intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu lựa chọn bài tập nâng cao thể lực chung cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:90

15
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Nghiên cứu lựa chọn bài tập nâng cao thể lực chung cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa" là đánh giá thực trạng trình độ thể lực chung của sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa; so sánh trình độ thể lực chung của sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa với sinh viên một số trường Đại học, Cao đẳng phía Bắc Việt Nam; lựa chọn và ứng dụng xác định hiệu quả các bài tập phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Nghiên cứu lựa chọn bài tập nâng cao thể lực chung cho sinh viên trường Cao đẳng Y tế Thanh Hóa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH TRỊNH MINH QUYẾT NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN BÀI TẬP NÂNG CAO THỂ LỰC CHUNG CHO SINH VIÊN TRƢỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ THANH HÓA Chuyên ngành: Giáo dục thể chất Mã số : 60.81.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN XUÂN TRÃI BẮC NINH – 2011
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vị trí con người, vì là động lực quan trọng nhất. Điều đó, khẳng định phải có chính sách chăm sóc Giáo dục cải tạo con người Việt Nam, phát triển hài hòa tất cả các mặt thể chất tinh thần và đạo đức. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác TDTT nhiều năm qua. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có nhiều văn bản quan trọng chỉ đạo phát triển công tác giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên trường học. Trong đó, chương trình giáo dục thể chất là cụ thể hiệu quả nhất để hướng dẫn và triển khai công việc này đến từng cá nhân con người tham gia luyện tập vì sức khỏe. Chương trình giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau đây: Thứ nhất: Nhằm giáo dục đạo đức XHCN, rèn luyện tinh thần ý thức tập thể, ý thức tổ chức kỷ luật, xây dựng niềm tin lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác, tích cực và rèn luyện thân thể để có sức khỏe chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ quốc. Thứ hai: Góp phần cung cấp cho thành viên những kiến thức lý luận cơ bản về nội dung và phương pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ năng cơ bản của một số môn thể dục thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng các phương tiện để tự rèn luyện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ chức các hoạt động TDTT của nhà trường và toàn xã hội. Thứ ba: Góp phần duy trì và củng cố sức khỏe của sinh viên, phát triển cơ thể một cách hài hòa, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói quen xấu, rèn luyện thân thể để đạt những chỉ tiêu thể lực quy định cho từng đối tượng và năm học cụ thể theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể trên từng lứa tuổi. Thứ tư: Nâng cao mức độ thích ứng nghề nghiệp của từng sinh viên bằng các bài tập thể dục ứng dụng nghề nghiệp phát triển kiến thức, những kỹ năng - kỹ xảo chuyên môn, tạo điều kiện nhanh chóng nắm vững và thích ứng nghề nghiệp. Điều 41 của Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã Quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học. Chỉ thị 36/CT-TW
  3. 2 ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học”.[4] Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII và Chỉ thị 192/CT của Chính phủ đã chỉ rõ: Sự cần thiết phải coi trọng việc cải tiến nội dung phương pháp và điều kiện tập luyện, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường các cấp từ bậc học phổ thông đến Đại học.[6] Mục tiêu giáo dục thể chất trong nhà trường đại học gắn liền và góp phần thực hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo, giữ vị trí quan trọng và then chốt trong chiến lược phát triển sự nghiệp TDTT. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ: “Công tác thể dục thể thao cần coi trọng, nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”.[7] Để thực hiện được mục đích giáo dục thể chất trong các trường đại học là góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo toàn diện đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển con người hài hòa có thể chất cường tráng đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp, ngày 23/01/1989, Bộ trưởng Bộ Đại học trung học chuyên nghiệp và dạy nghề ra quyết định số 203/QĐ/TDTT, ban hành chương trình giáo dục thể chất mới. Mặc dù có chương trình cải tiến nhưng thể lực chung và thể lực nghề nghiệp của sinh viên chưa được cải thiện đáng kể. Tình trạng phát triển thể chất sức khỏe và thể lực của sinh viên trong các trường học như Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá là đáng lo ngại: Hàng năm có tới 30,80% trường hợp sinh viên mắc các bệnh thông thường phải nghỉ học hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến học tập. Có 4,10% sinh viên trừng đại học khối kỹ thuật và 5,90% sinh viên các trường ngoài khối kỹ thuật xếp loại sức khỏe và thể lực yếu.[12] Một trong những nguyên nhân hiện trạng đó là việc dạy học môn thể dục ở nhiều trường mới chỉ được thực hiện về hình thức, chủ yếu do có được điểm số thực đánh giá mà chưa chú trọng thực chất, chưa quán triệt sâu sắc và thực hiện ý nghĩa nội dung giáo dục thể chất để trang bị kiến thức lý luận TDTT, và trang kỹ thuật TDTT một cách phù hợp. Công tác giáo dục thể chất, phát triển thể lực của sinh viên phải được coi trọng thường xuyên. Tất cả các vấn đề trên quan hệ chặt chẽ tới việc phân chia tỷ lệ nội dung giáo dục môn học, vì tăng tỷ lệ nội dung giáo dục kỹ năng thì chỉ giúp cho sinh viên nắm bắt về kỹ thuật động tác tốt, song để nâng cao sức khỏe phát triển tố chất thể lực thì
  4. 3 phải tăng tỷ lệ nội dung giáo dục thể lực. Trong khi đó mục đích đào tạo giáo dục thể chất ở các trường học không chuyên TDTT thì nhu cầu kỹ năng không đòi hỏi lớn, phần nhiều các kỹ năng TDTT đã được trang bị ở các trường phổ thông cấp dưới mà chỉ cần hoàn thiện chúng ở bậc học trên. Rõ ràng là nếu bớt tỷ lệ nội dung giáo dục thể chất trong điều kiện thời gian chương trình giáo dục thể chất quá ít ỏi, tất dẫn tới làm giảm sút hiệu quả tăng cường và phát triển thể chất cho sinh viên. Do đó, khó có thể thực hiện được mục đích giáo dục thể chất trong các trường đại học là phải tăng cường thể lực cho sinh viên. Mặt khác, việc nâng cao thể chất cho sinh viên nếu chỉ dựa vào những tiết học chính khóa cùng khóa thì có thể nâng cao và phát huy tính tự giác tăng tính tự tập luyện của sinh viên. Trường Cao đẳng y tế Thanh Hoá là một ngôi trường có gần 50 năm truyền thống lịch sử hình thành và phát triển. Trường nằm trên địa bàn của tỉnh Thanh Hoá, một tỉnh địa đầu của khu vực Trung Bộ, với 4 triệu dân. Trong những năm qua, Nhà trường đã đào tạo được hàng nghìn Cử nhân điều dưỡng, Y sỹ đa khoa, Y sỹ sản nhi, Y sỹ y học dân tộc, Y sỹ vệ sinh phòng dịch, Dược sỹ, Nữ hộ sinh và hàng trăm sinh viên các chuyên ngành: Sản khoa, Xét nghiệm, Chẩn đoán hình ảnh... Đáp ứng nhu cầu cán bộ y tế cho không những trong tỉnh, trong khu vực, mà còn là phạm vi cả nước. Ngoài ra, Nhà trường còn làm nhiệm vụ liên kết đào tào cán bộ y tế cho nước bạn Lào. [46], [41] Phong trào TDTT của Nhà trường được phát triển mạnh, nhiều năm đạt được danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc về TDTT. Trong thời gian qua, môn GDTC được Ban giám hiệu cũng như các tổ chức khác trong Nhà trường đặc biệt quan tâm và tạo điều kiện để phát triển. Với cơ sở vật chất, sân bãi dụng cụ TDTT chưa phải là dồi dào nhưng phần nào đã đáp ứng được nhu cầu tối thiểu công tác giảng dạy cũng như các hoạt động TDTT của cán bộ giáo viên, sinh viên trong trường. Ngoài việc giảng dạy đảm bảo chương trình GDTC áp dụng chung cho các trường cho sinh viên, các giáo viên TDTT đã huấn luyện thi đấu cho một số đội tuyển thể thao nghiệp dư của trường và đạt được một số thành tích ở các giải của ngành, tỉnh... Có được thành tích trên, trước hết do sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường, sự hỗ trợ, ủng hộ của các Phòng Ban, cùng sự nhiệt tình lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên TDTT nhà trường; Bên cạnh đó, công tác giáo dục thể chất còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Hình thức giáo dục nội ngoại khóa còn nghèo nàn, phân loại sức khỏe thể lực sinh viên chưa được tiến hành. Trong những năm qua, trường Cao đẳng y
  5. 4 tế Thanh Hóa đã kiểm tra thể lực của sinh viên để đánh giá kết quả công tác Giáo dục Thể chất, nhưng việc đánh giá thường xuyên chưa coi trọng, mà chỉ đánh giá theo kết quả học tập, bằng cách cho điểm theo tiêu chuẩn đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Điều đó, chưa đánh giá một cách chính xác, đầy đủ về sức khỏe và sự phát triển thể lực của sinh viên nhà trường. Với đặc thù của ngành, sinh viên trường y phải trải qua một lịch học tập tương đối vất vả, vừa phải học các môn lý thuyết trên giảng đường, vừa phải học thực hành tại Labo và thường xuyên học lâm sàng cũng như trực đêm tại bệnh viện. Rất nhiều sinh viên đã không đáp ứng được yêu cầu học tập do tình trạng thể lực không tốt. Trong các buổi học, thường xuyên có sinh viên bị mệt mỏi, choáng ngất...kết quả học tập sa sút. Thực tế đó đòi hỏi Nhà trường phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp có hiệu quả để đảm bảo và nâng cao được thể lực chung cho sinh viên, đáp ứng được yêu cầu học tập. Qua thực hiện chương trình, chúng tôi nhận thấy chương trình mới của Bộ đề ra áp dụng cho các trường Đại học và Cao đẳng. Về giáo dục ngoại khóa, chỉ dừng lại ở mức phổ biến nội dung rèn luyện thân thể, yêu cầu về phương pháp tập luyện, tự tập luyện, việc tập luyện của sinh viên chỉ mang tính chất tự phát, tính tự nguyện và hiệu quả của tập luyện ngoại khóa thấp. Xuất phát từ mục đích nâng cao hiệu quả giảng dạy học tập, nhất là phát triển thể lực cho sinh viên, việc xác định phương pháp và biện pháp phát triển thể lực cho đối tượng nêu trên hết sức cần thiết và quan trọng. Cho đến nay, ở nước ta đã có một số công trình của các tác giả nghiên cứu trên lĩnh vực giáo dục thể chất của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, chuyên nghiệp và dạy nghề. Như các công trình nghiên cứu của các tác giả: Phạm Thị Nghị (1999) với đề tài: “Nghiên cứu biện pháp phát triển thể lực cho sinh viên sức khỏe yếu của trường Đại học Đà Nẵng”, Nguyễn Thị Bích Thủy (2001) với đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả một số bài tập phát triển chung nhằm nâng cao thể lực cho nữ sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Phú Thọ”, Nguyễn Duy Linh (2006) với đề tài: “Nghiên cứu một số giải pháp nâng cao hiệu quả GDTC của trường trung học GTVT-TWI”, Cao Hùng Dũng (2007) với đề tài:”Nghiên cứu nâng cao năng lực sức bền chung cho sinh viên trường Đại học Nông nghiệp - Hà Nội”, Nguyễn Văn Luyện (2008) với đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng bài tập nhằm nâng cao thể lực chung cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh”, Nguyễn Thị Bích Thủy (2001) với đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả một số bài tập phát triển chung nhằm nâng cao thể lực cho nữ sinh viên
  6. 5 trường Cao đẳng sư phạm Phú Thọ”. Các công trình nghiên cứu này đã thành công trong việc đáp ứng yêu cầu về vấn đề nâng cao chất lượng GDTC nói chung cũng như phát triển thể lực cho học sinh sinh viên ở đơn vị sở tại. Tuy nhiên do đặc thù của ngành đào tạo và đặc điểm của sinh viên mỗi trường khác nhau nên không thể áp dụng hoàn toàn kết quả nghiên cứu của những đề tài đã kể trên cho sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa. Để góp phần thêm cơ sở nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường và chuẩn bị tốt thể lực cho sinh viên vào học bậc cao hơn, trên cơ sở phân tích ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu lựa chọn bài tập nâng cao thể lực chung cho sinh viên trƣờng Cao đẳng Y tế Thanh Hóa” Mục đích và mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở đánh giá thực trạng trình độ thể lực chung của đối tượng nghiên cứu, đề tài tiến hành lựa chọn và ứng dụng các bài tập phát triển tố chất thể lực chung phù hợp điều kiện thực tiễn cho sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa, góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDTC của nhà trường hiện nay. Mục tiêu nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên cần giải quyết các mục tiêu nghiên cứu sau: Mục tiêu 1: Đánh giá thực trạng trình độ thể lực chung của sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa. Mục tiêu 2: So sánh trình độ thể lực chung của sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa với sinh viên một số trường Đại học, Cao đẳng phía Bắc Việt Nam. Mục tiêu 3: Lựa chọn và ứng dụng xác định hiệu quả các bài tập phát triển thể lực chung cho sinh viên trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa.
  7. 6 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Khái quát một số đặc điểm của trƣờng Cao đẳng y tế Thanh Hóa Hiện nay các trường Đại học và Cao đẳng nói chung và tại trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa nói riêng đều có xu hướng phát triển về quy mô đa dạng hóa loại hình đào tạo. Với sự phát triển mạnh mẽ về số lượng sinh viên như hiện nay, vấn đề bảo đảm chất lượng giáo dục, trong đó giáo dục thể chất đang đứng trước những thử thách to lớn. Cao đẳng y tế Thanh Hóa là một ngôi trường có 50 năm truyền thống lịch sử, đa dạng về loại hình đào tạo, mục tiêu của trường là đào tạo cán bộ y tế có trình độ Cao đẳng và trung cấp với nhiều ngành khoa học khác nhau. Với đặc thù là một trường đa ngành, đa nghề nên khi tốt nghiệp ra trường có thể làm việc trong công sở, bệnh viện hay trong các cơ sở y tế nên đòi hỏi sinh viên cần phải có một nền thể lực chung tốt để đảm bảo cho công tác của mình. Trường Cao đẳng y tế Thanh Hoá nằm trên địa bàn của tỉnh Thanh Hoá, một tỉnh địa đầu của khu vực Trung Bộ, với 4 triệu dân. Trong những năm qua, Nhà trường đã đào tạo được hàng nghìn Cử nhân điều dưỡng, Y sỹ đa khoa, Y sỹ sản nhi, Y sỹ y học dân tộc, Y sỹ vệ sinh phòng dịch, Dược sỹ, Nữ hộ sinh và hàng trăm sinh viên các chuyên ngành: Sản khoa, Xét nghiệm, Chẩn đoán hình ảnh... Đáp ứng nhu cầu cán bộ y tế cho không những trong tỉnh, trong khu vực, mà còn là phạm vi cả nước. Ngoài ra, Nhà trường còn làm nhiệm vụ liên kết đào tào cán bộ y tế cho nước bạn Lào. Phong trào TDTT của Nhà trường được phát triển mạnh, nhiều năm đạt được danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc về TDTT. Trong thời gian qua, môn GDTC được Ban giám hiệu cũng như các tổ chức khác trong Nhà trường đặc biệt quan tâm và tạo điều kiện để phát triển. Với cơ sở vật chất, sân bãi dụng cụ TDTT chưa phải là dồi dào nhưng phần nào đã đáp ứng được nhu cầu tối thiểu công tác giảng dạy cũng như các hoạt động TDTT của cán bộ giáo viên, sinh viên trong trường. Ngoài việc giảng dạy đảm bảo chương trình GDTC áp dụng chung cho các trường cho sinh viên, các giáo viên TDTT đã huấn luyện thi đấu cho một số đội tuyển thể thao nghiệp dư của trường và đạt được một số thành tích ở các giải của ngành, tỉnh... Có được thành tích trên, trước hết do sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường, sự hỗ trợ, ủng hộ của các Phòng Ban, cùng sự nhiệt tình lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên TDTT nhà
  8. 7 trường; Bên cạnh đó, công tác giáo dục thể chất còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau như: Hình thức giáo dục nội ngoại khóa còn nghèo nàn, phân loại sức khỏe thể lực sinh viên chưa được tiến hành. Trong những năm qua, trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa đã kiểm tra thể lực của sinh viên để đánh giá kết quả công tác Giáo dục Thể chất, nhưng việc đánh giá thường xuyên chưa coi trọng, mà chỉ đánh giá theo kết quả học tập, bằng cách cho điểm theo tiêu chuẩn đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Điều đó, chưa đánh giá một cách chính xác, đầy đủ về sức khỏe và sự phát triển thể lực của sinh viên nhà trường. Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác giáo dục thể chất cho sinh viên, trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa không chỉ thực hiện đầy đủ những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nội dung chương trình giáo dục thể chất mà còn vận dụng sáng tạo trên cơ sở cải tiến, nâng cao các nội dung học tập cho phù hợp với điều kiện cụ thể của trường. Điều đó đã góp phần không chỉ vào việc nâng cao thể lực và chất lượng giáo dục thể chất cho sinh viên. Những năm qua, tuy trường mới thành lập, nhưng bộ môn giáo dục thể chất đã tập trung nghiên cứu và đầu tư giải quyết nhiều lĩnh vực liên quan đến đào tạo và nâng cao thể lực cho sinh viên. 1.2. Các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về công tác giáo dục thể chất cho học sinh trƣờng học. Nhiệm vụ cơ bản có tính chiến lược của Thể dục Thể thao là góp phần bảo vệ, tăng cường sức mạnh của nhân dân, đặc biệt là thanh thiếu niên, đồng thời góp phần giáo dục đạo đức xây dựng nhân cách, nâng cao dân trí xã hội. Giáo dục thể chất trong nhà trường là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Giáo dục thể chất có tác dụng tích cực đối với sự hoàn thiện cá tính, nhân cách, những phẩm chất cần thiết và hoàn thiện thể chất của học sinh nhằm đào tạo con người mới phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ vững an ninh quốc phòng. Đó là lớp người “phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”. [15]. Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của giáo dục thể chất trong nhà trường các cấp là góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo lớp trẻ theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và năng động sáng tạo.[6]
  9. 8 Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng vị trí công tác giáo dục thể chất là một mặt trong mục tiêu giáo dục toàn diện của nhà trường xã hội chủ nghĩa. Giáo dục thể chất trong nhà trường các cấp, còn giữ vị trí quan trọng và then chốt trong chiến lược phát triển sự nghiệp thể dục thể thao.[15] Giáo dục thể chất là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục và đào tạo chung, đồng thời là một bộ phận quan trọng của nền thể dục thể thao Việt Nam. Giáo dục thể chất trong trường học đang cùng với thể thao thành tích cao, thể thao cho mọi người và các bộ phận thể dục thể thao khác, đảm bảo cho nền thể dục thể thao phát triển cân đối và đồng bộ, góp phần thực hiện kế hoạch củng cố, xây dựng và phát triển thể dục thể thao Việt Nam. Từ khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ phát triển toàn diện. Bác Hồ đã dạy: “Dân có cường thì nước mới thịnh”, “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.[32] Từ sau Cách Mạng Tháng Tám năm 1945, đất nước ta bước vào giai đoạn cách mạng mới, Đảng và Nhà nước rất coi trọng và quan tâm xây dựng nền TDTT Việt Nam mang tính: Dân tộc, hiện đại, phục vụ đời sống và sức khỏe nhân dân. Sự hình thành và phát triển nền thể thao nước ta, cũng đã trải qua các thời kỳ gắn liền với tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa của đất nước. Tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, khẳng định vị trí sức khỏe dưới chế độ mới: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công. Mỗi một người dan yếu ớt là làm cho cả nước yếu ớt một phần, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là góp phần cho cả nước mạnh khỏe”. Vì thế, Người dạy: “Luyện tập thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”.[32]. Nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất coi trọng công tác giáo dục thể chất trường học nhằm đào tạo những lớp người phát triển toàn diện, kế tục sự nghiệp cách mạng, xây dựng kinh tế xã hội theo định hướng XNCH và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục và đào tạo nói chung, về giáo dục thể chất trong trường học nói riêng, xuất phát từ những cơ sở tư tưởng, lý luận của học thuyết Mác - Lênin về con người và sự phát triển con người toàn diện về giáo dục thế hệ trẻ trong XHCN, về những nguyên lý giáo dục thể chất Mác-xít, từ tư tưởng quan điểm Hồ Chí Minh về TDTT nói chung và giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ nói riêng.
  10. 9 Những tư tưởng lý luận cơ sở đó, đều được Đảng ta quán triệt trong suốt thời kỳ lãnh đạo Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng CNXH ngày nay, được cụ thể hóa qua các kỳ Đại hội Đảng, các chỉ thị, các nghị quyết, nghị định, thông tư về TDTT, ở từng giai đoạn Cách mạng theo yêu cầu nhiệm vụ và tình hình cụ thể của đất nước. Ban Bí thư Trung ương Đảng (1960), Chỉ thị 36/CT của Ban Bí thư nhận định hướng công tác giáo dục và rèn luyện thể chất đối với tuổi trẻ học đường. Chủ trương này đã được hội nghị Trung ương lần thứ VIII tháng 4/1963 phát triển lên một bước mới phù hợp nguyên lý của Chủ nghĩa Mác về phát triển con người toàn diện. Nghị quyết Đại hội Đảng III viết: “... Công tác giáo dục phải được phát triển theo quy mô lớn, nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước nhà, có giác ngộ XHCN, có văn hóa và có khoa học kỹ thuật, có sức khỏe nhằm phục vụ đắc lực cho việc đào tạo cán bộ và nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân lao động...”.[8] Đặc biệt, về nội dung giáo dục toàn diện, Nghị quyết Đại Đảng VII, 1992 nêu rõ: “Cần nâng cao chất lượng toàn diện của nội dung giáo dục, hiện đại hóa chương trình khoa học kỹ thuật, mở rộng kiến thức quản lý kinh tế, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính sách của Đảng và đạo đức cách mạng, bồi dưỡng kỹ năng lao động và năng lực nghiên cứu khoa học kỹ thuật, coi trọng đúng mức giáo duc thẩm mỹ, TDTT và tập luyện quân sự...[6] Bước sang thời kỳ mới, khi đất nước hoàn toàn được giải phóng, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, đã mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Về TDTT, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề cập đến các vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng trong các lĩnh vực: TDTT quần chúng, thể thao thành tích cao, giáo dục thể chất trong trường học và phát triển lực lượng VĐV trẻ. Nghị quyết ghi rõ: “... Mở rộng và nâng cao chất lượng phong trào TDTT quần chúng, từng bước đưa việc rèn luyện thành thói quen hàng ngày của đông đảo nhân dân, trước hết là thế hệ trẻ, nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học...”. Nghị quyết VIII, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, năm 1996 đã khẳng định: “... Bắt đầu đưa việc dạy thể dục và một số môn thể thao cần thiết vào chương trình học tập của các trường phổ thông, chuyên nghiệp và các trường Đại học...” [8]. Giáo dục thể chất còn là nội dung bắt buộc đã được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ II, Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII về công tác giáo dục ghi rõ: “... Việc dạy và học TDTT trong trường hợp là bắt buộc...”
  11. 10 Gần đây, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII năm 1996 đã khẳng định: “... Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu...”. [8]. Để khẳng định vai trò tất yếu của TDTT đối với toàn xã hội, cũng như nhằm thúc đẩy nhanh, mạnh hơn nữa phong trào TDTT quần chúng và phong trào giáo dục thể chất học đường. Đảng ta luôn có những chỉ thị, nghị quyết kịp thời đề ra chủ trương đẩy mạnh tiến trình phát triển. Qua những giai đoạn cách mạng tương ứng với những yêu cầu, tình hình và nhiệm vụ cụ thể, Đảng ta đã ban hành các chỉ thị như: Chỉ thị 106/CT-TW ngày 02/10/1958 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT và Chỉ thị 108/CT-TW ngày 26/8/1970 của Ban Bí thư Trung ương Đảng tăng cường công tác TDTT trong những năm tiếp theo là một bước phát triển mới, xác định vị trí quan trọng của TDTT, coi TDTT là một nhu cầu của quần chúng, là một mặt của xây dựng CNXH. Chủ trương trên được cụ thể hóa tới sự phát triển phong trào TDTT trong học sinh, sinh viên... [2]. Chỉ thị 133/TTg ngày 7/3/1995 về quy hoạch phát triển TDTT trong những năm trước mắt ghi: “... Đối với học sinh, sinh viên, trước hết nhà trường phải thực hiện nghiêm túc việc dạy và học môn TDTT theo chương trình quy định, có biện pháp tổ chức, hướng dẫn các hình thức tập luyện và hoạt động thể thao tự nguyện ngoài giờ học... [5]. Chỉ thị 36/CT-TW ngày 24/3/1994 về công tác TDTT trong giai đoạn mới đã nêu rõ: “Cải tiến chương trình giảng dạy, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể, đào tạo giáo viên TDTT cho trường học các cấp, tạo những điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, để thực hiện chế độ giáo dục thể chất bắt buộc ở tất cả các trường học [4]. Tại Hội nghị giáo dục thể chất trong nhà trường phổ thông toàn quốc tại Hải Phòng, tháng 12/1996, nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh đã nói: “Ước vọng của chúng ta là mỗi thanh niên Việt Nam cả nam lẫn nữ, đều có cơ thể cường tráng, cùng với tâm hồn trong sáng và trí tuệ phát triển”. Cũng trong năm 1995, Thủ tướng Chính phủ ra Chỉ thị 133/TTg ngày 7/3/1995 về việc xây dựng và quy hoạch phát triển ngành TDTT, về giáo dục thể chất trường học ghi rõ: “... Bộ Giáo dục - Đào tạo cần đặc biệt coi trọng việc giáo dục thể chất trong nhà trường, cải tiến nội dung giảng dạy TDTT nội khóa, ngoại khóa, quy định tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho học sinh các cấp học, có quy chế bắt buộc đối với các trường...” [5].
  12. 11 Vì vậy, giáo dục thể chất trường học là một bộ phận hữu cơ của mục tiêu giáo dục đào tạo và thể dục ngành nghề là một mặt quan trọng trong hệ thống giáo dục thể chất học đường. Cùng với thể thao thành tích cao, giáo dục thể chất trường học đã góp phần đảm bảo cho nền TDTT nước nhà phát triển cân đối toàn diện, thực hiện mục tiêu chiến lược củng cố, xây dựng và phát triển, đưa nền TDTT nước nhà hòa nhập và tranh đua với các nước trong khu vực và thế giới. Cùng với các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện chủ trương, đường lối về công tác giáo dục thể thao nói chung và giáo dục thể chất học đường nói riêng, bằng rất nhiều các văn bản pháp quy, cụ thể như: - Thông tư Liên tịch số 08/LB-ND-TDTT ngày 24/12/1986 về công tác TDTT trong các trường dạy nghề và sư phạm. - Thông tư Liên tịch số 04-93/GD&ĐT/TDTT ngày 14/7/1993 về việc xây dựng kế hoạch đồng bộ, xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp nhằm cải tiến công tác tổ chức quản lý TDTT và giáo dục thể chất trong trường học các cấp. - Thông tư số 11/TT-GDTT ngày 01/8/1994 về việc hướng dẫn Chỉ thị 36/CT- TW. - Thông tư số 2896/GDTC ngày 4/5/1995 về việc hướng dẫn Chỉ thị 133/TTg của Thủ tướng Chính phủ. - Chương trình mục tiêu “Cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục thể chất, sức khỏe, phát triển và bồi dưỡng tài năng trẻ thể thao học sinh và sinh viên trong nhà trường các cấp”. Giáo dục con người phát triển toàn diện phải “kết hợp hài hòa sự phong phú về tinh thần, sự trong sáng về đạo đức, sự toàn diện về chất”. Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý tao ra sản phẩm trí tuệ và vật chất cho xã hội. Vì vậy, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội nói chung và ngành TDTT nói riêng. Đó chính là mục tiêu cơ bản, quan trọng nhất của nền giáo dục TDTT nước ta mà Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn coi trọng, quan tâm và nhắc nhở. Đến nay, hệ thống tổ chức quản lý giáo dục thể chất đã được hình thành và phát triển trong nhà trường các cấp từ địa phương đến Trung ương, khẳng định vị thế quan trọng của công tác giáo dục thể chất trong sự nghiệp giáo dục đào tạo của nước ta.
  13. 12 Có thể thấy rằng, lĩnh vực giáo dục thể chất trong trường học nói chung và giáo dục thể chất trong các trường trung học cơ sở nói riêng, đã và đang thu hút sự chú ý quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, các nhà giáo dục và chuyên môn... Nền văn hóa truyền thống dân tộc, văn hóa gia đình và văn hóa nhà trường đã tạo nên những bậc thang phát triển tri thức đa dạng. Trong đó, nền văn hóa nhà trường luôn giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt, trong các sản phẩm, giá trị văn hóa đó, với sinh viên đại học và cao đẳng, nhà trường cần phải đạt được mục đích giáo dục và bồi dưỡng cho trẻ vốn tri thức và các giá trị khách quan của nền văn hóa thể chất. Quá trình phát triển thể lực cho người tập là một quá trình giáo dục chuyên môn, chủ yếu bằng hệ thống bài tập nhằm hoàn thiện các năng lực thể chất, đảm bảo đạt thành tích cao nhất. Trong giáo dục thể lực gồm giáo dục thể lực chung và giáo dục thể lực chuyên môn. Giáo dục thể lực chung là một quá trình nhằm phát triển toàn diện các tố chất thể lực cũng như khả năng chức phận khác nhau không đặc trưng cho một hoạt động riêng biệt nào đó và tạo điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả của quá trình giáo dục thể lực chuyên môn, nhằm phát triển toàn diện năng lực thể chất và làm phong phú vốn kỹ năng kỹ xảo của người tập. Giáo dục thể lực chuyên môn là quá trình giáo dục nhằm phát triển và hoàn thiện những năng lực thể chất tương ứng với đặc điểm của môn thể thao chuyên sâu, có nhiệm vụ phát triển đến mức tối đa những năng lực đó của người tập. Giáo dục thể lực chuyên môn hướng đến việc củng cố và nâng cao khả năng làm việc của các cơ quan chức phận, các tố chất thể lực phù hợp với đòi hỏi của môn thể thao chuyên sâu lựa chọn. Các môn thể thao đều đòi hỏi phát triển toàn diện các tố chất thể lực, cùng với những tố chất chuyên môn ưu thế phù hợp với đặc điểm từng môn thể thao, quan hệ giữa các thành tố cơ bản cấu thành năng lực thể lực trong từng môn thể thao có những nét riêng. Khi đề cập đến giáo dục các tố chất vận động thấy rằng trong hoạt động chung của con người thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc trưng và có mối tương quan chặt chẽ với các tố chất thể lực cơ bản. Các tố chất luôn hiện diện trong mối tương tác lẫn nhau (không có biểu thị riêng tuyệt đối). Việc nghiên cứu quan hệ mang tính đặc trưng đó của tố chất thể lực trong các môn thể thao được nhiều tác giả nghiên cứu như Pharphen.V.X; Daxưorơxki.V.M; Novicôp và Matveep, Lê Bửu, Nguyễn Thế Truyền; Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn... Những năm gần đây, khi nghiên cứu sâu hơn về tố
  14. 13 chất thể lực theo 3 dạng cơ bản sức nhanh, sức mạnh, sức bền, phát hiện có những môn thể thao nằm giữa các loại trên, tức là những môn mang đặc trưng của 2 loại tố chất chủ đạo nhưng liên quan đến tố chất khác. Trong công tác giáo dục tố chất thể lực chung cho sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, đa số các nhà chuyên môn cho rằng tố chất thể lực chung phải được phát triển toàn diện và lâu dài trong suốt quá trình tập luyện. Tuy nhiên, với đặc thù của lứa tuổi sinh viên (18-22 tuổi), các tố chất thể lực phải phát triển theo đặc điểm riêng, từng tố chất thể lực đang phát triển dựa theo tuổi sinh học thời kỳ nhạy cảm, từng giai đoạn huấn luyện. Nhiều môn thể thao tố chất đặc trưng được xác định dễ dàng như tố chất nhanh của VĐV chạy cự ly ngắn, tố chất mạnh của VĐV cử tạ... Để đạt được thành tích thể thao cao, người ta phải sử dụng các phương tiện khác nhau như: Các bài tập thể chất, các điều kiện tự nhiên (môi trường, không khí, nước, ánh sáng...), các yếu tố vệ sinh. Trong đó, bài tập thể chất là nhóm phương tiện chính để huấn luyện tố chất thể lực, là phương tiện quan trọng nhất để nâng cao thành tích thể thao. Các bài tập thể chất phải chọn lựa phù hợp mục đích, nhiệm vụ của quá trình tập luyện, không được sử dụng một cách bừa bãi. Tính mục đích của bài tập huấn luyện tố chất thể lực thể hiện ở chỗ được sử dụng để phát triển thành tích trong môn chuyên sâu, phù hợp yêu cầu cấu trúc thành tích lâu dài, nâng cao khả năng chịu đựng lượng vận động một cách liên tục và phát triển thành tích thể thao một cách nhanh chóng. Thông qua việc lựa chọn hợp lý từng bài tập thể chất và qua việc phân chia một cách tối ưu lượng vận động của từng bài tập và nhóm bài tập có thể bảo đảm cho người tập phát triển đầy đủ năng lực của họ trong lứa tuổi đạt thành tích thể thao cao nhất. Giáo dục tố chất thể lực là mặt cơ bản để phát triển thể chất và nâng cao thành tích thể thao. Về thể chất mức độ phát triển các tố chất thể lực phụ thuộc vào các trạng thái chức năng, cấu tạo của nhiều cơ quan và hệ cơ quan trong cơ thể. Quá trình tập luyện để phát triển các tố chất thể lực chính là quá trình hoàn thiện các hệ thống chức năng có vai trò chủ yếu trong mỗi hoạt động của cơ bắp cụ thể. Theo quan điểm của Zusalovxki V.P, Philin: “Các tố chất thể lực phát triển có tính giai đoạn và không đồng đều, tùy thuộc vào từng thời kỳ của lứa tuổi”. Vì vậy, người giáo viên, HLV không những phải nắm vững quy luật phát triển tự nhiên, đặc biệt là thời kỳ nhạy cảm (thời kỳ thuận lợi cho việc phát triển các tố chất) trong cơ
  15. 14 thể, mà còn phải hiểu sâu sắc những đặc điểm phát triển tố chất thể lực theo độ tuổi của từng cá thể người tập. [34] Harre D 1996, Philin V.P 1996... cho rằng: “Dù bất kỳ giai đoạn nào của quá trình đào tạo VĐV, công tác huấn luyện thể lực chung được coi là then chốt, bởi thể lực chung cùng với thể lực chuyên môn được coi là nền tảng của việc đạt thành tích cao”. [28] Theo công trình nghiên cứu của tác giả: Ozolin 1980 thì: “Việc giáo dục tố chất TLC phải là một quá trình liên tục, nhiều năm trong suốt quá trình đào tạo VĐV. Tùy thuộc vào mục đích của từng GĐHL mà tỷ trọng giữa giáo dục TLC và TLCM được xác định cho phù hợp”. [33] Một vấn đề không kém phần quan trọng là: “Quá trình giáo dục thể lực là sự phù hợp của các phương tiện (bài tập thể chất) cũng như các phương pháp sử dụng, trong quá trình giáo dục phải phù hợp với các quy luật phát triển của đối tượng (lứa tuổi, trình độ tập luyện...).[38] Quá trình giáo dục các tố chất thể lực chung là một quá trình tác động liên tục, thường xuyên theo kế hoạch được sắp xếp hợp lý bằng những bài tập TDTT nhằm phát triển chất lượng và khả năng vận động. Quá trình ấy tác động sâu sắc đối với hệ thần kinh, cơ bắp cũng như đối với các cơ quan nội tạng của con người. Đương nhiên, muốn có thành tích xuất sắc, trước tiên cần có tố chất thể lực tốt phù hợp với yêu cầu chuyên môn, song không có nghĩa là coi nhẹ các mặt khác như kỹ - chiến thuật. Tố chất thể lực được chia thành 5 loại cơ bản: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khả năng mềm dẻo, khả năng phối hợp vận động (khả năng linh hoạt). Về vấn đề thể lực chung chúng ta biểu rõ trong hoạt động chung của con người thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc trưng và trọng tâm. Hoạt động cơ bắp thể hiện ở 3 điểm: - Sự co cơ (phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ cấu trúc sợi cơ, số lượng sợi cơ và thiết diện cơ). - Sự trao đổi chất (tức là các quá trình sản sinh năng lượng). - Sự dẫn truyền kích thích (hoạt động thần kinh). Theo tác giả Philin 1996, ba phương diện trên luôn có mối tương quan với khả năng hoạt động của tố chất thể lực. Đặc biệt, chúng luôn có mối tương quan chặt chẽ với 3 tố chất thể lực cơ bản: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền; Trong đó, độ lớn của sức
  16. 15 mạnh quan hệ chủ yếu tới khả năng co cơ, sự thay đổi giữa yếu tố thời gian duy trì và cường độ vận động của cơ bắp, nên có: Sức mạnh tối đa, sức mạnh nhanh và sức mạnh bền. Độ lớn của sức nhanh quan hệ chủ yếu tới khả năng dẫn truyền của hệ thần kinh và liên quan đến thành phần của sợi cơ. Do vậy, có: Nhanh phản ứng, nhanh vận động và nhanh động tác. Độ lớn của sức bền quan hệ chủ yếu tới hoạt động trao đổi chất. Mối quan hệ này dựa trên cơ sở sinh năng lượng yếm khí và ưa khí. Vì vậy, có sức bền cự ly ngắn, sức bền cự ly dài và sức bền cự ly trung bình. (Dietrich Harre 1996) [34], [28]. Qua tham khảo các nguồn tư liệu, các công trình nghiên cứu khoa học của nhiều chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực lý luận và phương pháp GDTC và HLTT trong nước như: Lê Văn Lẫm, Lê Bửu, Dương Nghiệp Chí, Phạm Trọng Thanh, Nguyễn Toán, Nguyễn Thế Truyền, Phạm Danh Tốn..., có thể nhận thấy các nhà khoa học đều cho rằng: “Quá trình giáo dục thể lực cho người tập là hướng đến việc củng cố và nâng cao khả năng chức phận của hệ thống cơ quan trước lượng vận động thể lực (bài tập thể chất) và như vậy, đồng thời đã tác động đến quá trình phát triển của các tố chất vận động”. Đây là quan điểm có xu hướng sư phạm trong quá trình giáo dục các tố chất vận động. [38]. Một quan điểm khác theo xu hướng y sinh học của các nhà khoa học Việt Nam như: Lê Bửu, Dương Nghiệp Chí, Lưu Quang Hiệp, Trịnh Hùng Thanh..., cho rằng: “Nói đến giáo dục tố chất thể lực chung trong tập luyện thể dục thể thao là nói tới những biến đổi thích nghi và dự báo về mặt sinh học (cấu trúc và chức năng) diễn ra trong cơ thể người tập dưới tác động của tập luyện được biểu hiện ở năng lực hoạt động cao hay thấp”.[19] Theo quan điểm tâm lý học của một số chuyên gia Việt Nam đề cập vấn đề này như: Phạm Ngọc Viễn, Lê Văn Xem... thì: “Quá trình chuẩn bị thể lực chung cho VĐV là quá trình giải quyết những khó khăn liên quan đến việc thực hiện các hoạt động kỹ thuật, là sự phù hợp những yếu tố tâm lý trong hoạt động tập luyện và thi đấu của VĐV” .[42] Như vậy, từ các quan điểm trên cho thấy: Chuẩn bị thể lực chung cho đối tượng học sinh, sinh viên là sự tác động có hướng đích của lượng vận động (bài tập thể chất) đến người tập, nhằm hình thành và phát triển lên một mức độ mới của khả năng vận động, biểu hiện sử sự hoàn thiện các năng lực thể chất, đồng thời còn nhằm nâng cao khả năng hoạt động của các cơ quan chức phận tương ứng với các năng lực vận động
  17. 16 của người tập nâng cao các yếu tố tâm lý trước hoạt động đặc trưng của mỗi môn thể thao. 1.3. Thực trạng sự phát triển thể chất của sinh viên các trƣờng Đại học, Cao đẳng ở nƣớc ta hiện nay Chăm lo cho thế hệ trẻ về mọi mặt là trách nhiệm của toàn xã hội, nhằm đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước. Sự chăm lo về nhiều mặt, trong đó có mặt quan trọng và tất yếu là về sức khỏe và thể lực, bởi vì sự cường tráng về thể chất, không những là nhu cầu về bản thân mà còn là vốn quý để tạo những tài sản vật chất và tinh thần cho xã hội. Ý thức được điều này, Liên Xô và CHDC Đức trước đây và nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền công nghiệp phát triển, vấn đề GDTC toàn dân được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Từ lâu, ở nước ta đã đưa ra vấn đề GDTC là quốc sách và duy trì GDTC đại học là bắt buộc đối với sinh viên. Theo đánh giá của các nhà chuyên môn: hiện nay sức khỏe, thể lực của sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng thì khá hơn nhiều so với kết quả điều tra trước đây. Điều đó đã được chứng minh thông qua đánh giá hiệu quả GDTC sinh viên bằng đánh giá TĐTL chung và kết quả nhiều công trình nghiên cứu điều tra tình hình sức khỏe, thể lực sinh viên: Trong cuốn “Thực trạng phát triển thể chất của học sinh, sinh viên trước thềm thế kỷ XXI” đã nhận xét: Sinh viên nước ta đến năm 1998, ở lứa tuổi 18 - 22 có chiều cao đứng ở nam là 165,16cm; ở nữ là 154,81cm. So với năm 1996, của tác giả trong cuốn “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, thì chiều cao đứng của sinh viên cùng lứa tuổi ở nam là 163,97cm; nữ là 153,2cm. Kết quả đánh giá phát triển các chỉ tiêu tố chất thể lực cho thấy sinh viên hiện nay, TĐTL chung tốt hơn trước đây: Nằm sấp co duỗi tay ở nữ sinh viên (1998), đạt từ 8 - 13 lần, cao hơn hẳn năm 1993: lúc đó nữ sinh viên chỉ đạt từ 4 -7 lần. Kết quả nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá thể lực sinh viên trường Đại học Mỏ - Địa chất (1989) của Hoàng Công Dân cho thấy: ở nam chiều cao đứng là 157,0cm đến 164,5cm; ở nữ chiều cao đứng từ 152,0 đến 153,0cm. Và năm 1999 ở nam chiều cao đứng là 163cm đến 165cm; ở nữ là 154cm đến 156cm. Theo tác giả Hoàng Thái Sinh (2001) trong đề tài “Đánh giá tiềm năng thể chất và giải pháp nâng cao thể lực sinh viên Đại học Huế” đã đưa ra kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu thể lực của sinh viên Đại học Huế năm 1998 là cao hơn năm 1985: Chiều cao đứng của nam sinh viên Huế năm 1985 là 162,30cm, ữ là 152,31cm; trong
  18. 17 khi năm 1998, nam 163,41cm, nữ là 152,67cm. Cân nặng của sinh viên Huế năm 1985, nam là 48,28kg, nữ 44,20kg; năm 1998, nam là 49,38kg, nữ là 45,00kg. Qua các số liệu trên cho thấy, thể lực chung của sinh viên nước ta gần đây có sự gia tăng so với các năm trước. Điều này đã phản ánh thực tế đời sống kinh tế ổn định và các điều kiện được cải thiện của đất nước trong quá trình GDTC đúng hướng ở trong các trường đại học. Tuy vậy, người Việt Nam vốn thấp bé và trải qua nhiều cuộc chiến tranh, do đó thể lực dù có gia tăng trong thời gian gần đây, thì vẫn thấp hơn các nước trong khu vực cùng lứa tuổi. So với tiêu chuẩn RLTT của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 1989, đến nay sinh viên đạt được yêu cầu còn quá ít, theo tác giả Phạm Thị Nghị (1998), thành tích sinh viên Đà Nẵng chạy 50m ở nam là 9,5 giây, ở nữ là 10,68 giây tiêu chuẩn đạt ở nam là 7,9 giây đến 7,5 giây, ở nữ là 9,5 giây đến 8,9 giây; thành tích chạy 1000m ở nam sinh viên Đà Nẵng là 4 phút 35 giây, chạy 500m của nữ sinh viên Đà Nẵng là 2 phút 53 giây, trong khi đó tiêu chuẩn đạt ở nam là 4 phút đến 3 phút 35 giây và ở nữ là 2 phút 40 giây đến 2 phút 2 giây. - Năm 1996, theo tác giả Nghiêm Xuân Thúc qua nghiên cứu đánh giá thực trạng thể lực sinh viên Đại học Bách khoa tiêu chuẩn rèn luyện thực trạng thể lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo (1989) đã kết luận: + Số sinh viên đạt tiêu chuẩn đánh giá sức khỏe mạnh rất cao: ở chỉ tiêu bật xa đạt 92%, nữ đạt 91,1% ở chỉ tiêu co tay xà đơn, nam đạt 72,5%; nằm sấp co duỗi tay, nữ đạt 70,0%... Trong khi đó, tiêu chuẩn đánh giá sức bền ở chỉ tiêu chạy 1000m nam đạt 20,5% và ở chỉ tiêu chạy 500m nữ đạt 23,5%. + Số sinh viên đạt cả bốn nội dung tiêu chuẩn RLTT chiếm 12,39%, đặc biệt tỷ lệ này ở nữ chiếm rất thấp, chỉ có 4,4%. [27] - So sánh TĐTL chung của sinh viên một số trường Đại học ở Đà Nẵng và của sinh viên Đại học Huế với TĐTL chung của sinh viên trường Đại học TDTT 1, với bộ đội bộ binh, với học sinh trường nghề Việt Nam và với vận động viên một số môn thể thao, thì TĐTL chung của sinh viên trong các trường khoa học kỹ thuật, các trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Đà Nẵng và Đại học Huế thấp hơn nhiều. Tóm lại, từ việc phân tích so sánh tình hình sức khỏe, thể lực của sinh viên nước ta cho thấy trình độ thể lực của sinh viên nước ta tuy có tiến bộ hơn trước, song vẫn ở mức thấp chưa đạt được yêu cầu đặt ra, đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay. Vì vậy, năng lực thể lực của sinh viên cần có
  19. 18 biện pháp thích hợp để phát huy sự nỗ lực thể chất, nhằm nâng cao TĐTL chung cho họ. 1.4. Đặc điểm tâm - sinh lý lứa tuổi sinh viên trong các hoạt động tập luyện và thi đấu thể thao 1.4.1. Đặc điểm phát triển hình thể của sinh viên Hình thể là nói về hình thái cơ thể. Để đánh giá về hình thể của một cơ thể người, có thể đo rất nhiều kích thước, nhất là trong nghiên cứu nhân chủng học. Trong giáo dục thể chất, cũng như trong tuyển chọn thể thao, thì chiều cao đứng, cân nặng, chỉ số Quetelet là những chỉ số mà người ta thường sử dụng để đánh giá sức khỏe người Việt Nam. Đặc điểm phát triển các chỉ số cơ thể thể hiện diễn ra theo quy luật nhất định, theo từng thời kỳ khác nhau. Sự phân chia các thời kỳ phát triển của một đời người được nhiều tác giả nêu ra. Có tác giả phân chia theo sự phát triển toàn diện về hình thái, chức năng và tâm lý. Có thể chia ra thành 3 thời kỳ lớn: Thời kỳ phôi thai, thời kỳ cơ thể tăng trưởng và thời kỳ phát triển sau tăng trưởng, ở lứa tuổi 18-20 tuổi là giai đoạn gần cuối thời kỳ tăng trưởng. Chiều cao đứng: Chiều cao đứng và cân nặng là 2 chỉ số thường dùng để đánh giá vè tình trạng phát triển thể chất của sinh viên Đại học. Chúng ta thường so sánh chiều cao, cân nặng của một em sinh viên mới mức độ trung bình của các đối tượng cùng lứa tuổi và cùng giới tính “Hằng số sinh học người Việt Nam” để nói rằng có sự phát triển tốt hơn, hoặc bằng, hoặc kém hơn... Chiều cao đứng ở lứa tuổi 18-20 còn tiếp tục tăng nhưng không đáng kể, mức độ tăng xấp xỉ gần 1cm/năm (với nữ con số đó còn nhỏ hơn) đến tuổi 25 chiều cao của con người đã hoàn thiện và ngưng phát triển, vì bộ xương của người trưởng thành phần sụn ở đầu xương đã được xương hóa. Hiện nay, chiều cao đứng người Việt Nam 20 tuổi được công bố năm 2001 là 165,14cm. So với các nước tiên tiến trên thế giới, sinh viên Việt Nam thua kém hơn ở cùng lứa tuổi cả về chiều cao và nhịp độ phát triển. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng có nhận xét: “Trẻ em và thanh niên Đông Nam Á hiện nay chỉ cao và nặng bằng thanh niên ở các nước phương Tây một thế kỷ hay hơn một thế kỷ về trước”. Chính vì thế, việc nghiên cứu phát triển chiều cao được rất nhiều ngành khoa học quan tâm, trong đó có ngành thể dục thể thao nước ta.
  20. 19 Cân nặng: Cân nặng của mỗi người cũng là một số đo thường được dùng để đánh giá thực trạng thể chất của người đó. Cân nặng của mỗi người chỉ cao khi có hệ cơ, xương phát triển và k hẩu phần dinh dưỡng tốt (nhưng khả năng tiêu hóa cũng phải tốt). Trong quá trình phát triển cơ thể của sinh viên, cân nặng tăng tỷ lệ thuận với chiều cao. Ngay khi chiều cao ngừng phát triển, thì cân nặng cũng có khả năng tiếp. Cân nặng của người Việt Nam 20 tuổi được công bố năm 2001 là 53,16kg. Cũng như chiều cao, nam thường cân nặng hơn nữ cùng lứa tổi và theo các công trình nghiên cứu trước thì sinh viên trường Cao đẳng và Đại học thể dục thể thao thường có chiều cao và cân nặng hơn so với hằng số người Việt Nam và cao hơn so với sinh viên toàn quốc. Để tăng cân nặng cho sinh viên trong các trường hợp các em có cân nặng kém so với các bạn cùng tuổi, ngoài việc cải thiện khẩu phần dinh dưỡng có thể tập luyện thể dục thể thao bằng các bài tập, nhằm phát triển khối lượng cơ bắp. Để cơ thể phát triển cân đối, hài hòa ta không chỉ tập phát triển các cơ lớn mà còn phải tập phát triển các cơ nhỏ. Nói chung là tập để phát triển tất cả các cơ trên cơ thể. Chỉ số Quetelet: Là chỉ số đánh giá sức khỏe thông qua độ béo - gầy của cơ thể, chỉ số ngày bằng tỷ số giữa cân nặng (trọng lượng cơ thể và chiều cao). Trong chương II giới thiệu chi tiết cách đánh giá của chỉ số này. Cho đến nay, chỉ số Quetelet vẫn được dùng để đánh giá thể trạng con người. Ở các vùng sâu, vùng xa điều kiện sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc ít người còn nhiều khó khăn nên ít nhiều vẫn ảnh hưởng đến tầm vóc, trọng lượng cơ thể. Con em đồng bào dân tộc ít người thường có tầm vóc và cân nặng thấp hơn so với hằng số sinh hoạt người Việt Nam. 1.4.2. Cơ sở sinh lý của các tố chất thể lực chung trong hoạt động tập luyện TDTT Hoạt động thể lực, nhất là trong thể dục thể thao, rất đa dạng và phức tạp, vì nó phụ thuộc vào sông suất hoạt động, cơ cấu động tác và thời gian gắng sức. Mỗi loại hoạt động đòi hỏi cơ thể phải thể hiện khả năng hoạt động thể lực của mình về mặt nào đó như: cử tạ, ném đẩy, chạy bền. Hoạt động thể lực có thể phát triển các mặt khác nhau của năng lực hoạt động thể lực. Các mặt khác nhau đó của khả năng hoạt động thể lực được gọi là tố chất thể lực hay tố chất vận động. Có 5 tố chất vận động chủ yếu của con người là: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền, khéo léo và độ mềm dẻo.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2