong thời gian từ 1997 đến nay đều tăng nhưng tỉ lệ gia

tăng không giống nhau.

Bảng 2.4. Dân số và tỉ lệ gia tăng dân số tỉnh Bình Dương phân theo huyện Đơn vị: Nghìn người

1997

1999

2004

2007

Tỉ lệ gia tăng dân số (%) 1999 - 2004 – 1999 – 2007 2007 2004 2,60 2,78 2,49 1,99 1,67 2,18 3,93 5,53 3,00 2,44 1,80 2,82 4,02 5,56 3,10 9,05 7,55 9,95

178,029 101,661 143,911 72,085 162,586 231,763

163,778 96,679 121,911 68,284 137,612 184,759

144,597 86,713 105,102 59,298 117,886 112,359

133,403 207,936 176,355 167,590

TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An

Dĩ An

96,005 152,295 185,422

9,23

6,56

8,23

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 1999, 2004, 2007.

Dân cư phần lớn tập trung ở các huyện thị phía Nam (Thuận An, Dĩ An, TX. Thủ Dầu Một). Các

huyện thị này chiếm 8,62% diện tích nhưng chiếm đến 55,34% dân số toàn tỉnh (hình 2.2). Tỉ lệ gia

tăng dân số các huyện phía nam cũng cao hơn hẳn so với các huyện phía bắc của tỉnh.

Hình 2.2. Cơ cấu diện tích và dân số tỉnh Bình Dương phân theo huyện năm 2007 (%)

3.14 3.26

2.23

16.55

21.56

26.76

22.76

9.45

17.24

13.38

20.17

21.68

15.12

6.7

Diện tích

TX. Thủ Dầu Một

Dầu Tiếng

Bến Cát

Phú Giáo

Tân Uyên Dĩ An

Dân số Thuận An

TX. Thủ Dầu Một có tốc độ tăng dân số tương đối ổn định hơn cả và dao động trong khoảng từ

2,49% (1999 - 2004) đến 2,78% (2004 - 2007). Tỉ lệ gia tăng dân số trung bình trong giai đoạn 1999 –

2007 là 2,60%. Thuận An và Dĩ An có tỉ lệ gia tăng dân số rất cao. Trong giai đoạn 1999 – 2004, hai

huyện này đều có tỉ lệ gia tăng dân số trên 9%. Từ 2004 – 2007, tỉ lệ gia tăng dân số của 2 huyện giảm

xuống nhưng vẫn ở mức cao. Tỉ lệ gia tăng dân số trung bình giai đoạn 2004 – 2007 của Thuận An là

7,55 % và của Dĩ An là 6,56%. Tỉ lệ gia tăng dân số trung bình từ 1999 – 2007 của Thuận An và Dĩ

An lần lượt là 9,05% và 8,23%; cả 2 huyện là 8,67%; dân số cả 2 huyện năm 2007 tăng gấp 2 lần dân

số năm 1999.

Ở các huyện phía Bắc (Bến Cát, Tân Uyên, Dầu Tiếng, Phú Giáo) chiếm 91,08% diện tích toàn

tỉnh nhưng chỉ chiếm chưa đến 1/2 dân số toàn tỉnh. Hai huyện Tân Uyên và Bến Cát có tỉ lệ gia tăng

dân số biến động khá mạnh. Trong giai đoạn 1999 – 2004, tỉ lệ gia tăng dân số của 2 huyện này vào

khoảng 3% nhưng đến giai đoạn 2004 – 2007 đã tăng lên gần 6%. Tỉ lệ gia tăng dân số trung bình của

2 huyện từ 1999 – 2007 là 4,02% và 3,03%.

Dân số ở hai huyện còn lại (Phú Giáo và Dầu Tiếng) chiếm tỉ lệ nhỏ và tỉ lệ gia tăng cũng thấp

hơn cả. Giai đoạn 1999 – 2004, tỉ lệ gia tăng dân số của 2 huyện này lần lượt là 1,54% và 2,82%; giai

đoạn 2004 – 2007 là 2,44% và 1,99%.

Như vậy, dân số của tỉnh tập trung chủ yếu ở các huyện phía Nam nơi có hoạt động sản xuất công

nghiệp diễn ra mạnh mẽ, vị trí địa lí và giao thông vận tải thuận lợi. Trong thời gian gần đây, 2 huyện

Bến Cát và Tân Uyên cũng có tỉ lệ gia tăng dân số cao mà nguyên nhân chủ yếu là do sự mở rộng sản

xuất công nghiệp sang hai huyện này với sự ra đời của các khu công nghiệp trên địa bàn.

2.2.1.2. Cơ cấu dân số

- Cơ cấu theo tuổi

Cơ cấu tuổi và giới tính là một trong những đặc trưng quan trọng của cơ cấu dân số. Sự phát triển

dân số, cơ cấu tuổi của dân số, cơ cấu giới tính có mối quan hệ qua lại mật thiết với sự biến đổi của

mức sinh, tỉ lệ tử vong và chuyển cư. Trong chừng mực nào đó cơ cấu dân số là kết quả của những

biến động về kinh tế - xã hội, chính trị và chiến tranh…

Cơ cấu tuổi của dân cư Bình Dương từ 1997 đến nay có nhiều biến đổi. Tỉ lệ trẻ em từ 0 – 14 tuổi

có xu hướng giảm. Số người trong độ tuổi lao động (15 – 59 tuổi) và trên tuổi lao động (60 tuổi trở lên)

có xu hướng tăng lên.

Năm 1997, tỉ lệ trẻ em từ 0 – 14 tuổi là 39,77%, năm 1999 giảm xuống còn 29% và đến năm 2007

chỉ còn chiếm 23,35% dân số, thấp hơn so với cả nước (năm 2007 tỉ lệ trẻ em từ 0 – 14 tuổi của cả

nước là 25,51%). Trong đó, tỉ lệ nam lần lượt là 41,91%, 30,96% và 24,90% cùng thời kì; nữ chiếm

37,72%, 27,16% và 21,93% (cả nước năm 2007 tỉ lệ nam và nữ từ 0 – 14 tuổi lần lượt là 26,79% và

24,26%). Số liệu tuyệt đối cũng giảm đi. Năm 1997 số người dưới tuổi lao động là 272.556 người, năm

2007 giảm xuống còn 254.776 người. Đây là xu hướng tiến bộ đưa cơ cấu dân số của Bình Dương

xích lại gần cơ cấu dân số theo tuổi của các nước công nghiệp phát triển. Duy trì cơ cấu trẻ em dưới 15

tuổi ở mức thấp hơn 30% thể hiện hiệu quả của kế hoạch hoá gia đình, giảm tỉ lệ sinh và làm giảm tỉ lệ

gia tăng dân số, tạo điều kiện nâng cao thu nhập, dân trí và các phúc lợi xã hội khác cho người dân.

Bảng 2.5. Cơ cấu theo tuổi của dân cư Bình Dương (1997 – 2007)

Độ tuổi

Giới tính

0 - 14

15 – 59

60

Từ trở lên

Nam và nữ Tỉ lệ (%) Nam (nghìn người) Tỉ lệ (%) Nữ (nghìn người) Tỉ lệ (%) Nam và nữ Tỉ lệ (%) Nam (nghìn người) Tỉ lệ (%) Nữ (nghìn người) Tỉ lệ (%) Nam và nữ Tỉ lệ (%) Nam (nghìn người) Tỉ lệ (%) Nữ (nghìn người)

1997 272,556 39,77 140,734 41,91 131,822 37,72 372,883 54,41 176,943 52,69 195,940 56,06 39,845 5,81 18113 5,40 21,732

1999 207,758 29,00 107,252 30,96 100,506 27,16 465,727 63,75 218,792 63,16 246,935 66,73 42,943 7,25 20,359 5,88 22,584

2004 237,445 24,32 122,821 26,51 114,624 22,35 663,406 67,96 313,987 67,77 349,419 68,14 75,277 7,71 26,519 5,72 48,758

2007 254,776 23,35 129,860 24,90 124,916 21,93 752,428 68,97 359,253 68,89 393,175 69,04 83,726 7,67 32,347 6,20 51,379

Tỉ lệ (%)

6,22

6,10

9,51

9,02

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 1999, 2004, 2007.

Số người trong độ tuổi lao động (từ 15 – 59 tuổi) của tỉnh cũng thay đổi theo chiều hướng tăng

lên. Năm 1997 chiếm 54,41% dân số toàn tỉnh (nam: 52,69%, nữ: 56,06%), 1999: 63,75% (nam:

63,16%, nữ: 66,73%) và 2007 chiếm 68,97% (nam: 68,89%, nữ: 69,04%).

Số người trên độ tuổi lao động đang có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chiếm tỉ lệ nhỏ. Năm 1997,

tỉ lệ người trên tuổi lao động là 5,81%, 1999 là 7,25% và 2007 là 7,67%.

Đây là một biểu hiện cơ bản của một nền kinh tế đang phát triển, các chính sách bảo hiểm xã hội,

chăm sóc sức khoẻ cho người già… chưa thực sự được coi trọng và phát huy hiệu quả. Ở các nước phát

triển, tỉ lệ người trên tuổi lao động thường từ 10% trở lên.

Năm 1997 Năm 1999

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997,1999.

Hình 2.3. Tháp tuổi dân số tỉnh Bình Dương

Nhóm tuổi

85+

80_84

75_79

70_74

65_69

60_64

NAM 521.460

NỮ 569.470

55_59

50_54

45_49

40_44

35_39

30_34

25_29

20_24

15_19

10_14

5_9

0_4

0

30

60

0

Nghìn người

60

30

Nghìn người

Hình 2.4. Tháp tuổi dân số tỉnh Bình Dương năm 2007

Tháp tuổi dân số Bình Dương qua các năm 1997, 1999 và 2007 cho thấy trong số người trong độ

tuổi lao động ngày càng tăng lên, nhất là trong độ tuổi từ 15 – 34. Điều này phản ánh rõ sự gia tăng dân

số do nhập cư của tỉnh Bình Dương do sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ của tỉnh trong thời gian qua.

Dân số phụ thuộc:

Ở Bình Dương tỉ số dân số phụ thuộc được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.6. Tỉ số dân số phụ thuộc tỉnh Bình Dương (1997 – 2007)

Đơn vị: %

Tỉ số phụ thuộc

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 1999, 2006.

Chung Trẻ em Người già 1997 87,78 73,09 10,69 1999 53,83 44,61 9,22 2007 44,98 33,86 11,13

Số liệu bảng 2.6 cho thấy tỉ số phụ thuộc chung của Bình Dương giảm nhanh chóng từ 87,78%

xuống 53,83% (1999) và chỉ còn 44,98% (2007), nghĩa là Bình Dương đã đạt được “cơ cấu dân số

vàng”. So với cả nước tỉ lệ phụ thuộc của dân số Bình Dương thấp hơn (tỉ lệ phụ thuộc chung của dân

số cả nước là 54 năm 2007). Tỉ số phụ thuộc trẻ em cũng giảm nhanh từ 73,09% (1997) xuống còn

33,86% (2007). Như vậy, sau 10 năm tỉ số phụ thuộc trẻ em đã giảm đi một nửa, so với cả nước phải

mất 26 năm mới giảm đi một nửa thì tỉ số phụ thuộc trẻ em của Bình Dương giảm nhanh hơn nhiều. Tỉ

số phụ thuộc người già có xu hướng tăng chậm, từ 10,69% (1997) lên 11,13% (2007). Tỉ số phụ thuộc

trẻ em và người già của Bình Dương thấp hơn cả nước (tỉ số phụ thuộc trẻ em và người già của cả nước

năm 2007 lần lượt là 39 và 15). Điều này chứng tỏ hiệu quả của công tác dân số làm giảm tỉ lệ trẻ em,

gánh nặng người phụ thuộc lên người lao động ngày càng giảm đi, chất lượng cuộc sống được nâng

cao.

- Cơ cấu theo giới tính

Về cơ cấu theo giới tính của tỉnh Bình Dương, tỉ lệ nữ luôn cao hơn nam giới và có xu hướng tăng

chậm trong suốt thời kì từ 1997 – nay.

Bảng 2.7. Cơ cấu dân số theo giới tính tỉnh Bình Dương (1997 – 2007)

Giới tính

2007 1.090,930 521,460 47,80 569,470 52,20 91,56 1997 685,284 335,790 49 349,494 51 96,07 Nam và nữ (nghìn người) Nam (nghìn người) Tỉ lệ (%) Nữ (nghìn người) Tỉ lệ (%) Nam/nữ (%) 1999 716,428 346,403 48,35 370,025 51,65 93,61 Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 1999, 2007.

Tỉ số giới tính (nam/nữ) giảm từ 96,07% (1997) lên 91,56% năm 2007. Chỉ số này năm 2007 ở

Đồng Nai là 98,42%, TP. HCM là 93,28%, Bà Rịa – Vũng Tàu là 100,50%. Như vậy, so với các tỉnh

thành trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thì Bình Dương có tỉ lệ nữ cao hơn một chút. Điều này

cũng dễ hiểu vì Bình Dương đang trong giai đoạn phát triển công nghiệp và chủ yếu là công nghiệp

nhẹ nên thu hút nhiều lao động nữ đến làm việc.

Về cơ cấu giới tính phân theo huyện thì nhìn chung tất cả các huyện đều có tỉ lệ nữ cao hơn nam

một chút và dao động trong khoảng từ 93 – 96 nam/100 nữ. So với năm 1997, tỉ số giới tính (nam/100

nữ) giảm đi ở hầu hết các huyện. Riêng các huyện có tỉ số giới tính khá thấp (khoảng 85 – 87 nam/100

nữ) thuộc về những huyện đang tập trung phát triển mạnh về công nghiệp nhất là công nghiệp nhẹ như

Dĩ An, Bến Cát khiến các huyện này có đông lao động nữ làm việc (bảng 2.8).

Bảng 2.8. Tỉ số giới tính phân theo huyện (1999 – 2007) Đơn vị: Nam/100 nữ

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê 1999, 2007.

2007 90,49 97,18 87,72 99,70 93,02 93,28 85,98 1999 94,07 93,45 93,12 94,52 92,94 94,16 93,37 Địa phương TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An Dĩ An

- Cơ cấu theo dân tộc

Bảng 2.9. Dân tộc thiểu số tỉnh Bình Dương năm 2008 Đơn vị: Người

Toàn tỉnh

Chia ra các huyện – thị

STT

Người

Tỉ lệ (%)

Dầu Tiếng

Bến Cát

Phú Giáo

Tân Uyên

Thuận An

Dĩ An

Thổ

415 14 45 17 11 100 10 20 5 5 17 3

1248 5 277 404 123 136 15 43 31 79 3 8

Dân tộc thiểu số Khơme 1 Chăm 2 Tày 3 Nùng 4 Stiêng 5 6 Mường Châuro 7 Thái 8 SánDìu 9 10 SánChỉ 11 Dao 12 Bahi Êđê 13 14 Raglai 15 16 K’Ho CỘNG

4442 500 860 965 204 449 58 148 48 89 8 5 26 22 11 2 7.837

56,68 6,38 10,97 12,32 2,60 5,73 0,74 1,89 0,62 1,13 0,10 0,06 0,33 0,28 0,15 0,02 100

1243 370 369 293 7 117 8 57 12 3 5 2.484

662 2.372

659 20 21 161 25 40 25 11 7 10 5 2 986

Thủ Dầu Một 421 22 143 74 29 41 17 747

281 12 9 15 3 317

175 69 5 4 16 269

Nguồn: Ban Tôn giáo – Dân tộc tỉnh Bình Dương.

Trên địa bàn tỉnh Bình Dương có tất cả 18 dân tộc, đông nhất là dân tộc Kinh, có khoảng

1.042,287 nghìn người, chiếm 97,2% dân số, dân tộc Hoa chiếm khoảng 2% dân số, các dân tộc thiểu

số khác chiếm khoảng 0,75% (7.837 người), trong đó chủ yếu là người Khơme (4442 người – 56,68%

dân tộc thiểu số toàn tỉnh), Tày, Chăm….. Các dân tộc này tập trung chủ yếu ở các huyện phía Bắc của

tỉnh như Dầu Tiếng (2.484 người – 31,70%), Phú Giáo (2.372 người – 30,27%), hoạt động nông

nghiệp là chủ yếu. Ở các huyện phía Nam có rất ít dân tộc thiểu số, như ở Thuận An chỉ có 317 người,

Dĩ An có 269 người, nhưng người Hoa thì tập trung chủ yếu ở khu vực này, nhất là ở TX. Thủ Dầu

Một, thị trấn Lái Thiêu (Thuận An). Trước đây, ngành nghề chủ yếu của người Hoa ở Bình Dương là

làm gốm, buôn bán nhỏ; nhưng gần đây do ảnh hưởng đến môi trường trong hoạt động sản xuất nên

nhiều hộ người Hoa đã chuyển sang kinh doanh buôn bán và làm ăn rất phát đạt.

- Cơ cấu lao động

+ Nguồn lao động:

Dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh Bình Dương tăng nhanh cả về số lượng và tỉ trọng. Hàng

năm có một lực lượng lớn lao động từ các vùng nông thôn của tỉnh và các tỉnh khác vào các khu công

nghiệp làm việc. Tại các khu công nghiệp có đến 80% lao động ngoại tỉnh, đã bổ sung cho lực lượng

lao động trong tỉnh nhưng cũng làm gia tăng áp lực ngày càng lớn đối với việc đào tạo nghề, tạo việc

làm và nhà ở cho người lao động. Khu công nghiệp Việt Nam – Sigapore (VSIP) có gần 60% lao động

ngoại tỉnh tham gia làm việc, các khu công nghiệp khác có tỉ lệ cao hơn nhiều, lên đến 92%. Số người

trong độ tuổi lao động năm 1997 là 348,424 nghìn người - chiếm 50,84% dân số, năm 2007 gấp 1,98

lần năm 1997 (736,670 nghìn người), chiếm 68,49% dân số toàn tỉnh. Tốc độ tăng trưởng số người

trong độ tuổi lao động trung bình hàng năm (1997 – 2007) là 7,77%.

Bảng 2.10. Nguồn lao động tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997 - 2007 Đơn vi: nghìn người

Nguồn lao động 1999 1997 2003 2007

Số người Tỉ lệ (%) Số người 2001 348,424 371,496 457,508 584,256 736,670 95,06 23,732 97,08 22,201 96,05 23,987 94,14 23,103 94,34 20,890

Tỉ lệ (%) 5,66 5,86 4,94 3,95 2,92

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 2007.

Trong độ tuổi lao động Ngoài độ tuổi thực tế có tham gia lao động Nguồn lao động 369,314 394,599 481,240 608,243 758,871

So với tốc độ gia tăng dân số thì số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh hơn. Nếu giai đoạn

1997 – 2000 tỉ lệ gia tăng dân số trung bình là 3% thì tỉ lệ gia tăng số người trong độ tuổi lao động là

6,62%; giai đoạn 2000 – 2007 tỉ lệ gia tăng dân số trung bình là 5,3% thì tỉ lệ gia tăng lao động là

8,27%. Điều này cũng dễ hiểu vì dân nhập cư đến Bình Dương chủ yếu là để làm việc nên số người

trong độ tuổi lao động tăng nhanh.

Trong cơ cấu nguồn lao động, ngoài những người trong độ tuổi lao động còn có số người ngoài

độ tuổi lao động thực tế có tham gia làm việc. Năm 1997 có 20,890 nghìn người (5,72% nguồn lao

động) trong đó trẻ em là 7,556 người (36,17%), trên tuổi lao động là 13,334 người (63,83%). Năm

2007 có 22,201 nghìn người ngoài độ tuổi lao động tham gia làm việc (2,92% nguồn lao động).

Bảng 2.11. Phân phối nguồn lao động tỉnh Bình Dương Đơn vị: nghìn người

Phân phối nguồn lao động

1997 315,356 86,41 20,837 5,71 28,764 7,88

1999 333,664 85,55 29,188 7,48 27,200 6,97

2007 675,305 89,55 58,541 7,76 20,227 2,69

Số người đang làm việc Tỉ lệ (%) Số người trong độ tuổi lao động đi học Tỉ lệ (%) Số người trong độ tuổi có khả năng lao động làm nội trợ, chưa có việc làm, tình trạng khác Tỉ lệ (%)

2003 526,602 87,28 50,020 8,29 26,698 4,43 Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 1999, 2007.

Hình 2.5. Cơ cấu nguồn lao động tỉnh Bình Dương (%)

2.68

7.88

7.76

5.71

86.41

89.55

Năm 1997

Năm 2007

Số người đang làm việc

Số người trong độ tuổi lao động đang đi học

Số người trong độ tuổi có khả năng lao động làm nội trợ, tình trạng khác

Trong phân phối nguồn lao động, số người tham gia làm việc và người trong độ tuổi lao động

đang đi học có xu hướng tăng lên; đồng thời số người trong độ tuổi lao động nhưng không làm việc

giảm đi tương ứng, từ 7,78% (1997) giảm xuống còn 6,97% (1999) và chỉ còn 2,69% (2007). Điều này

phần nào phản ánh được chất lượng lao động của tỉnh đang ngày càng được nâng lên và khả năng giải

quyết việc làm cho người lao động đã đem lại hiệu quả.

+ Chất lượng nguồn lao động

Nhìn chung, trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động còn thấp, từ cao đẳng trở lên có

khoảng 10.000 người (4%), trung cấp và công nhân kĩ thuật có khoảng 32.000 người (12%), lao động

phổ thông chiếm tỉ lệ cao nhất (trên 80%). Tỉ lệ lao động được đào tạo năm 2003 so với tổng số lao

động chỉ chiếm 22%, năm 2007 tăng lên 35,2%, trong đó tỉ lệ lao động qua đào tạo nghề là 26,3%.

Năng suất lao động có tăng. Trong 7 năm gần đây, quá trình công nghiệp hoá diễn ra nhanh

chóng, năng suất lao động vì thế cũng tăng nhanh. Năm 2000 bình quân 1 lao động tạo ra 16,2 triệu

đồng/năm, con số này tăng dần qua các năm, đạt 24 triệu đồng/năm (2005), gấp 1,5 lần so với năm

2000 và đạt khoảng 30 triệu đồng/năm (2007). Tuy nhiên, trong các khu vực kinh tế cũng có sự khác

nhau rõ rệt. Năng suất lao động trong ngành dịch vụ tăng rất nhanh, từ 21 triệu đồng/lao động/năm

(2000) lên 36,8 triệu đồng/lao động/năm (2005) và đạt khoảng 40 triệu đồng/lao động/năm (2007),

tăng gần 2 lần so với năm 2000. Khu vực nông – lâm – ngư nghiệp năm 2007 cũng tăng 1,6 lần so với

năm 2000. Trong khi đó, các ngành công nghiệp – xây dựng mặc dù giá trị tăng thêm tạo ra rất lớn

nhưng năng suất lao động hầu như không tăng giữa năm 2005 so với năm 2000 và tăng nhẹ giữa năm

2007 và 2000. Điều này cho thấy giá trị tăng thêm chủ yếu trong các ngành công nghiệp gia công là

chủ yếu.

Đối với Bình Dương, nguồn lao động là một trong những nguồn lực rất quan trọng vừa đảm bảo

cung cấp cho các khu công nghiệp đồng thời góp phần tăng lên về quy mô đô thị cùng với sự phát triển

của công nghiệp và dịch vụ. Điều quan trọng là cần phải chú ý đến việc nâng cao trình độ tay nghề của

người lao động và chuyển đổi cơ cấu các ngành sản xuất công nghiệp theo hướng nâng cao năng suất

lao động, giảm bớt tỉ trọng lao động trong các ngành công nghiệp gia công.

+ Cơ cấu nghề nghiệp của lao động

Sự thay đổi trong cơ cấu nền kinh tế dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu nghề nghiệp của lao động.

Ở Bình Dương, trong thời kì 1997 – 2007, số người lao động trong khu vực I (nông – lâm – ngư

nghiệp) giảm trung bình hàng năm là 3,27% (từ 182,715 nghìn người năm 1997 xuống 130,956 nghìn

người năm 2007), khu vực II (công nghiệp – xây dựng) tăng trung bình hàng năm rất cao (18,83%) (từ

81,917 nghìn người năm 1997 lên 387,969 nghìn người năm 2007). Lao động trong khu vực III (dịch

vụ) cũng tăng khá nhanh, tốc độ tăng trung bình hàng năm là 9,62%/năm (từ 50,724 nghìn người lên

127,194 nghìn người năm 2007).

Tỉ lệ lao động trong các khu vực kinh tế có nhiều thay đổi. Tỉ lệ lao động trong khu vực I giảm từ

57,94% (1997) xuống 19,39% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế năm 2007. Tỉ lệ lao

động trong khu vực II liên tục tăng nhanh từ 25,98% (1997) lên 61,73% (2007). Lao động trong khu

vực III mặc dù tăng nhưng cũng chiếm một tỉ lệ khá khiêm tốn trong cơ cấu lao động theo ngành.

Hình 2.6. Cơ cấu lao động phân theo khu vực kinh tế tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 - 2007 (%)

16.08

18.88

19.39

Khu vực I

Khu vực II

57.94

25.98

Khu vực III

61.73

Năm 1997 Năm 2007

Lao động trong ngành công nghiệp đang ngày càng tăng nhanh. Cần tạo điều kiện để ngành dịch

vụ phát triển và thu hút thêm nhiều lao động làm việc hơn đồng thời nâng cao hàm lượng khoa học

công nghệ trong các ngành công nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến để nâng cao năng suất lao

động, tăng lao động phục vụ trong các ngành dịch vụ.

Bảng 2.12. Lao động công nghiệp tỉnh Bình Dương phân theo huyện Đơn vị: nghìn người

1999

2001

2007

2003

Tổng TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An Dĩ An

93,416 24,187 322 5,250 387 6,152 27,285 29,833

152,734 27,940 547 7,360 846 9,981 55,317 50,743

493,899 35,109 2,463 51,981 2,387 57,751 200,664 143,544

269,985 29,388 1,012 20,101 1,312 21,996 107,570 88,606

Tốc độ tăng trưởng 1999 – 2007 (%) 18,12 3,79 22,56 25,76 19,95 25,10 22,08 17,01 Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2007.

Lao động công nghiệp tập trung chủ yếu ở 2 huyện phía Nam là Thuận An và Dĩ An – nơi có

nhiều khu công nghiệp của tỉnh. Hai huyện này chiếm 70% số lao động công nghiệp của tỉnh năm

2007. Trong 7 năm từ 2001 – 2007, huyện Thuận An tăng 145,347 nghìn lao động, bình quân mỗi năm

tăng 20,76 nghìn lao động; huyện Dĩ An tăng 92,801 nghìn lao động, bình quân mỗi năm tăng 13,257

nghìn lao động.

Hai huyện Bến Cát và Tân Uyên cũng đang có xu hướng thu hút lao động công nghiệp lên làm

việc. Huyện Bến Cát có tốc độ tăng lao động công nghiệp nhanh nhất trong tỉnh, tăng bình quân

25,76%/năm thời kì 1999 – 2007; huyện Tân Uyên tăng 25,10%/năm. Số lao động ở Bến Cát tăng lên

44,621 nghìn lao động trong 7 năm (2001 – 2007), bình quân tăng 6,374 nghìn người/năm; huyện Tân

Uyên tăng thêm 39,599 nghìn lao động, bình quân tăng 6,599 nghìn người/năm.

Các huyện Phú Giáo và Dầu Tiếng tuy chiếm tỉ lệ nhỏ trong cơ cấu lao động công nghiệp của tỉnh

nhưng cũng đang có xu hướng tăng nhanh. Ở TX. Thủ Dầu Một, lao động công nghiệp tăng rất chậm,

bình quân 3,79%/năm (1999 – 2007), tổng số lao động công nghiệp của thị xã chỉ chiếm 7,11% lao

động công nghiệp của tỉnh (2007).

Điều này chứng tỏ nền kinh tế của tỉnh đang có sự chuyển hướng phù hợp, phát triển công nghiệp

ra các khu vực lân cận, khu vực thị xã sẽ phát triển mạnh các ngành dịch vụ.

Hình 2.7. Lao động công nghiệp tỉnh Bình Dương phân theo huyện năm 2007

nghìn người

250

200.664

200

143.544

150

100

57.751

51.981

35.109

50

2.463

2.387

0

Dầu T iếng Bến Cát Phú Giáo T ân UyênT huận An Dĩ An

Huyện

T hị xã T hủ Dầu Một

2.2.2. Gia tăng dân số

2.2.2.1. Gia tăng tự nhiên

- Tỉ lệ sinh

+ Tỉ suất sinh thô: Theo phân loại của tổ chức y tế thế giới, những khu vực có tỉ suất sinh dưới 200/00 là thấp, từ 20 –

30 0/00 là trung bình và trên 300/00 là cao.

Bảng 2.13. Tỉ suất sinh thô qua các năm

Đơn vị: 0/00 Tỉ suất sinh thô

1997 21,59 - 1999 20,16 19,9 2001 18,66 18,6 2003 17,06 17,5 2005 15,56 18,6 2007 15,24 16,9 Bình Dương Cả nước Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007; Biến động dân số - năm 2007 – Tổng cục thống kê.

Như vậy, tỉ suất sinh của Bình Dương nhìn trung ở mức trung bình, thấp và đang có xu hướng giảm dần. Trong giai đoạn từ 1997 – 1999, tỉ lệ sinh dao động khoảng 200/00, trong giai đoạn từ 2000 – 2007, tỉ lệ sinh giảm khá nhanh từ 19,460/00 (2000) xuống còn 14,960/00 (2006) và chỉ còn 15,24 0/00

(2007); thấp hơn tỉ suất sinh trung bình của cả nước (bảng 2.13).

Tỉ suất sinh phân theo huyện đa số cũng ở mức trung bình và có xu hướng giảm.

Bảng 2.14. Tỉ suất sinh thô tỉnh Bình Dương phân theo huyện (1997 – 2007)

Đơn vị: 0/00 Địa phương

2007 10,5 14,2 15,3 16,0 14,2 14,0 15,6 2005 12,5 15,1 16,3 18,3 15,0 14,8 14,2 2003 12,0 17,1 18,7 19,1 15,7 12,8 14,5 2001 13,7 17,7 16,4 21,2 18,7 18,5 17,0 TX. TDM Thuận An Dĩ An Dầu Tiếng Phú Giáo Bến Cát Tân Uyên Nguồn: UBDS – GĐ – TE TX.TDM, các huyện Thuận An, Dĩ An, Dầu Tiếng, Bến Cát, Tân Uyên.

Nhìn chung, Thuận An, Dĩ An và Dầu Tiếng là các huyện có tỉ suất sinh cao hơn các địa phương còn lại. Năm 2007, địa phương có tỉ suất sinh thấp nhất là TX. Thủ Dầu Một (10,50/00), cao nhất là huyện Dầu Tiếng (16,00/00). Tỉ suất sinh của thị xã từ 1997 đến nay luôn dưới 150/00; năm 1997 tỉ suất sinh là 14,70/00, đến năm 2007 chỉ còn khoảng 100/00. Trong khi đó, tỉ suất sinh năm 2007 của Dầu Tiếng, Thuận An và Dĩ An lần lượt là 16,00/00, 14,20/00 và 15,30/00. Việc thu hút nhiều lao động ngoài

tỉnh về làm việc ở Thuận An và Dĩ An đã làm cho số người trong độ tuổi sinh đẻ của 2 huyện này tăng

lên là một nguyên nhân khiến tỉ suất sinh ở Thuận An và Dĩ An cao hơn các địa phương khác.

- Tổng tỉ suất sinh:

Bảng 2.15. Tổng tỉ suất sinh qua các năm Đơn vị: số con/phụ nữ

Tổng tỉ suất sinh 1997 1999 2001 2003 2005 2007

2,62 2,40 2,20 1,87 1,79 1,75 Bình Dương

Nguồn: Dân số - gia đình và trẻ em 2007, phương hướng, nhiệm vụ công tác 2008; Biến động dân số - năm 2007 – Tổng cục thống kê.

- 2,33 2,25 2,12 2,11 2,07 Cả nước

Hình 2.8. Tổng tỉ suất sinh của Bình Dương, Đông Nam Bộ và cả nước (2003 - 2007)

Số con/phụ nữ 2.5

2.11

2.07

2.12

1.8

1.85

2

1.87

1.74

1.79

1.7

1.5

Bình Dương

1

Đông Nam Bộ

Cả nước

0.5

0

2003

2005

2007

Năm

Tổng tỉ suất sinh của tỉnh ngày càng giảm. Số con trung bình/1 phụ nữ từ 2,62 con (1997) giảm

xuống còn 1,7 con (2007) – tương đương tổng tỉ suất sinh của khu vực Đông Nam Bộ (1,74 năm 2007).

Tổng tỉ suất sinh của Bình Dương thấp hơn so với mức trung bình của cả nước (hình 2.8). Điều này

cho thấy công tác kế hoạch gia đình trong 10 năm qua của tỉnh đã mang lại hiệu quả rõ rệt. Số con

trung bình của 1 phụ nữ chỉ còn dưới 2 con tính từ năm 2003 đến nay.

Tổng tỉ suất sinh thấp thuộc về 3 địa phương phía Nam là TX. Thủ Dầu Một, Thuận An, Dĩ An,

(từ 1 – 2 con/phụ nữ). TX. Thủ Dầu Một vẫn ở mức thấp nhất, Dầu Tiếng vẫn là huyện có TFR cao

nhất (2 - 3 con/phụ nữ).

Bảng 2.16. Tổng tỉ suất sinh tỉnh Bình Dương phân theo huyện năm 2007 Đơn vị: con/phụ nữ

Địa phương

Nguồn: UBDS – GĐ – TE các huyện thị.

TFR 1,40 1,73 1,92 1,86 2,08 2,01 2,14 1,70 TX. Thủ Dầu Một Thuận An Dĩ An Tân Uyên Phú Giáo Bến Cát Dầu Tiếng Toàn tỉnh

+ Tỉ lệ tử

- Tỉ suất tử thô: Tỉ suất tử thô nếu dưới 10 0/00 là thấp, từ 10 – 14 0/00 là trung bình, từ 15 - 250/00 là cao và trên

250/00 là rất cao. Căn cứ theo tiêu chuẩn này thì tỉ suất tử của Bình Dương vào loại thấp.

Hình 2.9. Tỉ suất tử thô của Bình Dương thời kì 1997 - 2007

phần ngàn

5.08

5.1

5

4.9

4.81

4.8

4.8

4.77

4.77

4.8

4.66

4.7

4.62 4.64 4.68

4.6

4.5

4.4

4.3

1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

4.67

Tỉ suất tử của Bình Dương trong 10 năm gần đây không biến động nhiều, nằm trong khoảng từ

4,6 – 4,8 0/00 và thấp hơn tỉ suất tử trung bình của cả nước.

Tỉ suất tử của tỉnh ít biến động theo thời gian và không gian. Các huyện thị trong tỉnh có tỉ suất tử

không cao và ít có sự chênh lệch lớn. Riêng năm 2007, TX. Thủ Dầu Một có tỉ suất tử thấp nhất (2,90/00) và Tân Uyên là huyện có tỉ suất tử cao nhất (6,00/00), gấp 2 lần TX. Thủ Dầu Một.

Bảng 2.17. Tỉ suất tử của tỉnh Bình Dương phân theo huyện thời kì 1997 – 2007

Đơn vị: 0/00

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 1999, 2004, 2007; UB DS – GĐ – TE các địa phương; Biến động dân số - năm 2007 – Tổng cục thống kê.

Tỉ suất tử thô Toàn tỉnh TX. Thủ Dầu Một Thuận An Dĩ An Tân Uyên Bến Cát Dầu Tiếng Phú Giáo Cả nước 2001 4,77 4,70 3,30 4,00 4,00 6,50 6,40 4,80 - 2003 4,80 3,50 4,80 3,93 4,85 3,30 6,36 3,00 5,8 2005 4,62 4,50 4,65 4,30 5,00 3,60 5,20 3,80 5,3 2007 4,68 2,90 5,03 4,00 6,00 3,00 5,30 4,40 5,3

- Tỉ lệ tử vong trẻ em:

Tỉ lệ tử vong trẻ em là một trong những chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội và y

tế của một quốc gia, một địa phương, một khu vực. Ở Bình Dương, tỉ lệ tử vong trẻ em như sau:

Bảng 2.18. Tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi và dưới 5 tuổi của tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 – 2007

Đơn vị: 0/00

Năm

1997 1999 Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi 12,94 17,36 Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 5 tuổi 40,00 18,28

12,41 8,45 13,2 7,99 10,96 5,48 9,58 7,82

2001 2003 2005 2007 Nguồn: Báo cáo 15 năm công tác dân số, gia đình, trẻ em tỉnh Bình Dương 1990 – 2005, Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 2007.

Tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi của Bình Dương giảm từ 12,940/00 (1999) xuống còn 7,82 0/00 (2007), bình quân mỗi năm giảm 0,80/00; tỉ lệ tử vong trẻ em dưới 5 tuổi giảm từ 17,19 0/00 (2000) xuống còn 7,99 0/00 (2007), bình quân mỗi năm giảm 0,3 0/00. So với cả nước, mức tử vong trẻ em dưới

1 tuổi của Bình Dương thấp hơn nhiều (hình 2.10). Đây là một thành quả đáng ghi nhận về công tác

chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, chất lượng y tế của tỉnh.

Hình 2.10. Tỉ suất tử vong trẻ em dưới 1 tuổi của Bình Dương và cả nước (1999 - 2007)

phần ngàn 40 37

35

30

25

21

17.8

20 17.36

16

Bình Dương Cả nước

15

9.58

7.82

10

5.48

5

0

1999

2001

2003

2005

2007

 Gia tăng tự nhiên

Bảng 2.19. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của Bình Dương và cả nước (1997 – 2007) Đơn vị: %

Tỉ lệ gia tăng tự nhiên

Bình Dương 1997 1,68 1999 1,54 2001 1,39 2003 1,23 2005 1,09 2007 1,05

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007.

Cả nước - 1,42 - 1,17 1,33 1,16

Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của Bình Dương có xu hướng giảm do tỉ lệ sinh ngày càng giảm và nhìn

chung thấp hơn mức trung bình của cả nước. Năm 1997, tỉ lệ tăng tự nhiên là 1,68% nhưng đến năm

2007 giảm xuống chỉ còn 1,05% (giảm 1,6 lần so với năm 1997); tỉ lệ gia tăng tự nhiên của cả nước

năm 1999 và 2007 lần lượt là 1,42% và 1,16%.

Do tỉ suất tử không biến động nhiều giữa các địa phương và huyện Thuận An, Dĩ An, Dầu Tiếng

có tỉ suất sinh cao hơn nên tỉ lệ gia tăng tự nhiên cao hơn các huyện còn lại một chút. TX. Thủ Dầu

Một là địa phương có tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp nhất và tương đối ổn định. Năm 2007, TX. Thủ Dầu

Một có tỉ lệ gia tăng tự nhiên thấp nhất: 0,76% và Dĩ An cao nhất: 1,13%. (bảng 2.20)

Bảng 2.20. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 – 2007 Đơn vị: %

Năm 2001 2003 2005 2007

Nguồn: UB DS – GĐ – TE các địa phương.

0,76 0,92 1,13 1,10 0,96 1,07 0,98 0,80 1,05 1,20 1,12 0,92 1,31 1,12 0,85 1,23 1,48 0,95 0,95 1,28 1,28 0,90 1,44 1,50 1,20 1,30 1,48 1,39 TX. Thủ Dầu Một Thuận An Dĩ An Bến Cát Tân Uyên Dầu Tiếng Phú Giáo

Như vậy, với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, chú trọng phát triển dịch vụ và hành

chính tại TX. Thủ Dầu Một làm giảm lao động nhập cư vào đây làm việc dẫn đến giảm số người trong

tuổi sinh đẻ. Thêm vào đó, những thành tựu về y tế, giáo dục của thị xã đã có tác động không nhỏ đến

hiệu quả của công tác kế hoạch hóa gia đình nên TX. Thủ Dầu Một là nơi có tỉ suất sinh, tử và tỉ lệ gia

tăng tự nhiên thấp nhất, dân số khá ổn định.

2.2.2.2. Gia tăng cơ học

Với chính sách công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trên địa bàn tỉnh Bình Dương, nhiều khu công

nghiệp được xây dựng và tăng lên nhanh chóng đã thu hút hàng ngàn lao động từ các địa phương khác

đến sinh sống và làm việc. Do đó, tỉ lệ gia tăng cơ học của tỉnh khá cao, cao hơn gia tăng tự nhiên và

góp phần lớn vào sự gia tăng dân số của tỉnh trong 10 năm gần đây, nhất là từ năm 2000 đến nay.

Bảng 2.21. Tình hình gia tăng dân số của tỉnh Bình Dương (1997 – 2007) Đơn vị: %

Năm 1997 1999 2001 2003 2005 2007

Tỉ lệ gia tăng dân số 3,11 3,11 3,65 5,38 11,39 2,41

Tỉ lệ gia tăng tự nhiên 1,68 1,53 1,39 1,22 1,09 1,05

Nguồn: Tính toán từ niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007

Tỉ lệ gia tăng cơ học 1,43 1,58 2,26 4,16 10,3 1,36

Tỉ lệ gia tăng cơ học trên địa bàn tỉnh Bình Dương từ 1997 – 1999 thấp hơn tỉ lệ gia tăng tự nhiên

với tỉ lệ gia tăng trung bình là 1,43%. Từ năm 2000, khi Bình Dương bắt đầu xây dựng nhiều khu công

nghiệp ở các huyện phía Nam thì số dân từ các nơi khác đến Bình Dương làm việc tăng mạnh làm cho

tỉ lệ gia tăng cơ học tăng nhanh. Trong giai đoạn từ 2000 – 2007, tỉ lệ gia tăng dân số trung bình là

5,3%, trong đó gia tăng cơ học là 2,85%. Năm 2005 là năm có tỉ lệ gia tăng cơ học cao đột biến 10,3%,

năm 2007 giảm xuống còn 1,36%.

Hình 2.11. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên và gia tăng cơ học tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 - 2007 (%)

12

10.3

10

8

Gia tăng tự nhiên

6

Gia tăng cơ học

4.1

4

2.16

1.43

1.58

1.68

1.36

2

1.53

1.39

1.28

1.09

1.05

0

1997

1999

2001

2003

2005

2007

Theo địa phương, tỉ lệ gia tăng cơ học cũng có sự khác biệt giữa các huyện thị.

Bảng 2.22. Tỉ lệ gia tăng cơ học phân theo huyện, thời kì 1999 – 2007 Đơn vị:%

Năm

Nguồn: UBDS – GĐ – TE TX. Thủ Dầu Một và các huyện.

2007 1,25 0,65 2,79 0,.55 2,37 0,77 1,29 2005 3,81 0,29 9,69 1,44 10,64 20,44 15,72 2003 1,15 0,73 2,21 1,53 1,26 12,48 8,21 2001 1,39 1,01 1,29 1,71 1,15 3,84 6,45 TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An Dĩ An

Các huyện phía Nam nhìn chung có tỉ lệ gia tăng cơ học cao hơn hẳn so với các huyện phía Bắc,

trong đó TX. Thủ Dầu Một có tỉ lệ gia tăng cơ học tương đối ổn định hơn so với 2 huyện Thuận An và

Dĩ An. Việc xây dựng các khu công nghiệp ở các huyện phía Nam từ năm 2000 đã làm cho tỉ lệ gia

tăng cơ học ở Thuận An và Dĩ An tăng lên rất nhanh. Năm 2001, trên địa bàn huyện Dĩ An có tỉ lệ gia

tăng cơ học cao nhất (6,45%), kế đến là Thuận An (3,84%). Tỉ lệ gia tăng cơ học ở hai huyện này liên

tục tăng nhanh từ 2001 – 2005. Năm 2004, tỉ lệ gia tăng cơ học của Thuận An và Dĩ An lần lượt là

20,44 và 15,72%. Tỉ lệ gia tăng cơ học của 2 huyện này luôn cao gấp nhiều lần so với gia tăng tự

nhiên. Chẳng hạn như ở Thuận An, gia tăng cơ học vào các năm 2001, 2003, 2005 lần lượt là 3,84%,

12,48% và 20,44% trong khi gia tăng tự nhiên cùng thời kì là 1,44%, 1,23% và 1,05%; năm 2005, tỉ lệ

gia tăng cơ học của huyện gấp hơn 20 lần so với tỉ lệ gia tăng tự nhiên (20,44% so với 1,05%). Ở Dĩ

An, năm 2005, tỉ lệ gia tăng cơ học gấp hơn 15 lần tỉ lệ gia tăng tự nhiên. Tỉ lệ gia tăng cơ học cao ở

Thuận An và Dĩ An cùng với huyện Bến Cát và Tân Uyên đã làm cho tỉ lệ gia tăng cơ học của tỉnh

năm 2005 cao đột biến (10,3%).

Ở các huyện phía Bắc, trong giai đoạn từ 1997 – 2003, tỉ lệ gia tăng cơ học còn thấp và khá ổn

định. Từ năm 2004, tỉ lệ tăng cơ học ở huyện Bến Cát và Tân Uyên tăng mạnh. Tỉ lệ gia tăng cơ học

năm 2005 ở Tân Uyên là 10,64% và Bến Cát năm 2003 là 9,69%. Nguyên nhân là do hoạt động công

nghiệp đã mở rộng ở 2 huyện này. Hàng loạt dự án đầu tư ồ ạt đổ vào Tân Uyên và Bến Cát thu hút

một lực lượng lao động lớn đến đây làm việc.

Đến năm 2007, tỉ lệ gia tăng cơ học của tất cả các huyện thị trên địa bàn tỉnh đều giảm vì hoạt

động sản xuất công nghiệp của tỉnh đã dần đi vào ổn định và nguồn lao động nhập cư từ các năm trước

đã đáp ứng được nhu cầu về lao động công nghiệp trong tỉnh. Thêm vào đó, hiện nay ở các tỉnh phía

bắc cũng đang tập trung phát triển công nghiệp, nhiều khu công nghiệp được xây dựng đã giải quyết

việc làm cho lao động tại chỗ. Chính vì vậy, lao động nhập cư vào Bình Dương đã giảm mạnh khiến

cho tỉ lệ gia tăng cơ học trên địa bàn tỉnh giảm nhanh chóng.

Tóm lại, gia tăng cơ học đã góp phần đáng kể vào sự gia tăng dân số của tỉnh Bình Dương nhất là

trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay. Trong giai đoạn này, tỉ lệ gia tăng cơ học luôn cao hơn hẳn so

với gia tăng tự nhiên.

2.2.3. Mật độ dân số

Bảng 2.23. Dân số, diện tích và mật độ dân số của một số tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía

Nam năm 2007

Bình

Đồng

Bà Rịa –

Tỉnh

TP.HCM

Dương

Nai

Vũng Tàu

1.075,4

2.253,3

6.347,0

947,3

2.695,2

5.903,9

2098,7

1989,6

Dân số (nghìn người) Diện tích (km2) Mật độ dân số (người/km2)

399

382

3024

476

Nguồn: Niên giám Thống kê 2007.

So với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, mật độ dân số tỉnh Bình Dương thấp hơn TP.HCM, Bà Rịa – Vũng Tàu. Năm 2007, mật độ dân số của Bình Dương là 399 người/km2, Đồng Nai là 382 người/km2, trong khi của TP.HCM là 3.024 người/km2 và Bà Rịa – Vũng Tàu là 476 người/km2.

Bảng 2.24. Dân số và mật độ dân số tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997 – 2007

Tỉ lệ

tăng

trưởng

Năm

1997

1999

2001

2003

2005

2007

(1997 –

2007)

(%)

Dân số (nghìn

679,044 721,933 769,946 853,807 1.030,722 1.075,457

4,60

người)

252

268

286

317

382

399

4,70

Mật độ dân số (người/km2)

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 1997, 1999, 2001, 2003, 2005, 2007.

Theo thời gian, trong giai đoạn 1997 – 2007, mật độ dân số của tỉnh không ngừng tăng. Năm 1997, mật độ dân số là 252 người/km2, nhưng đến 2007, mật độ dân số của tỉnh đã lên đến 399 người/km2, gấp 1,58 lần so với năm 1997. Về tốc độ tăng mật độ dân số, trong giai đoạn từ 1997 –

2007, tỉ lệ tăng mật dân số trung bình khá cao, khoảng 4,70%/năm, xấp xỉ tỉ lệ gia tăng dân số trong

cùng giai đoạn (4,60%/năm).

Hình 2.12. Mật độ dân số tỉnh Bình Dương thời kì 1997 - 2007

Người/km2

399

382

400

350

317

286

300

268

252

250

200

150

100

50

0

Năm

1997

1999

2001

2003

2005

2007

Mật độ dân số theo địa phương cũng có sự khác nhau. Các huyện phía Nam có mật độ dân số cao

hơn hẳn so với các huyện phía Bắc. TX. Thủ Dầu Một, huyện Thuận An và Dĩ An có mật độ dân số trên 2000 người/km2 trong khi các địa phương còn lại có mật độ dân số dưới 300 người/km2. Năm 2007, Dĩ An có mật độ dân số cao nhất là 3085 người/km2, gấp 23,2 lần mật độ dân số của huyện thấp nhất là Phú Giáo (133 người/km2). Trong các huyện phía Bắc, Tân Uyên và Bến Cát có mật độ dân số

cao hơn hẳn Dầu Tiếng và Phú Giáo (gấp khoảng 2 lần).

Bảng 2.25. Mật độ dân số phân theo huyện giai đoạn 1997 – 2007 Đơn vị: người/km2

1997 1999 2003 2005 2007

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 1999, 2001, 2003, 2005, 2007.

2026 2751 3085 265 246 141 133 1950 2664 2953 250 230 136 129 1798 1856 2177 211 198 132 124 1705 1363 1674 193 179 120 110 Tốc độ tăng mật độ dân số (1999 – 2007) (%) 2,18 9,17 7,94 4,04 4,05 2,03 2,40 1573 1199 - 164 147 - - TX. Thủ Dầu Một Thuận An Dĩ An Tân Uyên Bến Cát Dầu Tiếng Phú Giáo

Hình 2.13. Mật độ dân số tỉnh Bình Dương phân theo huyện năm 2007

3500

3085

2751

3000

2500

2026

2000

1500

1000

265

500

246

141

133

0

Thuận An

Dĩ An

Tân Uyê n

Bế n C át Dầu Tiế ng Phú Giáo

Thủ Dầu Một

Tốc độ tăng mật độ dân số cao nhất thuộc về 2 huyện phía Nam là Thuận An và Dĩ An. Trong giai

đoạn 1997 – 2007, tỉ lệ tăng mật độ dân số của Thuận An và Dĩ An lần lượt là 9,17% và 7,94%. TX.

Thủ Dầu Một có mức tăng mật độ dân số ở mức thấp (2,18%) so với mức tăng mật độ dân số của các

địa phương khác, chỉ cao hơn Dầu Tiếng (2,03%). Trong số các địa phương phía Bắc, tỉ lệ tăng mật độ

dân số cao thuộc về 2 huyện Tân Uyên và Bến Cát (4,04 và 4,05%). Tuy nhiên, mức tăng của 2 địa

phương này cũng chỉ bằng 1/2 so với mức tăng của Thuận An và Dĩ An. Giữa huyện có tỉ lệ tăng mật

độ dân số cao nhất là Thuận An và thấp nhất là Dầu Tiếng trong tỉnh chênh lệch khoảng 4,5 lần.

MẬT ĐỘ DÂN SỐ TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 1997

TT. Mỹ Phước

TT. Uyên Hưng

P. Phú Cường

TT. Lái Thiêu

1501 – 2000 người/km2 1001 – 1500 người/km2 151 – 250 người/km2 121 – 150 người/km2

1: 40.000

Hình 2.14. Lược đồ mật độ dân số tỉnh Bình Dương năm 1997

MẬT ĐỘ DÂN SỐ TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 1999

TT. Phước Vĩnh

TT. Dầu Tiếng

TT. Mỹ Phước

TT. Uyên Hưng

TT. Tân Phước Khánh

P. Phú Cường

TT. An Thạnh

TT. Dĩ An

TT. Lái Thiêu

Từ 1501 người/km2 1001 – 1500 người/km2 151 – 250 người/km2 100 – 120 người/km2

Hình 2.15. Lược đồ mật độ dân số tỉnh Bình Dương năm 1999

MẬT ĐỘ DÂN SỐ TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2007

TT. Dầu Tiếng

TT. Phước Vĩnh

TT. Mỹ Phước

TT. Uyên Hưng

TT. Tân Phước Khánh

P. Phú Cường

TT. An Thạnh

TT. Lái Thiêu

TT. Dĩ An

Từ 3001 người/km2 2501 - 3000 người/km2 2001 - 2500 người/km2 251 - 1000 người/km2 151 - 250 người/km2 121 - 150 người/km2

Hình 2.16. Lược đồ mật độ dân số tỉnh Bình Dương năm 2007

2.3. Sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997 - 2007

2.3.1. Kinh tế

2.3.1.1. Tăng trưởng kinh tế

Trong giai đoạn từ 1997 – 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục tăng nhanh và rất cao, đạt

14,15%/năm thời kì 1997 – 2000, đạt 15,31%/năm thời kì 2001 – 2005, đạt 15,04%/năm thời kì 2005 –

2007.

Tốc độ tăng trưởng (%) (giá so sánh năm 1994)

Bảng 2.26. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Dương thời kì 1997 – 2007

Tổng GDP Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Nông – lâm – ngư nghiệp

1997 – 2000 14,95 23,22 7,62 2,79

2000 – 2003 15,23 18,17 14,86 3,59

2003 – 2005 15,49 17,48 16,39 2,25

2005 – 2007 15,04 13,71 23,97 2,24

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 2004, 2007

Tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp – xây dựng tăng rất nhanh, thời kì 1997 – 2000 tăng

23,22%/năm, đến thời kì 2005 – 2007 đạt 13,71%. Trong các thời kì 1997 – 2000 và 2000 - 2003,

ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng thấp hơn: 7,62%/năm; 14,86% nhưng trong thời kì 2005 – 2007 có

tốc độ tăng trưởng cao hơn, đạt 23,97%/năm. Các ngành nông – lâm – ngư nghiệp có tốc độ tăng

2,79%/năm thời kì 1997 – 2000 và thời kì 2005 – 2007 là 2,24%/năm.

Về giá trị tuyệt đối, GDP của tỉnh đạt 2.735,911 tỉ đồng năm 1997, đến năm 2000 tăng lên

4.156,169 tỉ đồng, năm 2007 là 11.224,995 tỉ đồng (giá trị so sánh năm 1994).

GDP bình quân đầu người (theo giá thực tế) liên tục tăng nhanh, đạt 5,77 triệu đồng/người/năm

(1997) và đạt 21,05 triệu đồng/người/năm (2007), cao hơn GDP bình quân trên vùng tứ giác kinh tế

trọng điểm phía Nam (bình quân thu nhập của vùng đạt 18 triệu đồng/người).

Bên cạnh những thành tựu đó vẫn còn một số hạn chế, dễ thấy nhất là tăng trưởng của các khu

vực chưa cân đối; tỉ trọng gia tăng của các ngành dịch vụ còn nhỏ so với các ngành công nghiệp (giá trị

tăng thêm của các ngành dịch vụ chỉ chiếm 1/3 của các ngành công nghiệp); chất lượng tăng trưởng

chưa cao, chưa tạo thế phát triển bền vững cho thời kì tới.

2.3.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành

Cơ cấu kinh tế theo ngành của tỉnh Bình Dương chuyển dịch khá nhanh theo hướng tăng tỉ trọng

của ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ, giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp. Tỉ trọng các

ngành công nghiệp – xây dựng tăng từ 50,4% GDP (1997) lên 64,4% GDP (2007). Các ngành nông –

lâm – ngư nghiệp có tỉ trọng giảm dần từ 22,8% GDP (1997) xuống 6,4% GDP (2007). Tỉ trọng của

các ngành dịch vụ không ổn định, giảm từ 26,8% năm 1997 xuống 25,2% năm 2000 sau đó lại tăng lên

chiếm 29,2% GDP năm 2007.

Bảng 2.27. Cơ cấu kinh tế theo ngành của tỉnh Bình Dương (1997 – 2007) Đơn vị: %

2007 100 64,4 29,2 6,4

2005 100 63,5 28,1 8,4

2003 100 62,2 26,2 11,6

1999 100 55,1 26,0 18,9

1997 100 50,4 26,8 22,8

Tổng cộng Theo ngành -Công nghiệp – xây dựng - Dịch vụ - Nông – lâm – ngư nghiệp

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 1999, 2007.

Hình 2.17. Cơ cấu kinh tế theo ngành của tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 - 2007

11.6

100%

18.9

90%

6.4 29.2

22.8

8.4 28.1

26.2

80%

26

26.8

70%

60%

63.5

64.4

62.2

50%

55.1

50.4

Nông - lâm - ngư nghiệ p Dịch vụ C ông nghiệ p - xây dựng

40%

30%

20%

10%

0%

1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành tương quan với sự thay đổi trong cấu trúc nghề nghiệp

của lao động trong tỉnh. Lao động làm việc trong ngành nông – lâm – ngư nghiệp giảm dần, trong

ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên nhanh chóng. Lao động trong ngành công nghiệp - xây dựng

chiếm tỉ lệ cao nhất, kế đến là trong ngành dịch vụ và ngành nông nghiệp có tỉ lệ lao động thấp nhất.

Hình 2.18. Cơ cấu GDP và cơ cấu lao động theo ngành kinh tế tỉnh Bình Dương năm 2007 (%)

6.4

19.39

18.88

29.2

Nông - lâm - ngư nghiệp

Công nghiệp - xây dựng

Dịch vụ

61.73

64.4

Cơ cấu GDP

Cơ cấu lao động

Cơ cấu kinh tế của tỉnh là công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp, nhưng tỉ trọng của công nghiệp

trong GDP quá cao (chiếm 64,4% năm 2007) trong khi tỉ trọng của dịch vụ chỉ chiếm phần quá nhỏ

(29,2% năm 2007). Tương tự, lao động trong khu vực II chiếm tỉ lệ quá lớn (năm 2007 - 61,73%) trong

khi lao động trong khu vực III chỉ chiếm 18,88%. Điều này thể hiện quy luật của sự phát triển kinh tế

qua các giai đoạn của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa: trong giai đoạn đầu, công nghiệp luôn

phát triển mạnh mẽ hơn so với dịch vụ, tuy nhiên khi càng về sau thì ngành dịch vụ sẽ càng phát triển

hơn và chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP.

- Cơ cấu kinh tế theo thành phần

Cơ cấu kinh tế theo thành phần có sự thay đổi theo hướng tăng sự đóng góp của khu vực kinh tế

có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 2000, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 29,92% tổng

thu nhập quốc dân của tỉnh, năm 2007 tăng lên, chiếm 41,70% GDP.

Giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà nước thì khu vực kinh tế nhà nước

chiếm khoảng 12,0% thu ngân sách địa phương; khu vực kinh tế ngoài nhà nước đóng góp phần quan

trọng, chiếm khoảng gần 90% thu ngân sách địa phương trung bình trong 8 năm (2000 – 2007). Vì vậy,

cần có cơ chế thúc đẩy nhằm nâng cao hiệu quả trong các lĩnh vực kinh tế mà khu vực quốc doanh

quản lí kém hiệu quả.

Hoạt động mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngoài nhà nước đã thu hút một lực lượng lớn lao động

vào làm việc. Lao động trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước luôn chiếm trên 80% tổng số lao động

hoạt động trong các doanh nghiệp, trong đó lao động trong các doanh nghiệp nước ngoài chiếm tỉ lệ

cao nhất.

Bảng 2.28. Lao động trong các doanh nghiệp của tỉnh Bình Dương thời kì 1997 – 2007 Đơn vị: người

Năm

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 2007.

2007 526.576 38.734 7,35 183.022 34,76 304.802 57,89 2005 438.647 37.963 8,66 149.942 34,18 250.742 57,16 2003 322.412 38.492 11,94 112.597 34,92 171.323 53,14 Tổng Doanh nghiệp nhà nước Tỉ lệ (%) Doanh nghiệp ngoài nhà nước Tỉ lệ (%) Lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Tỉ lệ (%)

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ

Trong những năm qua, mặc dù có sự phát triển rất mạnh của các ngành công nghiệp trên địa bàn

tỉnh nhưng về phân bố, ngành công nghiệp mới chỉ tập trung chủ yếu ở các khu vực phía Nam, kế cận

TP.HCM, dọc tuyến quốc lộ 13, quốc lộ 1A và 1K, như Thuận An, Dĩ An, TX. Thủ Dầu Một, Bến Cát.

Sự khác biệt giữa các vùng trong tỉnh còn lớn giữa phía Nam và phía Bắc. Hiện nay, hoạt động sản

xuất công nghiệp đã mở rộng sang hai huyện phía Bắc là Bến Cát và Tân Uyên góp phần làm thay đổi

cơ cấu kinh tế trong huyện, giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp và tăng tỉ trọng của ngành công

nghiệp. Hai huyện Dầu Tiếng và Phú Giáo vẫn là những huyện hoạt động nông nghiệp là chủ yếu.

Ngành dịch vụ của tỉnh phát triển chủ yếu ở các huyện thị phía Nam như TX. Thủ Dầu Một, Thuận An,

Dĩ An.

Hoạt động công nghiệp và dịch vụ của tỉnh Bình Dương diễn ra mạnh mẽ ở các huyện thị phía

Nam trong khi nông nghiệp lại chiếm ưu thế ở các huyện phía Bắc (nhất là Dầu Tiếng và Phú Giáo).

Điều này ảnh hưởng lớn đến sự phân bố dân cư cũng như phân bố lao động trên địa bàn tỉnh. Các

huyện thị phía nam là nơi có nguồn lao động nhập cư lớn, mật độ dân số cao, dân cư tập trung đông,

lao dộng làm việc chủ yếu trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Các huyện phía bắc của tỉnh có

mật độ dân cư thấp hơn, dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu (hình 2.19).

MẬT ĐỘ DÂN SỐ VÀ LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2007

TT. Phước Vĩnh

TT. Dầu Tiếng

TT. Mỹ Phước

TT. Uyên Hưng

2

P. Phú Cường

TT. Lái Thiêu

TT. Dĩ An

Từ 3001 2501 - 3000 2001 - 2500 251 - 1000 151 - 250 121 - 150

Hình 2.19. Mật độ dân số và lao động công nghiệp tỉnh Bình Dương năm 2007

2.3.1.3. Các ngành kinh tế

- Nông - lâm - ngư nghiệp

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của các ngành nông – lâm – ngư nghiệp tăng 3,73%/năm thời

kì 1997 – 2000 và 2,32%/năm thời kì 2000 – 2007 (giá so sánh 1994). Giá trị giá hiện hành của ngành

liên tục tăng, từ 894,083 tỉ đồng lên 1.012,469 tỉ đồng năm 2000 và 1.442,010 tỉ đồng năm 2007.

Tỉ trọng trong GDP của ngành có xu hướng giảm từ 22,8% năm 1997 xuống 6,4% năm 2007. Xu

hướng này phù hợp với quy luật phát triển: giảm tỉ trọng các ngành có năng suất thấp sang tỉ trọng các

ngành, lĩnh vực có năng suất cao và hiệu quả hơn.

Về giá trị sản xuất nông nghiệp trong mấy năm gần đây vẫn tiếp tục tăng khá. Tốc độ tăng trưởng

bình quân giai đoạn 2000 – 2007 là 6%/năm; trong đó tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành trồng

trọt 4,38%/năm và ngành chăn nuôi là 14,18%/năm cùng thời kì.

+ Cơ cấu nông nghiệp theo ngành

Bảng 2.29. Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp theo ngành tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997 – 2007 Đơn vị: %

1997 1999 2001 2003 2007

Tốc độ tăng trưởng 2000 – 2007 (theo giá so sánh 1994) 6,0

Nguồn: Tính toán từ niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2006.

4,38 14,2 100,0 70,6 24,4 5,0 100,0 73,8 22,9 3,3 100,0 77,8 19,9 2,3 100,0 75,7 21,6 2,7 100,0 81,1 16,3 2,6 Giá trị sản xuất theo giá hiện hành: - Trồng trọt - Chăn nuôi - Dịch vụ

Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp theo ngành của Bình Dương chủ yếu là trồng trọt, chiếm

khoảng 70,6% năm 2007. Nhưng ngành trồng trọt đang có xu hướng giảm dần tỉ trọng, từ 81,1% năm

1997 giảm xuống còn 70,6% năm 2007. Ngược lại, tỉ trọng ngành chăn nuôi đang tăng dần, từ 16,3%

năm 1997 tăng lên 24,4% năm 2007 (tính theo giá hiện hành). Xu hướng này cho thấy sự chuyển dịch

cơ cấu sản xuất giữa trồng trọt và chăn nuôi theo hướng tích cực, đúng hướng là tăng tỉ trọng của

ngành chăn nuôi và giảm tỉ trọng ngành trồng trọt.

 Trồng trọt:

Ngành trồng trọt có tốc độ tăng trưởng giảm dần, từ 6,34% thời kì 1997 – 2000, giảm xuống còn

4,85% thời kì 2001 – 2003 và 3,67% thời kì 2003 – 2007 (theo giá so sánh 1994).

Theo nhóm sản phẩm: Xu thế của ngành trồng trọt trong mấy năm gần đây có sự chuyển dịch theo

hướng giảm tỉ trọng cây lương thực, tăng tỉ trọng các cây thực phẩm, ăn quả và công nghiệp.

Bảng 2.30. Diện tích các loại cây trồng giai đoạn 1997 – 2007 (ha)

Tổng số Cây lương thực Tỉ trọng (%) Cây công nghiệp Tỉ trọng (%)

- Hàng năm - Lâu năm

Cây ăn quả Tỉ trọng (%) Các cây trồng khác Tỉ trọng (%)

1997 200.763 32.934 16,40 116.013 57,78 13.230 102.783 5.708 2,84 46.108 22,96

2001 202.233 25.506 12,61 123.730 61,18 11.614 112.116 9.220 4,56 43.777 21,64

2003 202.928 24.722 12,18 125.439 61,81 10.752 114.687 10.543 5.19 42.224 20,81

2007 210.142 14.324 6,81 127.990 60,90 4.843 123.147 7.242 3,44 60.586 28,83

1999 206.074 35.141 17,05 121.493 58,95 13.052 108.441 7.087 3,44 42.353 20,55

Nguồn: Tính toán từ niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

 Chăn nuôi

Ngành chăn nuôi đang từng bước vươn lên để cân đối với ngành trồng trọt. Tốc độ tăng trưởng

của ngành đạt 16,60% thời kì 1997 – 2000; 12,28% thời kì 2001 – 2003. Tính chung cả thời kì 2001 –

2007 tăng bình quân 14,71%/năm. Tỉ trọng của ngành chăn nuôi tăng từ 13,77% giá trị sản xuất nông

nghiệp (1997) lên 24,4% giá trị sản xuất ngành nông nghiệp (2007).

+ Cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo thành phần kinh tế

Khu vực kinh tế trong nước chiếm tỉ trọng lớn, khoảng 67,40% năm 1999 và 89,71% năm 2007;

khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 10,29%. Về giá trị tuyệt đối của cả 2 khu vực

trong sản xuất nông nghiệp liên tục tăng lên. Năm 1997, giá trị sản xuất nông nghiệp của khu vực kinh

tế trong nước là 894,2 tỉ đồng và năm 2007 tăng lên 6.545,7 tỉ đồng; khu vực kinh tế có vốn đầu tư

nước ngoài tăng từ 38,02 tỉ đồng năm 1999 lên 697,24 tỉ đồng năm 2007.

+ Cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo lãnh thổ

Mặc dù sự phân vùng nông nghiệp ở Bình Dương không thật rõ nét nhưng tựu chung lại có thể

chia ra thành 3 vùng nông nghiệp sau:

Vùng 1: vùng nông nghiệp phía nam tỉnh Bình Dương bao gồm TX. Thủ Dầu Một, huyện Thuận

An và Dĩ An. Vùng có vị trí nằm ven các đô thị và các khu công nghiệp lớn của tỉnh, với tổng diện tích là 232,24km2, dân số 595,214 nghìn người , mật độ dân số trung bình 2.562,9 người/km2. Đây là vùng

nông nghiệp có mật đô dân số và tỉ lệ thị dân cao nhất tỉnh.

Vùng tập trung phát triển nền nông nghiệp ven đô với các sản phẩm chủ yếu là rau xanh, cây ăn

quả đặc sản, hoa và cây cảnh phục vụ nhu cầu dân cư đô thị trong tỉnh, một phần cho khách du lịch và

TP. HCM, Biên Hòa, Vũng Tàu…

Vùng 2: vùng phía Đông tỉnh Bình Dương gồm huyện Tân Uyên với tổng diện tích tự nhiên là 613,44 km2, dân số 162,586 nghìn người và mật độ dân số trung bình 265 người/km2 . Vùng tập trung

sản xuất lúa (đặc biệt là những giống lúa cao sản), cây rau đậu và cao su. Cây ăn quả của vùng chiếm

một tỉ lệ nhỏ. Chăn nuôi phát triển mạnh và chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu chăn nuôi của tỉnh.

Vùng 3: vùng phía Tây – Tây Bắc của tỉnh Bình Dương bao gồm huyện Dầu Tiếng, Phú Giáo và Bến Cát. Vùng có diện tích tự nhiên lớn nhất trong tỉnh với 1.849,45 km2, dân số 317,657 nghìn người và mật độ dân số trung bình là 171,75 người/km2.

Vùng tập trung phát triển về trồng cây lâu năm, cây công nghiệp ngắn ngày và cây ăn quả. Về

chăn nuôi, đây là vùng tập trung 70% trang trại chăn nuôi gia sục, gia cầm của tỉnh Bình Dương. Đồng

thời đây cũng là vùng có diện tích rừng lớn nhất tỉnh với 12.428 ha. Các sản phẩm lâm sản chủ yếu là

gỗ, tre, nứa, luồng…đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu cho các cơ sở chế biến gỗ, sản xuất đồ gia dụng,

điêu khắc gỗ, đan mây tre lá…

Tóm lại, tình hình sản xuất các ngành khu vực nông – lâm – ngư nghiệp trong những năm vừa qua

có những chuyển biến tích cực: Giảm nhanh diện tích cây trồng kém hiệu quả; chuyển đất trồng lúa

năng suất thấp sang trồng cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao; cải tạo vườn tạp thành

vườn chuyên canh hoặc vườn sinh thái; hình thành các vùng chuyên canh trồng cao su, điều, cây ăn

quả, mía, lúa – rau, vùng chăn nuôi bò sữa, heo, gà công nghiệp….

Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi và thành tựu đạt được, sản xuất nông nghiệp vẫn còn gặp

những khó khăn nhất định: trình độ sản xuất các ngành nông – lâm – ngư nghiệp vẫn còn thấp, chậm

thay đổi, trang thiết bị ít nên chi phí sản xuất còn cao, chất lượng sản phẩm còn kém và hư hao nhiều;

sản xuất thâm canh chưa cao….

Sự phân bố và phát triển nông nghiệp như trên đã khiến cho dân số của tỉnh phân bố thưa thớt ở

các huyện Dầu Tiếng, Phú Giáo do đây là các huyện thuần nông, lao động nhập cư chiếm tỉ lệ rất nhỏ

trong tổng số lao động nhập cư của tỉnh. Trong khi đó, các huyện phía nam tỉnh Bình Dương và gần

đây là Bến Cát, Tân Uyên có mật độ dân số cao hơn hẳn do nguồn lao động nhập cư làm việc trong các

khu công nghiệp tập trung chủ yếu ở khu vực này.

Việc giảm tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP đã làm cho lao động trong ngành

cũng giảm đi, bình quân giảm 2,60%/năm. Các huyện thị có tốc độ giảm lao động nông nghiệp nhanh

thuộc về các huyện phát triển công nghiệp và dịch vụ của tỉnh như Thuận An (-7,90%/năm), TX. Thủ

Dầu Một (-7,4%/năm), Bến Cát (-5,60%/năm), Tân Uyên (-3,72%/năm) và Dĩ An (-2,30%/năm).

- Công nghiệp và xây dựng

Các ngành công nghiệp và xây dựng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỉ trọng cao nhất.

Trong thời kì 1997 – 2000 tốc độ tăng trưởng là 21,81%/năm, thời kì 2001 – 2007 tăng trưởng

17,23%/năm.

+ Ngành công nghiệp

- Tốc độ tăng trưởng: trong thời kì 1997 – 2000, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp

đạt 32,63%/năm, thời kì 2001 – 2007 đạt 32,19%/năm. Về quy mô, giá trị sản xuất công nghiệp của

Bình Dương liên tục tăng, đạt 5.456,014 tỉ đồng (1997) tăng lên 140.184,573 tỉ đồng (2007) (theo giá

hiện hành).

Trong các ngành, ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, khoảng

32,55%/năm trong suốt thời kì 2001 – 2007, đây cũng là ngành quyết định đến tốc độ tăng trưởng công

nghiệp của tỉnh. Công nghiệp khai thác có tốc độ tăng vừa phải, đạt 13,76%/năm cùng thời kì. Các

ngành sản xuất phân phối điện, khí, nước có tốc độ tăng trưởng thấp và có quy mô nhỏ.

Bảng 2.31. Cơ cấu giá trị sản xuất ngành công nghiệp tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997 – 2007 Đơn vị: % (theo giá hiện hành)

Tốc độ tăng trưởng (giá so sánh)

1997

1999

2001

2007

1997 – 2001

5.456,0 2,21 97,73 0,06

8.688,9 1,79 98,01 0,20

140.184,5 0,61 99,21 0,18

20.225,4 1,58 97,38 1,04

2001 – 2007 32,19 13,76 32,55 5,38

32,73 22,90 32,93 167,37

Toàn ngành (tỉ đồng) Công nghiệp khai thác Công nghiệp chế biến Công nghiệp sản xuất và phân phối điện khí, nước

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

+ Cơ cấu công nghiệp:

 Cơ cấu ngành

Có sự chuyển dịch tích cực. Các ngành công nghiệp có kĩ thuật hiện đại và có giá trị cao đang có

xu hướng tăng nhanh như: hoá chất, cơ khí, thực phẩm cao cấp, hàng tiêu dùng cao cấp. Nhìn chung,

công nghiệp chế biến là chủ yếu và có xu hướng tăng lên, năm 1997 chiếm 97,73% giá trị sản xuất

ngành công nghiệp, năm 2007 chiếm 99,21% giá trị sản xuất của ngành (theo giá hiện hành).

Công nghiệp khai thác có xu hướng giảm xuống. Năm 1997 chiếm 2,21% giá trị sản xuất ngành

công nghiệp, đến năm 2007 giảm xuống còn 0,61% giá trị sản xuất ngành công nghiệp.

Công nghiệp sản xuất, phân phối điện khí, nước chiếm tỉ trọng không đáng kể; chiếm 0,06% năm

1997, sau đó giảm xuống còn 0,18% giá trị sản xuất ngành công nghiệp năm 2007.

Cơ cấu lao động công nghiệp phân theo ngành của tỉnh Bình Dương cũng có sự thay đổi tương

ứng với sự chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp.

Bảng 2.32. Cơ cấu lao động công nghiệp theo ngành của tỉnh Bình Dương, giai đoạn 1997 –

2007

Đơn vị: %

1997 1999 2001 2003 2005 2007

Tổng (nghìn người) 76,3 93,4 152,7 269,9 378,7 493,9

Công nghiệp khai thác 2.42 1.34 1.02 0.68 0.51 0.42

Công nghiệp chế biến 97.08 98.45 98.81 99.18 98.64 99.44

Công nghiệp SX và 0.50 0.21 0.17 0.14 0.88 0.14

phân phối điện, khí,

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 2004, 2007.

nước

 Cơ cấu theo thành phần:

Trong thời gian qua, nhờ chính sách đầu tư, mở cửa thông thoáng của nhà nước và của tỉnh; khu

vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên rất nhanh, tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này

tăng từ 43,91% (1997) lên 63,76% (2007).

Bảng 2.33. Giá trị sản xuất và lao động công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tỉnh

Bình Dương, giai đoạn 1997 - 2007

1997

1999

2001

2003

2007

2.395,6 4.511,6 11.885,6 28.872,5 89.387,5

Giá trị

43,91

51,92

58,77

64,28

63,76

15,3

27,2

61,3

233,1

307,2

Lao động

Giá trị (tỉ đồng, giá hiện hành) Tỉ trọng (%) Số lao động (ngàn người) Tỉ trọng

20,12

29,12

40,16

61,53

62,19

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

Các thành phần kinh tế khác có xu hướng giảm tương ứng. Công nghiệp nhà nước có tỉ trọng

giảm từ 52,61% (1997) xuống chỉ còn 29,03% (2007).

Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên tục tăng nhanh nhưng chủ yếu tập trung vào ngành

công nghiệp nhẹ chuyên sản xuất hàng tiêu dùng, sử dụng nhiều nhân công lao động, tận dụng giá nhân

công rẻ như: dệt may, giày da, công nghiệp chế biến gỗ và khai thác tài nguyên trong nước.

Lao động công nghiệp trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng ngày càng tăng lên

cả về số lượng và tỉ lệ (bảng 2.33).

 Cơ cấu theo lãnh thổ:

Sản xuất công nghiệp của tỉnh phần lớn tập trung ở các huyện thị: Thuận An, Dĩ An, TX. Thủ

Dầu Một, Bến Cát, Tân Uyên. Chỉ tính riêng 2 huyện Thuận An và Dĩ An, giá trị sản xuất công nghiệp

đã chiếm trên 80% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Các huyện còn lại phát triển công nghiệp

chậm hơn. Việc tập trung phát triển công nghiệp ở 2 huyện phía Nam, kề cận TP. HCM là Thuận An,

Dĩ An thể hiện sự phát triển công nghiệp của tỉnh theo đúng quy luật lan toả, từ cực công nghiệp phát

triển ở TP. HCM ra các địa phương xung quanh. Nhưng trong tương lai, nếu không có điều tiết phân

bố không gian hợp lí hơn Bình Dương sẽ không phát huy được những thế mạnh khác do phát triển cơ

cấu hạ tầng cũng như lợi thế khác của tỉnh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (bảng 2.34).

Bảng 2.34. Tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Bình Dương phân theo huyện

Đơn vị: %

1997 5.456,014 25,02 0,11 5,13 0,32 4,51 34,35 30,55

1999 8.688,896 16,98 0,07 5,94 0,15 4,07 42,90 29,88

2001 20.255,397 8,57 2,16 4,25 1,20 3,37 39,38 40,93

2003 44.918,723 6,46 1,94 4,93 1,21 4,02 38,63 42,81

2007 140.184,573 3,78 0,82 9,01 0,57 6,99 42,61 36,27

Tổng số (tỉ đồng (giá thực tế) TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An Dĩ An

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

Do vậy, cần có định hướng phát triển công nghiệp mạnh hơn nữa ở các huyện phía Bắc của tỉnh,

nhất là Phú Giáo và Dầu Tiếng. Trong những năm gần đây, nhiều khu công nghiệp mới ở phía Bắc của

tỉnh đã được hình thành và đi vào hoạt động như khu công nghiệp Mỹ Phước I, II, Việt Hương II, Mai

Trung (Bến Cát); một số khu công nghiệp khác ở Tân Uyên như khu công nghiệp Nam Tân Uyên (hình

2.20) đã khiến cho tốc độ tăng trưởng công nghiệp ở một số địa phương này tăng nhanh. Thời kì 2001

– 2007, ngoài huyện Thuận An và Dĩ An đạt tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp khoảng từ

35 – 40%/năm, hai huyện Tân Uyên và Bến Cát bắt đầu có tốc độ tăng trưởng công nghiệp rất cao, lần

lượt là 46,42% và 50,90%. Xu hướng phát triển công nghiệp đúng hướng là chuyển dịch về các huyện

phía Bắc.

Bình Phước

Tây Ninh

Đồng Nai

Khu công nghiệp đang tồn tại Dự án khu công nghiệp

Tp. Hồ Chí Minh

Tỉ lệ: 1: 50.000

Hình 2.20. Lược đồ vị trí các khu công nghiệp tỉnh Bình Dương

Tóm lại, ngành công nghiệp của Bình Dương trong thời gian qua có tốc độ tăng trưởng rất nhanh,

quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Sự phát triển công nghiệp theo lãnh thổ trên địa bàn tỉnh

ảnh hưởng lớn đến sự phân bố dân cư và nguồn lao động công nghiệp (nhất là lao động nhập cư trong

tỉnh) (hình 2.19 và hình 2.21).

LAO ĐỘNG CÔNG NGHIỆP VÀ TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP TỈNH BÌNH DƯƠNG NĂM 2007

TT. Dầu Tiếng

TT. Phước Vĩnh

TT. Mỹ Phước

TT. Uyên Hưng

P. Phú Cường

TT. Dĩ An

TT. Lái Thiêu

Hình 2.21. Lao động công nghiệp và tình hình sản xuất công nghiệp

tỉnh Bình Dương năm 2007

+ Ngành xây dựng

Trong những năm qua ngành xây dựng của tỉnh đã có bước phát triển nhất định, phục vụ cho nhu

cầu phát triển của tỉnh.

Giá trị sản xuất của ngành xây dựng đã tăng đáng kể, từ 362,792 tỉ đồng (1997) lên 4.259,021 tỉ

đồng (2007) (giá hiện hành). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước chiếm tỉ trọng lớn, khoảng 83,1%

trong 6 năm 2000 – 2005, năm 2007 chiếm 90,09%, khu vực đầu tư nước ngoài chỉ chiếm 9,91% giá trị

sản xuất ngành xây dựng (2007).

Bảng 2.35. Giá trị sản xuất ngành xây dựng tỉnh Bình Dương

Năm Tổng

1997 362,8

1999 628,9

2001 935,6

Đơn vị: Tỉ đồng (giá thực tế) 2007 4.259,0

2003 1.601,9

599,2 95,28 29,7

362,8 100 0 0

4,72

874,1 93,43 61,5 6,57

1.461,6 91,24 140,3 8,76

3.837,1 90,09 421,9 9,91

Khu vực kinh tế trong nước Tỉ trọng (%) Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Tỉ trọng (%)

Nguồn: Tính toán từ niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

Thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỉ trọng lớn, trung bình khoảng gần 50% tổng giá trị sản xuất

của ngành xây dựng ở khu vực kinh tế trong nước. Tuy vậy, trong mấy năm gần đây, thành phần kinh

tế nhà nước có giảm đi, từ 68,2% (2000) giảm xuống còn 38,64% giá trị ngành xây dựng năm 2007

trong khu vực kinh tế trong nước. Ngược lại, thành phần kinh tế hỗn hợp lại tăng từ 27,2% (2000) lên

52,72% giá trị ngành xây dựng trong khu vực kinh tế trong nước (2007).

- Dịch vụ

Các ngành dịch vụ (thương mại, du lịch, khách sạn, nhà hàng) của tỉnh Bình Dương đã và đang

tăng trưởng nhanh. Tốc độ tăng trưởng thời kì 1997 – 2000 đạt 8,98%/năm, tiếp tục tăng rất nhanh

trong 3 năm 2001 – 2003, đạt khoảng 14,6%/năm. Tính chung trong cả thời kì 2001 – 2007, tốc độ

tăng trưởng bình quân của ngành dịch vụ đạt 37,49%/năm.

Giá trị sản xuất của ngành dịch vụ của tỉnh Bình Dương liên tục tăng lên theo thời gian. Năm

1997 đạt 510,166 tỉ đồng, tăng lên 8.392,366 tỉ đồng năm 2007, gấp 1,6 lần so với năm 1997. Tuy

nhiên, tỉ trọng của ngành dịch vụ không lớn trong cơ cấu GDP, dịch chuyển chậm trong nhiều năm

qua. Giá trị tăng thêm của ngành dịch vụ chỉ chiếm khoảng 25%GDP.

+ Cơ cấu ngành dịch vụ

Ngành thương mại có giá trị sản xuất lớn nhất nhưng có xu hướng giảm. Tỉ trọng giá trị sản xuất

của ngành thương mại giảm mạnh từ 62,01% (1997) xuống 30,04% giá trị sản xuất của ngành dịch vụ

(2007). Ngành khách sạn, nhà hàng cũng giảm, từ 24,18% (1997) xuống còn 14,47% (2007). Các

ngành khác như ngân hàng, tài chính… tăng mạnh từ 13,80% (1997) lên 55,49% (2007). Xu hướng

này cho thấy các ngành dịch vụ khác đang chuyển động theo chiều hướng tích cực, phù hợp với xu thế

phát triển.

Bảng 2.36. Phát triển dịch vụ theo ngành của tỉnh Bình Dương, giai đoạn 1997 - 2007

Nguồn:Tính toán từ niên giám Thống kê 1999 và 2007.

1997 510,2 316,4 62,01 123,4 24,19 70,4 13,80 1999 626,7 365,1 58,25 166,3 26,54 95,3 15,21 2001 1.242,2 471,9 37,99 219,5 17,67 550,7 44,34 Đơn vị: tỉ đồng, giá thực tế 2003 2.416,2 669,8 27,72 512,7 21,22 1.233,7 51,06 2007 8.392,3 2.520,9 30,04 1.214,5 14,47 4.656,9 55,49 Giá trị sản xuất Thương mại Tỉ trọng (%) Khách sạn, nhà hàng Tỉ trọng (%) Dịch vụ khác Tỉ trọng (%)

 Thương mại

Ngành thương mại đã có những chuyển biến đáng kể, đáp ứng được sự phát triển về cung ứng và

tiêu thụ hàng hoá cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Giá trị sản xuất của ngành liên tục tăng lên theo

thời gian; từ 316,391 tỉ đồng (1997), tăng lên 461,922 tỉ đồng (2000), lên 669,816 tỉ đồng (2003) và đạt

2.520,957 tỉ đồng năm 2007. Số đơn vị kinh doanh thương mại cũng tăng lên đáng kể; năm 1997 từ

7.233 đơn vị tăng lên 7.296 đơn vị (2000) và 22.541 đơn vị (2007). Số người hoạt động trong ngành

thương mại cũng tăng lên từ 11.280 người (1997) lên 48.653 người (2007). Tuy nhiên, về tỉ trọng thì

ngày càng giảm, cả về số đơn vị kinh doanh và số người hoạt động trong ngành.

Hoạt động thương mại tập trung chủ yếu ở TX. Thủ Dầu Một, Thuận An, Dĩ An, chiếm 77,6%

tổng số người làm việc trong ngành thương mại của toàn tỉnh. Trong đó, TX. Thủ Dầu Một chiếm

34,2%, huyện Thuận An chiếm 26,0%, huyện Dĩ An chiếm 17,4%. Còn lại 4 huyện Bến Cát, Tân

Uyên, Dầu Tiếng, Phú Giáo chỉ chiếm 22,4% tổng số người làm việc trong ngành thương mại của toàn

tỉnh.

 Du lịch

Hoạt động du lịch của Bình Dương không được sôi động lắm so với các ngành nghề khác. Nhưng

nhìn chung, lượng khách du lịch đến Bình Dương trong mấy năm gần đây đã gia tăng. Năm 1997, số

khách du lịch đến Bình Dương là 200,034 nghìn người; 2007 là 445,130 nghìn người (tăng 2,2 lần so

với 1997). Về cơ cấu khách du lịch, chủ yếu là khách trong nước. Lượng khách quốc tế đến không

nhiều, đa số là khách của các văn phòng, các công ty và các khu công nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh.

Năm 2007 có 1,74% khách nước ngoài đến Bình Dương.

Doanh thu du lịch năm 2007 đạt 212,631 tỉ đồng; trong đó khu vực kinh tế trong nước chiếm

khoảng 90,65% tổng doanh thu du lịch. Trong khu vực kinh tế trong nước, doanh nghiệp ngoài nhà

nước ngày càng chiếm ưu thế. Năm 2007, doanh thu du lịch từ doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm

88,01% tổng doanh thu du lịch trên địa bàn tỉnh. Trong cơ cấu doanh thu du lịch, doanh thu bán hàng

chiếm 52,87%, doanh thu ăn uống chiếm 18,44%, doanh thu dịch vụ chiếm 27,36% và các doanh thu

khác chiếm 1,33% (2007).

Về hoạt động du lịch theo lãnh thổ: TX. Thủ Dầu Một chiếm trên 70% doanh thu du lịch toàn tỉnh

trong 6 năm 2001 – 2007, huyện Thuận An chiếm 17,48%, huyện Dĩ An chiếm 10,39%, các huyện còn

lại chiếm giá trị không đáng kể. Vì vậy, cần quan tâm phát triển du lịch theo lãnh thổ cân đối và hài

hoà hơn.

Mặc dù các kết quả thu được trong thời gian qua từ hoạt động du lịch đã đạt được những thành

quả nhất định, nhưng chưa thực sự phát triển được hết tiềm năng du lịch của tỉnh, đặc biệt là các hình

thức du lịch miệt vườn, nghỉ dưỡng cuối tuần, hội thảo, hội nghị kết hợp…. là những thế mạnh của du

lịch Bình Dương. Vì vậy, cần có định hướng khai thác tiềm năng này mạnh mẽ hơn nữa.

+ Cơ cấu ngành dịch vụ theo thành phần

Bảng 2.37. Phát triển các ngành dịch vụ theo thành phần của tỉnh Bình Dương Đơn vi: tỉ đồng, giá thực tế

Giá trị sản xuất Khu vực kinh tế trong nước Tỉ trọng (%) Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Tỉ trọng (%)

2001 1.242,2 1.029,7 82,89 212,4 17,11

2007 8.392,4 7.131,5 84,98 1.260,9 15,02

1999 626,7 599,5 95,66 27,2 4,34

1997 510,2 487,9 95,63 22,3 4,37 Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

Xét về khu vực trong nước và nước ngoài thì dịch vụ trong nước có giá trị tuyệt đối liên tục tăng,

từ 487,9 tỉ đồng (1997) lên 8.392,4 tỉ đồng (2007); nhưng về cơ cấu trong tổng giá trị sản xuất của các

ngành dịch vụ thì khu vực kinh tế nhà nước đang có xu hướng giảm, từ 95,62% (1997) còn 84,98%

(2007. Ngược lại, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, chiếm từ 4,37% (1997), 15,02% giá trị

sản xuất ngành dịch vụ (2007). Điều này chứng tỏ hoạt động của các công ty nước ngoài đã đóng góp

đáng kể vào tăng trưởng ngành dịch vụ của tỉnh trong thời gian qua.

+ Cơ cấu theo lãnh thổ: Hoạt động dịch vụ tập trung chủ yếu ở phía Nam. Riêng TX. Thủ Dầu

Một, Dĩ An và Thuận An đã chiếm 77,66% tổng doanh thu của ngành; 4 huyện còn lại chỉ chiếm

22,34% tổng doanh thu của ngành (2007) (bảng 2.38).

Bảng 2.38. Tỉ trọng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tỉnh Bình Dương phân theo huyện thời kì 1997 - 2007 Đơn vị: %

2007 17.604,7 32,21 3,24 7,99 2,80 8,31 28,23 17,22

1999 3.380,8 54,14 3,75 6,60 2,48 4,78 15,70 12,55

2001 4.595,6 45,21 2,59 4,42 2,73 4,83 23,37 16,85

2003 6.756,5 35,95 3,22 5,87 3,32 6,23 26,73 18,68

Tổng (tỉ đồng) TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An Dĩ An

1997 3.042,4 54,30 3,71 6,50 2,47 4,64 14,89 13,49 Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999 và 2007.

Hoạt động ngành dịch vụ sôi động ở các huyện thị phía Nam cũng được thể hiện qua số đơn vị và

số người hoạt động trong ngành dịch vụ phân theo huyện. Khoảng 70% đơn vị kinh doanh và lao động

hoạt động dịch vụ của tỉnh Bình Dương tập trung ở các huyện thị phía Nam là Thuận An, Dĩ An và

TX. Thủ Dầu Một (bảng 2.39).

Bảng 2.39. Số đơn vị và số người hoạt động kinh doanh dịch vụ tỉnh Bình Dương phân theo huyện năm 2007

Tổng số TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Dĩ An Thuận An Số đơn vị kinh doanh dịch vụ (cơ sở) 51.315 17,21 4,88 13,10 4,55 11,85 21,43 26,96 Số người kinh doanh dịch vụ (người) 104.311 22,01 3,95 10,64 3,61 11,13 20,98 27,66 Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 2007

2.3.2. Xã hội

2.3.2.1. Giáo dục

- Giáo dục phổ thông

+ Số học sinh: số lượng học sinh trên địa bàn tỉnh Bình Dương tăng lên qua các năm. Năm học

1997 – 1998, tổng số học sinh là 143.345 học sinh, năm học 2006 – 2007 là 153.500. Trong đó, số học

sinh tiểu học có xu hướng giảm (năm học 1997 – 1998: 83.898, 2000 – 2001: 77.774, 2007 – 2008:

73.918 học sinh), học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông tăng lên (năm học 1997 – 1998:

48.417 học sinh THCS, 12.310 học sinh THPT; năm học 2007 – 2008: 55.255 học sinh THCS, 25.522

học sinh THPT). Xu hướng giảm học sinh tiểu học là do tỉ lệ sinh đang giảm dần.

Hình 2.22. Học sinh phổ thông tỉnh Bình Dương

Nghìn HS 90

82.6

77.7

80

73.9

73.2

71.4

70

55.2

56.3

60

54.5

51.2

48.4

50

Tiểu học

40

28.6

THCS

25.5

30

24.6

22.7

THPT

20

12.3

10

0

Năm học

1997 - 1998

2000 - 2001

2003 - 2004

2006 - 2007

2007 - 2008

+ Đội ngũ giáo viên: đội ngũ giáo viên cũng không ngừng tăng lên về số lượng. Từ năm học 1997

– 1998 toàn tỉnh có 5.047 giáo viên phổ thông đến năm học 2006 – 2007 có 7.081 giáo viên (nữ chiếm

trên 70%), năm học 2007 – 2008 có 7.133 giáo viên. Trong đó, giáo viên tiểu học chiếm 46,52%, giáo

viên THCS chiếm 35,77%, giáo viên THPT chiếm 17,71%. Cùng thời điểm trên, số giáo viên mẫu giáo

lần lượt là 749 người và 125 người; giáo viên các trường cao đẳng, đại học, trung cấp lần lượt là 75

người và 156 người. Tuy nhiên, số giáo viên bình quân trên 1 vạn dân tăng không đều qua các năm,

năm 2007 số giáo viên bình quân/vạn dân chỉ còn 66,32 trong khi năm 2004 là 76,58. Điều này có liên

đến sự tương quan giữa dân số và số giáo viên. Dân số năm 2007 gấp 1,16 lần so với dân số năm 2004

nhưng số giáo viên tăng rất chậm, năm 2007 có 7.133 giáo viên trong khi năm 2004 có 7.016 giáo viên

(chỉ gấp 1,016 lần so với năm 2004). Chính điều này đã làm cho số giáo viên/vạn dân giảm đi.

Về số giáo viên/vạn dân phân theo huyện: Các huyện phía Bắc như Phú Giáo, Dầu Tiếng nhìn

chung có số giáo viên phổ thông/vạn dân cao hơn hẳn so với các huyện thị phía Nam. Hai huyện Thuận

An và Dĩ An có số giáo viên/vạn dân thấp nhất. Nguyên nhân là sự gia tăng dân số do nhập cư ở 2

huyện này quá cao khiến dân số tăng nhanh trong khi số giáo viên lại tăng chậm hơn nhiều. Ở Dầu

Tiếng, Phú Giáo gia tăng dân số chủ yếu là do gia tăng tự nhiên mà mức gia tăng tự nhiên không cao

nên dân số tăng chậm dẫn đến số giáo viên bình quân cao hơn. (bảng 2.40).

Bảng 2.40. Số giáo viên phổ thông của tỉnh Bình Dương phân theo huyện Đơn vị: giáo viên/vạn dân

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004 và 2007.

2007 - 2008 66,32 76,16 85,18 84,22 103,07 488,28 39,17 41,31 2004 – 2005 76,58 86,27 93,71 94,08 112,47 98,68 45,41 43,01 1999 - 2000 71,75 78,43 75,42 78,59 71,17 68,54 46,37 38,54 Toàn tỉnh TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An Dĩ An

+ Cơ sở vật chất kĩ thuật:

Cùng với sự gia tăng dân số là sự gia tăng về số học sinh và hệ thống trường lớp nhằm đáp ứng

cho nhu cầu học tập của học sinh. Năm học 1997 – 1998 có 169 trường học và 143.345 học sinh phổ

thông, đến năm học 2007 – 2008 đã tăng lên 208 trường học và 154.665 học sinh phổ thông. Về số

trường và số học sinh chia theo các cấp học, số học sinh tiểu học chiếm tỉ lệ cao nhất và số trường tiểu

học cũng chiếm tỉ lệ cao tương ứng.

Bảng 2.41. Tỉ lệ số HS và số trường học phổ thông tỉnh Bình Dương

2007 - 2008

Đơn vị: %

Số trường (trường) Trong đó: + Tiểu học + THCS + THCS + THPT

1997 – 1998 169 63,92 23,66 12,42

2000 – 2001 184 61,41 23,91 14,68

2003 – 2004 189 61,90 23,28 13,76

208 62,98 24,52 5,77

+ THPT

0

0

1,06

6,73

143.345

152.899

152.340

154.665

57,63 37,77 8,6

50,98 33,96 15,06

48,02 35,89 16,09

47,79 35,71 16,50

Số học sinh (học sinh) Trong đó: + Tiểu học + THCS +THPT

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương 1999 và 2007.

Năm học 2007 – 2008 có 277 trường học; trong đó có 69 trường mẫu giáo, mầm non và nhà trẻ

(24,91%); tiểu học 131 trường (47,29%); THCS 51 trường (18,41%), THPT cấp 2 – 3 và THPT có 26

trường (9,38%). Như vậy, trong năm học 2007 - 2008, số trường học THPT đã tăng lên đáng kể (gấp 6

lần so với năm học 2003 – 2004). Số lớp học có tất cả là 5.393 lớp; trong đó mẫu giáo là 942 lớp

(17,46%); tiểu học 2.414 lớp (44,76%); THCS là 1.379 lớp (25,57%); THPT là 649 lớp (12,03%).

Cùng với sự phát triển về kinh tế và dân số, việc đầu tư cho giáo dục của tỉnh ngày càng nâng cao.

Số phòng học phục vụ học tập của học sinh phổ thông đã được nâng cấp. Số phòng học kiên cố ngày

càng tăng lên. Năm 2003, số phòng học kiên cố chỉ chiếm 42,50% tổng số phòng học, năm 2007 đã

tăng lên 55,30% tổng số phòng học phổ thông.

Tuy nhiên, trang thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập trong các trường còn thiếu. Một số rất ít

trường có trang bị phòng thí nghiệm, phòng thực hành bộ môn, phòng thực hành máy tính mà phần lớn

tập trung tại các trường THPT.

- Công tác đào tạo

+ Dạy nghề

Toàn tỉnh có 2 trường dạy nghề, 9 trung tâm dạy nghề do tỉnh quản lí, 2 trường và 1 trung tâm do

trung ương quản lí và 13 cơ sở tư nhân có chức năng đào tạo nghề. Hàng năm đào tạo khoảng 14.000 –

15.000 lao động, trong đó có 1.500 học sinh đào tạo dài hạn. Tuy nhiên, các trường dạy nghề của tỉnh

hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo cả về số lượng và chất lượng. Các khu công nghiệp phần

lớn sử dụng lao động kĩ thuật được đào tạo từ TP.HCM.

+ Trung học chuyên nghiệp

Số trường trung học chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua tăng không đáng kể. Năm

1997 có 4 trường, đến năm 2007 tăng lên 6 trường. Số giáo viên giảng dạy tăng khá nhanh. Năm 1997

có 75 giáo viên, năm 2007 tăng lên 156 giáo viên, gấp hơn 2 lần so với năm 1997. Tuy vậy, nhìn chung

số trường học và số giáo viên giảng dạy còn hạn chế, chưa tương ứng với sự tăng lên của số học sinh.

Số học sinh tham gia học tại các trường THCN ngày càng tăng lên. Năm 2007 có 9.668 người học, gấp

4,5 lần so với 1997 (2.127 người học), trong đó số học sinh tốt nghiệp là 1.405 học sinh (14,5% tổng số

học sinh theo học).

Các trung tâm giáo dục thường xuyên của tỉnh đều mở các lớp bổ túc văn hoá THCS, THPT, tin

học, ngoại ngữ; mở thêm các lớp liên kết đào tạo thêm các ngành nghề nhằm đáp ứng nhu cầu lao động

của tỉnh nhà.

+ Cao đẳng và đại học

Cho đến năm 2007, toàn tỉnh có 3 trường cao đẳng, đại học với số giáo viên là 566 người. Năm

1997 có 888 sinh viên cao đẳng, đại học; đến năm 2007 đã tăng lên 20.726 sinh viên – gấp 23,34 lần

năm 1997.

Nhìn chung năng lực đào tạo của các trường và các cơ sở đào tạo trong tỉnh hàng năm đáp ứng

được 12.000 đến 15.000 lao động dài hạn và 15.000 đến 20.000 lao động ngắn hạn [9, tr.2], đủ sức

thực hiện nhiệm vụ đào tạo hết số lao động trong tỉnh. Với tốc độ và quy mô đó, đến năm 2010, tỉnh sẽ

đạt chỉ tiêu 40% lao động qua đào tạo.

Trong quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh, công tác đào tạo đã từng bước đáp ứng được nhu

cầu của tỉnh cả về số lượng lẫn chất lượng. Phương thức đào tạo ngày càng đa dạng, phong phú; mô

hình đào tạo tại chỗ, đào tạo theo đơn đặt hàng, đào tạo theo địa chỉ sử dụng, ngành nghề đào tạo gắn

với nhu cầu của các doanh nghiệp trên địa bàn… đã được nhiều cơ sở đào tạo áp dụng và đạt hiệu quả

cao.

Việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho các cơ sở đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển

công nghiệp của tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo của tỉnh Bình Dương vẫn còn tồn tại một số

hạn chế như: đội ngũ giáo viên còn thiếu và chưa đủ mạnh để đảm đương nhiệm vụ đào tạo những

công nhân kĩ thuật lành nghề, đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp của tỉnh. Lực lượng giáo viên

đào tạo chậm và chưa có chính sách ưu đãi cụ thể.

Đối với các trường trung cấp chuyên nghiệp: phương tiện, thiết bị giảng dạy, cơ sở vật chất phục

vụ học tập của các trường vẫn còn thiếu thốn bất cập, mới chỉ đáp ứng được nhu cầu trước mắt.

Công tác hướng nghiệp học sinh sau khi tốt nghiệp THCS, THPT còn nhiều bất cập, số lượng học

sinh THCS vào học nghề và học trung cấp vẫn còn ít, số học sinh tốt nghiệp THPT vẫn thích vào học

cao đẳng, đại học hơn.

Bên cạnh đó, công tác xã hội hoá trong đào tạo của tỉnh còn hạn chế cả quy mô lẫn ngành nghề

đào tạo.

Tóm lại, hệ thống giáo dục và đào tạo của tỉnh Bình Dương đã đạt được những thành tựu đáng ghi

nhận: quy mô giáo dục tiếp tục tăng ở các bậc học, cấp học đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng.

Bình Dương đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận tỉnh đạt chuẩn quốc gia về chống mù chữ và

phổ cập giáo dục tiểu học từ tháng 10/1997, công nhận tỉnh đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục

THCS từ tháng 12/2003 và đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi từ tháng

12/2004. Tỉ lệ trẻ em 11 tuổi tốt nghiệp tiểu học đạt 87%, tỉ lệ giáo viên đạt chuẩn ở bậc mầm non đạt

82,65%; tiểu học đạt 83,24%, THCS đạt 98,77%, THPT đạt 84,8%. Mạng lưới trường lớp ở các tất cả

các phường, xã trong tỉnh cơ bản đã kiên cố hoá, trong đó có 31,74% trường được lầu hoá.

Tuy nhiên, giáo dục toàn diện chưa đạt yêu cầu; chất lượng giáo dục giữa nông thôn - thành thị,

công lập - tư thục còn chênh lệch khá lớn; cơ hội học tập bậc cao cho con em các gia đình nghèo, vùng

sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế.

Quy mô và chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh chưa đáp ứng yêu cầu, tỉ lệ người lao động

được đào tạo nghề còn thấp; đầu tư trang thiết bị giảng dạy và học tập chưa tương xứng.

2.3.2.2. Y tế

Ngành y tế của tỉnh Bình Dương sau những năm đổi mới đã có bước chuyển biến tích cực. Hoạt

động chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân được đẩy mạnh, ngăn chặn không để dịch lớn

xảy ra trong nhiều năm liền.

Tỉnh Bình Dương đã tích cực thực hiện các chương trình: Chương trình tiêm chủng mở rộng cho

trẻ em dưới 1 tuổi, cho phụ nữ mang thai; chương trình chống sốt xuất huyết, sốt rét, phòng chống lao,

chống bướu cổ, chống phong; Chương trình phòng chống bệnh mắt; chương trình phòng chống suy

dinh dưỡng. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em – kế hoạch hoá gia đình của tỉnh đạt

kết quả tốt; tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thấp hơn mức trung bình của cả nước (20,3% so với

25%). Tỉ lệ trẻ sơ sinh suy dinh dưỡng trên địa bàn tỉnh cũng giảm dần. Điều này đã góp phần lớn vào

việc làm giảm tỉ lệ sinh và nâng cao chất lượng của nguồn lao động trong tương lai.

Bảng 2.42. Tỉ lệ trẻ em sơ sinh bị suy dinh dưỡng của tỉnh Bình Dương

2001 2003 2005 2006 2007

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 2007.

Tỉ lệ trẻ sơ sinh suy dinh dưỡng 6,4 6,0 6,0 5,4 4,7 (cân nặng < 2.500g)

Mạng lưới y tế từ tỉnh xuống huyện, xã từng bước được đầu tư phát triển.

Bảng 2.43. Số cơ sở y tế, giường bệnh và cán bộ y tế của tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 – 2007

2007 1,01 20,41 25,80

2003 1,10 19,10 19,73

2001 1,22 18,19 20,18

1997 1,35 14,65 14,68

Số cơ sở y tế (cơ sở/vạn dân) Giường bệnh (giường/van dân) Cán bộ y tế (người/vạn dân)

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2007.

Số cơ sở y tế tăng từ 92 cơ sở (1997) lên 109 cơ sở (2007); số giường bệnh đạt 995 giường năm

1997, tăng lên 2.195 giường (2007), đạt 20 giường bệnh/vạn dân. Đội ngũ y tế tăng lên về số lượng và

chú trọng về chất lượng. Số cán bộ y tế có 997 người năm 1997 và đạt 2.775 người năm 2007, bình

quân có 25,8 cán bộ y tế/vạn dân. Số bác sĩ ngày càng tăng lên từ 256 người năm 1999 lên 500 người

năm 2007, bình quân 4,65 bác sĩ/vạn dân. Số cán bộ ngành dược đạt 260 người năm 1999 và tăng lên

544 người năm 2007, gấp 2,1 lần năm 1999 – đạt 5,06 người/vạn dân.

Bên cạnh những mặt tích cực, ngành y tế vẫn còn nhiều tồn tại: hệ thống tổ chức, phân bố y tế

không đều, thiếu chuyên khoa nhi, lao, tâm thần…; một số bệnh chưa có giải pháp khống chế hữu hiệu:

lao, sốt xuất huyết, AIDS/HIV….; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn cao, một số bệnh vẫn gia tăng như

đường ruột, đường hô hấp, bệnh tim mạch….; tình trạng kém vệ sinh, ô nhiễm môi trường, ngộ độc

thực phẩm chưa được khắc phục.

2.4. Mối quan hệ giữa dân số với phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương

2.4.1. Dân số và tăng trưởng kinh tế

Bảng 2.44. Tổng sản phẩm xã hội và dân số của tỉnh Bình Dương (1997 – 2007)

2003 6.044,959 15,55 853,807 5,4 2,88

2001 4.754,667 14,40 769,946 3,6 4,00

1999 3.420,151 12,59 721,933 3,1 4,06

1997 2.735,911 17,69 679,044 3,1 5,7

2007 11.224,995 15,03 1.057,475 2,4 6,26

Tổng GDP (tỉ đồng) (giá so sánh 1994) Tốc độ tăng trưởng GDP (%) Dân số (nghìn người) Tốc độ tăng trưởng dân số (%) Tốc độ tăng GDP so với tốc độ tăng dân số (lần)

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007.

Mặc dù quy mô dân số và GDP của Bình Dương liên tục tăng nhưng tốc độ tăng GDP thường cao

gấp 3 – 4 lần so với tốc độ tăng dân số. Cụ thể năm 1997, tốc độ tăng trưởng GDP gấp 5,7 lần so với

tốc độ tăng dân số, đến năm 2007 con số đó là 6,26 lần. Điều này cho thấy tương quan giữa tốc độ tăng

trưởng GDP và tốc độ tăng trưởng dân số của tỉnh Bình Dương phù hợp với tính toán của tổ chức

lương thực và nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO): nếu dân số tăng 1% thì thu nhập quốc dân tăng ít

nhất là 4% mới đảm bảo được việc làm cho số lao động tăng thêm và giữ mức sống cũ của dân cư. Với

tốc độ tăng trưởng GDP và dân số như vậy, thu nhập bình quân đầu người của Bình Dương cũng liên

tục tăng lên.

(triệu

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007.

Bảng 2.45. Dân số và thu nhập bình quân của tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 - 2007 1997 5,77 14,59 679,044 3,1 GDP bình quân đồng/người) Tỉ lệ tăng GDP/người (%) Dân số (ngàn người) Tỉ lệ gia tăng dân số (%) 1999 7,26 9,49 721,933 3,1 2001 9,06 10,08 769,946 3,6 2003 11,68 10,15 853,807 5,4 2007 21,40 12,63 1.075,457 2,4

Thu nhập bình quân trên địa bàn tỉnh Bình Dương năm 2003 gấp 2 lần năm 1997 và năm 2007

gấp hơn 3 lần so với năm 1997. Tỉ lệ tăng GDP/người ở mức cao khoảng 10%/năm.

Bảng 2.46. Thu nhập và chi tiêu bình quân của tỉnh Bình Dương Đơn vị: nghìn đồng

2006 1.215,0 875,4 72,05 2002 504,3 441,7 87,59 Thu nhập bình quân đầu người/tháng Chi tiêu bình quân đầu người/ tháng Tỉ lệ chi tiêu so với thu nhập (%) 2004 777,9 576,8 74,15 Nguồn: Tính toán từ niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 2007.

Với sự phát triển khá hài hòa giữa dân số và kinh tế, đời sống người dân ngày càng được cải

thiện. Thu nhập không những đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng hàng ngày mà còn có phần tích luỹ

đáng kể và phần tích luỹ liên tục tăng. Năm 2002, chi tiêu hàng tháng chiếm 87,59% thu nhập, nhưng

đến năm 2006 chi tiêu chỉ còn chiếm 72,05%; như vậy gần 30% thu nhập là dành cho tích luỹ.

Tóm lại, mặc dù gia tăng dân số của Bình Dương vẫn còn ở mức cao (nhất là gia tăng cơ học)

nhưng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, thu nhập bình quân đầu người ngày càng nâng cao góp

phần tạo điều kiện cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trong tỉnh.

2.4.2. Dân số và lao động

Bảng 2.47. Quy mô dân số và lao động của tỉnh Bình Dương (1997 – 2007)

1997 1999 2001 2007

1.075,457 736,670 22,201 769,946 457,508 23,732 721,933 371,496 23,103 679,044 348,424 20,890 Đơn vị: nghìn người Tốc độ tăng trưởng 1997 – 2007 (%) 4,60 7,77 0,61

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 1999, 2004, 2007.

Dân số Nguồn lao động - Số người trong độ tuổi lao động - Số người ngoài độ tuổi lao động thực tế có tham gia lao động

Tốc độ tăng trưởng dân số trung bình của Bình Dương thời kì 1997 – 2007 là 4,60%/năm, mức

tăng dân số trong tuổi lao động là 7,77%/năm, gấp 1,7 lần mức tăng dân số; mức tăng lao động trong

các ngành kinh tế là 7,91%/năm. Qua số liệu này có thể thấy ở Bình Dương việc giải quyết việc làm

cho người lao động khá tốt.

Tính trên phạm vi toàn tỉnh, tổng số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế; số người

trong độ tuổi lao động đang đi học và làm nội trợ chiếm hơn 90% số người trong độ tuổi lao động. Cụ

thể năm 1997, tổng số người đang làm việc trong các ngành kinh tế, số người trong độ tuổi lao động

đang đi học và làm nội trợ chiếm 93,51% nguồn lao động. Tỉ lệ này năm 2007 là 94,70%. Qua đó có

thể thấy trong những năm qua tỉ lệ không có việc làm của Bình Dương ở mức trên 6,0%. Vì vậy, trong

thời gian tới tỉnh cần chú trọng hơn nữa công tác giải quyết việc làm cho người lao động.

Cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính của tỉnh cũng có ảnh hưởng đến nguồn lao động và cơ cấu lao

động. Nhìn chung, số người trong độ tuổi lao động của tỉnh và trên độ tuổi lao động có xu hướng tăng

lên. Năm 1997, số người trong độ tuổi lao động chiếm 54,41% dân số, số người trên tuổi lao động

chiếm 5,81% dân số. Năm 2007, số liệu tương ứng là 68,97% và 7,67%. Ngược lại, số trẻ em có xu

hướng giảm, từ 39,77% (1997) giảm xuống còn 23,35% dân số (2007) do tỉ lệ gia tăng tự nhiên giảm

dần. Điều này làm cho nguồn lao động của Bình Dương ngày càng tăng lên cả về số liệu tuyệt đối và

tương đối.

Tỉnh Bình Dương có số nữ trong và trên độ tuổi lao động cao hơn nam trong khi số nữ dưới tuổi

lao động lại thấp hơn nam. Một trong những nguyên nhân chính khiến nữ nhiều hơn nam trên địa bàn

tỉnh trong độ tuổi lao động là do trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá giai đoạn từ

1997 đến nay trên địa bàn tỉnh cũng luôn ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp nhẹ như giày da,

may mặc….thu hút nhiều lao động nữ từ các địa phương khác đến làm việc.

Tỉnh cũng chú trọng đến công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn lao động để đáp ứng

được nhu cầu ngày càng cao của các nhà tuyển dụng.

Tính đến năm 2007, mạng lưới dạy nghề trên địa bàn tỉnh gồm 30 cơ sở (3 cơ sở dạy nghề thuộc

Trung ương quản lí và 27 cơ sở dạy nghề thuộc địa phương quản lí). Năm 2007 dạy nghề được cho

18.741 học viên với 1.600 học viên hệ dài hạn được tuyển mới và 17.141 hệ ngắn hạn, đạt 108,9% kế

hoạch năm. Về trang thiết bị phục vụ công đào tạo nghề: Tỉnh đã phân bố vốn chương trình mục tiêu

quốc gia hỗ trợ mua sắm trang thiết bị dạy học nghề từ đầu năm 2007 cho trường Kĩ thuật Việt Nam –

Singapore, Trường Trung cấp nghề và các trung tâm dạy nghề TX. Thủ Dầu Một và các huyện: Tân

Uyên, Dĩ An với số tiền là 7,2 tỉ đồng. Tỉnh hiện có 425 giáo viên trên tổng số 696 cán bộ, giáo viên,

nhân viên trong các cơ sở đào tạo nghề. Trong đó, số giáo viên đạt chuẩn là 380 người (chiếm tỉ lệ

90%). Tuy vậy, nhìn chung các cơ sở vẫn còn thiếu giáo viên, nhất là nhưng cơ sở mới đào tạo.

Trong những năm gần đây, với tốc độ phát triển công nghiệp của tỉnh, nhu cầu tuyển dụng lao

động rất lớn, đa số học viên sau khi học nghề đều có việc làm ổn định. Đặc biệt có những ngành nghề

doanh nghiệp đăng kí tuyển dụng ngay trong thời gian đang theo học tại trường (cơ khí, điện, mộc…).

2.4.3. Dân số và giáo dục

Với quy mô dân số ngày càng tăng, số lượng học sinh trong tỉnh cũng tăng lên tương ứng. Tổng

số học sinh các cấp tăng từ 20,313 nghìn lên 192,886 nghìn với tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1997 –

2007 là 22,51%, nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng dân số. Số học sinh mẫu giáo tăng từ 17,707 nghìn

lên 32,990 nghìn; năm 2007 gấp 1,86 lần học sinh mẫu giáo năm 1997; số học sinh phổ thông tăng

chậm hơn, từ 143,345 nghìn lên 154,665 nghìn với tốc độ tăng trưởng giai đoạn 1997 – 2007 là 0,76%.

Tính chung cả số học sinh mẫu giáo và học sinh phổ thông tên địa bàn tỉnh tương quan với dân số

thì số học/vạn dân có xu hướng giảm. Năm 1997 là 2.371,7 học sinh/vạn dân, năm 2007 giảm xuống

còn 1.508,8 học sinh/vạn dân, giảm 1,6 lần. Điều này có liên quan đến việc giảm số người dưới tuổi

lao động trong cơ cấu dân số theo tuổi trên địa bàn trong thời gian qua. Số trẻ em trong độ tuổi đi học

từ 272,556 nghìn giảm xuống còn 254,776 (giảm với tốc độ 0,67%/năm) (bảng 2.48)

Bảng 2.48. Số trẻ em, số học sinh của tỉnh Bình Dương Đơn vị: nghìn người

Tốc độ tăng trưởng 1997 – 2007 (%)

1997

2007

Trẻ em từ 0 – 14 tuổi

Số học sinh

0,075

-0,67

254,776 162,270 1.508,8

Trẻ em từ 0 - 14 tuổi Số học sinh (trừ HS chuyên nghiệp) Số học sinh/vạn dân

272,556 161,052 2.371,7 Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1997, 2007.

Riêng số học sinh chuyên nghiệp (gồm học sinh trong các trường trung cấp, sinh viên trong các

trường cao đẳng, đại học) tăng lên rất nhanh, từ 2,606 nghìn năm 1997 lên đạt 30,616 năm 2007; tốc

độ tăng trưởng khá cao, thường trên 10%/năm, riêng năm học 2001 – 2002 tăng với tốc độ

32,26%/năm. Sự tăng nhanh của số học sinh trong các trường chuyên nghiệp có mối quan hệ với sự gia

tăng số người trong độ tuổi lao động trên địa bàn tỉnh do lực hút lao động từ các tỉnh thành khác đến

làm việc. Người lao động nhập cư đã ý thức được việc cần thiết phải có trình độ chuyên môn để làm

việc nên đã tham gia vào các khoá học ở các trường chuyên nghiệp. Bên cạnh đó còn có bộ phận sinh

viên, học sinh ở các địa phương khác đến Bình Dương tham gia học tập với mong muốn sau khi tốt

nghiệp được làm việc tại tỉnh. Qua đó phần nào phản ánh được chất lượng của nguồn lao động trong

tỉnh đang ngày càng nâng cao. (bảng 2.49)

Bảng 2.49. Số học sinh các cấp/vạn dân của tỉnh Bình Dương

Đơn vị: Học sinh

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2007.

2007 - 2008 306,7 1.438,1 284,6 1.793,5 2003 - 2004 239,3 1.784,2 119,6 2.143,2 2001 - 2002 240,3 1.979,8 99,4 2.319,6 1997 - 1998 260,76 2.110,9 38,37 2.410,1 Số học sinh mẫu giáo Số học sinh phổ thông Số học sinh chuyên nghiệp Tổng

Bảng 2.50. Tỉ lệ gia tăng tự nhiên và số học sinh tỉnh Bình Dương (1997 – 2007)

1997 1999 2001 2003 2007

Tỉ lệ gia tăng tự nhiên (%) 1,68 1,54 1,39 1,23 1,05

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007.

Số học sinh (nghìn người) 120,313 173,290 178,596 182,992 192,886

Phân tích mối tương quan giữa tỉ lệ gia tăng tự nhiên và số học sinh thời kì 1997 – 2007 của tỉnh

Bình Dương cho thấy khi tỉ lệ tăng tự nhiên giảm thì số học sinh tăng lên. Bởi vì khi giảm gia tăng dân

số thì chất lượng cuộc sống được nâng cao, giáo dục vì thế được chú trọng và đầu tư nhiều hơn, đặc

biệt là về giáo dục trẻ em. Tỉ lệ trẻ em 5 tuổi đến mẫu giáo, 6 tuổi vào lớp 1 của tỉnh ngày càng tăng và

đạt gần đến 100%.

Bảng 2.51. Một số chỉ tiêu về giáo dục trẻ em của tỉnh Bình Dương Đơn vị: %

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007.

2007 8,03 76,24 99,90 100 2005 7,20 65,40 99,90 100 2003 6,20 57,30 99,70 100 1997 1999 6,40 5,90 78,84 69,30 100 65,00 Chỉ tiêu Tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi đến nhà trẻ Tỉ lệ trẻ em 5 tuổi đến lớp mẫu giáo Tỉ lệ trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 Tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi được phổ cập tiểu học

2.4.4. Dân số và y tế

So với tốc độ tăng trưởng dân số thì tốc độ tăng trưởng số cán bộ y tế trên địa bàn tỉnh nhanh hơn

rất nhiều. Từ 1997 đến 2007dân số tăng 1,58 lần thì số cán bộ y tế tăng 2,78 lần, tốc độ tăng trưởng

dân số thời kì này là 4,5% trong khi số lượng cán bộ y tế tăng 10,77%. Số cán bộ y tế/vạn dân cũng

tăng tương ứng, từ 14,68 cán bộ/vạn dân (1997) lên 25,80 cán bộ/vạn dân (2007).

1997 679,044 997 92 14,68 2007 1.075,457 2775 109 25,80 2003 853,807 1685 94 19,73 2001 769,946 1554 94 20,18 Bảng 2.52. Quy mô dân số, số lượng cán bộ y tế và cơ sở y tế tỉnh Bình Dương, thời kì 1997 - 2007 Quy mô dân số (nghìn người) Số lượng cán bộ y tế (người) Số cơ sở y tế (cơ sở) Số cán bộ y tế/vạn dân 1999 721,933 1710 93 23,68 Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007.

Vấn đề chăm sóc sức khoẻ trẻ em được quan tâm. Tỉ suất tử vong trẻ em ngày càng giảm, trẻ em

dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ… Ngoài ra, tỉnh còn có những hoạt động thiết thực chăm lo đến

sức khoẻ trẻ em như cấp thẻ khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi, đưa ra chương trình phòng

chống tai nạn thương tích cho trẻ em, đề án mổ tim cho trẻ em mắc bệnh tim… Tất cả những hoạt động

thiết thực đó có được nhờ sự phát triển của ngành y tế và còn nhờ vào việc thực hiện tốt công tác kế

hoạch hoá gia đình trên địa bàn tỉnh, tỉ lệ sinh ngày càng giảm nên tạo điều kiện tốt cho công tác chăm

sóc sức khoẻ trẻ em.

Bảng 2.53. Một số chỉ tiêu chăm sóc sức khoẻ trẻ em tỉnh Bình Dương

2001 10,96 12,41 2003 5,48 8,45 2005 9,58 13,2 2006 9,92 13,3 2007 7,82 7,99 Tỉ suất trẻ em dưới 1 tuổi tử vong (%0) Tỉ suất trẻ em dưới 5 tuổi tử vong (%0)

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 2007.

100 1,40 100 100 1,88 100 100 2,00 100 100 2,70 100 100 4,90 100 Tỉ lệ trẻ em dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ Tỉ lệ trẻ em 8 – 12 tuổi bị bướu cổ Tỉ lệ trẻ em 60 tháng uống VitaminA

Sự phát triển về y tế đã góp phần làm giảm tỉ lệ sinh. Tỉ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện

pháp tránh thai hiện đại ngày càng tăng.

Năm Tỉ lệ (%) Mức giảm sinh Tỉ lệ sinh (%0)

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2004, 2007; UBDS, GĐ và TE tỉnh Bình Dương - Báo cáo

15 năm công tác dân số, gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương 1990 – 2005.

0,72 0,71 0,8 0,8 0,7 -0,28 21,59 20,16 18,66 17,06 15,56 15,24 Bảng 2.54. Tương quan giữa tỉ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại và tỉ lệ sinh của tỉnh Bình Dương Mức độ tăng tỉ lệ sử dụng biện pháp tránh thai 4,33 1,2 1,16 2,09 0,87 0,34 62,84 64,95 68,14 72,51 75,00 75,91 1997 1999 2001 2003 2005 2007

Sự phân bố các cơ sở y tế và cán bộ y tế theo huyện thể hiện mối quan hệ giữa phát triển dân số

và y tế. Tại các huyện Thuận An và Dĩ An, các chỉ tiêu về y tế/vạn dân ở mức thấp nhất trong tỉnh. Cụ

thể số cán bộ y tế/vạn dân năm ở Thuận An và Dĩ An lần lượt là 8,02 và 5,50; trong khi đó ở các địa

phương phía Bắc như Dầu Tiếng và Phú Giáo chỉ tiêu này là 13,67 và 20,53 (bảng 2.57). Điều này

không có nghĩa là hoạt động y tế ở các địa phương phía Bắc – nơi hoạt động kinh tế chủ yếu là nông

nghiệp phát triển hơn các huyện Thuận An và Dĩ An mà là do đặc điểm về phát triển dân số. Ở hai

huyện này gia tăng dân số rất nhanh do nhập cư đã làm cho quy mô dân số lớn hơn so với các huyện

khác trong tỉnh; trong khi đó, mức gia tăng cán bộ y tế của 2 huyện này lại chậm hơn so với mức gia

tăng dân số. Chính vì vậy, số cán bộ y tế/vạn dân của Thuận An và Dĩ An thấp hơn so với các huyện

phía bắc. Hiện nay, ở 2 huyện này hàng loạt các phòng khám đa khoa và bệnh viện tư nhân được xây

dựng đã góp phần đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh của người dân. Mặc

dù vậy, sức ép của gia tăng dân số nhanh đ61i với ý tế lên các địa phương này vẫn khá lớn.

Bảng 2.55. Các chỉ tiêu về y tế tỉnh Bình Dương phân theo huyện

2007

Số cơ sở

Số cơ sở

Số cán bộ y tế/vạn dân

Số giường bệnh

Tổng số TX. Thủ Dầu Một Dầu Tiếng Bến Cát Phú Giáo Tân Uyên Thuận An Dĩ An

Số cán bộ y tế/vạn dân 20,08 49,17 9,45 15,03 12,81 14,16 11,57 6,87

1999 Số giường bệnh/vạn dân 16,61 39,98 11,19 13,99 10,96 13,74 11,57 5,21

93 16 12 17 10 20 11 7

25,80 73,75 13,67 10,98 20,53 11,38 8,02 5,50

109 19 15 16 14 25 12 8

20,41 70,89 14,16 9,38 19,84 12,55 9,15 5,00

Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 1999, 2007.

2.4.5. Dân số và môi trường

Sự phát triển nhanh về dân số, công nghiệp trên địa bàn đã làm cho môi trường bị ô nhiễm

nghiệm trọng: ô nhiễm nước, ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn….

Nguồn nước sông Đồng Nai và sông Sài Gòn bị ô nhiễm bởi hai loại nước thải: nước thải công

nghiệp từ các xí nghiệp sản xuất công nghiệp và nước thải sinh hoạt từ sinh hoạt của cộng đồng dân cư

ở ven sông.

Môi trường không khí bị ô nhiễm bởi CO, bụi, chì, NO2.

Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng dân số và công nghiệp ở mức cao đã kéo theo sự tăng thêm chất thải. Tổng lượng nước thải của các khu công nghiệp khoảng 30.000 m3/ngày và bên ngoài khu công nghiệp khoảng 60.000 m3/ngày, trong đó phần lớn là nước thải của một số ngành công

nghiệp có lưu lượng, tải trọng và nồng độ ô nhiễm cao như: sản xuất giấy, chế biến mủ cao su, dệt,

nhuộm, hoá mỹ phẩm…. Hiện nay, đa số các nguồn nước thải công nghiệp chưa được xử lý triệt để,

chưa đạt tiêu chuẩn môi trường. Thêm vào đó, nước sinh hoạt trong các đô thị không được xử lý thải

trực tiếp ra kênh rạch dẫn đến gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.

Lượng chất thải rắn trên địa bàn tỉnh rất lớn, khoảng 400 tấn/ngày; trong đó có khoảng 10 – 15%

là chất thải rắn nguy hại; 70 – 75% có thể tận thu tái chế. Chất thải rắn công nghiệp rất đa dạng: từ cặn

bùn thải, phế liệu đến các loại bao bì, rác thải độc hại, nhưng tất cả đều chưa có hệ thống thu gom, vận

chuyển và xử lý. Phần lớn các doanh nghiệp đang đầu tư hợp đồng với các đơn vị tư nhân hoặc xí

nghiệp dịch vụ ở thành phố Hồ Chí Minh đưa đi khỏi nhà máy. Ngoài ra, cũng có một số nhà máy đem

chất thải rắn đốt tự do tại chỗ hoặc đem bán cho các lò gạch, lò gốm sứ đốt lò, gây ô nhiễm môi trường

không khí khu dân cư xung quanh.

Chất thải khí hình thành chủ yếu từ quá trình đốt nhiên liệu, vận hành lò hơi, lò nung, máy phát

điện, hơi dung môi hữu cơ… gồm SO2, NO, CO… gây ô nhiễm từng nơi, từng thời điểm khác nhau.

Thực hiện chương trình quản lí ô nhiễm môi trường, tỉnh đã có chương trình di dời các cơ sở gốm

sứ gây ô nhiễm môi trường ra khỏi các khu dân cư, đô thị đến các khu tập trung đã được quy hoạch tại

huyện Tân Uyên với diện tích khoảng 200 ha. Đến năm 2005, TX. Thủ Dầu Một và các huyện Thuận

An, Dĩ An, các thị trấn thuộc các xã còn lại không còn cơ sở sản xuất gạch thủ công.

Tỉnh đã đầu tư xây dựng khu liên hiệp xử lý chất thải rắn Nam Bình Dương với diện tích 75 ha,

tổng số vốn là 14,7 triệu Euro.

Ngoài ra, tỉnh đã thực hiện tuyên truyền thông tin bảo vệ môi trường qua các phương tiện thông

tin đại chúng để người dân có ý thức bảo vệ môi trường; tổ chức thảo luận, tập huấn cách phòng ngừa

ô nhiễm, về quản lí môi trường của các Sở, Ban ngành có liên quan. Ngoài ra, tỉnh đã thành lập phòng

môi trường và thanh tra môi trường thuộc Sở khoa học – công nghệ với trên 20 người; cấp huyện cũng

thành lập phòng, cấp xã có biên chế cán bộ phụ trách môi trường.

Tuy nhiên, vấn đề môi trường còn một số tồn tại như:

Chưa xây dựng hoàn chỉnh và ban hành một số văn bản quy định bảo vệ môi trường chung quanh

của tỉnh; những quy định về các ngành nghề có nguy cơ tiềm ẩn gây ô nhiễm lớn phải hạn chế đầu tư

vào các khu công nghiệp tập trung.

Chưa có hệ thống thu gom, xử lý chất thải rắn hữu hiệu.

Chưa có biện pháp đồng bộ giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất

nhỏ ngoài khu công nghiệp và các khu dân cư.

Một số khu công nghiệp chưa có hệ thống thoát nước hoàn chỉnh như: cụm công nghiệp Việt

Hương II, cụm công nghiệp An Phú, An Thạnh, Thái Hoà…

Hệ thống tổ chức quản lí tuy đã được hình thành ở các cấp nhưng chưa đủ về số lượng và trình độ

cán bộ, chưa đáp ứng yêu cầu thức tế. Trang thiết bị, đặc biệt là tin học hoá trong công tác bảo vệ môi

trường còn hạn chế.

Tất cả những vấn đề môi trường trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống sinh hoạt của

dân cư.

Tóm lại, qua nghiên cứu và phân tích mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh

Bình Dương có thể thấy giữa các đặc điểm về dân số và phát triển kinh tế của tỉnh có mối quan hệ mật

thiết với nhau.

Trước hết, những thay đổi trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã ảnh hưởng không

nhỏ đến các đặc điểm về dân số. Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ trong thời

gian qua đã tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển công nghiệp ở các địa phương phía nam tỉnh Bình

Dương tạo điều kiện thu hút một số lượng lớn lao động nhập cư vào địa bàn tỉnh để làm việc. Điều này

làm cho quy mô dân số của tỉnh tăng nhanh chóng mặc dù tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của ở mức

thấp. Bên cạnh đó, cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính cũng có sự thay đổi. Dân số trong độ tuổi lao

động ngày càng tăng, trong đó nữ chiếm tỉ lệ lớn hơn so với nam do tỉnh chủ yếu tập trung phát triển

các ngành công nghiệp nhẹ. Sự phân bố dân cư cũng không đồng đều. Dân cư tập trung ở các huyện thị

phía nam như Thuận An, Dĩ An, TX. Thủ Dầu Một và gần đây là Bến Cát, Tân Uyên do sự tập trung

của các khu công nghiệp trong tỉnh chủ yếu tập trung ở khu vực này. Cơ cấu lao động theo địa phương

cũng chênh lệch, các huyện thị phía nam là nơi tập trung động lao động trong ngành công nghiệp và

dịch vụ trong khi các huyện phía bắc lại tập trung phần lớn lao động nông nghiệp của tỉnh. Vì vậy, để

góp phần cân đối lại sự phân bố dân cư và lao động giữa các địa phương, tỉnh Bình Dương cần chú

trọng phát triển mạnh mẽ hơn nữa công nghiệp và dịch vụ ở các huyện phía Bắc.

Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế trong tỉnh từ 1997 đến nay đã tạo điều kiện nâng cao

chất lượng cuộc sống cho dân cư. Các mặt giáo giáo dục, y tế theo đó cũng được đầu tư phát triển.

Điều này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao chất lượng nguồn lao động trong tỉnh, đáp ứng nhu cầu

phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong hiện tại cũng như tương lai.

Tuy nhiên, hoạt động sản xuất công nghiệp mạnh mẽ cùng sự gia tăng dân số nhanh do lao động

nhập cư (phần lớn là lao động phổ thông) cũng gây ra sức ép lớn về vấn đề về môi trường, việc làm,

nhà ở và đào tạo tay nghề cho người lao động. Vì vậy, trong tương lai, tỉnh Bình Dương cần chú trọng

đến công tác bảo vệ môi trường; có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với lao động có tay nghề, trình độ

chuyên môn đồng thời chú trọng đến vấn đề giải quyết việc làm, nhà ở ổn định cho lao động nhập cư.

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DÂN SỐ, KINH TẾ -

XÃ HỘI TỈNH BÌNH DƯƠNG ĐẾN NĂM 2020

3.1. Quan điểm, mục tiêu phát triển đến 2020

3.1.1. Các quan điểm phát triển

3.1.1.1. Quan điểm chỉ đạo chung

Tỉnh Bình Dương tập trung khai thác những lợi thế về vị trí địa lí, nắm bắt quy luật phát triển lan

toả ở cực phát triển thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai; tác động của hệ thống cơ cấu hạ tầng ở địa bàn

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam tạo ra những bước đột phá có tính chất quyết định, tiếp tục tăng

trưởng mạnh mẽ về lượng đồng thời đẩy mạnh phát triển về chất của nền kinh tế.

Đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhanh hơn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong

suốt thời kì 2008 – 2020; đồngthời điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao tỉ trọng của các

ngành dịch vụ tương đương với các ngành công nghiệp; chuyển dịch cơ cấu lao động và đô thị hoá

tăng lên mạnh mẽ các vùng lãnh thổ trên địa bàn tỉnh. Tỉnh phấn đấu hoàn thành công nghiệp hoá trước

năm 2015 và đến năm 2020 tỉnh Bình Dương trở thành thành phố.

3.1.1.2. Quan điểm hội nhập kinh tế

Bình Dương chú trọng phát triển kinh tế mở, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của

Nhà nước theo định hướng XHCN, chủ động hội nhập quốc tế, thu hút vốn, công nghệ cao của các

nước phát triển trên cơ sở đầu tư phát triển hệ thống cơ cấu hạ tầng; đồng thời có cơ chế thông thoáng,

cải tiến quản lí, thủ tục hành chính, tạo sức hấp dẫn các nhà đầu tư vào địa bàn.

Tỉnh cũng lựa chọn đầu tư vào các ngành mũi nhọn đồng thời tăng nhanh số lượng và chất lượng

sản phẩm chủ lực của tỉnh, nhanh chóng tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tham gia thị trường thế

giới, trước hết chú trọng thị trường các nước trong khu vực ASEAN và mở rộng các thị trường Nhật,

Châu Âu và thị trường Mĩ.

3.1.1.3. Quan điểm hiệu quả kinh tế - xã hội và môi trường

Tỉnh Bình Dương tập trung đầu tư có trọng điểm, ưu tiên những ngành, lĩnh vực có nhiều lợi thế

về lao động, tài nguyên sẵn có trên địa bàn và vùng nguyên liệu ở các tỉnh Tây Nguyên, Đồng bằng

sông Cửu Long … nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và giải quyết nhiều việc làm, tăng thu nhập và mức

sống dân cư. Bên cạnh đó, tỉnh chú trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng và cân đối, cụ thể

tăng nhanh tỉ trọng khu vực phi nông nghiệp; trong đó chú trọng đầu tư phát triển nhanh hơn tỉ trọng

đóng góp của các ngành dịch vụ trong GDP.

Xây dựng mạng lưới đô thị của tỉnh đảm bảo tổ chức hợp lí không gian lãnh thổ trước mắt cũng

như lâu dài, theo hướng đầu tư phát triển đồng bộ, liên hoàn giữa phát triển công nghiệp, phát triển đô

thị và phát triển dịch vụ. Từ đó tạo tiền đề cho không gian phát triển hài hoà, cân đối và bền vững.

Tỉnh Bình Dương chú ý gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội: nâng cao đời sống vật chất,

tinh thần và phục vụ lợi ích cho nhân dân; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, chuyển đổi lao

động nông nghiệp sang dịch vụ và công nghiệp; từng bước tạo ra sự chuyển biến cơ bản về văn hóa,

giáo dục, y tế và các vấn đề xã hội khác. Ngoài ra, tỉnh còn ưu tiên hợp lí vào đầu tư phát triển vùng

nông thôn, các huyện phía Bắc của tỉnh, vùng căn cứ địa cách mạng nhằm rút ngắn sự chênh lệch về

đời sống giữa thành thị và nông thôn, giữa người giàu và người nghèo.

Để phát triển nguồn nhân lực ngày càng có chất lượng cao, tỉnh coi trọng việc phát triển giáo dục

và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, đặc biệt chú ý đến công tác đào tạo nghề cho người lao động.

Tỉnh luôn chú ý phát triển kinh tế - xã hội kết hợp chặt chẽ với bảo vệ môi trường sinh thái, phát

triển môi trường bền vững; kết hợp hài hoà giữa khai thác và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên tạo

ra giá trị sản phẩm có hiệu quả kinh tế cao.

3.1.2. Các mục tiêu phát triển

Bảng 3.1. Tổng hợp các chỉ tiêu phát triển kinh tế tỉnh Bình Dương từ 2007 – 2020 Đơn vị: %

2007 - 2010

2011 - 2015

2016 - 2020

Cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế

100 52,2 42,2 2,3

Tốc độ tăng trưởng 13,0 12,3 16,1 3,2

100 62,9 33,7 3,4

Tốc độ tăng trưởng 14,5 14,5 16,5 3,4

Cơ cấu kinh tế 100 65,5 30,0 4,5

Tốc độ tăng trưởng 15,0 16,9 14,6 3,6

Tổng GDP Công nghiệp Dịch vụ Nông nghiệp

Hình 3.1. Chỉ tiêu cơ cấu lao động theo ngành kinh tế của tỉnh Bình Dương, thời kì 2007 - 2020

100%

10

14

19.39

20

90%

45

80%

38

18.88

30

70%

60%

61.73

50%

Nông - lâm - ngư nghiệ p Dịch vụ Công nghiệ p - xây dựng

40%

48

45

50

30%

20%

10%

0%

2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020

Các mục tiêu phát triển của tỉnh Bình Dương theo từng giai đoạn như sau:

 Đến 2010

Kết quả phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dương trong thời gian qua đã đạt được những thành

tựu. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong hơn 10 năm qua (1997 – 2007) đã tăng bình quân 15,16%/năm;

trong đó công nghiệp – xây dựng tăng 18,6%/năm; các ngành dịch vụ tăng 14,7%/năm; các ngành

nông – lâm – ngư nghiệp tăng 2,7%/năm. GDP bình quân đầu người/năm tăng 2 lần so với năm 1997.

Bình Dương có tốc độ tăng trưởng kinh tế gấp 2 lần so với trung bình cả nước, gấp 1,5 lần so với

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; nhưng chỉ chiếm khoảng 5% GDP toàn vùng.

Mục tiêu của Bình Dương đặt ra từ nay đến 2010 là:

- Tăng tỉ trọng GDP của tỉnh trong GDP toàn vùng phát triển kinh tế trọng điểm Nam. Thời kì

2008 – 2010 tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục cao hơn trung bình toàn vùng, đạt trung bình

khoảng 15,5%/năm; trong đó công nghiệp xây dựng đạt 16,9%/năm; dịch vụ đạt 14,6%/năm; các

ngành nông – lâm – ngư nghiệp đạt 3,6%/năm.

- Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỉ trọng của các ngành dịch vụ từ

29,2% GDP năm 2007 lên trên 30% GDP năm 2010; các ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng,

chiếm khoảng 65,5% GDP, thời kì sau sẽ giảm dần; các ngành nông - lâm – ngư nghiệp giảm nhanh,

từ 6,4% GDP năm 2007 xuống còn khoảng 4,5% GDP năm 2010.

- Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng chuyển dịch của cơ cấu kinh tế: lao động làm

việc trong các ngành dịch vụ tăng từ 18,88% năm 2007 lên 30% năm 2010; các ngành công nghiệp –

xây dựng sử dụng khoảng 50% lao động; các ngành nông – lâm – ngư nghiệp sử dụng lao động ở mức

20% năm 2010.

- Tạo việc làm cho số lao động tăng thêm hàng năm, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tỉ lệ lao động không

có việc làm chiếm khoảng 5,0% lao động cần việc làm.

- Nâng cao thu nhập cho người lao động và nhân dân trong tỉnh. Nâng thu nhập bình quân đầu

người từ 15,4 triệu đồng/người/năm (2007) lên 30 triệu đồng/người/năm (2010), bằng 82% của vùng

kinh tế trọng điểm phía Nam.

- Nâng cao sức khoẻ cho nhân dân, tăng tuổi thọ trung bình, tăng chiều cao và cân nặng. Tăng số

bác sĩ từ 4 người/vạn dân lên 8 người/vạn dân.

- Phát triển cơ cấu hạ tầng, tiếp tục xây dựng các trục đường giao thông huyết mạch. Phát triển hệ

thống giao thông nông thôn.

 Đến 2015

Cùng với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương sẽ cơ bản hoàn thành công nghiệp hoá.

Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến 2015 là:

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn tiếp tục cao hơn trung bình toàn vùng, đạt trung bình

trên 14,5%/năm thời kì 2011 – 2015; trong đó tố cđộ tăng trưởng của công nghiệp – xây dựng đạt

14,5%/năm, dịch vụ: 16,5%/năm, các ngành nông – lâm – ngư nghiệp: 3,4%/năm.

- Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỉ trọng của các ngành dịch vụ; tăng

từ 30,0% GDP năm 2010 lên 33,7% năm 2015. Các ngành công nghiệp – xây dựng bắt đầu giảm, còn

62,9%GDP; các ngành nông lâm – ngư nghiệp giảm nhanh chỉ còn 3,4%GDP.

- Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng lao động trong các ngành dịch vụ tăng từ

30,0% lao động năm 2010 lên 38,0% năm 2015; các ngành công nghiệp – xây dựng sử dụng 48,0% lao

động; các ngành nông – lâm – ngư nghiệp sử dụng lao động giảm từ 20,0% năm 2010 còn 14% lao

động năm 2015.

- Tạo việc làm cho số lao động tăng thêm hàng năm, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tỉ lệ lao động không

có việc làm chiếm khoảng 4,2% lao động cần việc làm.

- Nâng cao thu nhập cho người lao động và cho nhân dân trong tỉnh. Nâng thu nhập bình quân

đầu người từ 30 triệu đồng lên 52 triệu đồng/ người, bắt đầu vượt thu nhập bình quân đầu người của

vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

- Tăng số cán bộ y tế lên đạt 38 cán bộ y tế/1 vạn dân, nâng từ 8 bác sĩ/1 vạn dân lên 15 bác sĩ/1

vạn dân.

- Phát triển cơ cấu hạ tầng, tập trung xây dựng các tuyến đường giao thông huyết mạch nhằm thúc

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 Đến 2020

Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Bình Dương đặt ra đến 2020 là:

- Bình Dương sẽ trở thành trung tâm công nghiệp lớn, tầm quốc gia và khu vực.

- Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục cao hơn toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, đạt

trung bình trên 13,0%/năm thời kì 2016 – 2020; trong đó công nghiệp xây dựng đạt 12,3%/năm, dịch

vụ đạt 16,1%/năm; các ngành nông – lâm – ngư nghiệp đạt 3,2%/năm.

- Cơ cấu kinh tế vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỉ trọng của các ngành dịch vụ;

tăng từ 33,7% GDP năm 2015 lên 42,2% GDP năm 2020. Các ngành công nghiệp – xây dựng bắt đầu

giảm dần, còn khoảng 52,2% GDP; các ngành nông – lâm – ngư nghiệp tiếp tục giảm nhanh, còn

khoảng 2,3% GDP.

- Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tăng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ từ

38,0% lao động năm 2015 lên 45,0% năm 2020; các ngành công nghiệp – xây dựng sử dụng 45,0% lao

động; các ngành nông – lâm – ngư nghiệp sử dụng lao động giảm dần từ 14,0% lao động năm 2015

xuống còn 10,0% lao động năm 2020.

- Tạo việc làm cho số lao động tăng thêm hàng năm, tiếp tục giảm tỉ lệ thất nghiệp. Tỉ lệ lao động

không có việc làm còn khoảng 4,0% lực lượng lao động cần việc làm. Phấn đấu đến năm 2020 đạt trên

50,0% lao động qua đào tạo.

- Nâng cao thu nhập cho người lao động và cho nhân dân trong tỉnh. Nâng thu nhập bình quân

đầu người từ 52,0 triệu đồng/người năm 2015 lên 89,6 triệu đồng năm 2020, vượt thu nhập bình quân

đầu người của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (bằng 117,0% của vùng).

- Tỉnh chú trọng phát triển về y tế, nâng số cán bộ y tế từ 38 cán bộ y tế/vạn dân lên 60 cán bộ y

tế/vạn dân, từ 15 bác sĩ/vạn dân lên 25 bác sĩ/vạn dân.

- Để phát triển cơ cấu hạ tầng, tỉnh tập trung xây dựng các tuyến đường giao thông huyết mạch

dọc và ngang; bắt đầu xây dựng các tuyến đường cao tốc song song một số tuyến giao thông chính.

- Điều chỉnh các khu công nghiệp, cụm công nghiệp theo hướng mở rộng quy mô, nâng cao kĩ

thuật công nghệ tiên tiến. Ở TX. Thủ Dầu Một phát triển theo hướng công nghiệp sạch, công nghệ cao

gắn dịch vụ cao. Khu vực phía Bắc tỉnh hình thành các khu công nghiệp lớn và tập trung: Bến Cát, Tân

Uyên, Dầu Tiếng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp và công nghiệp hoá. Triển khai tổ chức thực

hiện tốt các khu công nghiệp đã được phê duyệt như khu kiên hợp công nghiệp – dịch vụ - đô thị và

các khu công nghiệp phía Nam. Ưu tiên đầu tư các trường, trung tâm đào tạo, dạy nghề; bệnh viện và

các trung tâm chăm sóc sức khỏe cộng đồng, các trung tâm dịch vụ, tài chính, ngân hàng, các trung tâm

dịch vụ kĩ thuật cao, công nghệ sinh học, công nghệ tin học…

3.2. Định hướng phát triển dân số và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020

3.2.1. Dự báo, định hướng phát triển dân số

Dân số tỉnh Bình Dương được dự báo trên cơ sở giảm tốc độ tăng dân số tự nhiên, tăng cơ học

phù hợp với tăng trưởng kinh tế do sự phát triển nhanh các khu công nghiệp. Tỉnh chú trọng sử dụng

nguồn lao động địa phương kết hợp nguồn lao động nhập cư trong các ngành sản xuất nhằm thúc đẩy

nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Những năm gần đây, chính sách thu hút nguồn nhân lực của Bình

Dương đã phát huy được hiệu quả. Trong những năm tới, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh chính sách thu hút lao

động, tạo nhiều việc làm và phát triển mạnh mẽ hệ thống đào tạo, hướng nghiệp nguồn lao động sẵn có

và từ ngoài tỉnh; chú trọng lực lượng lao động có kĩ thuật và quản lí đáp ứng sự phát triển mạnh mẽ của

công nghiệp, dịch vụ trong giai đoạn tới.

- Dự báo dân số

Bảng 3.2. Dự báo dân số tỉnh Bình Dương thời kì 2008 – 2020

Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

2020 1,00 4,00 5,00 2.000.000 2015 1,00 4,26 5,26 1.600.000 2010 1,03 2,58 3,58 1.200.000 2007 1,05 1,36 2,41 1.075.457 Tỉ lệ gia tăng tự nhiên (%) Tỉ lệ gia tăng cơ học (%) Tỉ lệ gia tăng dân số (%) Số dân (người)

Dự báo đến năm 2010, dân số Bình Dương khoảng 1.200.000 người, năm 2015 là 1.600.000

người và năm 2020 khoảng 2.000.000 người, quy mô dân số đạt mức của đô thị loại I.

Theo định hướng của tỉnh, đến 2020, Bình Dương trở thành đô thị loại I thì quy mô dân số được

dự báo như trên là phù hợp. Để đạt được quy mô dân số như dự báo, tỉ lệ gia tăng dân số trên địa bàn

tỉnh sẽ có xu hướng tăng từ 2,41% năm 2007 lên khoảng 5,00% năm 2020. Như vậy, tỉ lệ gia tăng dân

số là khá cao, tuy nhiên, tỉ lệ gia tăng tự nhiên vẫn có xu hướng giảm từ 1,05% năm 2007 xuống còn

1,00% năm 2020 nên gia tăng dân số trong tỉnh vẫn chủ yếu là do nhập cư. Điều này cũng phù hợp vì

Bình Dương đang phấn đầu trở thành thành phố công nghiệp – dịch vụ nên việc chú trọng thu hút lao

động nhập cư vào làm việc là hợp lí. Tuy nhiên, tỉnh cần chú ý đến chất lượng của lao động nhập cư

trong thời gian tới.

- Dự báo lao động

Dân số trong độ tuổi lao động sẽ tiếp tục tăng nhanh do sự phát triển các khu công nghiệp của

tỉnh, do sự dãn dân của thành phố Hồ Chí Minh và sự thu hút lao động có trình độ kĩ thuật từ các nơi

khác đến tỉnh Bình Dương. Năm 2010, dự báo dân số trong độ tuổi lao động của tỉnh chiếm khoảng

68,5% dân số (822.000 người); năm 2015 chiếm 67,5% dân số (1.080.000 người); năm 2020 chiếm

67% dân số (khoảng 1.340.000 người).

Bảng 3.3. Dự báo lao động và việc làm tỉnh Bình Dương, thời kì 2007 - 2020 Đơn vị: người

Dân số Dân số trong độ tuổi lao động Tỉ lệ so với dân số (%) Số lao động làm việc Tỉ lệ lao động làm việc trong độ tuổi (%) Tỉ lệ lao động không có việc làm (%)

2007 1.075.457 736.670 68,50 675.305 91,67 6,3

2010 1.200.000 822.000 68,50 750.000 91,20 5,0

2015 1.600.000 1.080.000 67,50 999.000 92,50 4,2

2020 2.000.000 1.340.000 67,00 1.280.000 95,50 4,0

Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

- Giải quyết việc làm

Số người lao động có việc làm so với số người trong độ tuổi lao động của tỉnh Bình Dương chiếm

91,67%, dự báo đến năm 2010 chiếm khoảng 91,20%, năm 2015 chiếm 92,5% và năm 2020 đạt 95,5%.

Giảm tỉ lệ lao động không có việc làm từ 6,3% năm 2007 xuống 5% năm 2010, 4,2% năm 2015 và còn

4% năm 2020.

Chất lượng nguồn lao động của tỉnh sẽ ngày càng tăng. Dự báo lao động qua đào tạo năm 2010

chiếm 35,0% lao động, năm 2015 chiếm 40,0% lao động và năm 2020 chiếm 50,0% lao động.

Như vậy, để đạt được chất lượng nguồn lao động trên tỉnh cần chú trọng đến công tác đào tạo

nguồn nhân lực, phát triển mạnh các trung tâm dạy nghề trong tỉnh, thu hút nguồn lao động có kĩ thuật

cao.

- Dự báo chuyển dịch cơ cấu lao động

Ở Bình Dương, xu hướng là các ngành nông - lâm - ngư nghiệp sẽ là ngành giảm lao động nhiều

nhất, năm 2007 chiếm 19,39% lao động đang làm việc, năm 2010 vẫn duy trì mức như trên, đến 2015

giảm xuống còn 14,0% và năm 2020 chỉ còn chiếm 10,0% lao động đang làm việc.

Lao động trong các ngành dịch vụ năm 2007 chiếm tỉ lệ thấp (18,88% lao động đang làm việc),

dự báo đến 2010 chiếm 30,0%, năm 2015 chiếm 38,0% và năm 2020 chiếm 45,0% lao động đang làm

việc.

Lao động trong các ngành công nghiệp - xây dựng chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu lao động đang làm

việc, làm mất cân đối trong việc sử dụng lao động. Vì vậy, sẽ có xu hướng giảm dần trong tương lai.

Cụ thể năm 2010 chiếm 50,0%, năm 2015 chiếm 48,0% và đến năm 2020 chiếm 45,0% lao động đang

làm việc.

Bảng 3.4. Dự báo cơ cấu sử dụng lao động tỉnh Bình Dương, thời kì 2007 - 2020 Đơn vị: %

Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

2020 100,00 10,00 45,00 45,00 2015 100,00 14,00 48,00 38,00 2010 100,00 20,00 50,00 30,00 2007 100,00 19,39 61,77 18,84 Tổng số Nông - lâm - ngư nghiệp Công nghiệp - xây dựng Dịch vụ

Để đảm bảo mục tiêu về chuyển dịch cơ cấu lao động như trên, tỉnh Bình Dương cần:

- Chú trọng tạo phát triển và đa dạng hóa hoạt động của ngành dịch vụ; nâng cao trình độ khoa

học – kĩ thuật trong công nghiệp và nông nghiệp.

- Gắn việc quy hoạch các khu công nghiệp với quy hoạch phát triển các cơ sở dạy nghề, các cơ

cấu hạ tầng xã hội phục vụ con người như: nhà ở, trường học, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao….

nhằm từng bước ổn định và nâng cao chất lượng người lao động trong các khu công nghiệp.

3.2.2. Định hướng phát triển kinh tế

3.2.2.1. Xây dựng các phương án phát triển

Trên cơ sở những yếu tố nguồn nhân lực, điều kiện tài nguyên thiên nhiên, những bài học kinh

nghiệm thực tế, những thuận lợi và những cơ hội của tỉnh Bình Dương để xây dựng phương án. Tất cả

các phương án có sự khác nhau về tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp và dịch vụ; các ngành

nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng như nhau.

Phương án 1: Tập trung chỉ đạo phát triển công nghiệp mạnh mẽ, cơ chế chính sách vẫn được duy

trì như hiện nay.

Phương án 2: Chú trọng tăng trưởng kinh tế kết hợp với công bằng xã hội, xây dựng được mạng

lưới an sinh xã hội vững chắc. Giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế xấp xỉ hiện nay cho đến 2010

(khoảng 15,0%/năm); thời kì 2011 giảm còn 14,9%/năm và thời kì 2015 – 2020 giữ mức 13%/năm.

Phương án 3: Tập trung phát triển mạnh dịch vụ nhưng giữ vững tốc độ tăng trưởng công nghiệp

ở mức cao. Tốc độ tăng trưởng của các ngành dịch vụ trong phương án này sẽ cao hơn hẳn các phương

án trước, đạt tốc độ tăng trưởng 14,25%/năm thời kì 2007 – 2010, trung bình 19%/năm thời kì 2010 –

2015, sau đó giảm dần còn 18,8%/năm thời kì 2015 – 2020; trung bình 17,8%/năm thời kì 2007 –

2020. Tốc độ tăng trưởng các ngành công nghiệp qua các thời kì: 16,6%/năm thời kì 2007 – 2010, sau

đó bắt đầu giảm còn còn 15,6%/năm thời kì 2010 – 2015 và 13%/năm thời kì 2015 – 2020; tính chung

toàn thời kì tốc độ tăng trưởng đạt 14,9%/năm.

2007

2010

2015

2020

Bảng 3.5. Tăng trưởng GDP – phương án 1 Đơn vị: tỉ đồng, giá so sánh 1994

Tổng GDP Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Nông – lâm – ngư nghiệp

11.225 7.502 2.883 841

16.603 12.475 3.048 980

37.000 30.500 5.100 1.160

2001 – 2007 15,43 16,61 18,45 2,48

Tốc độ tăng trưởng (%) 2007 2010 – – 2010 2015 13,93 17,38 18,42 19,58 1,87 10,84 5,23 3,43

2015 – 2020 14,61 15,54 10,96 3,61

2007 - 2020 15,51 17,75 8,75 3,91

73.170 62.800 8.580 1.385 Bảng 3.6. Tăng trưởng GDP – phương án 2

2007

2010

2015

2020

Đơn vị: tỉ đồng, giá so sánh 1994

Tổng GDP Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Nông – lâm – ngư nghiệp

11.225 7.502 2.883 841

16.184 11.304 3.800 980

32.350 22.800 8.150 1.160

59.720 40.750 17.185 1.385

2001 – 2007 15,43 16,61 18,45 2,48

Tốc độ tăng trưởng (%) 2007 2010 – – 2010 2015 12,97 14,85 14,64 15,06 9,64 16,48 5,23 3,43

2015 – 2020 13,04 12,31 16,09 3,61

2007 - 2020 13,72 13,90 14,72 3,91

2007

2010

2015

2020

Bảng 3.7. Tăng trưởng GDP – phương án 3 Đơn vị: tỉ đồng, giá so sánh 1994

Tổng GDP Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Nông – lâm – ngư nghiệp

11.225 7.502 2.883 841

17.380 12.000 4.300 980

36.440 24.750 10.290 1.160

71.690 45.600 24.300 1.385

2001 – 2007 15,43 16,61 18,45 2,48

Tốc độ tăng trưởng (%) 2007 2010 – – 2010 2015 15,68 15,96 16,95 15,58 14,25 19,06 5,23 3,43

2015 – 2020 14,49 13,00 18,75 3,61

2007 - 2020 15,33 14,89 17,82 3,91

Nguồn: Tính toán từ Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương năm 2007, Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội

tỉnh Bình Dương đến 2020.

3.2.2.2. Lựa chọn phương án phát triển

Xuất phát từ tình hình thực tế, thời kì 1997 – 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bình Dương

đạt 14,95%/năm; thời kì 2000 – 2003 đạt 15,23%/năm; thời kì 2005 – 2007 đạt 15,04%/năm.

Xuất phát từ yêu cầu của Bình Dương có những bước đi bứt phá nhanh để có quy mô kinh tế lớn

hơn; chuyển dịch cơ cấu lao động nhanh hơn; tốc độ đô thị hoá nhanh đảm bảo để trở thành một thành

phố của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước.

Xuất phát từ các lợi thế:

- Về vị trí địa lí: tỉnh Bình Dương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam – nơi có tốc độ

tăng trưởng kinh tế rất cao và sức thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư vào vùng trong thời gian qua; đồng

thời có chủ trương lớn của Nhà nước tập trung đầu tư phát triển cho vùng kinh tế động lực. Bình

Dương cần đón lấy cơ hội này để hoạch định và lựa chọn phương án phát triển.

- Bình Dương là cửa ngõ của TP. HCM - một trung tâm đô thị, kinh tế và dịch vụ lớn nhất của cả

nước, đến nay đã có nhiều dấu hiệu lan toả của cực tăng trưởng này. Nhiều ngành công nghiệp đã di

chuyển khỏi thành phố Hồ Chí Minh ra các tỉnh lân cận, trong đó có tỉnh Bình Dương. Tỉnh Bình

Dương đã tập trung thu hút đầu tư, hình thành các trung tâm công nghiệp tập trung ở xung quanh TP.

HCM, như ở Thuận An, Dĩ An, Bến Cát, TX.Thủ Dầu Một và Tân Uyên.

Trong thời kì đến 2020, Bình Dương vẫn tiếp tục đón nhận xu thế có lợi cho tăng trưởng kinh tế

và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và phát triển đô thị.

 Chọn phương án

Từ những lập luận trên có thể lựa chọn phương án 2. Vì phương án này là phương án khả thi có

tính đến những thuận lợi, lợi thế và những khó khăn, hạn chế trong thời gian tới. Những thuận lợi, lợi

thế chủ yếu là sự tăng đầu tư của nước ngoài và tư nhân trong nước; sự năng động của chính quyền,

thành phần kinh tế và nhân dân; những điều kiện thuận lợi khách quan về vị trí địa lí, điều kiện tự

nhiên. Những khó khăn hạn chế cơ bản của phương án này là vốn nhà nước hạn hẹp, vốn FDI không

ổn định; đầu tư cơ cấu hạ tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội đòi hỏi lượng vốn lớn; đào tạo công nhân lành

nghề trở nên bức bách.

Kết quả tính toán của phương án 2 có tốc độ tăng trưởng bình quân thời kì 2007 – 2010 là

12,97%/năm; thời kì 2010 – 2015 là 14,85%/năm; thời kì 2015 – 2020 là 13,04%/năm; tốc độ tăng

trưởng chung toàn thời kì 2007 – 2020 là 13,72%/năm. Trong đó, tốc độ tăng trưởng của các khu vực

kinh tế lần lượt theo các thời kì tương ứng là: công nghiệp – xây dựng: 14,64%/năm, 15,06%/năm,

12,31%/năm, 13,90%/năm; dịch vụ: 9,64%/năm, 16,48%/năm, 16,09%/năm, 14,72%/năm; nông – lâm

– ngư nghiệp: 5,23%/năm, 3,43%/năm, 3,61%/năm và 3,91%/năm. Như vậy, các kết quả dự báo của

phương án 2 phù hợp nhất với mục tiêu phát triển mà tỉnh đã đề ra qua các thời kì phát triển từ 2007 –

2020.

Bảng 3.8. Dự báo cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Dương - phương án 1 Đơn vị: % (tính theo giá hiện hành)

Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

2020 78,5 19,4 2,1 2015 77,5 19,4 3,1 2010 65,5 24,8 4,9 2007 64,4 29,2 6,4 2000 58,1 25,2 16,7 Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Nông – lâm – ngư nghiệp

Ở phương án 1, đến năm 2010, tỉ trọng của ngành công nghiệp – xây dựng chiếm 65,5% GDP;

dịch vụ giảm xuống còn 24,8% GDP; đến năm 2015, tỉ trọng của ngành công nghiệp - xây dựng tăng

lên 77,5% GDP, ngành dịch vụ chiếm 19,4% GDP và đến năm 2020 công nghiệp - xây dựng chiếm

78,5% GDP, các ngành dịch vụ vẫn chiếm 19,4% GDP. Cơ cấu kinh tế như vậy sẽ tạo sự chênh lệch

lớn trong cơ cấu kinh tế theo hướng tỉ trọng của ngành công nghiệp quá cao trong khi của ngành dịch

vụ lại thấp. Vì vậy, phương án 1 sẽ không chọn.

Bảng 3.9. Dự báo cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Dương - phương án 2 Đơn vị: % (tính theo giá hiện hành)

2020 55,5 42,2 2,3 2015 62,9 33,7 3,4 2010 65,5 30,0 4,5 2007 64,4 29,2 6,4 2000 58,1 25,2 16,7 Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Nông – lâm – ngư nghiệp Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

Ở phương án 2, cơ cấu kinh tế hợp lí và cũng phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh

đã đề ra. Cơ cấu kinh tế năm 2010: công nghiệp - xây dựng: 65,5% GDP, dịch vụ: 30,0% GDP, nông -

lâm - ngư nghiệp: 4,5% GDP; năm 2015 công nghiệp - xây dựng có xu hướng giảm nhẹ so với 2010:

62,9% GDP; dịch vụ tăng chiếm 33,7% GDP và nông - lâm - ngư nghiệp còn 3,4% GDP. Đến năm

2020, cơ cấu kinh tế thể hiện công nghiệp - xây dựng chiếm 55,5% GDP; dịch vụ chiếm 42,2% GDP;

nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 2,3% GDP. Như vậy, việc lựa chọn phương án 2 là phù hợp hơn cả.

Bảng 3.10. Dự báo cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Dương - phương án 3 Đơn vị: % (tính theo giá hiện hành)

2020 50,0 48,1 1,9 2015 59,8 37,3 2,9 2010 62,9 32,5 4,6 2007 64,4 29,2 6,4 2000 58,1 25,2 16,7 Công nghiệp – xây dựng Dịch vụ Nông – lâm – ngư nghiệp Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

Phương án 3 là phương án cao hơn phương án 2, đề nghị là phương án phấn đấu.

3.2.3. Phát triển đô thị

Quá trình đô thị hoá của tỉnh trong thời gian tới sẽ diễn ra nhanh chóng, giảm mạnh dân số nông

thôn và tăng nhanh dân số đô thị.

Tốc độ đô thị hoá thời kì 2001 – 2010 đạt 7,9%/năm, thời kì 2011 – 2015 đạt 10,2%/năm, thời kì

2016 – 2020 đạt 12,57%/năm. Như vậy, tốc độ đô thị hoá tăng gấp 3 lấn tốc độ tăng dân số. Điều này

phù hợp với quá trình đô thị hoá nhanh của nhiều nước trên thế giới trong thời kì công nghiệp phát

triển nhanh.

Bảng 3.11. Dự báo cơ cấu dân số theo khu vực thành thị và nông thôn tỉnh Bình Dương , thời kì 2007 - 2020 Đơn vị: %

Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

2020 100,0 75,0 25,0 2015 100,0 50,0 50,0 2010 100,0 40,0 60,0 2007 100,0 28,2 71,8 Dân số Dân số thành thị Dân số nông thôn

Bảng 3.12. Dân số đô thị, nông thôn tỉnh Bình Dương đến năm 2020

Đơn vị: nghìn người

2007 2010 2015 2020

Nguồn: Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020.

2015 – 2020 4,4 12,5 -7,3 Tốc độ tăng trung bình (%) 2010 – 2015 5,7 10,2 2,1 2007 – 2010 3,65 15,32 -1,4 2.000 1.500 500 1.600 800 800 1.200 480 720 1.075,457 303,100 772,357 Dân số Dân số đô thị Dân số nông thôn

Đến 2010: sự phát triển đô thị của Bình Dương đến 2010 diễn ra như sau:

- Dân số đô thị của tỉnh khoảng 480 ngàn người, chiếm 40% dân số, đất ở đô thị là 2.768,98 ha

năm 2010, tăng cường phát triển các thị trấn, trung tâm xã, phường.

- Tỉnh mở rộng các khu vực ngoại vi của các đô thị gồm các huyện lị, các khu dân cư đô thị gắn

với các khu công nghiệp. Phát triển khu vực ngoại vi của TX. Thủ Dầu Một bao gồm các xã ngoại thị

và các xã lân cận.

- Phát triển đô thị gắn chặt với việc phát triển cơ cấu hạ tầng như đường bộ, đường sắt, viễn

thông, năng lượng và cơ cấu hạ tầng của chính các đô thị. Từng bước phấn đấu trở thành các đô thị

sạch, xanh và an toàn.

- TX. Thủ Dầu Một được mở rộng về phía Đông – Bắc gắn liền với khu liên hợp công nghiệp –

dịch vụ - đô thị.

Bình Dương tiến hành xây dựng khu liên hợp công nghiệp – dịch vụ - đô thị. Khu liên hợp nằm

trên địa bàn 3 đơn vị hành chính: Bến Cát, Tân Uyên và TX. Thủ Dầu Một với diện tích khoảng 4.196

ha, dân số khoảng 100.000 người. Phát triển công nghiệp trên 2.000 ha, trong đó có 350 ha đất phát

triển khu công nghệ cao; khu dịch vụ chất lượng cao khoảng 700 – 750 ha; phát triển khu đô thị mới

khoảng 900 – 950 ha xây dựng nhà ở cho dân cư.

Đến 2015

TX. Thủ Dầu Một trở thành đô thị loại II, tỉnh đề nghị nâng cấp trở thành thành phố trực thuộc

tỉnh. Tỉnh Bình Dương sẽ có thêm 3 thị xã – đô thị loại IV: Thị xã mới tách từ Thủ Dầu Một, nâng cấp

Thuận An và Dĩ An thành thị xã. Đến năm 2013 – 2015 sẽ tăng thêm 2 thị xã là thị xã Nam Bến Cát và

thị xã Nam Tân Uyên.

Đến 2020

Định hướng phát triển hệ thống đô thị thời kì đến 2020 Bình Dương trở thành đô thị trực thuộc

Trung ương. Bình Dương phát triển hệ thống đô thị trong đó có thành phố hạt nhân. Thành phố trung

tâm là TX. Thủ Dầu Một, các đô thị vệ tinh là Lái Thiêu – Vĩnh Phú, Dĩ An – Đông Hoà, Búng –

Thuận Giao, Bình Chuẩn, Tân An – Định Hoà, Mỹ Phước…

Tóm lại, dựa trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu về phát triển dân số đô thị và nông thôn đến 2020

mà tỉnh đã đưa ra, bản thân nhận thấy cho đến 2010, dân số đô thị của tỉnh dự kiến là 480.000 người,

chiếm 40% dân số, so với dân số đô thị trên địa bàn tỉnh năm 2007 là 303.100 người, chiếm 28,2% dân

số là khá cao. Hơn nữa, so với tốc độ tăng trưởng dân số đô thị trung bình trong giai đoạn từ 1997 –

2007 chỉ đạt 4,78%/năm thì tốc độ tăng trưởng dân số đô thị trong giai đoạn 2007 – 2010 là

15,32%/năm - phải gấp hơn 3 lần. Chỉ tiêu này khó đạt được vì các dự án quy hoạch đô thị của tỉnh vẫn

đang trong giai đoạn triển khai và thời gian để đạt được các chỉ tiêu đề ra quá ngắn (3 năm). Vì vậy,

chỉ tiêu dân số đô thị phù hợp đến 2010 sẽ là 360.000 – 420.000 người, chiếm từ 30 – 35% dân số của

tỉnh và tốc độ tăng trưởng bình quân từ 2007 – 2010 sẽ là 5,74% - 10,88%/năm. Các chỉ tiêu về dân số

đô thị từ 2010 – 2020 là phù hợp, vì trong thời gian tới, với sự phát triển kinh tế mạnh mẽ cùng với sự

hoàn chỉnh của các dự án quy hoạch đô thị sẽ tạo điều kiên để nâng cao nhanh chóng dân số đô thị của

tỉnh.

3.2.4. Bảo vệ môi trường

Từ nay đến 2020, tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị trên địa bàn tỉnh diễn ra rất nhanh, vì

vậy vấn đề thoát nước, vệ sinh môi trường và bảo vệ môi trường cần được quan tâm hàng đầu.

Đối với tất cả các dự án công nghiệp tỉnh phải thẩm định quy hoạch thoát nước và vệ sinh môi

trường trong hồ sơ cấp giấy phép đầu tư. Đối với các khu đô thị tập trung và các khu công nghiệp,

Bình Dương cũng phải quy hoạch hệ thống thoát nước và vệ sinh môi trường theo tiêu chuẩn quốc gia

và quốc tế. Trên phạm vi toàn tỉnh đã có quy hoạch hệ thống thoát nước và vệ sinh môi trường đến

2020, toàn bộ hệ thống tiếp nhận nước thải từ các khu đô thị, các khu công nghiệp tập trung và xử lý

trước khi thải ra môi trường.

Đến 2010, tỉnh tập trung thực hiện quy hoạch thoát nước và vệ sinh môi trường ở khu vực Nam Bình Dương, ở các khu đô thị và khu đông dân cư trong phạm vi 592km2; các khu công nghiệp đã có

và đang xây dựng. Tổng vốn đầu tư thực hiện cho quy hoạch này khoảng 118 triệu USD.

- Bảo vệ môi trường

Với giải pháp chung là tăng trưởng kinh tế kết hợp với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường,

tỉnh yêu cầu các dự án đầu tư phải thực hiện đúng quy hoạch được duyệt, có hệ thống xử lý chất thải và

bảo vệ môi trường; 100,0% các khu công nghiệp đi vào hoạt động phải có hệ thống xử lý nước thải đạt

tiêu chuẩn môi trường.

Đến năm 2010 tỉnh cố gắng thu gom được 90% tổng lượng chất thải rắn; cơ bản hoàn thành, cải

tạo, nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước và xử lý nước thải theo quy hoạch; đảm bảo 50% các khu dân

cư, cụm công nghiệp có hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, thu gom rác thải đúng quy định.

Tỉnh thành lập ban chỉ đạo chương trình, với sự kết hợp chặt chẽ của các sở: Tài nguyên – Môi

trường, Kế hoạch – Đầu tư, Tài Chính, Công thương và tổ chức chỉ đạo và thanh tra, kiểm tra hoạt

động bảo vệ môi trường theo đúng Luật Môi trường.

3.3. Các giải pháp phát triển dân số và kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương đến 2020

3.3.1. Về dân số

Tỉ lệ gia tăng dân số tự nhiên của tỉnh đã giảm do giảm mạnh tỉ lệ sinh. Tuy nhiên, tỉ lệ gia tăng

dân số vẫn còn cao do nhập cư. Vì vậy, tỉnh cần có chính sách thu hút người lao động phù hợp để hạn

chế việc nhập cư ồ ạt nhưng vẫn đảm bảo nguồn lao động đáp ứng cho nhu cầu phát triển công nghiệp

hiện nay và trong tương lai.

Bên cạnh đó tỉnh cần tiếp tục phát huy những chính sách đãi ngộ để thu hút nguồn lao động chất

lượng cao từ các địa phương khác.

Sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các địa phương trong tỉnh. Vì vậy, tỉnh cần quy hoạch,

phân bố dân cư và phát triển kinh tế phù hợp nhằm cân đối dân số giữa các địa phương. Cụ thể là tiếp

tục phát triển mạnh về công nghiệp ở các địa phương phía bắc nhằm giảm áp lực về dân số cho các địa

phương phía nam Bình Dương.

Nâng cao chất lượng dân số bằng cách chú trọng phát triển về y tế, giáo dục. Đảm bảo hệ thống

bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân rộng khắp cho đến ấp, xã, phường. Khống chế các bệnh gây

dịch, hạn chế các bệnh do phát triển công nghiệp, chủ động phòng chống AIDS, cải thiện môi trường

sống, xây dựng gia đình quy mô nhỏ từ 1 – 2 con.

Bình Dương chú ý phát triển vượt bậc giáo dục – đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn lao động

của tỉnh trong giai đoạn tới. Cụ thể là:

- Tỉnh chủ trương phổ cập giáo dục ở các cấp.

- Ưu tiên phát triển giáo dục ở những vùng kém phát triển của tỉnh.

- Tỉnh cần tăng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp, mở rộng quy mô đào tạo Cao đẳng và

Đại học một cách hợp lí nhằm từng bước đáp ứng nhu cầu nhân lực khoa học cho tỉnh. Phấn đấu đến

năm 2010 có 35% lao động qua đào tạo, năm 2015 đạt 40%, năm 2020 đạt 45 – 50%. Phát triển hệ

thống đào tạo nghề với nhiều hình thức: tại chức, ngắn hạn, dài hạn; quan tâm đến đào tạo nghề cho lao

động nông nghiệp, vùng nông thôn, chú trọng những nơi chuyển đổi sản xuất từ nông nghiệp sang

công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều cơ hội cho người lao động tiếp cận được việc làm. Công tác dạy

nghề cần tập trung 3 cấp độ: sơ cấp, trung cấp và cao đẳng nghề phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ

cấu lao động; đồng thời có cơ chế liên thông thích hợp.

- Tỉnh cũng cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ quản lí có trình độ cao trên cơ sở lựa chọn những lao

động đã qua thực tế ở địa phương.

- Có chương trình giáo dục hướng nghiệp trong các trường phổ thông để học sinh có thể tiếp cận

với đào tạo nghề ngay từ những năm cuối của bậc trung học phổ thông, tăng cường xây dựng các

trường vừa dạy nghề vừa dạy chương trình phổ thông để học sinh sau khi tốt nghiệp THPT có thể tham

gia làm việc ngay trong các xí nghiệp.

3.3.2. Về kinh tế - xã hội

3.3.2.1. Kinh tế

- Công nghiệp:

Để đạt được tốc độ cao và phát triển bền vững, nền công nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng:

tăng về lượng, chú trọng về chất bằng cách đa dạng hoá sản xuất công nghiệp, hình thành nhiều ngành

công nghiệp trên cơ sở sử dụng nguồn nguyên liệu trong và ngoài nước.

Tỉnh tập trung xây dựng ngành công nghiệp đạt trình độ tiên tiến và hiện đại, nhằm tạo ra nhiều

sản phẩm công nghiệp chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước;

nâng cao tỉ trọng hàng hoá công nghiệp xuất khẩu.

Ngoài ra, tỉnh cũng cần phát triển công nghiệp vừa và nhỏ, chú trọng phát triển các ngành nghề

tiểu thủ công nghiệp truyền thống ở các địa phương.

Phát triển công nghiệp gắn liền đẩy mạnh đô thị hoá, hình thành mạng lưới đô thị công nghiệp và

dịch vụ, cơ cấu hạ tầng hiện đại.

Hình thành các tổ chức sản xuất đa dạng, thu hút lao động xã hội, giải quyết việc làm.

Củng cố hoạt động và nâng cao hiệu quả của khu công nghiệp, cụm công nghiệp tập trung, đảm

bảo cơ cấu hạ tầng tốt, kết nối tốt giữa các hệ thống cơ cấu hạ tầng trong tỉnh, trong vùng kinh tế trọng

điểm phía Nam và cả nước.

Phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, đồng thời đảm bảo an ninh trong công nghiệp.

- Giải pháp phát triển ngành công nghiệp: Tỉnh cần chú trọng phát triển các ngành công nghiệp

chủ lực và xác định các sản phẩm chủ yếu của các ngành này. Trong thời gian tới, các ngành chủ lực

của tỉnh là công nghiệp vật liệu xây dựng (sản phẩm là sứ vệ sinh, gạch men, kính, thủy tinh, đá ốp lát

granit, gạch ngói, bê tông công nghiệp...); công nghiệp điện – điện tử, cơ khí chính xác (mặt hàng chủ

yếu là thiết bị điện – điện tử - tin học, máy xây dựng, phương tiện giao thông, sản phẩm cơ khí tiêu

dùng...); công nghiệp hóa chất (sản phẩm phục vụ chăn nuôi, vệ sinh cá nhân và tẩy rửa, các loại hạt

nhựa, túi nhựa, thuốc diệt côn trùng gia dụng, sơn các loại, keo dán tổng hợp...); công nghiệp dệt may

(chú ý đến công nghiệp tạo mẫu, thời trang, giảm dần may gia công xuất khẩu, tăng sản xuất nguyên

phụ liệu...); công nghiệp da – giày (tập trung sản xuất nguyên phụ liệu, chuyển tù gia công sang sản

xuất bán thành phẩm và thành phẩm; sản xuất da – giày theo hướng nhập công nghệ, cải tiến mẫu mã,

chất lượng...); công nghiệp chế biến thực phẩm - đồ uống (tập trung vào các sản phẩm: chế biến hạt

điều, cà phê, hoa quả, nước giải khát, dầu thực vật... đáp ứng nhu cầu nội địa và xuất khẩu).

- Giải pháp phát triển khu, cụm công nghiệp: phát triển khu công nghiệp theo hướng tập trung,

hoàn thiện hệ thống cơ cấu hạ tầng, củng cố ngành chức năng trong từng khu công nghiệp, đầu tư đồng

bộ về sản xuất, dịch vụ và nhà ở trong và ngoài khu công nghiệp. Tỉnh chú ý phân bố các khu công

nghiệp tập trung và cụm công nghiệp ở các huyện: Bến Cát, Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng.

+ Các khu công nghiệp: củng cố, nghiên cứu kĩ khi mở rộng các khu công nghiệp mới và hoàn

chỉnh các khu công nghiệp, nâng cao hiệu quả đầu tư, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản

phẩm trong các khu công nghiệp.

+ Các cụm công nghiệp: các cụm công nghiệp của tỉnh được phát triển bên ngoài khu công

nghiệp là điều kiện để phát triển công nghiệp hóa và đô thị hóa nông thôn. Do đó, bên cạnh các khu

công nghiệp cần định hướng phát triển các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, nhất là ở các huyện

nông nghiệp như Phú Giáo, Dầu Tiếng.

Như vậy, các giải pháp phát triển công nghiệp không những phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh

tế mà còn góp phần lớn vào việc giải quyết việc làm cho người lao động – kể cả lao động phổ thông;

đồng thời tạo sức hút để thu hút lao động có kĩ thuật. Bên cạnh đó cũng góp phần phân bố lại dân cư và

lao động một cách phù hợp giữa các địa phương trong tỉnh.

- Nông nghiệp

Các giải pháp về phát triển nông nghiệp của tỉnh cũng không nằm ngoài mục tiêu phát triển hài

hòa về kinh tế giữa các địa phương trong tỉnh, góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất

nông nghiệp đồng thời giải phóng bớt lao động nông nghiệp để họ chuyển sang làm việc trong ngành

công nghiệp và dịch vụ.

- Nông nghiệp của tỉnh tập trung phát triển cây con có hiệu quả, phù hợp với điều kiện sinh thái,

điều kiện tự nhiên của tỉnh nhằm nâng cao năng suất sinh học, tăng giá trị trên một đơn vị diện tích.

+ Trồng trọt: xu hướng là phát triển cây công nghiệp, cây ăn trái, rau sạch an toàn, hoa, cây

kiểng.

Các cây công nghiệp được tỉnh chú trọng phát triển là: cao su, điều, phân bố ở các huyện phía Bắc

của tỉnh như Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng, Bến Cát.

Cây ăn quả: Đẩy mạnh cải tạo vườn tạp, áp dụng kĩ thuật lai tạo giống,, ghép mô để tạo ra các loại

cây ăn quả chất lượng cao; tập trung phát triển các loại cây đặc sản như sầu riêng, măng cụt, dâu...,

trồng tập trung ở các huyện phía Bắc và khu vực ven sông Đồng Nai, sông Sài Gòn.

Cây rau đậu: phát triển các giống rau, đậu có chất lượng cao, sạch cung cấp cho đô thị và các khu

công nghiệp, kể cả các đô thị lân cận như TP. HCM, Biên Hòa....

+ Chăn nuôi: các sản phẩm chủ lực của ngành chăn nuôi trong tỉnh là thịt bò, lợn, gia cầm.

- Tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, sạch đáp ứng nhu cầu trong tỉnh và thành phố Hồ Chí

Minh.

- Chú trọng phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ môi trường, hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu,

thuốc bảo vệ thực vật... gây ô nhiễm đất và nguồn nước.

- Phát triển kinh tế nông thôn và xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại cho nông nghiệp, nông

thôn: phát triển thủy lợi, phát triển công nghệ bảo quản sau thu hoạch, xây dựng hệ thống dịch vụ

khuyến nông (như mở rộng hệ thống tín dụng nông nghiệp, tổ chức tốt cung ứng vật tư nông nghiệp,

mở rộng thị trường tiêu thụ...), gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến...

- Về phân bố không gian: xây dựng các vùng chuyên canh, các vùng nông nghiệp trọng điểm để

nâng cao giá trị sản xuất nông nghiệp như:

+ Vùng chuyên canh cao su: Tân Uyên, Bến Cát, Phú Giáo, Dầu Tiếng

+ Vùng chuyên canh điều: ở Bến Cát, Tân Uyên

+ Vùng cây ăn quả: Tân Uyên, Bến Cát, Thuận An

+ Vùng rau đặc sản: Tân Uyên

+ Vùng rau quả: Thuận An

+ Vùng cây cảnh, hoa kiểng: Thủ Dầu Một, Thuận An

+ Vùng chăn nuôi bò, bò sữa: Tân Uyên

+ Vùng chăn nuôi heo: Tân Uyên, Bến Cát

+ Vùng nuôi gà công nghiệp: Tân Uyên, Bến Cát

- Dịch vụ

Các ngành dịch vụ của tỉnh cần phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tới nhằm khai thác

những lợi thế của Bình Dương như dịch vụ nhà ở, đào tạo nghề, du lịch sinh thái, dịch vụ tài chính

ngân hàng, công nghệ thông tin....

Nâng cao tỉ trọng của ngành dịch vụ trong cơ cấu GDP bằng cách phát triển đi trước một số

ngành dịch vụ như thương mại, vận tải, ngân hàng; hình thành một số ngành dịch vụ mũi nhọn như

ngành dịch vụ nhà ở, nhà ở - nhà nghỉ mát sinh thái; dịch vụ du lịch tiên tiến.

+ Thương mại

- Phát triển thương mại nội địa theo hướng:

 Xây dựng trung tâm thương mại cấp liên khu vực tại TX. Thủ Dầu Một và cấp khu vực tại

huyện Thuận An;

 Xây dựng trung tâm thương mại cấp huyện ở Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng;

 Hình thành các siêu thị;

 Sữa chữa, nâng cấp các chợ hiện có và xây dựng thêm chợ mới ở khu dân cư, nông thôn;

 Mở chi nhánh và các đại lí tiêu thụ, thu mua sản phẩm ở những nơi đông dân cư và sản

xuất

- Xuất nhập khẩu: đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Tập

trung vào các bạn hàng: Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc, ASEAN, , Hàn Quốc, Đài Loan, EU, Úc...

+ Du lịch

Tỉnh chủ trương xây dựng du lịch thành ngành kinh tế có đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng

kinh tế theo hướng mở rộng du lịch quốc tế, phát triển đa dạng hóa các loại hình du lịch, mở rộng địa

bàn hoạt động du lịch. Để đạt được các mục tiêu nói trên, tỉnh cần:

- Chú ý xây dựng và nâng cao chất lượng các khách sạn, nhà nghỉ. Đảm bảo các điều kiện phục

vụ như nhà hàng, ngân hàng, y tế, bưu điện, kết hợp hội nghị, hội thảo...

- Đào tạo đội ngũ cán bộ du lịch chuyên nghiệp, có trình độ hiểu biết văn hóa – lịch sử, thông

thạo ngoại ngữ, văn minh, lịch sự.

- Căn cứ vào tiềm năng du lịch trên địa bàn, tỉnh tập trung phát triển các loại hình du lịch sau: du

lịch sinh thái; du lịch kết hợp hội thảo, hội nghị, triển lãm, bán hàng và nghỉ ngơi...; du lịch văn hóa,

vui chơi, giải trí; du lịch thể thao, rừng núi; du lịch tham quan các thắng cảnh, di tích lịch sử, cách

mạng, làng nghề truyền thống.

- Hình thành các cụm du lịch:

Cụm 1: Cụm du lịch Nam Bình Dương, gồm khu du lịch Bình An, suối Lồ Ô, núi Châu Thới.

Cụm 2: Cụm du lịch ở Dầu Tiếng, gắn liền với du lịch hồ, núi, phát triển loại hình du lịch nghỉ

dưỡng, cắm trại, bơi thuyền, câu cá, leo núi...

Cụm 3: TX. Thủ Dầu Một và vùng lân cận, có các công trình văn hóa: chùa Hội Khánh, chùa Bà,

chùa Ông...; các làng nghề: gốm, sơn mài...; di tích cách mạng: nhà tù Phú Lợi...; khu du lịch Đại

Nam....

Cụm 4: Cụm du lịch rừng tại Tân Uyên, ven sông Đồng Nai; phát triển du lịch sinh thái, di tích

lịch sử.

Cụm 5: Vườn cây ăn trái và nhà nghỉ cuối tuần ở vườn Lái Thiêu – Cầu Ngang.

Như vậy, các giải pháp phát triển về dịch vụ phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế - đặc biệt là

công nghiệp trong thời gian tới, đồng thời cũng góp phần thu hút nguồn lao động có kĩ thuật và làm

giảm sức ép về vấn đề việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, việc phát triển mạnh mẽ các hoạt

động dịch vụ ở hầu hết các địa phương nhất là du lịch sẽ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho

dân cư và qua đó cũng khai thác hết tiềm năng về thị trường tiêu thụ cũng như tiềm năng về du lịch ở

tất cả các huyện thị trong tỉnh. Từ đó góp phần đạt được sự phát triển hiệu quả trên cả 3 mặt: kinh tế -

xã hội – môi trường.

3.3.2.2. Xã hội

Các giải pháp về mặt xã hội tập trung vào việc nâng cao chất lượng nguồn lao động trong tỉnh để

đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong tương lai.

- Giáo dục:

- Bình Dương phát triển sự nghiệp giáo dục theo hướng xã hội hóa giáo dục: thu hút phần lớn các

cháu trong độ tuổi vào các lớp học mầm non, giữ vững chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học

đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở toàn tỉnh đến năm 2020.

- Tỉnh tập trung xây dựng hệ thống trường lớp và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ cho công tác

giáo dục – đào tạo:

+ Thành lập và xây dựng các trường thuộc bậc học mầm non, tiểu học tại tất cả các xã, phường,

thị trấn.

+ Tách riêng cấp 2 (bậc THCS) ra khỏi tất cả các trường cấp 2 – 3; đảm bảo mỗi xã có 1 trường

THCS vào năm 2010.

+ Thành lập và xây dựng các trung tâm kĩ thuật – hướng nghiệp tại các huyện chưa có trung tâm.

+ Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật cho các trường học, nhằm đưa tất cả các trường

trở thành trường chuẩn quốc gia.

+ Nâng cấp, xây dựng và cải tạo các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp công

lập:

 Một trường đại học đa ngành (phát triển từ CĐSP).

 Một trường cao đẳng y dược khu vực miền Đông (phát triển từ Trung học y tế).

 Một trường cao đẳng nông nghiệp và phát triển nông thôn (phát triển từ Trung học nông

lâm).

 Ba trường trung học chuuyên nghiệp: Trung học kinh tế, Trung học Kĩ thuật, trung học

Văn hoá nghệ thuật.

 Phát triển thêm mô hình trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ngoài công

lập; chú ý khuyến khích các loại hình trường đào tạo kĩ thuật cao, công nghệ cao.

- Chú trọng nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên bằng nhiều hình thức. Chẳng hạn

như tỉnh triển khai chương trình đưa cán bộ, công chức, viên chức đang làm việc trong tỉnh đi đào tạo

Sau Đại học (Thạc sĩ, Tiến sĩ) cả trong nước và ngoài nước.

- Y tế

+ Bình Dương xây dựng mạng lưới khám chữa bệnh của tỉnh:

 Ở tuyến tỉnh

- Nâng cấp các bệnh viện tuyến tỉnh như bệnh viện đa khoa, bệnh viện y học dân tộc, bệnh viện

phục hồi chức năng trẻ em dị tật, trung tâm bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình.

- Thành lập các bệnh viện chuyên khoa nhi, lao, tâm thần; bệnh viện đa khoa khu vực cho các khu

công nghiệp...

- Tỉnh cũng cho phép mở một số bệnh viện theo hình thức xã hội hóa đầu tư phát triển y tế nhằm

đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho dântrong tỉnh, trong vùng...

 Ở tuyến huyện, thị xã: thành lập các trung tâm y tế đa khoa tuyến huyện. Cải tạo, nâng cấp

và xây dựng mới các trung tâm y tế huyện Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát.

 Ở tuyến khu vực: xây dựng các phòng khám đa khoa khu vực

 Ở tuyến xã, phường: Đảm bảo tất cả xã phường có trạm y tế.

+ Tỉnh tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ y tế, phân bổ đều ở các địa phương. Hoàn thành

chương trình đưa bác sĩ về xã, phường.

+ Xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho các bệnh viện, trung tâm y tế, có hệ thống xử lý chất thải

bệnh viện đảm bảo không gây ô nhiễm môi trường.

+ Bổ sung đầy đủ các trang thiết bị phục vụ y tế.

+ Tỉnh cũng chú ý tăng ngân sách đầu tư cho y tế. Cụ thể, chi ngân sách cho y tế của tỉnh sẽ tăng

lên 9,0% năm 2010, 12,0% năm 2015 và 15% năm 2020.

+ Ngoài ra, tỉnh cần kết hợp bảo hiểm y tế, y tế từ thiện, miễn phí cho các đối tượng chính sách và

người nghèo.

- Phát triển cơ sở hạ tầng

Nhằm tạo ra các mối liên hệ về kinh tế - xã hội giữa các địa phương trong tỉnh cũng như ngoài

tỉnh, tạo điều kiện để thu hút đầu tư cũng như nguồn lao động chất lượng cao và thay đổi bức tranh

phân bố dân cư, lao động giữa các địa phương trong tỉnh, Bình Dương tập trung các giải pháp về cơ sở

hạ tầng như sau:

+ Giao thông

Bình Dương đặt mục tiêu giao thông phải đi trước một bước nhằm tạo ra một mạng lưới giao

thông hợp lí, làm động lực thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Vì vậy, tỉnh cần phát triển hệ thống giao

thông kết nối với sân bay Tân Sơn Nhất và Long Thành, với cụm cảng Sài Gòn, cụm cảng nước sâu

Vũng Tàu – Thị Vải....

Để làm được điều này, tỉnh Bình Dương phát triển các loại hình giao thông:

 Đường bộ

- Tỉnh tập trung hoàn thành bốn đại lộ hiện đại của tỉnh:

Đại lộ Bình Dương 1 đi cửa khẩu Hoa Lư, đoạn phía Nam từ TP. HCM đến Chơn Thành, quy mô

8 làn xe.

Đại lộ Bình Dương 2 đi Đồng Xoài.

Đại lộ Bình Dương đi Dầu Tiếng

Đại lộ Mỹ Phước đi Tân Vạn

Đồng thời tỉnh xây dựng 3 đại lộ cắt ngang các trung tâm đô thị: An Tây – Hội Nghĩa (Tân

Uyên), Bàu Bàng – Phước Vĩnh, Thường Tân – Tân Hưng – Hưng Hòa.

- Nâng cấp các tuyến quốc lộ đi qua tỉnh: 1A, 13, 14, 1K

- Chú ý xây dựng các tuyến vành đai:

Tuyến vành đai từ ngã ba Tân Vạn – Lái Thiêu – Hóc Môn – Bình Chánh dài 60km, quy mô 4 – 6

làn xe, hoàn thành trước 2010.

Tuyến vành đai Biên Hòa – Thủ Dầu Một – Bến Lức: xây mới với quy mô 6 làn xe.

Tuyến vành đai cầu Thủ Biên (Đồng Nai) – Bến Cát – Củ Chi (TP. HCM) -Đông Tân An (Long

An), dài 120 km, quy mô 4 - 6 làn xe.

Mạng lưới đường tỉnh và đường huyện của tỉnh sẽ kết nối với các trục giao thông vành đai, trở

thành hệ thống giao thông xuyên suốt tới các khu công nghiệp, đô thị, các vùng sản xuất nông nghiệp

tập trung.

 Đường thủy

Tỉnh cần nạo vét luồng lạch sông Sài Gòn, Đồng Nai và Thị Tính phục vụ giao thông. Ngoài ra,

tỉnh cũng cần nâng cấp và xây dựng hệ thống cảng: cảng Bà Lụa, cảng An Sơn, cảng tổng hợp Bình

An; xây cảng mới Thường Tân, An Tây, Dầu Tiếng, bến Bạch Đằng, bến Cầu Ngang...

 Đường sắt

Tỉnh chú ý phát huy các tuyến đường sắt trên địa bàn:

- Đường sắt Bắc – Nam chạy vào ga Dĩ An.

- Đường sắt từ ga An Bình đi TP. HCM

- Đường sắt chạy qua Tam Bình, Hóc Môn vòng về phía đông TP. HCM

- Đường sắt đi Lộc Ninh có một số ga thuộc địa phận Bình Dương.

Bên cạnh đó tỉnh còn cần tiếp tục phát triển vận tải hành khách bằng xe buýt ở các đô thị và khu

công nghiệp.

+ Cung cấp điện: Để nâng cao chất lượng cuộc sống người dân trong tỉnh, từ nay đến 2020, Bình

Dương phải xây dựng, chuyển đổi điện áp của 7 vùng phụ tải, từng bước chuyển đổi của lưới trung thế

từ 15 KV lên 22 KV nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng điện đến 2010 là 6.687 GWh và 2015 là 12.405

GWh.

+ Hệ thống cung cấp nước: Để đảm bảo nhu cầu sử dụng ngày càng tăng của dân dụng và sản

xuất, tỉnh cần đầu tư cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới 06 nhà máy nước chính: Dĩ An, Thủ Dầu Một,

Hiệp An, Tân Hiệp, Uyên Hưng, Mỹ Phước và một số trạm lẻ.

- Bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên

Để giảm thiểu ô nhiễm và tăng cường bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên, qua đó duy trì

thế mạnh về phát triển kinh tế và tạo môi trường sống trong lành cho dân cư, Bình Dương cần chú ý

đến những giải pháp sau:

- Xây dựng phương án bảo vệ môi trường toàn tỉnh

- Xây dựng phương án phòng chống sự cố môi trường đe dọa

- Xem xét khía cạnh môi trường của các dự án phát triển kinh tế - xã hội và thẩm định các văn bản

đánh giá tác động môi trường của các dự án khi cấp phép đầu tư.

- Tổ chức việc thực hiện luật môi trường quốc gia và quy định bảo vệ môi trường của tỉnh.

- Biện pháp và quy định bảo vệ môi trường phải phù hợp với từng không gian trên địa bàn tỉnh:

+ Vùng đô thị: gồm phần trung tâm TX. Thủ Dầu Một và một số thị trấn lân cận. Tại đây chất

lượng không khí, nước cần đạt được tiêu chuẩn về chất lượng môi trường với khu dân cư. Nước thải

của khu vực cần được tập trung xử lý theo quy hoạch thoát và xử lý nước thải được xây dựng. Ngoài

ra, tỉnh cũng cần chú ý phát triển ngành công nghiệp sạch, hàm lượng khoa học – kĩ thuật cao nhằm

giảm thiểu tác động của sản xuất đến môi trường.

+ Vùng công nghiệp: Xây dựng các công trình xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn, nghiêm ngặt giám

sát vấn đề thực hiện bảo vệ môi trường của các nhà máy sản xuất, hạn chế đến mức thấp nhất việc thải

nước thảo chưa qua xử lý ra môi trường dẫn đến ô nhiễm nguồn nước sông Đồng Nai – Sài Gòn làm

ảnh hưởng đến cuộc sống dân cư.

+ Vùng nông nghiệp: bao gồm các vùng nông thôn của tỉnh, nơi tập trung phát triển các cây lương

thực, thực phẩm, cây công nghiệp và chăn nuôi của tỉnh nên cần chú ý về việc sử dụng thuốc trừ sâu,

bảo vệ thực vật... theo quy định; xây dựng hệ thống chuồng trại chăn nuôi có hệ thống xử lý chất thải

tốt.

- Tỉnh cũng cần chú trọng khôi phục rừng phòng hộ; ngăn chặn việc phá rừng; tổ chức trồng rừng

và trồng cây trên các dải đất trống ở các thị xã, thị trấn, ven đường giao thông; xây dựng thêm công

viên và trồng thêm cây xanh trên các đường phố, đô thị, khu dân cư.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đề tài “Dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương” đã đạt được một số

kết quả sau:

1. Tổng hợp được những lí luận liên quan đến dân số, phát triển kinh tế - xã hội, mối quan hệ giữa

dân số và phát triển kinh tế - xã hội.

2. Nghiên cứu các vấn đề về dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương giai đoạn 1997

- 2007, qua đó rút ra được mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương.

Các đặc điểm về dân số của tỉnh Bình Dương có liên quan đến tình hình phát triển kinh tế mà nhất

là sự phát triển công nghiệp của tỉnh trong thời gian qua. Trong giai đoạn từ 1997 – 2007, tỉnh đã đẩy

mạnh phát triển công nghiệp dẫn đến sự hình thành nhiều khu công nghiệp trên địa bàn các huyện phía

nam của tỉnh, thu hút nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như nguồn lao động từ các địa

phương khác trong cả nước đến làm việc làm cho dân số của tỉnh liên tục tăng, chủ yếu là gia tăng cơ

học. Tỉ lệ gia tăng cơ học của tỉnh năm 1997 là 1,43%, sau đó liên tục tăng nhanh, năm 2005 là 10,3%.

Bên cạnh đó, lao động nhập cư đông cũng làm cho dân số trong độ tuổi lao động và số lao động làm

việc trong ngành công nghiệp ngày càng tăng, tập trung ở các huyện thị như Thuận An, Dĩ An, TX.

Thủ Dầu Một và gần đây là Bến Cát, Tân Uyên.

Sự chênh lệch trong cơ cấu lao động, phân bố nguồn lao động tương quan với sự chênh lệch trong

cơ cấu kinh tế theo ngành và theo lãnh thổ. Ngành công nghiệp chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu GDP,

tập trung chủ yếu ở phía nam tỉnh trong khi ngành nông nghiệp lại chiếm tỉ trọng nhỏ và phát triển chủ

yếu ở các huyện phía bắc. Vì vậy, trong thời gian tới, tỉnh cần chú trọng phát triển dịch vụ nhằm nâng

cao tỉ trọng của ngành trong cơ cấu GDP đồng thời đẩy mạnh phát triển công nghiệp sang các huyện

phía bắc. Điều này cũng sẽ làm giảm áp lực về dân số, việc làm và các vấn đề xã hội khác ở các huyện

thị phía nam.

Về mặt xã hội, tỉnh cũng đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận trong lĩnh vực y tế và giáo

dục. Điều này thể hiện qua việc giảm tỉ lệ gia tăng tự nhiên do giảm tỉ lệ sinh làm cho tỉ lệ dân số dưới

tuổi lao động ngày càng giảm. Bên cạnh đó, chất lượng lao động ngày càng được nâng cao phần nào

phản ánh được các thành quả của ngành giáo dục tỉnh. Trong tương lai, các ngành này cần được đầu tư

phát triển nhiều hơn nữa vì đây là nhân tố quyết định chất lượng con người và chất lượng nguồn lao

động của tỉnh.

Sự phát triển mạnh mẽ về dân số và kinh tế đã gây ra những vấn đề đáng lo ngại về môi trường

trong tỉnh. Vì vậy, môi trường là vấn đề đáng quan tâm của tỉnh trong thời gian tới.

3. Trên cơ sở nghiên cứu về dân số và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Dương từ 1997 – 2007,

tác giả đã đưa ra những định hướng, dự báo về phát triển dân số và kinh tế - xã hội của tỉnh đến năm

2020.

Các định hướng tập trung vào vấn đề phát triển dân số, kinh tế và đô thị của tỉnh đến 2020. Về

dân số, phát triển dân số nhằm đạt được quy mô dân số của đô thị loại I vào năm 2020; đáp ứng yêu

cầu về nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế bằng cách thu hút lao động nhập cư nhất là

lao động có kĩ thuật, nâng cao chất lượng nguồn lao động thông qua phát triển giáo dục và y tế. Về

kinh tế, tập trung phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ. Theo đó, ngành công nghiệp và dịch vụ có

xu hướng chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là chú trọng tăng tỉ trọng ngành

dịch vụ. Về đô thị, nâng cao tỉ lệ thị dân và đạt mục tiêu 75% dân số đô thị vào năm 2020.

Để đạt được những mục tiêu trên, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển hài hòa

giữa dân số và kinh tế - xã hội của tỉnh trong thời gian tới. Các giải pháp tập trung vào việc gắn phát

triển kinh tế - xã hội với nâng cao chất lượng cuộc sống, nâng cao chất lượng lao động; phát triển kinh

tế - xã hội đồng đều giữa các địa phương nhằm thay đổi bức tranh phân bố dân cư và lao động trong

tỉnh.

Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do hạn chế về thời gian, nguồn số liệu thu thập được và trình độ

nghiên cứu của tác giả nên một số vấn đề nghiên cứu mới dừng lại ở mức độ tổng quát; các nội dung

về dự báo, định hướng phát triển dân số và kinh tế - xã hội theo địa phương chưa đi sâu phân tích và

nghiên cứu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Cục Thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám Thống kê tỉnh Bình Dương từ năm 1997 - 2007.

2. Tống Văn Đường (1997), Giáo trình dân số và phát triển, Dự án VIE/97/P.3, Bộ Giáo dục và Đào

tạo.

3. Phạm Xuân Hậu, Nguyễn Kim Hồng, Đặng Văn phan (1995), Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam (tập

1), Nxb Giáo dục.

4. Nguyễn Kim Hồng (chủ biên), Phạm Xuân Hậu, Đào Ngọc Cảnh, Phạm Thị Xuân Thọ (1997),

Giáo trình Địa lý kinh tế xã hội đại cương, Trường Đại học Sư phạm TP. HCM.

5. Nguyễn Kim Hồng (1994), Sự phát triển dân số và mối quan hệ của nó với sự phát triển kinh tế -

xã hội TP. HCM, Luận án Tiến sĩ Địa lí – địa chất, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 1.

6. Nguyễn Kim Hồng (2001), Dân số học đại cương, Nxb Giáo dục.

7. Chu Viết Luân (2003)– Bình Dương - Thế và lực mới trong thế kỉ XXI, Nxb Chính trị quốc gia.

8. Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Bình Dương (2007), Báo cáo năm 2007 và kế hoạch

năm 2008 ngành lao động – Thương binh – Xã hội.

9. Sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Bình Dương (2006), Đề án xúc tiến lao động giai đoạn

2006 – 2010.

10. Phạm Thị Xuân Thọ (2008), Địa lí Đô thị, Nxb Giáo dục.

11. Tổng cục Thống kê (2008), Điều tra biến động dân số năm 2007, Nxb Thống kê.

12. Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê năm 2006, 2007.

13. Nguyễn Minh Tuệ (2008), Giáo trình giáo dục dân số - sức khỏe sinh sản, Quỹ dân số LHQ thông

qua dự án VNM 7PG009 – Bộ Giáo dục – Đào tạo.

14. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2001), Chiến lược dân số Bình Dương giai

đoạn 2001 – 2010.

15. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2007), Báo cáo Tổng kết công tác dân số -

gia đình và trẻ em tỉnh Bình Dương năm 2007; Nhiệm vụ công tác năm 2008.

16. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2005), Báo cáo 15 năm công tác dân số - gia

đình và trẻ em tỉnh Bình Dương 1997 – 2005.

17. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2005), Tình hình thực hiện công tác dân số

tỉnh Bình Dương 1997 – 2004.

18. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em tỉnh Bình Dương (2006), Báo cáo tình hình thực hiện chiến

lược dân số tỉnh Bình Dương 2001 – 2006.

19. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Bến Cát, Kết quả thực hiện công tác dân số - KHHGĐ

giai đoạn 2000 – 2007 và kế hoạch đến 2010.

20. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Dầu Tiếng, Chỉ tiêu dân số 2001 – 2007, kế hoạch năm

2008 – 2010.

21. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Dĩ An, Dân số và biến động dân số 2001 – 2007.

22. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Phú Giáo, Bảng tổng hợp các chỉ tiêu dân số 1999 –

2010.

23. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Tân Uyên, Dân số và biến động dân số 1999 – 2007.

24. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em huyện Thuận An, Dân số và biến động dân số 1997 – 2007.

25. Ủy ban Dân số - Gia đình – Trẻ em TX. Thủ Dầu Một, Kết quả thực hiện công tác dân số -

KHHGĐ giai đoạn 2000 – 2007 và kế hoạch đến 2010.

26. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương (2006), Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế

- xã hội tỉnh Bình Dương đến năm 2020.

27. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương (2007), Nội dung báo cáo Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân

về tình hình hoạt động và định hướng công tác đào tạo của tỉnh Bình Dương.

28. World Development Indications ( 2006)

Hình 3.2. Sơ đồ định hướng quy hoạch tổng thể phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn tỉnh Bình Dương đến 2020

Nguồn: Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Bình Dương