intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:89

184
lượt xem
22
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông gồm có 3 chương, trình bày về đặc điểm của thể loại kí Văn học; tình hình dạy học tác phẩm kí ở nhà trường phổ thông; phương hướng, biện pháp và thực nghiệm giảng dạy tác phẩm kí ở trường trung học phổ thông.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thể ký và việc giảng dạy tác phẩm ký ở nhà trường phổ thông

  1. THƯ BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH PHẠM THỊ THU THỦY THỂ KÝ VÀ VIỆC GIẢNG DẠY TÁC PHẨM KÝ Ở NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VĂN Mã số: 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
  2. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm gần đây, học sinh các cấp, đặc biệt là cấp trung học phổ thông có thái độ không xem trọng bộ môn ngữ văn, cho bộ môn ngữ văn chỉ là môn phụ, không cần thiết phải tốn nhiều thời gian. Trong suy nghĩ của các em thường chỉ tập trung vào các môn tự nhiên để có thể đi tiếp vào cánh cửa trường đại học. Chính vì thế, việc giảng dạy bộ môn văn ở nhà trường phổ thông đã gặp những trở ngại, các em không có hứng thú học môn văn thì thầy cô cũng dễ bị mất niềm say sưa truyền đạt kiến thức đến cho học sinh. Với các tác phẩm là truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ thì việc truyền đạt tương đối thuận lợi bởi trong những thể loại này “chất văn” đậm đà, phong phú, nổi bật đã giúp cho người thầy làm tốt được công việc của mình. Còn đối với tác phẩm kí thì việc giảng dạy có những khó khăn riêng. Vì việc giảng dạy kí đòi hỏi người giáo viên phải bám chắc đặc điểm cơ bản của thể kí, đó là tính xác thực. Tác phẩm kí thường không hư cấu mà tác giả chỉ lựa chọn ngay những sự việc, những con người vốn đã có giá trị điển hình trong cuộc sống. Nếu thầy giáo chỉ thỏa mãn với những kiến thức có sẵn trong bài văn thì khó mà giảng hay được, dẫn đến giờ học bài kí diễn ra rất “khô khan”, học sinh khó tiếp nhận được tác phẩm. Từ đó, yêu cầu người giáo viên khi dạy những tác phẩm kí phải có ý thức nghiên cứu lí luận về thể kí và phải biết vận dụng linh hoạt phương pháp giảng dạy một thể loại văn học lấy người thực, việc thực làm đối tượng phản ánh, giúp cho học sinh hiểu biết và cảm thụ được cái hay, cái đẹp của những sự việc, con người có tính tiêu biểu, điển hình và ý nghĩa của nó. Đồng thời, phải giúp học sinh biết liên hệ với thực tế đời sống, với những sự việc và con người gần gũi với nội dung tác phẩm thì bài giảng mới có thể hấp dẫn và sâu sắc. Việc giáo viên và học sinh chưa chú trọng vào việc giảng dạy và học tập tác phẩm kí cũng bởi những nội dung của bài kí rất ít khi được đưa vào các đề thi cuối kì. Nếu có thì cũng chỉ nằm ở những mục câu hỏi về lý thuyết, chiếm một phần nhỏ trong tổng số điểm của đề thi. Ngoài ra, so sánh giữa các thể loại trong toàn bộ chương trình học bộ môn Ngữ văn ở cấp trung học phổ thông thì việc phân bố thời lượng cho những bài dạy về kí còn quá ít, lại rải đều trong hai năm lớp 11 và 12. Như vậy, mỗi năm, học sinh chỉ được học một đoạn trích nhỏ của tác phẩm kí trong năm lớp 11, và một bài bút kí, một bài tùy bút trong năm lớp 12. Từ đó, có thể thấy, học sinh lớp 11 chưa kịp ghi nhớ về thể loại ở bài học đầu năm lớp 11, thì
  3. đã lại học sang một thể loại khác dài hơi hơn, rồi sang đến năm 12 (nghĩa là gần một năm sau) mới được tiếp tục tìm hiểu về thể loại này nhưng cũng với thời lượng bài học rất ngắn ngủi (4 tiết) và đoạn trích viết theo thể kí được phân bố trong chương trình rất ít, lại càng làm cho người giáo viên dễ có sự so sánh với các thể loại khác làm giảm bớt đi sự quan tâm, đầu tư thời gian với việc giảng dạy thể loại này. Riêng đối với học sinh, việc học kém, thậm chí là coi thường bộ môn Ngữ văn đã được thấy rất rõ trong thời gian vừa qua, có những học sinh, sau khi học xong đã không còn nhớ đến những tác phẩm kí vừa được học. Bởi đối với các em, giờ học bộ môn Ngữ văn đã rất tẻ nhạt, lại phải học những tác phẩm kí thiên về tính chất xác thực, ít có sự hư cấu, lãng mạn lại làm các em thêm phần chán học những giờ này. Từ những điều trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu vấn đề Thể loại kí và việc giảng dạy tác phẩm kí ở trong nhà trường phổ thông để tìm hiểu thêm về những đặc điểm của thể kí, tìm hiểu thực trạng của việc dạy học tác phẩm kí ở trường phổ thông và góp phần đề xuất phương hướng giảng dạy kí nhằm nâng cao chất lượng dạy – học văn nói chung cũng như giờ dạy tác phẩm kí nói riêng được 2. Lịch sử vấn đề Khác với truyện ngắn và tiểu thuyết vốn có sự ổn định tương đối về đặc trưng thể loại, các tác phẩm kí tuy cùng nằm trong loại hình văn xuôi tự sự song lại là tên gọi chung cho một nhóm thể tài có tính giao thoa giữa báo chí (chính luận, điều tra, ghi chép tư liệu, tường thuật sự kiện...) với văn học, in đậm dấu ấn “sự hợp nhất truyện và khảo cứu” [M. Gorki] và thường có tính xã hội, tính thời sự sâu sắc, bao gồm nhiều tiểu loại thể văn như bút kí, kí sự, phóng sự, tiểu thuyết phóng sự, du kí, hồi kí, nhật kí, tuỳ bút, tản văn, tạp văn, tiểu luận, ... Đặc điểm sự giao thoa này càng trở nên rõ ràng khi mà bản thân thể tài kí còn đang trong quá trình hình thành và phát triển, khi mà ngay đường biên thể loại giữa truyện ngắn và ghi chép, giữa tiểu thuyết và phóng sự đôi khi cũng chưa được phân định rõ nét. Thể kí, như cái tên đặt cho nó, đã nói lên đặc điểm cơ bản của nó là thể văn dùng để “ghi lại” sự việc, ý nghĩa, cảm xúc, … Mặc dù theo nguyên tắc, tích chất của thể kí là “xác thực” và người viết kí không được quyền hư cấu nhưng không thể coi viết kí chỉ là một công việc chụp ảnh và ghi âm một cách máy móc và vai trò của người viết kí là hoàn toàn thụ động mà người viết kí phải làm công việc lựa chọn, sắp xếp. Lịch sử văn học đã cho thấy kí thường phát triển mạnh mẽ trong những thời kì mà xã hội có nhiều sự biến động nên ta phải thấy rằng thể kí có khả năng phản ánh “một cách
  4. nhanh nhạy” cuộc sống. Do đó, nó là thể văn thích hợp nhất để ghi lại cuộc sống trong những giai đoạn như ta vừa nói. Như vậy, một đặc trưng nữa của thể kí là tính chất tương đối giản dị, ngắn, gọn, lưu loát về mặt hình thức. Kết cấu của bài kí thường rõ ràng theo trình tự diễn biến của sự việc. Tình tiết trong kí không lắt léo quanh co, thường là cụ thể, nổi bật. Với chiều dài lịch sử của thể kí bắt đầu từ thời trung đại và kéo dài cho tới tận ngày nay chứng tỏ kí có vị trí khá quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam nhưng thực tế trong chương trình dạy học Ngữ văn ở bậc phổ thông trung học thì những tác phẩm kí lại không có được tầm quan trọng như nó vốn có. Ba năm trung học phổ thông, học sinh chỉ được học ba tác phẩm thuộc thể loại kí: 1. Đầu năm học lớp 11 các em được học kí sự: Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác 2. Đến gần cuối học kì I của năm học lớp 12 thì các em được học tiếp tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tùy bút Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân. Tác phẩm của Nguyễn Tuân thì có sẵn từ trước, còn tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì mới được đưa vào trong chương trình thay sách giáo khoa từ năm học 2003 – 2004. Thêm một vấn đề nữa là từ trước đến giờ, thể kí vốn rất ít được các nhà nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu quá trình phát triển của nó một cách cụ thể và sâu sắc nên dẫn đến việc nguồn tư liệu để tìm hiểu và nghiên cứu đối với thể loại này tương đối ít, gây ra khó khăn cho thầy cô giáo khi đứng lớp giảng dạy nói chung cũng như người viết luận văn nói riêng. Ngoài ra, nếu để ý thì chúng ta cũng có thể thấy trong chương trình thi cử của bộ môn này, thể loại kí rất ít khi được đưa vào làm nội dung trọng tâm trong các kì thi lớn nhỏ khác nhau ở trường trung học phổ thông. Với những trở ngại như thế, việc dạy – học những tác phẩm này đã và đang gặp không ít trở ngại, vướng mắc. Bởi trong suốt một quá trình dài trước đó, học sinh chủ yếu được học các tác phẩm văn xuôi thiên về tự sự. Dần dần, cảm xúc và nhận thức của các em đã quen nương theo cốt truyện, hệ thống nhân vật, tình tiết, … Đến khi cần cảm thụ một tác phẩm văn xuôi giàu chất trữ tình, nghĩa là không còn những căn cứ quen thuộc để bám víu, chắc chắn các em sẽ gặp lúng túng. Vì không thật sự hứng thú nên việc truyền đạt và tiếp nhận trên lớp học đối với những nội dung này khó lòng đạt được kết quả như mong muốn. Mặt khác, quan niệm về thể loại và định hướng tiếp cận tác phẩm tùy bút trong sách giáo khoa và sách giáo viên (đều do Bộ Giáo dục ấn hành năm 2007) cũng chưa được trình
  5. bày một cách thật sáng rõ và nhất quán. Điều bất cập này chắc chắn có ảnh hưởng không nhỏ, gây nên khó khăn trước hết đối với người giáo viên khi chuẩn bị giảng bài. Trong phần hướng dẫn giảng dạy và học tập các tác phẩm tùy bút trong sách giáo viên và sách giáo khoa đã không trách khỏi thiên lệch, chưa đảm bảo nguyên tắc cơ bản của việc cảm thụ và bình giá tác phẩm văn chương là phải xuất phát từ đặc trưng thể loại. Ở bài Người lái đò sông Đà, những câu hỏi gợi ý để tìm hiểu “cái tôi tài hoa, uyên bác” của tác giả thường chiêm tỉ lệ lớn hơn so với những câu hỏi gợi ý để tìm hiểu về “cái tôi trữ tình, giàu cảm xúc”; Hay như ở bài Ai đã đặt tên cho dòng sông thì chỉ có một câu hỏi trong tổng số sáu câu ở phần hướng dẫn học bài là hỏi về chất trữ tình của đoạn trích. Do đó, ta có thể thấy rằng, ngay cả ở những bộ sách cơ bản nhất trong nhà trường là sách giáo khoa và sách giáo viên, thì nội dung liên quan đến những vấn đề giảng dạy kí cũng chưa đạt được yêu cầu so với những thể loại khác, từ đó chúng ta có thể khẳng định thêm rằng, lĩnh vực nghiên cứu về phương pháp giảng dạy kí hiện nay đang còn bị bỏ ngỏ, chưa thật sự được quan tâm bởi những nhà nghiên cứu, những chuyên gia đầu ngành. Có thể nói rằng, tài liệu quan trọng đề cập một cách có hệ thống việc giảng dạy kí trong nhà trường phổ thông là hai cuốn giáo trình Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể do Trần Thanh Đạm chủ biên và cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương do Nguyễn Viết Chữ biên soạn. Các tác giả cho rằng khi dạy kí trung đại (cụ thể là dạy một phần nhỏ của tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác), “chúng ta cần khởi động tạo hứng thú cho các em từ cuộc đời của tác giả, ngòi bút vừa sắc sảo vừa thông minh hóm hỉnh của tác giả, đôi khi lại vừa khẽ khàng kín đáo vừa lạnh lùng ghi lại bức tranh hiện thực sống động về đời sống vương giả, kiêu sa mà tàn tạ, bạc nhược đến mức thảm hại nơi phủ chúa chốn kinh kì. Khi phân tích tác phẩm nên tận dụng con đường theo bước tác giả, đọc kĩ những cảm nhận tinh tường trước các vấn đề sự kiện mà tác giả ghi lại. Nên dùng những câu hỏi chi tiết nghệ thuật, tập trung vào “đọc diễn cảm” những đoạn giàu thông tin nghệ thuật: chân thực, phải đạo mà cũng đầy chất hài hước”. [11, tr. 121] Cũng theo thầy Nguyễn Viết Chữ, khi dạy tác phẩm kí hiện đại (tùy bút) như Người lái đò sông Đà và Ai đã đặt tên cho dòng sông “ta nên tận dụng con đường theo bước tác giả kết hợp với đọc diễn cảm, kết hợp giảng bình và câu hỏi hình dung, tưởng tượng, tái hiện”. Do đó, người viết có thể nói rằng vấn đề về thể loại kí và việc giảng dạy tác phẩm kí ở trong nhà trường phổ thông dường như chưa được nhiều công trình nghiên cứu khoa học cũng như các khóa luận, luận văn tốt nghiệp và các bài báo đề cập hoặc có đề cập thì cũng
  6. chỉ mang nội dung khái quát. Nhìn chung, nó thường làm cơ sở, nền tảng cho người giảng dạy tham khảo, nghiên cứu để góp phần mở rộng nội dung bài giảng của mình. Từ những vấn đề nêu trên, người viết nhận thấy việc nghiên cứu về phương pháp giảng dạy kí đã được chú ý từ trước đây nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong chương trình thay sách diễn ra trong những năm gần đây, các tác phẩm kí cũng được đưa vào chương trình giảng dạy nhiều hơn trước thì vấn đề nghiên cứu phương pháp giảng dạy kí vẫn rất hiếm. Qua những thực tế nghiên cứu và giảng dạy, người viết hi vọng những công trình nghiên cứu về phương pháp giảng dạy kí về sau sẽ ngày càng nhiều và luôn luôn được đổi mới cập nhật, luôn luôn có sự gắn kết trong mối liên hệ biện chứng, bổ sung cho nhau. Nghĩa là giữa việc nghiên cứu và giảng dạy tác phẩm kí cần phải đảm bảo tính liên kết, khoa học và hệ thống. 3. Giới hạn đề tài và phạm vi nghiêu cứu - Đề tài nghiên cứu những công trình nghiên cứu lý luận về thể loại kí - Nghiên cứu những bài giảng, những phân tích của các chuyên gia trong nước về những tác phẩm kí. - Đề tài tập trung đi vào khai thác và thực nghiệm những tác phẩm kí được dạy ở chương trình trung học phổ thông 4. Phương pháp nghiên cứu Để tiến hành đề tài này, chúng tôi đã sử dụng những phương pháp sau đây: - Phương pháp nghiên cứu lí luận: nghiên cứu lí luận về thể kí và phương pháp giảng dạy kí để nắm được đặc trưng và cách thức dạy học - Phương pháp nghiên cứu lịch sử vấn đề: nghiên cứu lịch sử của thể kí và lịch sử giảng dạy kí. - Phương pháp điều tra và khảo sát: + Dự giờ lên lớp của một số giáo viên ở trường THPT để nắm bắt tình hình dạy học văn nói chung cũng như dạy học các tác phẩm kí nói riêng. + Điều tra, khảo sát ý kiến của giáo viên và học sinh (bằng phiếu) trong việc tiếp nhận thể loại kí trong nhà trường phổ thông và tình hình sử dụng các phương pháp trong quá trình dạy học tác phẩm kí.
  7. + Khảo sát sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo; các bài viết, bài phân tích của một số nhà giáo, nhà nghiên cứu về các tác phẩm kí trong chương trình ngữ văn ở trường phổ thông. - Phương pháp phân tích, tổng hợp: dùng để xử lý các tư liệu và ý kiến nghiên cứu của các nhà giáo, nhà phê bình, nghiên cứu nhằm làm rõ các quan điểm trong việc giảng dạy tác phẩm kí. - Phương pháp thống kê: dùng để thống kê ý kiến của giáo viên và của học sinh đã trả lời trên các phiếu điều tra. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm: thiết kế giáo án thực nghiệm nhằm tìm ra phương pháp tốt nhất cho việc giảng dạy thể loại kí trong nhà trường phổ thông. 5. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương với các nội dung sau: Chương 1: Đặc điểm của thể loại kí văn học Chương 2: Tình hình dạy học tác phẩm kí ở nhà trường phổ thông Chương 3: Phương hướng, biện pháp và thực nghiệm giảng dạy tác phẩm kí ở trường trung học phổ thông
  8. CHƯƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM CỦA THỂ LOẠI KÍ VĂN HỌC 1.1. Khái quát chung về thể kí 1.1.1 Khái niệm Theo những nhà biên soạn Từ điển thuật ngữ văn học, kí là thể loại văn học có đặc điểm “tôn trọng sự thật khách quan của cuộc sống, không hư cấu” và “Nhà văn viết kí luôn chú ý đảm bảo cho tính xác thực của hiện thực đời sống được phản ánh trong tác phẩm” [20, tr. 137]. Còn các tác giả của “Từ điển tiếng Việt” thì cho rằng, kí là loại “thể văn tự sự có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất”[48, tr. 501]. Có thể nói, đây là những khái quát rất cụ thể về đặc trưng cơ bản của thể loại này. Kí là một loại hình văn học không thuần nhất. Đó là lĩnh vực văn học bao gồm nhiều thể loại, chủ yếu là văn xuôi ghi chép, miêu tả và biểu hiện những sự việc, con người có thật trong cuộc sống. Kí có cái hạt nhân làm thành đặc trưng riêng của nó. Ở thể loại này, người ta đặc biệt quan tâm đến các sự kiện, hoàn cảnh lịch sử, những biểu hiện của đời sống có thực ngoài đời và đồng thời muốn bộc lộ trực tiếp cá tính sáng tạo và tinh thần trách nhiệm xã hội của tác giả. “Với thể loại kí, từ sự thôi thúc của cuộc sống mà tác giả có nhu cầu được công bố kịp thời đến những nhận xét, những đánh giá, những ý tưởng … Kí ghi được rất rõ những nét mang dấu ấn của một sự kiện, của một thời kì, của một lớp người, của một vùng miền” [61, tr. 243) Chính vì các tính chất nói trên mà thể loại kí có một phạm vi biểu hiện đời sống rất rộng lớn. Kí có thể thiên về ghi chép sự việc, hiện tượng như phóng sự, kí sự; có thể thiên về biểu hiện những cảm xúc trữ tình như tùy bút, tản văn;… Chính vì cơ động, linh hoạt, nhạy bén trong nhìn nhận và khai thác các sự kiện của đời sống cũng như năng động phát huy vai trò sáng tạo của người cầm bút mà loại kí rất đa dạng và tác phẩm kí cụ thể luôn độc đáo. Kí là một loại hình nghệ thuật, một hình thức hoạt động thực tiễn – tinh thần có tham vọng can dự trực tiếp vào mọi lĩnh vực của đời sống. Những người mới vào nghề thường tìm tới kí hoặc truyện ngắn. Nhưng các nhà văn chuyên nghiệp viết kí không phải là để thử bút, luyện nghề mà là do sự thôi thúc của đời sống buộc họ phải góp một tiếng nói kịp thời, phải phát biểu ngay một ý kiến nhằm thúc đẩy các hoạt động của xã hội. Nhà văn Lê Minh đã khẳng định một đặc điểm nổi bật, thuộc loại quan trọng nhất của kí mà từ lâu đã được mọi
  9. người thừa nhận. Tìm mọi cách can dự trực tiếp vào đời sống, kí trở thành loại hình văn học thời sự, một thể văn xung kích theo sát các vấn đề nóng hổi, cấp bách của hiện thực mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. [62, tr. 361] Kí văn học là sự can dự trực tiếp của nghệ thuật vào hiện thực đời sống. Đó là những sáng tác văn học theo sát các vấn đề thời sự nóng hổi mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. Mặt khác, kí văn học còn là sự biểu hiện của những giá trị nhân sinh, là thông tin về sự thực của những quan niệm, tư tưởng. Nội dung đặc thù của kí đã chứa đựng trong bản thân nó cơ sở để “thông tin sự thực” chuyển thành “thông tin thẩm mĩ” và những dòng chữ ghi việc có thể phát triển thành tác phẩm văn chương. Nhưng cũng chính vì thế mà kí đúng là ghi chép sự việc, nhưng không phải ai cũng có thể viết kí. Muốn viết kí, người sáng tác phải vừa là nhà hoạt động xã hội năng nổ, xông xáo, vừa là nhà nghệ sĩ tài hoa và là nhà văn hóa có tư tưởng rộng lớn với vốn tri thức uyên thâm. Về văn phong và ngôn từ nghệ thuật của kí thì theo Nguyễn Tuân: “Cách diễn đạt của thể kí cũng rất đa dạng và phức tạp” [61, tr. 251]. Có nhà nghiên cứu cho rằng: “đặc điểm văn học của kí lộ rõ nhất ở văn phong, ngôn từ nghệ thuật”. [61, tr. 251] Ngôn từ trong tác phẩm kí chủ yếu là ngôn ngữ trực tiếp của tác giả - người chứng kiến và tái hiện các hiện tượng đời sống. Đồng thời, tác giả luôn là người đối thoại, chứng kiến, ghi nhớ và ghi chép lại ngôn từ của các nhân vật khác. So với ngôn từ nghệ thuật của các thể loại khác, ngôn từ nghệ thuật của kí luôn có xu hướng mở rộng, thừa nhận, dung nạp nhiều hình thức và phong cách sáng tạo. Ngôn từ nghệ thuật trong tác phẩm kí thường rất linh hoạt về giọng điệu. Kí thường không chỉ trần thuật, mà cùng với trần thuật là phân tích, khái quát ý nghĩa của các hiện tượng đời sống được đề cập, phản ánh trong tác phẩm. Trước hết, ngôn từ nghệ thuật của kí hướng vào miêu tả phong tục qua những đặc điểm môi trường hoặc những nét tính cách tiêu biểu của cuộc sống. Vì thế nó vừa cụ thể, sinh động, đậm chất đời thường, vừa khái quát. Đặc điểm phổ biến này của các tiểu loại kí thường biểu hiện rõ nhất ở phóng sự, kí sự. Do hướng tới những phạm vi thông tin và nhận thức, kí cũng đa dạng về kiểu loại và kết cấu. Các thể và biến thể của kí hình thành một cách tự nhiên trong quá trình vận động
  10. của lịch sử văn học. Theo đó, người ta chia kí thành hai nhóm lớn. Nhóm thứ nhất thiên về tự sự gồm các thể chính như kí sự, phóng sự, nhật kí. Nhóm thứ hai nghiêng về trữ tình với các thể chính như: tùy bút, bút kí, tản văn … 1.1.2. Vài nét về diện mạo thể kí ở Việt Nam Về sự hình thành và xuất hiện của thể Kí, theo các tác giả biên soạn Giáo trình lý luận văn học, tập 2 thì: “Kí vốn là tên gọi của một thể văn đã xuất hiện từ trước đời nhà Hán ở bên Trung Quốc bên cạnh các thể văn công vụ, hành chính khác. Đời Đường có nhiều tác phẩm kí dùng để ghi việc xen với lời bình. Kí ngày càng phát triển và được ý thức về đặc điểm thể loại.” [61, tr. 241] Trong văn học cổ phương Đông, thể kí vốn có mặt từ thời Tiên Tần và về sau phân thành hai nhánh: có kí của sử và có kí của truyện. Trong một thời gian khá dài, kí là tiền thân của tiểu thuyết, có khi tên gọi kí cũng dùng cho tiểu thuyết hay một câu chuyện có kịch tính như Tây du ký, Tây sương ký, … Trong nền văn học Việt Nam, kí có từ rất lâu đời nhưng phải đến thế kỷ XVII, đặc biệt là từ thế kỷ XIX, khi đời sống dân tộc ngày càng nâng cao, kỹ nghệ in ấn và báo chí phát triển, văn học xé rào thâm nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác của xã hội và nhà văn có ý thức tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển và là thể loại phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự thời trung đại. Các tác phẩm kí giai đoạn này đều thiên về ghi chép, mang nặng tính chất lịch sử về các nhân vật, sông núi, đền chùa, … Các nhà nghiên cứu đã có nhiều cách tiếp cận để nhận diện kí nhưng cho đến nay, giới lý luận văn học vẫn chưa đưa ra một hệ thống lý thuyết thống nhất cho thể loại văn học này. Nhà nghiên cứu Rubinxep cho rằng: “Về kí, thực tế là không thể nói đến cái gì xác định được đặc trưng thể loại của nó”. Do cách tiếp cận không hoàn toàn giống nhau, các nhà nghiên cứu đưa ra những ý kiến khác nhau trong việc xác định khái niệm và đặc trưng của kí. Sự phức tạp của thể kí còn có căn nguyên từ sự năng động, linh hoạt của thể loại này trong việc phản ánh hiện thực. “Kí không phải là thể loại thuần nhất mà bao gồm nhiều hình thức ghi chép và biểu hiện cuộc sống” như: kí sự, phóng sự, bút kí, hồi kí, du kí, nhật kí, tuỳ
  11. bút, bút kí chính luận … mỗi tiểu loại này tuy có chung những đặc điểm chủ yếu nhất của kí song vẫn có những điểm riêng để xác định. [21, tr] Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng những sự kiện xã hội lịch sử, những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm, hành động, và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh, gợi không khí. Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ, nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc. Cái thú vị của kí là ở những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả. Có thể nói, kí cũng như các loại hình nghệ thuật khác, cũng trải qua hai giai đoạn chính là kí thời trung đại và kí thời hiện đại. Kí thời trung đại cũng giống như truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi, chủ yếu được viết bằng chữ Hán dưới hình thức các văn thể Trung Hoa. Do đặc trưng thể loại, phạm vi đề tài của kí bị thu hẹp rất nhiều so với truyện nên kí thời kì này không phát triển mạnh và có những thành tựu như truyện. Trong giai đoạn từ thế kỷ X – XIV, về cơ bản kí vẫn thuộc văn học chức năng, nằm trong khuôn khổ văn học chức năng và gồm hai loại chính là văn khắc và tự bạt. Sang đến giai đoạn thứ hai, từ thế kỉ XV – XVII, cùng với sự bùng nổ về tác phẩm sưu tầm cũng như sáng tác trên mọi lĩnh vực, từ thơ ca trữ tình đến văn xuôi tự sự, từ văn học chữ Hán đến văn học viết bằng chữ Nôm, từ văn học chức năng đến văn học nghệ thuật đã làm cho thể văn tự bạt phát triển theo. Kí dưới dạng tự bạt đến hậu kì trung đại tách dần ra thành môn khoa học riêng: nghiên cứu – phê bình – lí luận văn học và chia tay văn xuôi tự sự. Song nó đã đặt nền móng cho loại hình kí nghệ thuật: tự bạt là tiếng nói cá nhân người cầm bút; khi vai trò cá nhân chưa trực tiếp bộc lộ thì thể kí đích thực chưa thể ra đời. Mở đầu cho thể kí thể kỉ XVIII – XIX là Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề (năm 1755 hoàn thành). Nhiều năm sau, Trần Tiến cho ra đời liên tiếp hai tác phẩm kí khá đặc sắc là Tiên tướng công niên phả lục (viết xong năm 1764) và Trần Khiêm Đường niên phả lục (ngừng viết năm 1765). Có thể nói, Trần Tiến đã đưa thể kí phát triển thêm một bước mới.
  12. Trước hết, tác giả bám sát hiện thực, phản ánh trực tiếp những sự kiện, những con người quanh ông, hoặc của chính bản thân ông. Nhưng chủ yếu, hiện thực cuộc sống kia được phản ánh từ góc nhìn của người cầm bút. Khác với Trần Tiến, Lê Hữu Trác không viết tự thuật về cuộc đời mình, mà chỉ ghi lại chuyến đến kinh đô chưa bệnh cho cha con chúa Trịnh trong tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong tác phẩm, Lê Hữu Trác hoàn toàn làm chủ ngòi bút, ông tự do tung hoành trên dòng cảm xúc của mình. Chưa bao giờ và chưa có một tác phẩm kí nào mà cái tôi cá nhân của tác giả được bộc lộ một cách mạnh mẽ, rõ ràng như ở Thượng kinh kí sự. Mọi sự kiện trong tác phẩm đều quy tụ về một cái tôi cá nhân tác giả. Như vậy, có thể nói, đến Lê Hữu Trác, thể kí văn học đích thực đã thật sự ra đời, tạo đà cho hàng loạt tác phẩm kí khác ra đời như: Bắc hành tùng kí của Lê Quýnh, Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Tây hành kiến văn kỉ lược của Lý Văn Phức, Hải trình chí lược của Phan Huy Chú,… Sau các tác phẩm kí trung đại viết bằng chữ Hán, sang đến giai đoạn 1900 – 1930, tác phẩm kí hiện đại đầu tiên viết bằng chữ quốc ngữ đã ra đời, đó là tác phẩm Chuyến đi Bắc Kì năm Ất Hợi 1876 của Trương Vĩnh Ký; và đến khi các tờ báo tiếng Việt ra đời thể kí đã có điều kiện để phát triển. Ta có thể kể đến một số tác phẩm kí buổi đầu như: Hương Sơn hành trình kí của Nguyễn Văn Vĩnh, Mười ngày ở Huế và Một tháng ở Nam Kì của Phạm Quỳnh. Tuy thành tựu kí giai đoạn này chưa có gì thật sự nổi bật song định hướng này là một tiền đề để cho kí có những bước nhảy vọt ở giai đoạn tiếp theo. Với giai đoạn tiếp theo 1930 – 1945, kí đã phát triển rực rỡ. Đây là giai đoạn phát triển quan trọng của kí, bởi trong vòng 15 năm, kí đã phát triển với tốc độ chưa từng thấy cả về số lượng tác giả lẫn chất lượng tác phẩm. Kí giai đoạn này chủ yếu được thể hiện dưới hai dạng: phóng sự và tùy bút. Ở thể loại tùy bút, có thể kể đến các tùy bút tiêu biểu như: Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam, Chiếc lư đồng mắt cua, Tóc chị Hoài, Tùy bút I, Tùy bút II của Nguyễn Tuân. Ở thể loại phóng sự thì có các phóng sự nổi tiếng thời bấy giờ như: Tôi kéo xe của Tam Lang, Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố, Cơm thầy cơm cô, Kỹ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng, … Như vậy, phóng sự và tùy bút là hai tiểu loại kí tiêu biểu làm nên những thành tựu nổi bật của kí giai đoạn 1930 – 1945. Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, trong một thời điểm kich sử mới, kí sẽ có những bước phát triển mới cả về nội dung phản ánh lẫn hình thức thể hiện. Kí vẫn tỏ rõ ưu thế của thể loại trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Bên cạnh các thể loại khác, các sáng tác của thể kí đã ghi lại khá đầy đủ diện mạo và tiến trình cách mạng, các sự kiện lịch sử chủ yếu của
  13. đời sống đất nước và con người Việt Nam trong 30 năm chiến tranh và cách mạng. Thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp đã tạo nên một bước phát triển mới của văn xuôi, trong đó kí đóng một vai trò đáng kể với những tác phẩm như: Trong rừng Yên Thế, Trận phố Ràng của Trần Đăng, Trên những con đường Việt Bắc, Vài nét ghi qua vùng vừa giải phóng, Ở rừng của Nam Cao, Đường vui của Nguyễn Tuân, Đường vô Nam, Ngược sông Thao của Tô Hoài, Kí sự Cao – Lạng của Nguyễn Huy Tưởng, … Bước vào công cuộc chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kí luôn có mặt hàng đầu, trở thành vũ khí xung kích: Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên, Đường lớn của Bùi Hiển, Chúng tôi ở Cồn Cỏ của Hồ Phương, Những sự tích ở Đất thép, Người mẹ cầm súng, Ước mơ của đất của Nguyễn Thi, Sống như Anh của Trần Đình Vân, Bức thư Cà Mau của Anh Đức, Đường chúng ta đi, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc của Nguyễn Trung Thành – Nguyên Ngọc, Sông Đà, Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Nguyễn Tuân,… Kết thúc giai đoạn chống Mỹ cứu nước là một loạt kí sự về Mùa xuân đại thắng 1975, ghi lại thời điểm hào hùng của một thời đánh Mỹ và thắng Mỹ: Tháng Ba ở Tây Nguyên của Nguyễn Khải, Nhật kí chiến dịch của Nguyễn Thành Vân – Nguyễn Trọng Oánh,… Bên cạnh những sáng tác kí đi sâu vào những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa mang cảm hứng nghiên cứu đời sống trước bước chuyển mình, đổi thay của hình thức xã hội từ thời chiến tranh sang thời bình là sự xuất hiện của các hồi kí văn học mang đậm yếu tố tự truyện: Nửa đêm sực tỉnh của Lưu Trọng Lư, Một giọt nắng nhạt của Nguyễn Khải, Cát bụi chân ai của Tô Hoài, Nhớ lại một thời của Tố Hữu, Từ bến sông Thương của Anh Thơ,… Từ những năm 1970 đến nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số những tác giả chuyên tâm với thể kí. Trên con đường sáng tạo của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường luôn luôn tìm tòi, làm lạ, làm mới cách thể hiện như một “nghệ sĩ bút kí” với một phong cách riêng độc đáo. Lật giở những trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đọc cảm thấy tác giả tìm đến thể kí như một điều tất yếu, bởi kí là một thể loại phóng khoáng, tự do mà với cá tính nghệ sĩ, Hoàng Phủ Ngọc Tường có khả năng phát huy sở trường của một cái tôi trữ tình nồng nàn, từng trải đầy chiêm nghiệm, suy tưởng và thấm đẫm chất thơ. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường, như có người nói, ngoài câu chữ, văn bản là “phần kí tâm hồn”. Với đặc trưng riêng của mình, kí là một trong những thể loại năng động nhất của loại hình văn xuôi nghệ thuật. Trong suốt cả thế kỉ XX, nhìn từ phương diện thể loại, kí đã có sự
  14. vận động và đổi mới. Từ chỗ chỉ tỏ ra ưu thế ở phóng sự và tùy bút, kí đã có sự đổi thay về nội dung và hình thức thể loại. Bên cạnh các loại hình văn xuôi khác, kí đã chiếm một vị trí xứng đáng trong đời sống văn học, trở thành một bộ phận không thể tách rời trong tiến trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam. 1.2 Đặc điểm kí văn học 1.2.1 Đặc điểm chung Phương Lựu xác định: “Kí là một loại văn xuôi tự sự, trần thuật những người thật, việc thật với những đặc điểm riêng biệt trong mức độ và tính chất hư cấu, trong vai trò của người trần thuật cùng mối liên hệ giữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện” [36] Trong Năm bài giảng về thể loại, Hoàng Ngọc Hiến nêu ba đặc điểm của kí: “Kí là thể loại nằm giữa báo chí và văn học; kí là sự hợp nhất truyện và nghiên cứu; kí là sự nhức nhối của trí tuệ” [22] Các nhà nghiên cứu cũng đã nghiên cứu về sự phức tạp của kí là do kí có sự giao thoa, thâm nhập với nhiều thể loại văn học khác. Giữa kí và báo chí có mối liên hệ đặc biệt, thường xuyên có tác động qua lại lẫn nhau. B.Polevoi xem kí văn học là hoạt động hỗ trợ cho báo chí và cũng mang tính chất báo chí: “Kí sự trở thành một thể tài văn nghệ có phong cách độc đáo vũ trang cho báo chí”. Lê Bá Hán (chủ biên) xếp kí là một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học [18]. Mối liên hệ này đã đem lại cho kí khả năng tiếp cận hiện thực nhanh nhạy, nắm bắt và thể hiện cuộc sống kịp thời, mạnh dạn hướng vào những vấn đề nóng bỏng đang được xã hội quan tâm. Bên cạnh đó, những thông tin xác thực trong kí có giá trị như những tư liệu lịch sử quý giá đáp ứng nhu cầu hiểu biết thực tế của người đọc. Kí văn học cũng tái tạo sự kiện nhưng mục đích chủ yếu không phải chỉ là thông tin về sự kiện xã hội, mà nhằm phản ánh cái hay, cái đẹp và những giá trị, ý nghĩa xã hội – thẩm mỹ của con người. Như vậy, có thể thấy kí văn học có phần uyển chuyển hơn nhưng cũng không được xa rời hiện thực. Kí không cho phép người viết tưởng tượng ra những điều không xảy ra trong thực tế nhưng cũng không phải là sự ghi chép máy móc thực tế. Sự kiện trong kí văn học mang ý nghĩa tư tưởng nghệ thuật nhiều hơn. Việc lựa chọn đối tượng theo
  15. mục đích này khiến cho người thật, việc thật trong kí văn học mang ý nghĩa điển hình và sự thật về sự kiện, con người mang ý nghĩa sâu rộng hơn tính thời sự của chúng, có khả năng khêu gợi, tác động đến nhiều mặt đến người đọc. Tác giả kí là người chứng kiến, lắng nghe và cảm nhận sự việc, con người và tình huống mình miêu tả. Tài năng của người viết kí thể hiện ở chỗ chọn đúng chủ đề, tìm ra góc nhìn tốt và chắt lọc được những chi tiết điển hình từ cuộc sống để làm nổi bật tính tư tưởng, tác động đến lí trí và làm xúc động tâm hồn người đọc. Tuy nhiên, thông tin sự thật, ghi chép sự thật không có nghĩa là sao chép cuộc sống, bê nguyên cuộc sống một cách nô lệ, thụ động vào tác phẩm. Những người thật việc thật, những biến cố, những vấn đề của đời sống khách quan được tác giả kí lấy làm điểm tựa đều được nhìn nhận, chọn lựa, khái quát, được khai thác ở những nội dung, những khía cạnh có ý nghĩa xã hội – thẩm mĩ nào đó. Trong tác phẩm kí, các chi tiết, sự kiện của cuộc sống vừa giữ được phẩm chất cơ bản của sự thật, của điển hình xã hội, lại vừa được nhìn nhận, cảm thụ, đánh giá theo cách nhìn độc đáo của riêng nhà văn. Theo Hà Minh Đức: “Các thể kí văn học chủ yếu là những hình thức ghi chép linh hoạt trong văn xuôi với nhiều dạng tường thuật, miêu tả, biểu hiện, bình luận về sự kiện và con người có thật trong cuộc sống, với nguyên tắc phải tôn trọng tính xác thực và chú ý đến tính thời sự của đối tượng miêu tả” Kí văn học cũng bắt đầu từ sự việc có thật của đời sống, nhưng nhà văn, nhà báo qua lăng kính của mình chắt lọc được cái gì, phản ánh lại cho người đọc. Người viết cũng có thể dự báo, tiên đoán, phân tích, nhưng phân tích bằng hình tượng văn học. Ngoài ra, đôi khi trong kí văn học, người viết có thể đặt yếu tố chủ quan lên hàng đầu hoặc có thể đưa thêm những yếu tố bên ngoài sự kiện, từ một hiện thực khác mà họ đã có được qua sự trải nghiệm của mình. Do đó, kí văn học mang tính chủ quan nhiều hơn, nó không đòi hỏi sự nóng hổi hàng ngày hàng giờ như kí báo chí nhưng nó lại đề ra yêu cầu cao hơn về chất suy nghĩ và tình cảm của chủ thể. 1.2.2 Đặc điểm của kí trung đại Văn học trung đại Việt Nam đa dạng về thể loại nhưng kí là loại hình phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự thời trung đại. Kí là một bộ phận cùng với truyện ngắn và tiểu thuyết chương hồi hợp thành văn xuôi tự sự. Tuy nhiên, kí với tư cách là một thể văn, kí có số phận
  16. riêng và dần trưởng thành qua ba giai đoạn: giai đoạn thứ nhất là từ thế kỉ X – XIV, giai đoạn thứ hai từ thế kỉ XV – XVII, giai đoạn thứ 3 từ thế kỉ XVIII – XIX. Từ thế kỉ X – XIV, không chỉ là thời kì đặt nền móng cho loại hình truyện ngắn, mà còn đặt nền móng cả cho dòng tự sự viết dưới dạng kí. Tuy nhiên, so với truyện thì kí giai đoạn này chưa đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Đề tài của kí còn bị hạn chế trong khuôn khổ viết về hiện tại, về những điều mắt thấy tai nghe. Kí không được viết về quá khứ, nếu có, chẳng qua chỉ là quá khứ gần, xoay quanh nhân vật hiện tại. Thời trung đại, kí không được hư cấu, không được dùng các thủ pháp nghệ thuật của thần thoại, sử thi, truyền kì. Không gian và thời gian nghệ thuật trong kí bao giờ cũng cụ thể, gắn với sự kiện hoặc nhân vật đang đề cập tới. Hơn nữa, khoảng cách từ khi giành độc lập đến hết thế kỉ XIV so với hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc thì quá ngắn, bởi vậy, người và vật, cảnh và tình dùng làm đề tài cho kí không thể phong phú, dồi dào như truyện. Đấy là lý do giúp ta hiểu vì sao thành tựu của thể kí thế kỉ X – XIV không bằng truyện. Giai đoạn từ thế kỷ XV – XVII, kí chưa thành một thể riêng mà chỉ là một phần nhỏ nằm trong tác phẩm tự sự nhiều thiên. Mặc dù truyện ngắn đã đạt đến đỉnh cao nhưng kí nghệ thuật đích thực chỉ mới bắt đầu, có mặt lẻ tẻ trong một số tập truyện ngắn và chưa có một quyển sách nào đứng riêng rẽ với tư cách một tập kí. Ranh giới giữa truyện và kí cũng hết sức mờ mỏng. Tính chất kí trong văn xuôi tự sự chưa rõ, vì vậy muốn tách kí ra khỏi truyện là một việc làm khó. Theo Nguyễn Đăng Na: “Điều làm nên sự phân biệt giữa truyện và kí về bản chất là thái độ người cầm bút. Nếu người cầm bút tách mình ra khỏi các sự kiện, các nhân vật mình miêu tả như người ngoài cuộc thì đấy là truyện; còn tác giả hoà mình vào sự kiện, các nhân vật với tư cách là người trong cuộc thì đấy là kí” [46, tr.37]. Kí chỉ thực sự ra đời khi người cầm bút trực diện trình bày đối tượng mình đang phản ánh bằng cảm quan của chính mình. Thế kỉ XV – XVII chưa làm được điều đó vì cái tôi cá nhân chưa đập vỡ và chui ra khỏi lớp vỏ của cái ta cộng đồng, phải đợi tới thế kỉ XVIII – XIX, khi điều kiện chín muồi và cho phép. Sự ra đời của một loạt tác phẩm kí ở giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX đã đánh dấu một bước phát triển của văn xuôi tự sự chữ Hán ở nước ta. Theo giáo sư Nguyễn Lộc: “Đây là giai đoạn xã hội Việt Nam có nhiều biến cố, biến động. Con
  17. người sống trong giai đoạn này không phải chỉ có rung cảm trước cuộc sống, mà còn muốn nhận thức, lý giải nó; và quá trình này đưa đến sự ra đời của một loạt tác phẩm kí”. Các tác phẩm kí xuất hiện ở giai đoạn này khá phong phú. Bên cạnh những bài du kí ngắn có tính chất tuỳ bút viết về những chuyến ngao du của các nhà văn đến những danh lam thắng cảnh còn xuất hiện một số tác phẩm viết về phong tục và các sản vật của quê hương xứ sở. Đáng chú ý là tập Vũ Trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ. Bên cạnh đó, phải kể đến những tác phẩm mang hình thức kí viết về các sự kiện lịch sử của dân tộc lúc bấy giờ như Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác và Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái. Giai đoạn từ thế kỷ XVIII – XIX, kí đã thực sự ra đời với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Ta có thể coi Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề là tác phẩm mở đầu cho thể kí ở Việt Nam, đánh dấu cho bước phát triển của thể kí trung đại. Sau đó là hàng loạt các tác phẩm kí khác như: Cát Xuyên tiệp bút của Trần Tiến, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Bắc hành tùng ký của Lê Quýnh, Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ… lần lượt xuất hiện và đạt đỉnh cao về nghệ thuật. Đến Lê Hữu Trác và Phạm Đình Hổ thì thể kí đã đạt đến đỉnh cao và đa dạng về hình thức. Sau đó, kí có bước chuyển mới về nội dung và những tác phẩm về kí phương Tây bắt đầu xuất hiện với tác phẩm Tây hành kiến văn kỷ lược của Lý Văn Phức. Giai đoạn này, kí đã có khả năng to lớn, phản ánh được những vấn đề quan trọng mà thời đại đặt ra, phản ánh những vấn đề mang tầm vóc quốc gia, quốc tế. Thế nhưng, “cuộc xâm lược của người Pháp vừa mở ra một cục diện phản ánh mới cho thể kí, nhưng đồng thời cũng đẩy thể kí vào sự bế tắc về phương thức phản ánh”. [44, tr. 72]. Do đó, khi đến giai đoạn cuối thế kỷ XIX, kí chuyển sang dạng điều trần và kế sách. Như vậy, cũng như tất cả các thể loại khác trong văn học trung đại, thể kí sau khi đạt đến đỉnh cao đã rơi vào sự bế tắc. Trước tình hình mới, thể kí không thể giữ mãi lối viết như xưa hơn nữa kí viết bằng chữ Hán cũng không đáp ứng được yêu cầu thời đại. Kí trung đại đã đi hết hành trình lịch sử mười thế kỷ và nhường bước cho kí hiện đại sau này. 1.2.3 Đặc điểm của kí hiện đại
  18. Từ đầu thế kỷ XX, trong không khí hiện đại hoá của nền văn học dân tộc, văn xuôi tiếng Việt phát triển mau lẹ, phong phú với một hệ thống thể loại hoàn chỉnh. Trong đó, các sáng tác thuộc các thể loại kí cũng đa dạng hơn gồm: phóng sự, kí sự, tuỳ bút,… Ở những năm đầu thế kỷ, nổi bật là cây bút Tản Đà với những tác phẩm văn xuôi nghiêng về giãi bày cảm xúc, bộc lộ nỗi niềm với cái nhìn riêng về nhân sinh, thế sự. Tiêu biểu là các bài Tình cảm, Kỷ niệm hái hoa đào, Giải sầu, Luận cô Kiều, Xem Liêu Trai, … được xem là những bài kí giàu chất trữ tình, tuy vẫn phảng phất điệu văn biền ngẫu. Những tác phẩm văn xuôi của Tản Đà là dấu hiệu báo trước khuynh hướng kí trữ tình của văn học Việt Nam sau này. Thời kỳ văn học 1930 – 1945 được đánh giá là một trong những đỉnh cao của văn học dân tộc. Bên cạnh sự nở rộ của Thơ Mới, tiểu thuyết, truyện ngắn … các tác phẩm thuộc thể kí cũng gặt hái được nhiều thành tựu đáng ghi nhận, khẳng định sự lớn mạnh của thể loại. Thể Phóng sự thu hút nhiều cây bút thuộc dòng văn học hiện thực phê phán bởi thể văn này có khả năng xông xáo mọi ngõ ngách đời sống, kịp thời “nhận chân” xã hội hiện tại. Phần lớn các phóng sự đều tập trung mô tả thực trạng đen tối của xã hội đương thời. Thực trạng đó lá sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác thuộc địa và chính sách văn hóa ngu dân của chế độ thực dân phong kiến. Ngoài ra, thể tùy bút cũng là một kiểu loại kí đặc sắc làm nên những đóng góp của kí giai đoạn này, mặc dù số lượng của nó không nhiều bằng phóng sự và chỉ tập trung ở một, hai tác giả tiêu biểu. Và nói đến tùy bút ở giai đoạn này (và cả giai đoạn về sau) ta không thể không nhắc đến Nguyễn Tuân – một cây bút chung thủy và có những đóng góp nổi bật ở thể loại này. Tùy bút đã làm cho ngòi bút của Nguyễn Tuân thăng hoa và để lại dấu ấn cá tính trên từng trang viết. Như vậy, phóng sự và tùy bút là hai tiểu loại kí tiêu biểu làm nên những thành tựu nổi bật của kí giai đoạn 1930 – 1945. Từ sau Cách mạng, trong một thời điểm lịch sử mới, kí sẽ có những bước phát triển mới cả về nội dung phản ánh lẫn hình thức thể hiện để cùng với thơ, tiểu thuyết và kịch làm nên bức trang phong phú và sinh động của văn học Việt Nam thế kỉ XX.
  19. Có thể nói, sự đa dạng và nở rộ của các tác phẩm thuộc thể kí ở những năm đầu thế kỷ XX đã góp phần làm cho đời sống văn học sôi động và khởi sắc, tiến những bước tự tin, vững chắc vào quỹ đạo của công cuộc hiện đại hoá nền văn học dân tộc. Hiện thực đời sống dân tộc từ sau cách mạng tháng Tám 1945, đặc biệt là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tạo tiền đề thuận lợi để kí phát huy những ưu thế riêng của thể loại, đạt tới những thành tựu đáng ghi nhận. Kí đã chứng tỏ được tầm quan trọng không thể thiếu của mình trong đời sống cách mạng của dân tộc. Ở giai đoạn này, kí vẫn tỏ rõ ưu thế của thể loại trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Hơn các loại hình khác, do đặc trưng riêng, kí bám sát đời sống bằng tác phẩm. Bản thân kí được sự bảo lãnh của chính thực tế đời sống; tính xác thực của thời gian, không gian, của biến cố, sự kiện và của con người. Trong lịch sử văn học, sự phát triển của thể loại kí gắn liền với những giai đoạn có những thay đổi lớn lao, với sự hình thành những hiện tượng mới của cuộc sống chưa được nghiên cứu. Thể loại kí cho phép nhanh chóng tái tạo những hiện tượng mới, khắc họa những nét cơ bản nhất của những hiện tượng đó. Trong các thể văn xuôi giai đoạn 1945 – 1954, kí phát triển mạnh hơn cả, nhất là kí sự và tuỳ bút. Kí có sự xâm nhập vào các thể văn học khác khiến các tác phẩm thuộc thể truyện ngắn, tiểu thuyết đậm đặc các sự kiện đời sống. Các “cây kí” đã dũng cảm xông xáo vào những chiến trường ác liệt, bám sát các mũi nhọn chiến đấu, đến với các chiến dịch, các mặt trận để tái hiện xác thực bức tranh đời sống chiến trường. Sự nở rộ của kí trong văn học kháng chiến chống Mỹ đã góp cho văn học viết về chiến tranh một cái nhìn nghiêm túc, giàu giá trị nhân bản. Những tác phẩm kí đậm cảm hứng sử thi ra đời ở thời điểm này đã phản ánh chân thực cuộc chiến đấu của dân tộc, sự vận động của dòng thách cách mạng và biểu dương kịp thời những tấm gương anh hùng của thời đại. Đáng chú ý là dòng kí trữ tình vẫn nảy nở và phát triển trong hoàn cảnh khốc liệt của chiến tranh như một minh chứng cho sự sống và vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam. Sau năm 1975, đất nước bước vào hoà bình, xây dựng xã hội chủ nghĩa, nhất là vào thời kỳ Đổi Mới (1986), kí có sự chuyển mình rõ rệt. Với phương châm “nhìn thẳng vào sự
  20. thật”, thể phóng sự một thời gian dài vắng bóng nay lại hồi sinh. Các thể kí, tuỳ bút, tạp văn, tản văn cũng xuất hiện phong phú hơn bao giờ hết. Đội ngũ viết kí đông đảo, nhiều cây bút chuyên tìm tòi ở thể loại và ngày càng khẳng định được phong cách riêng, tiêu biểu là: Nguyễn Khải với tạp văn; Mai Văn Tạo, Băng Sơn với thể Tản văn, đoản văn; Minh Chuyên, Hoàng Minh Tường, Hoàng Phủ Ngọc Tường với thể bút kí. Xu hướng “dân chủ hoá” đã giúp kí thâm nhập vào muôn mặt của cuộc sống, mở rộng phạm vi phản ánh, các nhà văn công khai bày tỏ thái độ, cách nhìn, cách đánh giá đối với hiện thực. Đặc biệt người viết kí có cơ hội để bộc lộ vai trò của chủ thể sáng tạo, khẳng định được dấu ấn của riêng mình. 1.3 Đặc điểm của một số thể kí trong chương trình phổ thông 1.3.1 Kí sự Theo từ điển tiếng Việt, kí sự là loại kí ghi lại những diễn biến của cuộc sống xã hội, không hoặc rất ít xen vào những bình luận chủ quaan của người viết [42] Theo sách lí luận văn học: kí sự là một thể của kí, thiên về tự sự, kí sự thường ghi chép các sự kiện, hay kể lại một câu chuyện tương đối hoàn chỉnh khi nó vừa xảy ra. Nó dựa vào cái xác thực, cụ thể, đơn nhất để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Nó vẫn có thể sử dụng liên tưởng, nghị luận và trữ tình nhưng chủ yếu là tái hiện các sự kiện. Kí sự có quy mô gần với truyện ngắn hoặc truyện vừa. Nó sử dụng nhiều biện pháp và phương tiện biểu đạt nghệ thuật để ghi lại xác thực những diễn biến khách quan của cuộc sống và con người thông qua bức tranh toàn cảnh của sự kiện, trong đó sự việc và con người đan chéo vào nhau, cốt truyện không chặt chẽ như trong truyện. Kí sự thiên về phản ánh sự kiện, sự việc hơn là phản ánh con người; tính cách và tâm hồn những người trong cuộc cũng có khi hiện lên khá rõ nét nhưng đó chỉ là cách kí sự ghi việc, gây ấn tượng về sự việc. Kí sự thường đậm yếu tố tự sự, giàu chất sống thực tế, yếu tố liên tưởng, bàn luận cá nhân trong kí sự thường ít được sử dụng hơn so với trong bút kí, tùy bút. Người viết kí sự có quyền bình luận, phân tích nhưng chủ yếu vẫn là tiếng nói của bản thân sự kiện đời sống khách quan đang vận động, phát triển. Chủ đề, tư tưởng của tác phẩm toát lên từ việc ghi chép sinh động,
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2