VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ HỒNG PHONG
HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ HỒNG PHONG
HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC NINH
Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN NAM
HÀ NỘI - 2021
Lớp: ……………
SV: Lương Đức Huyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn này chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình khoa học nào khác. Các số liệu tôi trích dẫn trong luận văn là số liệu
thực tế, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định từ những tài liệu
tôi thu thập được.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực và chính xác của Luận văn này.
Tác giả luận văn
Lớp: ……………
SV: Lương Đức Huyên
Vũ Hồng Phong
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 6
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ
không giam giữ
1.1 . Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ .
1.2. Đặc điểm hình phạt không giam giữ
1.3 Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt tù cho hưởng
án treo , tha tù trước thời hạn có điều kiện , cải tạo .
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của phát luật về hình phạt cải tạo
không giam giữ
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
2.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh
2.2 .Quy định của phát luật về hình phạt cải tạo không giam giữ .
2.3. Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh
Bắc Ninh .
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ .
3.2. giải pháp về phát luật
3.3. giải pháp khác .
KẾT LUẬN .................................................................................................................
Lớp: ……………
SV: Lương Đức Huyên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS Bộ luật Hình sự
BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự
LTHAHS Luật thi hành án hình sự
TAND Tòa án nhân dân
TTHS Tố tụng hình sự
TNHS Trách nhiệm hình sự
UBND Ủy ban nhân dân
VKS Viện kiểm sát
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
Lớp: ……………
SV: Lương Đức Huyên
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1: Số liệu Bị cáo bị tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ so với các
hình phạt khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh (Phụ lục)
Lớp: ……………
SV: Lương Đức Huyên
Bảng 2.2: Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên tổng số các vụ án xét xử từ năm 2015 đến 09/2019 trong phạm vi cả nước (Phụ Lục)
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW), trong đó Đảng ta đã chỉ rõ, cần phải “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hạn chế áp dụng hình phạt tử hình…”. Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (gọi là Bộ luật hình sự năm 2015) được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực toàn phần kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 đã kịp thời thể chế hoá chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, trong đó nhấn mạnh phải “tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm và tăng cường hội nhập quốc tế”. Đây là những định hướng quan trọng, là cơ sở nền tảng cho việc xây dựng các chế định khác nhau của Bộ luật hình sự. Tội phạm và hình phạt được quy định phải xuất phát từ tính đặc thù của từng loại tội phạm cũng như các điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội chi phối. Có như vậy, tính chất giáo dục cũng như phòng ngừa của hình phạt mới đạt được hiệu quả và đảm bảo được sự đồng thuận trong dư luận xã hội.
Xuyên suốt chế định tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 với 314 tội danh quy định từ chương XIII đến chương XXVI là sự ghi nhận và phản ánh đúng những hành vi nguy hiểm cho xã hội đã và đang tác động tiêu cực đến các phương diện của đời sống chính trị-xã hội. Việc phi tội hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội ra khỏi Bộ luật hình sự năm 2015 tiếp tục khẳng định đường lối xử lý đối với những hành vi chưa thực sự cần thiết áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc, có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính, kinh tế... vừa góp phần giảm tải chi phí của nhà nước trong việc thi hành các biện pháp cưỡng chế hành vi vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn đảm bảo sự hợp lý, nhân văn, công bằng, phù hợp trong sự tương quan với những tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự.
6
Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam không
chỉ thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự, mà còn có ý nghĩa động viên, khuyến khích người phạm tội tự giác cải tạo, giáo dục. Đồng thời, áp dụng hình phạt này đối với người phạm tội sẽ tạo điều kiện cho người đó được làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải của mình ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự quản lý, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó làm việc, công tác, học tập, cư trú và của chính gia đình của người đó, nhanh chóng giúp cho họ tái hòa nhập cộng đồng, không bị cách ly khỏi xã hội.
Tuy nhiên, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính và hình phạt bổ sung, còn đối với riêng hình phạt cải tạo không giam giữ, nhìn một cách tổng thể chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với tư cách là một hình phạt chính quan trọng trong hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng như trên toàn thế giới. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” là đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn. Việc nghiên cứu áp dụng hình phat cải tạo không giam giữ gắn với một địa phương có truyền thống, đặc trưng ở vùng đồng bằng bắc bộ như tỉnh Bắc Ninh là có tính thực tiễn rất cao, để có thể áp dụng một cách cụ thể nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Hình phạt cải tạo không giam giữ trong pháp luật hình sự Việt Nam là một trong những chế định pháp lý hình sự quan trọng trong chính sách hình sự của Nhà nước ta. Bản thân hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng đã được nhiều nhà khoa học, học giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến như:
- Sách chuyên khảo:
+ "Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2017, Phần chung" của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa [22].
7
+ "Một số vấn đề về thi hành án hình sự " của TS. Trần Quang Tiệp [50].
+ "Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn
" của GS.TS Võ Khánh Vinh và PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng [66].
+ “Hoàn thiện quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thi hành án hình sự ở Việt
Nam”của TS. Vũ Trọng Hách [20].
- Các tạp chí khoa học chuyên ngành luật như:
Một số vấn đề về hình phạt cải tạo không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân
- dân, số 5/1995;
PGS.TS.Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về hình phạt quản chế trong luật
- hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật học, số 1/2004;
Về hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
- pháp luật, số 6/2004;
Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số nước trên thế giới, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số7/2003.
Ngoài ra, còn có các luận văn, luận án ở các ở cơ sở đào tạo luật cũng có nghiên cứu về hình phạt này, tuy nhiên, các công trình này chỉ nghiên cứu ở góc độ nói chung, chưa gắn với một địa phương cụ thể. Hình phạt cải tạo không giam giữ từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh là công trình nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này ở cấp độ Thạc sĩ. Những bài viết, sách chuyên khảo và các công trình khoa học nêu trên là những tài liệu tham khảo rất hữu ích và có giá trị trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn:
3.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Luật Hình sự về cải tạo không giam giữ và kiến nghị, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt này nói chung và thực tiễn tỉnh Bắc Ninh nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn:
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ -
8
Phân tích các quy định của Bộ luật Hình sự về cải tạo không giam giữ -
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn
- tỉnh Bắc Ninh
Đưa ra các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Hình sự và thực tiễn áp dụng hình
- phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng
hình phạt cải tạo không giam giữ tại tỉnh Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận của hình phạt cải tạo không giam giữ; các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ; cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở phương pháp luận:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mácxít; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và bản chất nhân đạo của chính sách hình sự và đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp lịch sử,
thống kê, so sánh, tham khảo chuyên gia và khảo sát thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
Nghiên cứu hình phạt cải tạo không giam giữ một cách toàn diện và có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác xét xử trong những năm qua. Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chế định hình phạt cải tạo không giam giữ và nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án.
9
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình phạt cải tạo không giam giữ.
+ Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
10
+ Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ
1.1. Khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ
Cải tạo không giam giữ là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định, xét thấy không cần thiết phải tước tự do của người bị kết án, không cần phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội mà giao họ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương UBND Xã nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục với khoảng thời gian từ 6 tháng đến 3 năm [46].
Cải tạo không giam giữ là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt
chính không phải tù, đứng sau hình phạt tù có thời hạn.
Khác với hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi môi trường sống bình thường, nơi trước khi phạm tội họ sống, công tác mà vẫn để họ tham gia lao động, học tập và sinh hoạt có tổ chức và kỷ luật trong môi trường sống thích hợp, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục của cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án thường trú và gia đình họ nhằm giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật, thượng tôn quy tắc của cuộc sống xã hội [6, tr.337].
Trong phần các tội phạm BLHS, cải tạo không giam giữ là hình phạt không tước tự do của người bị kết án được quy định phổ biến nhất. BLHS đã bỏ hình phạt cải tạo tại đơn vị kỷ luật của quân đội. Hình phạt này thực chất là hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng được áp dụng đối với quân nhân phạ tội. Tuy nhiên, trong trường hợp bị phạt này người bị kết án phải chấp hành án tại một cơ sở đặc biệt là đơn vị kỷ luật của quân đội, điều này trái với bản chất của hình phạt cải tạo không giam giữ - một loại hình phạt không tước tự do của người bị kết án… Cho nên, nhà làm luật cho rằng không cần thiết quy định hình phạt cải tạo ở đơn vị của quân đội đối với quân nhân phạm tội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với họ để họ cải tạo ở ngay tại đơn vị của mình [6, tr. 338].
11
Cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có tính chất nghiêm khắc hơn so với hình phạt tiền và cảnh cáo nhưng nhẹ hơn hình phạt tù. Do vậy, theo quy định
của pháp luật Tòa án chỉ áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội khi thỏa mãn những điều kiện sau đây:
- Áp dụng với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do BLHS quy định. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù, tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là bảy năm.
- Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ
ràng.
Thời hạn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm. Riêng đối với người chưa thành niên phạm tội thì thời hạn cải tạo không giam giữ áp dụng với họ là không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định (Điều 73 BLHS năm 2015). Trong trường hợp người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 1 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 3 ngày cải tạo không giam giữ.
Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
Luật thi hành án hình sự năm 2019 và các văn bản pháp luật của Chính phủ quy định về việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ quy định: cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương có thể được Tòa án giao trách nhiệm trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án.
Thi hành án phạt cải tạo không giam giữ là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này giám sát, giáo dục người chấp hành án tại nơi cư trú hoặc nơi làm việc, học tập; khấu trừ một phần thu nhập sung quỹ nhà nước, giám sát việc thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng theo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
12
Luật thi hành án hình sự quy định nhiệm vụ của Cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án như: Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án; Tạo điều kiện để người bị kết án lao động, học tập và hòa nhập vào cuộc
sống chung của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình; Phối hợp với cơ quan, tổ chức hữu quan khác và gia đình người bị kết án trong việc giáo dục, cảm hóa, giúp họ sửa chữa lỗi lầm…Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời hạn cải tọa không giam giữ cho người bị kết án; Nhận xét bằng văn bản và ghi vào sổ theo dõi về quá trình chấp hành hình phạt của người bị kết án khi người đó chuyển đi nơi khác; Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người bị kết án theo quy định của Tòa án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 36 BLHS năm 2015 thì người bị kết án bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Đây là quy định mang tính bắt buộc đối với người bị tuyên án. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể miễn việc khấu trừ thu nhập nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án. Pháp luật hình sự quy định: Nếu người bị kết án cải tạo không giam giữ là người dưới 18 tuổi phạm tội và chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự thì không khấu trừ thu nhập của người đó (khoản 2 Điều 100 BLHS năm 2015);
Nghĩa vụ của người chấp hành án cải tạo không giam giữ, họ phải: Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ các hình phạt bổ sung, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ nộp phần thu nhập bị khấu trừ theo bản án của Tòa án…;
Như vậy, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong hệ thống các hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam, trong đó người bị kết án cải tạo không giam giữ bị cải tạo, giáo dục không cần cách ly khỏi xã hội mà họ được giao cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và gia đình giáo dục, giám sát tại nơi họ sinh sống hoặc làm việc ổn định.
1.2. Đặc điểm hình phạt cải tạo không giam giữ
13
Trong pháp luật Việt Nam, hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự là biện pháp cưỡng chế “nặng” nhất được Nhà nước áp dụng khi muốn tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người bị kết án. Nhà nước đặt ra hình phạt nhưng hình phạt đó phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người phạm tội thực hiện. Những yếu tố quyết định mức độ nguy hiểm cho xã hội như: Nhân thân người phạm tội, các quan hệ xã hội đã bị xâm phạm, hậu quả đã xảy
ra hoặc sẽ xảy ra cho xã hội, tâm lý chủ quan của người phạm tội. Theo quy định pháp luật hình sự, các hình phạt được quy định là hình phạt chính được sắp xếp theo mức độ tang dần như sau: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
Cải tạo không giam giữ là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số các hình phạt không phải tù, nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn [23, tr. 189]. Căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự về hình phat cải tao không giam giữ chúng ta thấy có các đặc điểm sau:
Một là, hình phạt cải tạo không giam giữ không cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm trong trường hợp người kết án thuộc loại tội ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng, có nơi làm việc rõ ràng hoặc có nơi thường trú ổn định. Vì vậy, đặc điểm chính của hình phạt cải tạo không giam giữ là vừa có thể trừng trị và giáo dục người bị kết án mà không phải cách ly họ ra khỏi cuộc sống bình thường. Như vậy, người phạm tội vừa được tham gia lao động trong môi trường phù hợp vừa được trả công lao động và được hưởng các chế độ xã hội như trước khi bị kết án.
Hai là, việc thi hành án cải tạo không giam giữ không phải được giao cho một cơ quan thi hành án duy nhất chuyên trách thực hiện. Đây là một đặc điểm của hình phạt cải tạo không giam giữ, vì thông thường tương ứng với từng hình phạt thì có một cơ quan chuyên trách thi hành. Nhiệm vụ giám sát, trông coi người bị kết án cải tạo không giam giữ là của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức xã hội nơi người người phạm tội sinh sống và làm việc. Đây là hình phạt thể hiện rõ quan điểm xã hội hoá công tác thi hành án của Đảng và nhà nước ta. Sự hiệu quả của chính sách này phụ thuộc vào sự phối hợp giữa cơ quan, tổ chức và gia đình người bị kết án. Những cơ quan, tổ chức nêu trên được tự mình quản lý hết các biện pháp để giám sát người bị kết án, cụ thể:
- Cơ quan, tổ chức trực tiếp quản lý người bị kết án, nếu người đó là cán bộ,
công chức, người đang học tập tại các cơ sở giáo dục, đào tạo;
- Doanh nghiệp, hợp tác xã nếu người bị kết án là người làm công ăn lương;
- Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú, nếu người
14
đó không thuộc đối tượng của ba cơ quan tổ chức nêu trên;
- Đơn vị quân đội từ cấp đại đội hoặc tương đương trở lên, nếu người bị kết
án là quân nhân, công nhân quốc phòng.
Cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục người bị kết án có quyền và trách nhiệm
như sau:
- Phân công người trực tiếp giám sát, giáo dục người bị kết án;
- Tạo điều kiện để người phạm tội sinh sống, làm việc và học tập bình
thường trong môi trường của cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình;
- Kết hợp cùng với các cơ quan, tổ chức khác và gia đình người phạm tội tạo điều kiện trong việc giáo dục, cảm hoá, giúp họ sửa sai những sai lầm đã phạm phải.
- Yêu cầu người phạm tội thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã nêu trong bản án; có biện pháp ngăn ngừa, cải tạo khẩn trương khi người phạm tội có biểu hiện tiêu cực và thông báo ngay với cơ quan quản lý để xử lý khi cần thiết;
- Tuyên dương người phạm tội khi họ có nhiều tiến bộ, tích cực tham gia vào
các hoạt động xã hội, lập thành tích khi sinh hoạt trong đơn vị.
- Xem xét các yêu cầu hợp lý để cho phép người phạm tội được vắng mặt
ở nơi sinh sống;
- Xem xét đề nghị của người phạm tội để đề nghị Toà án cấp huyện hoặc Toà án quân sự khu vực nơi người đó đang chấp hành hình phạt về việc giảm tải thời hạn; miễn chấp hành thời hạn áp dụng hình phạt còn lại theo quy định của pháp luật;
- Cấp giấy chứng nhận đã chấp hành đủ thời hạn cải tạo không giam giữ cho
người phạm tội;
- Nhận xét phải được soạn bằng văn bản và ghi vào sổ theo dõi tất cả quá trình chấp hành hình phạt của người phạm tội trong trường hợp người đó được chuyển đi nơi khác;
- Tiến hành khấu trừ một phần thu nhập của người phạm tội theo quyết định
của Toà án để giao nộp cho cơ quan thi hành án dân sự.
15
- Đối với người phạm tội là cán bộ, công chức, quân nhân, công nhân quốc phòng, người lao động làm công ăn lương, người đang học tập tại các cơ sở giáo
dục, đào tạo chấp hành hình phạt tại cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo, thì ngoài những trách nhiệm và quyền trên, Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo đó còn có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người phạm tội học tập, làm việc và sinh sống
Ba là, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính nặng nhất trong số các hình phạt không cách ly khỏi xã hội, và có nơi cải tạo đa dạng như địa phương nơi cư trú, hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án hoặc đơn vị quân đội nếu người bị kết án là quân nhân. Khác với hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ không buộc người bị kết án cách ly khỏi môi trường sống bình thường, nơi trước khi phạm tội họ sống, công tác mà vẫn để họ tham gia lao động, học tập và sinh hoạt có tổ chức và kỷ luật trong môi trường sống thích hợp [23, tr. 189]. Các trường hợp phạm tội bị áp dụng hình phạt này khi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội họ gây ra không lớn hoặc chưa đến mức phải chịu hình phạt tù và nếu cảnh cáo và phạt tiền thì quá nhẹ đối với hành vi phạm tội mà cá nhân đó gây ra. Người bị kết án phải tự mình cố gắng cải tạo, tự sửa chữa lỗi lầm bản thân mình và chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia lao động công ích, phấn đấu học tập, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ công dân, quy tắc tại nơi mình cư trú, sinh sống, làm việc.
1.3. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt tù cho
hưởng án treo, tha tù trước thời hạn có điều kiện, cảnh cáo
1.3.1. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với án treo
16
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù (Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo). Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi, giáo dục. Người được hưởng án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định. Nếu người được hưởng án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến
bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi giáo dục, tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách. Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội mới do vô ý, hoặc phạm tội mới do cố ý thì toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới.
Án treo và cải tạo không giam giữ có hình thức giống nhau là người bị kết án được tự do trong sự giám sát, quản lý và giáo dục của địa phương cư trú, cơ quan nơi công tác. Đây là hai chế tài Hình sự với nhiều nét tương đồng, ví dụ như cả hai hình phạt đều không cách ly người bị kết án ra khỏi xã hội. Tuy nhiên, giữa hai chế tài này có những điểm riêng biệt nhất định.
Án treo: Là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
- Điều kiện áp dụng án treo:
+ Hình phạt đối với người vi phạm pháp luật ở mức độ ít nghiêm trọng, bị xử
phạt tù không quá 03 năm.
+ Có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần phải cách
ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà vẫn có thể cải tạo được.
+ Không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS và có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS; nếu có 01 tình tiết tăng nặng TNHS thì phải có từ 03 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên, trong đó có ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS.
- Án treo có kèm theo thời gian thử thách và trong thời gian này, nếu người bị án treo phạm tội mới, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước. Thời gian thử thách của án treo từ 01 đến 05 năm.
- Không quy định về việc phải thực hiện 01 số công việc lao động phục vụ
công ích, cũng như người bị kết án ko bị trừ một phần thu nhập.
Cải tạo không giam giữ: Là hình phạt được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm.
17
- Điều kiện áp dụng:
+ Đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ
luật này quy định.
+ Có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy
không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
- Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước.
- Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này, thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
1.3.2. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với tha tù trước thời hạn
có điều kiện
Biện pháp tha tù trước thời hạn có điều kiện của hình phạt tù chính là một giải pháp cho phép sớm đưa người phạm tội bị xử phạt tù quay trở về với cộng đồng để phục thiện, sửa sữa lỗi lầm với sự giúp đỡ và giám sát của gia đình, các cơ quan, đoàn thể xã hội [31, tr.177].
Điều 66 BLHS năm 2015 quy định:
“Tha tù trước thời hạn có điều kiện
1. Người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hoặc người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Phạm tội lần đầu;
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
c) Có nơi cư trú rõ ràng;
d) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi
18
thường thiệt hại và án phí;
đ) Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Trường hợp người phạm tội là người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn;
e) Không thuộc một trong các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2
Điều này.
2. Không áp dụng quy định của Điều này đối với người bị kết án thuộc một
trong các trường hợp sau đây:
a) Người bị kết án về một trong các tội quy định tại Chương XIII, Chương XXVI, Điều 299 của Bộ luật này; người bị kết án 10 năm tù trở lên về một trong các tội quy định tại Chương XIV của Bộ luật này do cố ý hoặc người bị kết án 07 năm tù trở lên đối với một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 248, 251 và 252 của Bộ luật này;
b) Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại
khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này.
3. Theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người bị kết án. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách. Thời gian thử thách bằng thời gian còn lại của hình phạt tù.
4. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính 02 lần trở lên trong thời gian thử thách, thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện đối với người đó và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành.
19
Nếu người đó thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó chấp hành hình phạt của bản án mới và tổng hợp với phần hình phạt tù chưa chấp hành của bản án trước theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
5. Người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đã chấp hành được ít nhất là một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách”.
Như vậy, tha tù trước thời hạn không phải là hình phạt, đây là một trong những biện pháp miễn giảm thời gian chấp hành hình phạt tù, được áp dụng với người đang chấp hành hình phạt tù, có thời gian chấp hành hình phạt tù tốt, đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định thì cho phép trở về địa phương tiếp tục cải tạo và tuân thủ các quy định của pháp luật trong thời gian cải tạo tại địa phương.
1.3.3. Phân biệt hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt cảnh cáo
Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có
nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt [48].
Cảnh cáo là hình phạt chính có nội dung cưỡng chế ít nghiêm khắc nhất so với các hình phạt chính khác được quy định trong BLHS. Cảnh cáo được áp dụng không nhằm trực tiếp hạn chế hoặc tước bỏ những quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án như quyền tự do, quyền sở hữu tài sản, quyền sống… mà nó là sự khiển trách công khai của Nhà nước do Tòa án tuyên đối với người bị kết án. Với nội dung thể hiện ở việc Tòa án tuyên bản án buộc tội và thay mặt Nhà nước khiển trách công khai người phạm tội, cảnh cáo gây cho họ những tổn thất nhất định về tinh thần, người bị kết án đã phải chịu sự lên án của Nhà nước về hành vi phạm tội đã thực hiện [23, tr. 179-180].
Dưới hình thức khiển trách công khai người phạm tội trước Tòa án, hình phạt cảnh cáo có tác dụng tác động đến tinh thần người bị kết án, gây cho họ những tổn hại nhất định về mặt tinh thần, đồng thời có tác dụng răn đe, giáo dục họ. Bản án cảnh cáo mà Tòa án áp dụng đã thể hiện sự lên án của Nhà nước đối với người phạm tội.
Theo quy định của Điều 34 thì khi áp dụng hình phạt cảnh cáo với người
phạm tội phải thỏa mãn những điều kiện sau:
20
Thứ nhất, tội phạm người đó thực hiện phải là tội phạm ít nghiêm trọng. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do BLHS quy định đối với tội ấy
là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm (Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015);
Thứ hai, tội phạm người đó thực hiện phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Nhiều tình tiết giảm nhẹ, được hiểu là có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên được quy định tại khoản 1 Điều 51 hoặc tình tiết giảm nhẹ khác theo khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 với điều kiện phải được Tòa án ghi trong bản án, đó là tình tiết nào và vì sao lại coi đó là tình tiết giảm nhẹ được áp dụng.
Thứ ba, tội phạm mà người đó thực hiện chưa đến mức miễn hình phạt.
Hậu quả pháp lý của người bị áp dụng hình phạt cảnh cáo là họ sẽ phải mang án tích trong thời hạn 1 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 01 năm (điểm a khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015).
Như vậy, hình phạt cảnh cáo có tính chất ít nghiêm khắc hơn, việc thi hành ngay và không có sự giám sát của cơ quan, tổ chức hay chính quyền địa phương. Điều kiện để được áp dụng hình phạt cảnh cáo cũng nhiều và phức tạp hơn hình phạt cải tạo không giam giữ.
1.4. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về hình phạt cải tạo
không giam giữ
1.4.1. Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ trước khi ban hành
Bộ luật hình sự 1985
Trước khi ban hành BLHS năm 1985, các tội được quy định ở các văn bản
khác nhau, tương ứng với từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Cụ thể:
21
Hình phạt cải tạo không giam giữ được đề cập đến lần đầu tiên trong Nghị quyết số: 6-LCT/HĐNN7 quy định một số điểm về việc thi hành luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội thông qua ngày 30/12/1981. Khoản 1 Điều 69 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1981 quy định: “Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện thì tuỳ mức độ nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba
tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.
Khoản 1 Điều 6 Pháp lệnh số PL/1982 ngày 30/6/1982 của Chủ tịch Hội đồng nhà nước quy định trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép: “Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép, trốn thuế, không niêm yết giá, nâng giá cao hơn giá niêm yết, không đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, sử dụng trái phép nhãn hiệu hàng hoá hoặc dùng thủ đoạn khác để lừa dối cơ quan Nhà nước và người tiêu dùng thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ ba tháng đến hai năm, hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm, và bị phạt tiền gấp ba lần trị giá hàng phạm pháp”.
Mặc dù đã có sự quan tâm đến hình phạt cải tạo không giam giữ nhưng vai trò của nó chưa cao, vì mới có sự xuất hiện chớp nhoáng của hình phạt này ở một số văn bản pháp luật. Thậm chí, trong các văn bản pháp lý và sách chuyên khảo pháp lý thì khái niệm về hình phạt cải tạo không giam giữ cũng chưa xuất hiện.
Vì mới xuất hiện nên chung quy, hình phạt cải tạo không giữ trước giai đoạn 1985 vẫn chưa được quy định cụ thể. Do điều kiện kinh tế, xã hội khi đó vừa bước vào giai đoạn hoà bình, bắt đầu công tác bảo vệ an ninh và phát triển. Thời điểm này, tâm lý thời chiến còn nặng nề nên việc ban hành những hình phạt nặng vẫn còn ảnh hưởng sâu sắc. Các văn bản pháp luật quy định chủ yếu là hình phạt tù. Tính hình sự hoá được thể hiện rõ rệt. Tuy nhiên, việc xuất hiện hình phạt cải tạo không giam giữ đã bước đầu đánh dấu được nhận thức mới của nhà làm luận về mục đích của hình phạt, tạo tiền đề cho sự phát triển và hoàn thiện pháp luật sau này.
1.4.2 Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự
1985
Bộ luật Hình sự là đạo luật quan trọng nhất của nước ta quy định về tội phạm và hình phạt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trên mọi mặt của xã hội, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân, chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó
22
Tại bộ luật hình sự 1985 này, hình phạt cải tạo không giam giữa đã chính thức được thừa nhận là hình phạt chính, nằm giữa hai hình phạt là phạt tù và phạt
tiền. Ở giai đoạn những năm 1985, sự ra đời của hình phạt cải tạo không giam giữ đã thay thế hoàn toàn vai trò và vị trí của hình phạt quản chế (Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định, có sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền và nhân dân địa phương), đẩy quản chế sang làm hình phạt bổ sung. Để khoảng cách giữa hình phạt tù và các hình phạt không phải là hình phạt tù ngắn lại, hình phạt cải tạo không giam giữ đã được ra đời.
Điều 24 Bộ luật hình sự 1985 có quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ
như sau:
“1- Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến hai năm đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ mọt ngày tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
2- Toà án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan nhà nước
hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát, giáo dục.
3- Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và có thể bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để xung quỹ Nhà nước.
4- Đối với người phạm tội là quân nhân tại ngũ, trong trường hợp Điều luật quy định hình phạt cải tạo không giam giữ thì áp dụng hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội quy định ở Điều 70.”
23
Hình phạt cải tạo không giam giữ ở giai đoạn này được chia thành hai loại khác biệt là: cải tạo không giam giữ và cải tạo ở các đơn vị kỷ luật của quân đội. Đối với người bị kết án là quân nhân tại ngũ nếu Toà tuyên án là hình phạt cải tạo không giam giữ thì áp dụng hình phạt cải tạo tại đơn vị kỷ luật của quân đội quy định ở Điều 70 Bộ luật hình sự. Người phạm tội cũng phải thực hiện một số nghĩa vụ về cải tạo không giam giữ và có thể bị khấu trừ một phần thu nhập tương đương 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước. Đối với người thường dân phạm tội gây thiệt hại cho quân đội, bị Tòa án quân sự xét xử thì áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ quy định ở Điều 24.
Với vai trò là hình phạt chính, cho khi Toà tuyên áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ cho người phạm tội có thể tuyên cùng lúc một (nhiều) hình phạt bổ sung kèm theo. Ví dụ: đối với tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa quy định trong khoản 1 Điều 137 thì Tòa án có thể quyết định thêm hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm một số chức vụ quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa trong thời hạn từ 2 năm đến 5 năm.
Theo thống kê có tất cả 89 điều luật có quy định về cải tạo không giam giữ trong phần tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985 và 20 điều luật quy định về cải tạo ở đơn vị kỷ luật quân đội. Theo đó, ta có thể nhận định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo bộ luật hình sự 1985 như sau:
- Về phạm vi áp dụng hình phạt: Theo điểm 1 và điểm 2 của Nghị quyết số 02-HĐTP-TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có quy định:
“1) Bộ luật hình sự đã quy định rõ những tội phạm nào được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Đồng thời theo khoản 3 Điều 38 của Bộ luật hình sự thì cũng có thể áp dụng hình phạt này đối với những trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định phạt giam nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên được chuyển sang loại hình phạt nhẹ hơn. Hình phạt cải tạo không giam giữ không áp dụng đối với những tội phạm nghiêm trọng, kể cả trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
2) Hình phạt cải tạo không giam giữ nhẹ hơn hình phạt tù giam, do đó, chỉ
áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trong những trường hợp sau đây:
- Có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt.
- Bị cáo không phải là người tái phạm về tội cố ý. Nếu bị cáo là người tái
phạm về tội cố ý thì không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
24
- Bị cáo phải là người có căn cước, lý lịch rõ ràng, có nơi thường trú (vì trong hình phạt cải tạo không giam giữ, Điều 24 Bộ luật hình sự quy định là: “Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để giám sát, giáo dục”). Do đó, nếu bị cáo không có căn cước, lý lịch rõ ràng, không có nơi thường trú thì không áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.”
Đối với hình phạt cải tạo ở các đơn vị kỷ luật của quân đội với quân nhân phạm tội, theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 95-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy chế về chế độ cải tạo không giam giữ và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội có chỉ rõ về nghĩa vụ cải tạo không giam giữ của quân nhân phạm tội như sau:
“Người bị kết án có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách và Luật pháp của Nhà nước: phải tích cực tham gia lao động, học tập và sinh hoạt tập thể, không vi phạm kỷ luật.
Ba tháng một lần người bị kết án phải báo cáo, kiểm điểm việc cải tạo của
mình trước cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục.
Nếu người bị kết án chuyển chỗ ở sang địa phương khác, chuyển hoặc thôi việc ở cơ quan, tổ chức đang giám sát, giáo dục thì người bị kết án phải báo cáo với cơ quan, tổ chức đó và báo với toà án nơi người bị kết án chấp hành hình phạt biết để giao việc giám sát, giáo dục cho chính quyền địa phương nơi ở mới hoặc cơ quan, tổ chức nơi làm việc mới của người bị kết án.”
Điều 70 Bộ luật hình sự 1985 có quy định các hình phạt bổ sung mà Toà án
có thể quyết định thêm đối với người bị kết án như sau:
“1- Cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội là hình phạt chính được áp dụng từ
sáu tháng đến hai năm đối với quân nhân tại ngũ phạm tội ít nghiêm trọng.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, cứ một ngày tạm giam bằng ba ngày cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội.
2- Đối với người phạm tội không phải là quân nhân tại ngũ, trong trường hợp điều luật quy định hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội, thì áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ quy định ở Điều 24.”
Mang đặc thù của hình phạt cải tạo không giam giữ, tuy nhiên đối tượng của hình phạt cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội là quân nhân phạm tội. Mục đích của hình phạt này là không để người phạm tội ở lại đơn vị đang thực hiện nhiệm vụ để tránh xảy ra những hậu quả đáng tiếc liên quan đến bí mật quân sự, an ninh quốc gia.
1.4.3. Quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự
25
1999
Bộ luật hình sự năm 1999, trên cơ sở kế thừa Bộ luật hình sự năm 1985 đã có những sửa đổi cơ bản, toàn diện, thể hiện chính sách hình sự mới của Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đồng thời cũng thể hiện bước tiến bộ mới trong kỹ thuật lập pháp hình sự ở nước ta.
Ở Bộ luật hình sự 1999, hình phạt cải tạo không giam giữ tiếp tục trở thành một trong những hình phạt chính, nằm giữa hình phạt tù và hình phạt tiền, cảnh cáo. Điều 31 bộ luật hình sự năm 1999 ghi nhận những thay đổi về nội dung của hình phạt này như sau:
“1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt, Toà án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.”
Cuối cùng, như đã phân tích ở phần quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ theo Bộ luật hình sự 1985, chúng ta đã nhìn thấy những bất cập mà pháp luật hình sự năm 1985 khi ban hành quy định hình phạt cải tạo không giam giữ ở đơn vị kỷ luật quân đội. Vì vậy, ở Bộ luật hình sự 1999, các nhà làm luật đã bỏ đi hình phạt này. Đây là một quyết định hoàn toàn hợp lý, góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, tạo điều kiện cho thực tế áp dụng được chính xác, minh bạch và công bằng.
Tiểu kết chương 1
26
Hình phat cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt chính trong
27
các hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự, do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng mà có đủ các điều kiện để áp dụng hình phạt này. Hình phạt cải tạo không giam giữ thể hiện sự nghiêm khắc của Nhà nước áp dụng với người phạm tội, tuy nhiên trong hệ thống hình phat thì hình phạt cải tạo không giam giữ ít nghiêm khắc hơn hình phạt tù. Trong Chương 1 tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của hình phạt cải tạo không giam giữ, nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của hình phạt này trong hệ thống pháp luật hình sự cũng như so sánh sự khác biệt của hình phạt này với một vài chế định có đặc điểm giống với hình phạt này. Đồng thời tác giả cũng nghiên cứu pháp luật của một số nước về hình phạt cải tạo không giam giữ để có cơ sở lý luận trong việc áp dụng vào thực tiễn ở nước ta hiện nay.
Chương 2:
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
2.1. Khái quát về tỉnh Bắc Ninh
2.1.1. Điều kiện kinh tế, xã hội tỉnh Bắc Ninh
Vùng đất Bắc Ninh xưa với tên gọi Kinh Bắc đã có từ rất lâu đời và được mang tên Bắc Ninh vào thời nhà Nguyễn (năm 1823). Theo dòng lịch sử với các tên gọi khác nhau như: Bộ, Lộ, Trấn… đến năm 1831, trấn Bắc Ninh đổi thành tỉnh Bắc Ninh. Kể từ đây, Bắc Ninh chính thức có tên trên bản đồ theo đơn vị hành chính là một tỉnh của nước Việt Nam. Năm 1963, tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc, từ ngày 01 tháng 01 năm 1997 tỉnh Bắc Ninh được tái lập.
Hiện nay, tỉnh Bắc Ninh có diện tích 822,7 km2, nằm ở cửa ngõ phía Bắc của thủ đô Hà Nội, trong tam giác tăng trưởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Theo niên giám thống kê tháng 12/2018, dân số Bắc Ninh là 1.247.454 người, trong đó nam giới chiếm 49,2 %, nữ giới 50,8%. Tỉnh có 8 đơn vị hành chính, bao gồm: Thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn và 6 huyện: Tiên Du, Yên Phong, Thuận Thành, Quế Võ, Gia Bình và Lương Tài với 126 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 94 xã, 26 phường và 6 thị trấn.
Bắc Ninh là tỉnh có các đường giao thông lớn quan trọng chạy qua, nối liền tỉnh với các trung tâm kinh tế, thương mại và văn hoá của miền Bắc. Quốc lộ 1A nối Hà Nội - Bắc Ninh - Lạng Sơn; đường cao tốc Quốc lộ 18 nối sân bay Quốc tế Nội Bài - Bắc Ninh - Hạ Long; Quốc lộ 38 nối Bắc Ninh - Hải Dương - Hải Phòng; trục đường sắt xuyên Việt đi Lạng Sơn và Trung Quốc. Mạng lưới đường thuỷ sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình chảy ra biển Đông. Đây là những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và giao lưu với bên ngoài.
28
Sau hơn 20 năm tái lập, từ một tỉnh nông nghiệp thuần túy, đến nay Bắc Ninh đã cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại, với nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đứng trong tốp đầu cả nước. Kinh tế trong năm 2019 phát triển toàn diện, tổng sản phẩm (GRDP) tăng nhẹ 1,1% với quy mô tiếp tục duy trì vị trí thứ 7
toàn quốc, đạt 119.832 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010). GRDP bình quân đầu người đạt 6.163 USD, gấp 2,23 lần so với bình quân cả nước và đứng thứ 2 so với cả nước. Thu nhập bình quân đầu người đạt 73,3 triệu đồng, đứng thứ 5 cả nước.
Về thu ngân sách nhà nước năm 2019 ước đạt 29.912 tỷ đồng, vượt 2.515 tỷ đồng so với dự toán năm, tăng 6,5% so năm 2018, trong đó: Thu nội địa ước 23.662 tỷ đồng, vượt 2.515 tỷ đồng dự toán, tăng 8%; thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 8.900 tỷ đồng, vượt 100 tỷ đồng và tăng 10,3%.
Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1,07 triệu tỷ đồng (giá so sánh 2010), trong đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước 991,2 nghìn tỷ đồng. Duy trì vị trí thứ 1 so với cả nước về quy mô sản xuất. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản 8.223 tỷ đồng (giá so sánh năm 2010), đạt 91,9% kế hoạch năm.
Về giải quyết việc làm, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho 27.200 người lao động (trong đó đưa 1.877 người lao động đi làm việc ở nước ngoài), tỷ lệ lao động qua đào tạo nâng lên 72%. Tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,27%.
Là vùng đất địa linh nhân kiệt, nổi tiếng với bề dày lịch sử văn hóa, Bắc Ninh được biết đến là quê hương của những lễ hội truyền thống. Nơi đây, mỗi năm có khoảng 500 lễ hội lớn, nhỏ được tổ chức vào tất cả các mùa trong năm… Nét văn hóa đặc sắc nhất của Bắc Ninh không thể không nhắc đến, đó là Dân ca Quan họ và những văn hóa gắn liền với loại hình nghệ thuật – nguồn tài sản văn hóa phi vật thể vô giá của nước ta.
Những thành quả đạt được sau hơn 20 năm xây dựng, đổi mới và phát triển của Bắc Ninh không những là niềm vui, niềm tự hào của mỗi người dân trong tỉnh mà còn là động lực, là tiền đề để toàn Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tiếp tục phấn đấu, nỗ lực quyết tâm đưa Bắc Ninh vươn lên tầm cao mới, trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào những năm 20 của thế kỷ XXI theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX [69].
2.1.2. Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh
29
Tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung luôn có chiều hướng gia tăng, tính chất ngày càng tinh vi và đa dạng hơn. Diễn biến của tình hình tội phạm như vậy đã gây ra ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân và truyền thống đạo đức cũng như hình ảnh của vùng quê hương Kinh Bắc.
Những điều kiện tự nhiên, sự chuyển biến về kinh tế - văn hoá - xã hội trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh đã ảnh hưởng đến công tác phòng chống tội phạm. Cụ thể được biểu hiện trên một số phương diện sau :
Thứ nhất, những ảnh hưởng từ đặc điểm tự nhiên và điều kiện kinh tế - xã hội.
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất so với các tỉnh, thành phố trong cả nước, số lượng đơn vị hành chính không nhiều. Nhưng Bắc Ninh có 5 tuyến đường quốc lộ đi qua và 12 đường tỉnh lộ nối tất cả các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh với nhau. Những điều kiện về tự nhiên trên là điều kiện không thuận lợi cho hoạt động quản lý nói chung và hoạt động điều tra nói riêng.
Trình độ dân trí trong dân cư tương đối cao, đã phát huy được tính tích cực, chủ động và dân chủ trong hoạt động tham gia tố tụng đặc biệt trong quá trình điều tra tội phạm đối với người phạm tội đảm bảo tính đúng đắn, khách quan, đúng pháp luật. Tuy nhiên, đây cũng là địa bàn phức tạp, mặt trái của sự phát triển kinh tế - xã hội - văn hoá tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh, phát triển nhiều tệ nạn xã hội. Tốc độ phát triển kinh tế cao, sự hình thành các khu công nghiệp tập trung nhanh chóng làm cho đất đai, sản xuất nông nghiệp bị thu hẹp, đẩy một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn không có việc làm, dẫn đến nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về văn hoá - xã hội, ảnh hưởng của văn hoá ngoại lai… Đây chính là những nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Các tội phạm hình sự nói chung không ngừng gia tăng kèm theo là độ tuổi của người phạm tội càng ngày càng trẻ hóa. Những điều kiện về kinh tế - xã hội nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ ở tỉnh Bắc Ninh. Sự đánh giá chứng cứ, việc xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội của các bị cáo trong quá trình điều tra có những khó khăn nhất định, việc xét xử của Tòa án để đưa ra bản án và nghĩa vụ pháp lý đối với các bị cáo phạm tội đòi hỏi phải cân nhắc kỹ càng để đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Thứ hai, sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương góp phần và tạo điều kiện nâng cao cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động giải quyết các vụ án hình sự nói chung và các vụ án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh.
30
Các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho công tác điều tra xác định tội phạm và người phạm tội cũng chính là đảm bảo cung cấp đầy đủ chứng cứ, tạo điều kiện cho
việc xét xử các vụ án của Toà án được đầy đủ, chính xác. Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Bắc Ninh đã được trang bị tương đối đầy đủ máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc, phương tiện đi lại hiện đại. Các cơ quan bổ trợ tư pháp như cơ quan giám định tư pháp, Đoàn luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý... cũng được quan tâm và hoạt động có hiệu quả. Các cơ quan, đơn vị này ngày càng phát huy được vai trò phản biện xã hội và hỗ trợ cho hoạt động tư pháp, bảo đảm cho chất lượng điều tra cũng như xét xử của Tòa án.
Tội phạm là một hiện tượng xã hội; chúng xuất hiện, phát triển, mất đi đều phụ thuộc vào mức độ và trình độ phát triển của xã hội. Mỗi một biến đổi của xã hội đều tác động "tích cực" hoặc "tiêu cực" đến tình hình tội phạm cũng như công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm. Các điều kiện về tự nhiên, vị trí địa lý, các điều kiện về kinh tế, xã hội của tỉnh Bắc Ninh là những yếu tố thuận lợi cơ bản cho phát triển kinh tế, xã hội; nhưng cũng là những yếu tố thuận lợi để tội phạm hoạt động; và cũng là những yếu tố tác động đến chất lượng, hiệu quả hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội phạm bị xét xử hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng.
2.2. Quy định của pháp luật về hình phạt cải tạo không giam giữ
2.2.1. Hình phạt cải tạo không giam giữ trong Bộ luật hình sự năm 2015
Điều 36 BLHS năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung 2017) quy định:
“1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
31
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hằng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực
hiện nghĩa vụ quân sự.
4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và
không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy
định tại Luật Thi hành án hình sự” [48].
Theo quy định nêu trên, thì:
Thứ nhất, hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính trong hệ thống hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015. Trong phần các tội phạm của BLHS năm 2015, cải tạo không giam giữ là hình phạt không tước tự do được quy định tương đối phổ biến. Trong các điều luật về tội phạm có hơn 200 điều luật quy định hình phạt này ở dạng lựa chọn với hình phạt tù có thời hạn và trong một số trường hợp với cả hình phạt cảnh cáo và phạt tiền. Trong đó có 26 khung hình phạt quy định hình phạt cải tạo không giam giữ là loại hình phạt nghiêm khắc nhất, đó là khoản 1 của các điều 135, 136, 138, 155, 159, 165, 179, 180, 183, 197, 198, 201, 204, 205, 213, 225, 226, 231, 264, 284, 291, 293, 294, 336, 362 và khoản 4 Điều 261.
32
Về nguyên tắc, Tòa án chỉ được phép áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trong trường hợp hình phạt này được điều luật về tội đã phạm quy định. Tuy
nhiên, Tòa án có thể căn cứ vào Điều 54 BLHS để áp dụng hình phạt này đối với tội phạm mà điều luật về tội đó không quy định hình phạt này [23, tr.190].
Thứ hai, hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ được áp dụng áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng (tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt được quy định là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm) hoặc tội phạm nghiêm trọng (tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt được quy định là phạt tù đến 07 năm) trong những trường hợp được BLHS quy định.
Thứ ba, người phạm tội phải là người có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư
trú rõ ràng và xét thấy không cần thiết cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Để có thể xem xét quyết định áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ với người phạm tội, Tòa án không chỉ căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội mà còn phải xác định người phạm tội đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng không. Hình phạt này chỉ được áp dụng với điều kiện người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng và kết hợp tất cả các yếu tố cho phép có thể khẳng định không cần thiết phải cách ly họ khỏi xã hội.
Thứ tư, chủ thể tham gia thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ được giao cho nhiều cơ quan như UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức người bị kết án làm việc. Gia đình của người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với các chủ thể được xác định trên trong việc giám sát, giáo dục người bị kết án.
Thứ năm, người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ bị khấu trừ thu nhập hàng tháng. Theo đó, nghĩa vụ được quy định trong điều luật này là họ bị khấu trừ từ 05% đến 20% thu nhập để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập của người bị kết án để sung quỹ nhà nước là bắt buộc và được thực hiện hàng tháng. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi pham tội, tình hình thu nhập thực tế, tình hình tài sản và hoàn cảnh gia đình cảu người phạm tội, Tòa án quyết định mức khấu trừ thu nhập của người phạm tội. Chỉ trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do vào trong bản án. Khi quyết định hình phạt cải tạo không giam giữ, Tòa án không được khấu trừ thu nhập đối với người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.
33
Về trường hợp người đang chấp hành hình phạt này không có hoặc mất việc làm thì người bị kết án phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng
trong thời gian cải tạo không giam giữ với thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong tuần. Quy định này là cần thiết để đảm bảo cho người bị áp dụng hình phạt này thể hiện việc tự cải tạo qua sự lao động của chính mình. Tuy nhiên, vì lý do nhân đạo nên điều luật quy định biên pháp này không được áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng.
2.2.2. Thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Thủ tục thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Tòa án đã xét xử sơ thẩm phải gửi bản án cho người bị phạt cảnh cáo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội nơi người bị phạt cảnh cáo cư trú hoặc làm việc, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm có trụ sở.
Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự
cấp quân khu có trách nhiệm theo dõi, thống kê, báo cáo theo quy định [49].
Quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ phải ghi rõ họ, tên, chức vụ người ra quyết định; bản án được thi hành; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người chấp hành án; thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ; hình phạt bổ sung, trừ hình phạt bổ sung là hình phạt tiền; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành; Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, Tòa án phải gửi quyết định đó cho cá nhân, cơ quan sau đây [49]:
- Người chấp hành án, người đại diện trong trường hợp người chấp hành án
là người dưới 18 tuổi;
- Viện kiểm sát cùng cấp;
34
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện nơi Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi người chấp hành án làm việc;
- Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục
người chấp hành án;
- Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án phạt cải tạo không giam giữ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải triệu tập người chấp hành án, người đại diện trong trường hợp người chấp hành án là người dưới 18 tuổi đến trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, đơn vị quân đội nơi người đó làm việc để cam kết việc chấp hành án. Người chấp hành án, người đại diện của người chấp hành án phải có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp người chấp hành án không có mặt theo giấy triệu tập hoặc không cam kết thì cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập biên bản vi phạm nghĩa vụ.
Khi nhận được quyết định thi hành án, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập hồ sơ thi hành án và sao gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án. Hồ sơ bao gồm:
- Bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
- Quyết định thi hành án;
- Cam kết của người chấp hành án. Đối với người chấp hành án là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì bản cam kết của người đó phải có xác nhận của người đại diện;
- Tài liệu khác có liên quan.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày triệu tập người chấp hành án, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án phải lập hồ sơ giám sát, giáo dục người chấp hành án. Hồ sơ bao gồm:
35
- Các tài liệu mà cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện cơ quan thi hành án hình sự cấp quân đã gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát;
- Bản nhận xét của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám
sát, giáo dục về việc chấp hành nghĩa vụ của người chấp hành án;
- Bản tự nhận xét của người chấp hành án về việc thực hiện nghĩa vụ chấp hành pháp luật; trường hợp người chấp hành án bị kiểm điểm theo quy định tại Điều 105 của Luật thi hành án hình sự thì phải có bản kiểm điểm và biên bản cuộc họp kiểm điểm;
- Trường hợp được giảm thời hạn chấp hành án, miễn chấp hành án phạt cải
tạo không giam giữ thì phải có quyết định của Tòa án;
- Tài liệu khác có liên quan.
Trước khi hết thời gian chấp hành án 03 ngày, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục bàn giao hồ sơ giám sát, giáo dục cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu. Vào ngày cuối cùng của thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu phải cấp giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ. Giấy chứng nhận phải gửi cho người chấp hành án, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định thi hành án có trụ sở.
Trường hợp người chấp hành án chết, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục thông báo cho cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để thông báo cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình chỉ thi hành án và gửi cho cơ quan quy định tại các điểm b, c, d và đ khoản 2 Điều 96 của Luật thi hành án hình sự.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được
giao giám sát, giáo dục người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án có
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Lập hồ sơ, tổ chức giám sát, giáo dục người chấp hành án; bàn giao hồ sơ
36
cho cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền theo quy định của Luật này;
- Yêu cầu người chấp hành án thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; có biện
pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
- Biểu dương người chấp hành án có nhiều tiến bộ hoặc lập công;
- Giải quyết cho người chấp hành án được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy
định của Luật thi hành án hình sự và pháp luật về cư trú;
- Phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, gia đình và cơ quan, tổ chức nơi
người chấp hành án làm việc, học tập trong việc giám sát, giáo dục người đó;
- Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện để đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án, miễn chấp hành án;
- Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khấu trừ một phần thu
nhập của người chấp hành án theo quyết định của Tòa án để sung quỹ nhà nước;
- Tổ chức giám sát người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động
phục vụ cộng đồng;
- Đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hoặc xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự người chấp hành án trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 105 của Luật thi hành án hình sự;
- Hằng tháng nhận xét bằng văn bản về quá trình chấp hành án của người
chấp hành án và lưu hồ sơ giám sát, giáo dục;
- Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền về kết quả thi hành án.
Công an cấp xã có nhiệm vụ tham mưu, trực tiếp giúp Ủy ban nhân dân cấp
xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên.
Đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án có nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây:
- Lập hồ sơ, tổ chức giám sát, giáo dục người chấp hành án; bàn giao hồ sơ cho cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền theo quy định của Luật thi hành án hình sự;
- Yêu cầu người chấp hành án thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình; có biện
pháp giáo dục, phòng ngừa khi người đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
37
- Biểu dương người chấp hành án có nhiều tiến bộ hoặc lập công;
- Phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khấu trừ một phần thu nhập của người chấp hành án theo quyết định của Tòa án để sung quỹ nhà nước;
- Đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hoặc xem xét, truy cứu trách nhiệm hình sự người chấp hành án trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 105 của Luật thi hành án hình sự
- Hằng tháng nhận xét bằng văn bản về quá trình chấp hành án của người
chấp hành án và lưu hồ sơ giám sát, giáo dục
- Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền về kết quả thi hành án.
- Phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết cho người chấp hành án
được vắng mặt ở nơi cư trú theo quy định của Luật này và pháp luật về cư trú;
- Phối hợp với gia đình và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chấp hành án
cư trú trong việc giám sát, giáo dục người đó;
- Báo cáo cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu để đề nghị Tòa án có
thẩm quyền xem xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án, miễn chấp hành án.
Nghĩa vụ của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
- Có mặt theo giấy triệu tập và cam kết việc chấp hành án theo quy định.
- Chấp hành nghiêm chỉnh cam kết tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế của nơi cư trú, nơi làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; chấp hành đầy đủ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, các hình phạt bổ sung theo bản án của Tòa án.
- Thực hiện nghĩa vụ nộp phần thu nhập bị khấu trừ; thực hiện một số công
việc lao động phục vụ cộng đồng theo quy định của pháp luật.
- Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
- Chấp hành quy định việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc
nơi làm việc của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.
38
- Có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
- Hằng tháng phải nộp bản tự nhận xét về việc thực hiện nghĩa vụ chấp hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 100 của Luật thi hành án hình sự.
Giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc
của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
Người chấp hành án có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 30 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian chấp hành án, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
Người chấp hành án khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người chấp hành án khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người chấp hành án vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
Việc giải quyết trường hợp người chấp hành án thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc trong quân đội được thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật thi hành án hình sự.
Người chấp hành án không được xuất cảnh trong thời gian chấp hành án.
Việc lao động, học tập của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ
[49]
39
Người chấp hành án là cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân và viên chức quốc phòng, công nhân công an, người lao động nếu được tiếp tục làm việc tại cơ quan, tổ chức thì được bố trí công việc bảo đảm yêu cầu giám sát, giáo dục, được hưởng tiền lương và chế độ
khác phù hợp với công việc mà họ đảm nhiệm, được tính vào thời gian công tác, thời gian tại ngũ theo quy định của pháp luật.
Người chấp hành án được cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp
tiếp nhận học tập thì được hưởng quyền lợi theo quy chế của cơ sở đó.
Người chấp hành án không thuộc trường hợp trên thì được Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi người đó chấp hành án tạo điều kiện tìm việc làm.
Người chấp hành án thuộc đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, người đang hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thì thực hiện theo quy định của pháp luật.
Người chấp hành án không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian
chấp hành án thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày người chấp hành án được xác định là không có việc làm hoặc bị mất việc làm, Công an cấp xã có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cùng cấp; trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải xem xét, quyết định buộc người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.
Báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã, quyết định của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải nêu rõ loại công việc, thời gian lao động phục vụ cộng đồng dự kiến buộc người chấp hành án phải thực hiện.
Căn cứ quyết định buộc người chấp hành án phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng, Ủy ban nhân dân cấp xã giao cho người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng dưới sự giám sát của Công an cấp xã.
Giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
Người chấp hành án có thể được Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự
40
khu vực quyết định giảm thời hạn chấp hành án khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Đã chấp hành được một phần ba thời hạn án phạt; đối với người dưới 18
tuổi thì phải chấp hành được một phần tư thời hạn án phạt;
- Trong thời gian thử thách người chấp hành án đã chấp hành nghiêm chỉnh các nghĩa vụ theo quy định; tích cực học tập, lao động, sửa chữa lỗi lầm hoặc lập thành tích trong lao động, bảo vệ an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền khen thưởng;
- Bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự trong trường hợp có nghĩa vụ
dân sự.
Người chấp hành án mỗi năm được xét giảm thời hạn chấp hành án 01 lần,
mỗi lần có thể được giảm từ 03 tháng đến 09 tháng.
Người chấp hành án có thể được giảm thời hạn chấp hành án nhiều lần nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là một phần hai mức án, đối với người chấp hành án là người dưới 18 tuổi thì phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là hai phần năm mức án.
Người chấp hành án đã lập công, người đã quá già yếu hoặc người bị bệnh hiểm nghèo đã chấp hành được một phần tư thời hạn án phạt thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành án, mức giảm mỗi lần cao nhất là 01 năm nhưng phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành án là hai phần năm mức án.
Người chấp hành án là người dưới 18 tuổi nếu lập công hoặc bị bệnh hiểm nghèo thì được xét giảm ngay. Trường hợp đã chấp hành được hai phần năm mức án thì có thể được giảm hết thời hạn còn lại.
Thủ tục giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án có trách nhiệm rà soát người đủ điều kiện giảm thời hạn chấp hành án, báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu kèm theo tài liệu có liên quan để đề nghị giảm thời hạn chấp hành án.
41
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện lập hồ sơ và có văn bản đề nghị giảm thời hạn chấp hành án đối với người có đủ điều kiện gửi đến Tòa án và Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp xét thấy không đủ điều kiện lập hồ sơ giảm thời hạn chấp hành án, cơ
quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án.
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu lập hồ sơ và có văn bản đề nghị giảm thời hạn chấp hành án đối với người có đủ điều kiện gửi đến Tòa án và Viện kiểm sát quân sự khu vực. Trường hợp xét thấy không đủ điều kiện lập hồ sơ giảm thời hạn chấp hành án, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu có văn bản thông báo cho đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án.
Hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án bao gồm:
- Đơn đề nghị giảm thời hạn chấp hành án của người chấp hành án;
- Bản sao bản án. Đối với trường hợp xét giảm thời hạn chấp hành án từ lần
thứ hai thì bản sao bản án được thay bằng bản sao quyết định thi hành án;
- Văn bản đề nghị giảm thời hạn chấp hành án của Ủy ban nhân dân cấp xã,
đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án;
- Trường hợp người chấp hành án được khen thưởng hoặc lập công thì hồ sơ phải có quyết định khen thưởng hoặc giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người chấp hành án lập công; trường hợp bị bệnh hiểm nghèo thì phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh của họ; tài liệu thể hiện đã thực hiện được một phần nghĩa vụ dân sự;
- Trường hợp người chấp hành án đã được giảm thời hạn chấp hành án thì
phải có bản sao quyết định giảm thời hạn chấp hành án;
- Tài liệu khác có liên quan.
42
Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đề nghị giảm thời hạn chấp hành án, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người chấp hành án cư trú hoặc làm việc thành lập Hội đồng và tổ chức phiên họp để xét, quyết định giảm thời hạn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ. Thành phần Hội đồng gồm 03 Thẩm phán; phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp hồ sơ phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hoặc không chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người chấp hành án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, cơ quan đề nghị giảm thời hạn chấp hành án, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định cho giảm thời hạn chấp hành án có trụ sở.
Thủ tục miễn chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người chấp hành án đang cư trú, làm việc, tự mình hoặc theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu xem xét, lập hồ sơ đề nghị Tòa án cùng cấp xét miễn chấp hành án. Hồ sơ bao gồm:
- Bản sao bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
- Văn bản đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát;
- Văn bản đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự trong trường hợp cơ quan
này đề nghị;
- Đơn xin miễn chấp hành án của người bị kết án hoặc người đại diện theo
quy định của pháp luật;
- Xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người bị kết án đã lập công; kết luận của bệnh viện cấp tỉnh, bệnh viện cấp quân khu trở lên về tình trạng bệnh của người bị kết án bị bệnh hiểm nghèo; xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về việc người bị kết án chấp hành tốt pháp luật, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ quy định tại khoản 1 Điều này, Chánh án Tòa án có thẩm quyền thành lập Hội đồng và tổ chức phiên họp để xét, quyết định miễn chấp hành án. Thành phần Hội đồng gồm 03 Thẩm phán; phiên họp có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp. Trường hợp hồ sơ phải bổ sung theo yêu cầu của Tòa án thì thời hạn mở phiên họp được tính từ ngày nhận được hồ sơ bổ sung.
43
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định về việc miễn chấp hành án, Tòa án phải gửi quyết định đó cho người bị kết án, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp, Tòa án đã ra quyết định thi hành án, cơ quan
thi hành án hình sự cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục người chấp hành án, Sở Tư pháp nơi Tòa án đã ra quyết định miễn chấp hành án có trụ sở.
Xử lý vi phạm đối với người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
Trường hợp người chấp hành án cố ý vi phạm nghĩa vụ thì Công an cấp xã, đơn vị quân đội lập biên bản về việc vi phạm. Trường hợp đã lập biên bản về việc vi phạm nghĩa vụ 02 lần nhưng người chấp hành án vẫn tiếp tục vi phạm thì Công an cấp xã đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục tổ chức kiểm điểm người đó; trường hợp người chấp hành án do đơn vị quân đội giám sát, giáo dục thì đơn vị quân đội tổ chức kiểm điểm người đó.
Việc kiểm điểm phải được lập thành biên bản, lưu hồ sơ giám sát, giáo dục và báo cáo cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu.
Người chấp hành án đã bị kiểm điểm nhưng tiếp tục cố ý không chấp hành nghĩa vụ thì không được xem xét giảm thời hạn chấp hành án. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hoặc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trách nhiệm giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức và gia đình đối với
người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ [49]
Cơ quan, tổ chức có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân
cấp xã, đơn vị quân đội trong việc giám sát, giáo dục người chấp hành án.
Gia đình người chấp hành án có trách nhiệm phối hợp trong việc giám sát, giáo dục và thông báo kết quả chấp hành án của người chấp hành án cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục khi có yêu cầu; phải có mặt tại cuộc họp kiểm điểm người chấp hành án theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục.
2.3. Thực tiễn áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên địa bàn
44
tỉnh Bắc Ninh
Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ hiện nay trong cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói riêng vẫn còn chiếm tỉ lệ thấp so với các hình phạt khác (xem Phụ lục Bảng 2.1 và Bảng 2.2)
2.3.1. Bản án tiêu biểu về áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Ngày 24/6/2019, Công an huyện QV, tỉnh BN tiến hành kiểm tra hành chính 02 khu nhà trọ của gia đình chị Trần Thị Th, sinh năm 1983, ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện QV, tỉnh BN và của gia đình bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1969, ở thôn Đỉnh, trị trấn Phố Mới, huyện QV, tỉnh BN. Quá trình kiểm tra thu giữ nhiều hồ sơ, sổ sách, giấy tờ liên quan đến hoạt động cho vay tiền. Tiếp đến ngày 15/7/2019, các tổ công tác của Công an tỉnh BN đã tiến hành kiểm tra đối với 04 cơ sở hoạt động kinh doanh cho vay tiền tại thôn Hữu Ái, xã Tân Lãng, huyện LT, tỉnh BN; tại Ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện TT, tỉnh BN; tại số 105 thôn Duệ Đông, thị trấn Lim, huyện TD, tỉnh BN; số 858 Ba Huyện, phường Khắc Niệm, thành phố BN. Quá trình kiểm tra, khám xét đã thu giữ nhiều sổ sách, tài liệu theo dõi việc vay tiền, trả tiền tại các cơ sở.
Quá trình điều tra xác định: Cả 06 cơ sở kinh doanh cho vay tiền nêu trên đều không có giấy phép hoạt động, cho vay dưới hình thức “bốc bát họ”, nghĩa là khách đến vay 01 khoản tiền sẽ tương ứng với 01 bát họ. Thời gian vay 01 bát họ trong vòng 60 ngày, với lãi suất là 20%/60 ngày, tương ứng với 0,333%/ ngày, 10%/tháng, 120%/1 năm. Đây là lãi suất cố định, nếu khách trả tiền trước thì vẫn phải trả đủ số tiền lãi của 60 ngày. Khách vay cần trả tiền gốc và lãi suất được chia đều cho 12 kỳ, mỗi kỳ là 5 ngày, nếu đồng ý thỏa thuận, khách sẽ viết giấy biên nhận (giấy biên nhận do cơ sở làm mẫu sẵn), để lại số điện thoại liên lạc, giấy tờ tùy thân như Chứng minh nhân dân, số hộ khẩu hoặc giấy phép lái xe, giấy đăng ký xe… Sau đó, người cho vay ghi vào sổ theo dõi thông tin khách vay với các nội dung: Tên người vay, ngày vay, số tiền vay, số điện thoại liên lạc và lịch trả nợ. Khi người vay trả đủ tiền gốc và lãi thì cơ sở sẽ tất toán và trả lại các giấy tờ trên. Việc ghi chép sổ sách như vậy giúp người cho vay dễ theo dõi, thống kê kết quả cho vay và thu lãi. Hành vi phạm tội của các bị cáo tại các cơ sở như sau:
45
...
5. Tại cơ sở ở Ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện TT, tỉnh BN do Nguyễn
Kim Th làm chủ:
Quá trình kiểm tra tại cơ sở không thu giữ tài liệu gì liên quan đến cho vay lãi nặng; Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Kim Th, ở Tổ 5, phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội, thu giữ: 02 quyển số bìa nhựa màu trắng (01 quyền có 29 trang; 01 quyền có 16 trang) ghi thông tin tên, tuổi, địa chỉ của khách hàng vay tiền.
Quá trình điều tra xác định: Khoảng tháng 7/2018, Thủy nhờ một người tên Mạnh, sinh năm 1990, ở Quốc Oai- Hà Nội (không rõ tuổi, địa chỉ cụ thể) đến thuê nhà ở Ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện TT, tỉnh BN của gia đình bà Đàm Thị Tiến, sinh năm 1955 để Th mở cơ sở kinh doanh cho vay tiền bằng hình thức bốc bát họ. Th đầu tư vốn ban đầu khoảng 300.000.000đ, trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động của cơ sở. Khi khách đến vay tiền đủ điều kiện, khả năng trả nợ thì Th hướng dẫn khách viết “giấy biên nhận tiền” , khách để lại giấy tờ tùy thân làm tin, sau đó, Th sẽ viết thông tin khách vay vào sổ để theo dõi và đôn đốc trả nợ. Khi tất toán khoản vay Th sẽ hủy giấy biên nhận, trả lại giấy tờ cho khách vay.
tỉnh Thái Bình trả
Cuối năm 2018, Th thuê M và Tùng, ở Gia Lâm- Hà Nội (không rõ tuổi, địa chỉ cụ thể), Bùi Đắc N, sinh năm 1990, hộ khẩu thường trú tại thôn Phù Dực 2, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội trả lương 6.000.000đồng/ tháng. Đến tháng 7/2019 thuê Vũ Tuấn A, sinh năm 2002, ở xóm Khưu Ba, xã Cù Vân, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và Nguyễn Minh Ngh, sinh năm 2001, ở thôn Quân Hành, xã Bình Nguyên, huyện Kiến Xương, lương 4.000.000đồng/ tháng, những người này được Th thuê để giúp Th đi xác minh điều kiện vay và thu tiền của khách đến hạn trả nợ.
46
Tiến hành tổng hợp tại 02 quyển sổ đã thu giữ tại nơi ở của Nguyễn Kim Th xác định: Tại quyển sổ 16 trang thể hiện vào các ngày 15,16,17/9/2018 Th cho 16 người vay tiền và đều đã trả đủ gốc và lãi số tiền 230.000.000đ tiền gốc; tiền lãi đã thu được 46.000.000đ. Trong đó, số tiền lãi được thu tối đa theo quy định Nhà nước là 7.561.644đ, số tiền thu lợi bất chính là: 38.438.356đ. Tiến hành xác minh, lấy lời khai đối với 12/16 người vay tiền nêu trên, đối chiếu lời khai và các thông tin trong sổ là trùng khớp với nhau. Đối với quyển sổ 29 trang Th cũng chép lại từ sổ gốc, có ghi thông tin tên người vay, địa chỉ, số điện thoại nhưng không ghi số tiền vay, ngày
vay, ngày trả.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, xác định được trong khoảng thời gian từ tháng 10/2018 đến tháng 7/2019 Th còn cho 8 người /23 lượt vay với tổng số tiền cho vay là 445.000.000đ. Trong đó, có 15 lượt người vay đã trả đủ gốc và lãi số tiền 280.000.000đ tiền gốc, số tiền lãi thu được là 56.000.000đ. Tiền lãi được thu tối đa theo quy định Nhà nước là 9.205.479đ. Số tiền thu lợi bất chính là 56.000.000đ- 9.205.479đ = 46.794.521đ. Lời khai của những người này đều xác định: Đã vay tiền tại cơ sở Ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện TT do Th làm chủ, có đặt giấy tờ tùy thân làm tin và phải trả lãi suất 20%/60 ngày cho khoản vay. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho 8 người vay trên đối chất với Th và Th thừa nhận là đúng, không có ý kiến gì.
Như vậy xác định từ ngày 15/9/2018 đến tháng 7/2019 Nguyễn Kim Th đã cho 24 người/ 31 lượt vay tiền đã trả đủ gốc, lãi. Số tiền gốc là 510.000.000đ, số tiền lãi đã thu được là: 102.000.000đ. Số tiền lãi được thu tối đa theo quy định của Nhà nước là 16.767.123đ. Số tiền thu lợi bất chính là 85.232.877đ.
6. Tại cơ sở cho vay ở thôn Hữu Ái, xã Tân Lãng, huyện LT, tỉnh BN do Đỗ
Đức T quản lý:
Quá trình kiểm tra tại cơ sở không thu giữ được tài liệu có liên quan đến việc cho vay lãi nặng. Ngày 19/7/2019, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh BN đã bắt giữ khẩn cấp đối với Đỗ Đức T, sinh năm 1989 HKTT ở thôn Trường Giang, xã Thanh Xuân, huyện TH, tỉnh HD về hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Quá trình điều tra xác định: Khoảng tháng 12/2018, T thuê nhà của gia đình bà Nguyễn Thị Nga, sinh năm 1951 tại thôn Hữu Ái, xã Tân Lãng, huyện LT, tỉnh BN để mở cơ sở cho vay tiền bằng hình thức bốc bát họ. Đỗ Đức T đầu tư vốn ban đầu khoảng 200.000.000đ, trực tiếp quản lý, điều hành việc cho vay và thu tiền lãi. Khi khách muốn vay tiền nếu T kiểm tra điều kiện, khả năng trả nợ, rồi hướng dẫn khách viết “giấy biên nhận tiền” do T chuẩn bị mẫu từ trước, khách để lại giấy tờ tùy thân làm tin. Sau đó, T sẽ viết thông tin khách vay vào sổ để theo dõi và đôn đốc trả nợ. Khoảng đầu tháng 4/2019, T thuê Nguyễn Đình B, sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú ở thôn Sơn Trung, xã Yên Sơn, huyện QO, thành phố HN để đi thu tiền của khách vay đến kỳ hạn trả với mức lương 7.000.000đ/ tháng.
47
Tiến hành xác minh, làm việc với 27 người vay tiền tại cơ sở của T, xác định
T đã cho 27 người/40 lượt vay với số tiền 810.000.000đ, trong đó có 12 người/17 lượt vay đã thanh toán gốc, lãi với số tiền 310.000.000đ tiền gốc, T đã thu được lãi 62.000.000đ. Số tiền lãi tối đa được thu theo quy định Nhà nước là 10.191.781đ. Số tiền thu lợi bất chính là 51.808.219đ.
Đối với sổ sách, giấy tờ cho vay tại cơ sở theo T khai nhận do một thanh niên tên là Tùng (không rõ tuổi, địa chỉ) ở Hà Nội là người thuê Toàn làm quản lý với mức lương 10.000.000đ đã yêu cầu T giao lại từ cuối tháng 6/2019 để Tùng quản lý do vậy không thu giữ được
Với nội dung trên, tại Bản Cáo trạng số 60/CT-VKS-P1 ngày 21 tháng 6 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BN đã .... Truy tố các bị cáo Nguyễn Kim Th và Đỗ Đức T về tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" theo khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, các bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản Cáo
trạng truy tố.
...
Bị cáo Nguyễn Kim Th thừa nhận có đầu tư và mở cơ sở kinh doanh cho vay tiền dưới hình thức bốc bát họ tại Ngã tư Đông Côi, thị trấn Hồ, huyện TT, tỉnh BN. Bị cáo Thủy là người trực tiếp quản lý, điều hành hoạt động của cơ sở. Thủy thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố, theo đó số tiền thu lợi bất chính là 85.232.877 đồng, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo mức hình phạt thấp nhất và cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo Đỗ Đức T thừa nhận có mở cơ sở cho vay tiền dưới hình thức bốc bát họ tại thôn Hữu Ái, xã Tân Lãng, huyện LT, tỉnh BN. Toàn là người trực tiếp quản lý, điều hành, trực tiếp làm việc hướng dẫn khách đến vay tiền. Quá trình cơ sở làm việc, Toàn thu lợi bất chính số tiền là 51.808.219 đồng. Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
…
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
48
[1] Tại phiên tòa hôm nay, tất cả 07 bị cáo đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ
quan điều tra, lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, vì vậy Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận:
Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2018 đến ngày 15/7/2019 tại địa bàn các huyện LT, TT, QV và thành phố BN có 05 cơ sở có hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự bằng hình thức “bốc bát họ” do Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Anh Dũng, Nguyễn Kim Th, Đỗ Đức T, Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn Thị Nh, Đào Thị Thúy Hằng thực hiện lấy lãi suất cao hơn nhiều lần so với mức lãi suất Nhà nước quy định. Cụ thể: Tại các cơ sở này các bị cáo quy định chung mức lãi suất là 0,333%/ ngày, tương đương với 10%/tháng, 120%/năm. Trong khi đó, quy định của pháp luật chỉ cho phép cho vay với lãi suất tối đa không quá 20%/năm tương đương với 1,67%/tháng và 0,054%/ngày. Như vậy, lãi suất các Bị cáo cho vay cao gấp 6,083 lần so với mức lãi suất cao nhất của Nhà nước. Số tiền thu lợi bất chính của từng bị cáo được xác định như sau: Bị cáo Nguyễn Tiến Dũng làm chủ 02 cơ sở chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính là: 1.967.876.712đ; Bị cáo Lê Anh D chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính: 1.146.465.753đ; Bị cáo Nguyễn Thị Nh giúp sức cho Nguyễn Tiến Dũng tại cơ sở cho vay tiền ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện QV và giúp sức Lê Anh D tại cơ sở ở số 150 Lý Thường Kiệt, thị trấn Lim, huyện TD, tỉnh BN chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính: 1.672.904.110đ; Bị cáo Nguyễn Trung Hiếu giúp sức cho Nguyễn Tiến Dũng từ khi mở cơ sở cho vay tiền tại thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện QV, tỉnh BN chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính là: 1.673.739.726đ; Bị cáo Đào Thị Thúy Hằng giúp sức cho Bị cáo Nguyễn Tiến Dũng tại cơ sở cho vay tiền tại số 858 Ba Huyện, phường Khắc Niệm, thành phố BN chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính là: 294.136.986đ; Bị cáo Nguyễn Kim Th chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính là: 85.232.877đ; Bị cáo Đỗ Đức T chịu trách nhiệm hình sự số tiền thu lợi bất chính là: 51.808.219đ.
49
Do đó, hành vi của các bị cáo Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Thị Nh, Lê Anh D, Nguyễn Trung Hiếu, Đào Thị Thúy Hằng đã phạm tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" theo quy định tại khoản 2 Điều 201 Bộ luật hình sự. Các bị cáo còn lại gồm: Nguyễn Kim Th và Đỗ Đức T phạm tội "Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự" theo quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BN đã truy tố các bị cáo về tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch
dân sự” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và có căn cứ.
[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính. Các bị cáo đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn, nhu cầu cần tiền của người vay tiền để cho vay với lãi suất cao gấp nhiều lần quy định của pháp luật, thu lợi bất chính, làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế của nhiều gia đình và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương. Hành vi phạm tội của các bị cáo còn là nguyên nhân của nhiều tội phạm khác, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo theo pháp luật hình sự để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét tính chất và vai trò của từng bị cáo trong vụ án thì thấy: Trong vụ án này, mặc dù Nguyễn Tiến Dũng mở ra 02 cơ sở, nhưng các cơ sở đều cho vay độc lập với nhau, cơ sở tại khu Ba Huyện do Dũng trực tiếp quản lý, còn cơ sở ở thôn Giang Liễu do Dũng thuê Nguyễn Trung Hiếu quản lý. Đối với Nguyễn Thị Nh được thuê làm kế toán tại 02 cơ sở do Nguyễn Tiến Dũng và Lê Anh D làm chủ; vì vậy các bị cáo phạm tội mang tính chất đồng phạm giản đơn. Bị cáo Nguyễn Tiến Dũng và Lê Anh D giữ vai trò chính, là người khởi sướng, chuẩn bị vốn, điều hành và hưởng lợi bất chính toàn bộ số tiền lãi thu được từ hoạt động cho vay lãi nặng. Các bị cáo Nguyễn Thị Nh, Đào Thị Thúy Hằng, Nguyễn Trung Hiếu lại đều là người được Nguyễn Tiến Dũng và Lê Anh D thuê quản lý, kế toán các cơ sở riêng lẻ, giữ vai trò đồng phạm giúp sức. Các cơ sở còn lại của Nguyễn Kim Th và Đỗ Đức T do trực tiếp Th và T là người quản lý, điều hành, không có đồng phạm giúp sức.
Đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng bị cáo phụ thuộc vào số tiền thu lợi bất chính của từng cơ sở do các bị cáo quản lý. Do đó khi quyết định hình phạt cần phải áp dụng mức hình phạt cao nhất đối với bị cáo Nguyễn Tiến Dũng, sau đó đến bị cáo Lê Anh D và các bị cáo còn lại. Đối với bị cáo Nguyễn Kim Th và Đỗ Đức T quản lý cơ sở độc lập không liên quan đến các cơ sở của Nguyễn Tiến Dũng và Lê Anh D nên phải chịu trách nhiệm hình sự đối với cơ sở do mình quản lý.
[3] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của
các bị cáo, HĐXX nhận thấy:
50
- Về nhân thân: Đối với bị cáo Đỗ Đức T, Tại bản án số 296/2011/HSST ngày
20/6/2011 của TAND quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích. Bị cáo chấp hành xong bản án ngày 29/4/2013 Các bị cáo còn lại đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Tiến Dũng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 02 cơ sở, bị cáo Nhung phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 02 cơ sở mà được thuê làm kế toán, trong số đó các cơ sở này đều có số tiền thu lợi bất chính lớn hơn 100.000.000đ, vì vậy các bị cáo Tiến Dũng và Nhung phải chịu tình tiết tăng nặng "Phạm tội 02 lần trở lên" quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, 07 bị cáo đều thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Các bị cáo Đào Thị Thúy Hằng, Lê Anh D đến cơ quan điều tra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, HĐXX xét thấy …
Các bị cáo Nguyễn Kim Th, Đỗ Đức T phạm tội tại khoản 1 Điều 201 BLHS, do đó cần áp dụng hình phạt là cải tạo không giam giữ đối với 02 bị cáo. Xét 02 bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định do đó cần miễn việc khấu trừ thu nhập hàng tháng là phù hợp.
…
Vì các lẽ trên;
...
1. Tuyên bố các bị cáo: …, Nguyễn Kim Th, Đỗ Đức T phạm tội "Cho vay lãi
nặng trong giao dịch dân sự".
….
- Áp dụng khoản 1, 3 Điều 201; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật
hình sự, xử phạt bị cáo:
51
Nguyễn Kim Th 18 (mười tám) tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Thủy
cho UBND phường Giang Biên, quận Long Biên, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 30.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước.
- Áp dụng khoản 1, 3 Điều 201; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 36 Bộ luật
hình sự, xử phạt bị cáo:
Đỗ Đức T 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 19/7/2019 đến ngày 28/7/2019. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã Thanh Xuân, huyện TH, tỉnh HD nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Giao bị cáo Toàn cho UBND xã Thanh Xuân, huyện TH, tỉnh HD giám sát giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 30.000.000đ để sung công quỹ Nhà nước.
Người bị kết án phạt Cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ
theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
...
Từ các bản án thực tiễn trên, chúng ta thấy hình phạt cải tạo không giam giữ
được áp dụng có những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng và khoản 1 của điều luật được quy
định
Thứ hai, bị cáo phải là người có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, ăn năn
hối cải, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng.
Thứ ba, việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ vẫn thể hiện được
tính nghiêm minh của pháp luật tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
Thứ tư, Tòa án thấy rằng không nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi môi
trường xã hội mà vẫn có thể cải tạo tốt người phạm tội.
2.3.2. Hạn chế trong quy định của pháp luật
52
Hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định trong BLHS thể hiện quan điểm nhân đạo và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, đồng thời chứng tỏ khả năng tự giáo dục, cải tạo trở thành người có ích cho xã hội của họ. Tuy nhiên, hiện nay việc quan tâm nghiên cứu cũng như áp dụng trên thực tiễn còn nhiều vướng mắc.
Cải tạo không giam giữ được quy định là hình phạt chính trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), hình phạt này được quy định tại các Điều 32, 36, 55, 63 và 100, thể hiện một số hạn chế như sau:
Về điều kiện áp dụng cải tạo không giam giữ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 BLHS, các điều kiện để áp dụng hình
phạt cải tạo không giam giữ là:
* Điều kiện về tính chất tội phạm: Theo đó, hình phạt này chỉ được áp dụng
đối với người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng.
* Điều kiện về cải tạo: Người phạm tội phải có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng. Điều kiện này nhằm bảo đảm cho việc áp dụng hình phạt có hiệu quả, đồng thời thuận lợi cho người bị kết án. Bản chất hình phạt Cải tạo không giam giữ là không tước tự do của người bị kết án nhưng mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội vẫn đạt được khi người đó chịu sự giám sát của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, gia đình.
* Điều kiện về không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội: Điều kiện này có thể hiểu là việc Tòa án không cách ly người phạm tội khỏi xã hội nhưng vẫn có căn cứ để giáo dục, cải tạo người đó trở thành người có ích, không hoặc ít ảnh hưởng đến việc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đối với điều kiện thứ nhất, mặc dù luật đã quy định rõ ràng, cải tạo không giam giữ chỉ áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cần mở rộng thêm phạm vi áp dụng hình phạt này đối với trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý và có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Bởi vì trường hợp này, người phạm tội có lỗi vô ý, tức là họ không mong muốn hậu quả xảy ra đồng thời có nhiều tình tiết giảm nhẹ cho thấy tính nguy hiểm của hành vi đã thực hiện là không lớn do đó nên được áp dụng cải tạo không giam giữ.
53
Đối với điều kiện thứ ba, việc xét thấy cần thiết hay không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội là điều kiện mở, phụ thuộc vào sự phân tích, đánh giá hồ sơ, nhận định của HĐXX. Mặc dù vậy, trong quá trình giải quyết, một trong những căn cứ quan trọng để hầu hết các HĐXX xem xét vấn đề này là căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, để có cơ sở pháp lý, tạo sự thống nhất trong quá trình đánh giá, cần thiết quy định điều kiện về tình tiết giảm
nhẹ để làm cơ sở xem xét áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Cụ thể, người phạm tội phải có từ 2 tình tiết giảm nhẹ trở lên mới được áp dụng hình phạt này.
Về nghĩa vụ của người bị kết án
Theo khoản 3 Điều 36 BLHS, người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập để sung quỹ nhà nước. Cụ thể, theo Điều 99 Luật Thi hành án hình sự 2019, người bị kết án cải tạo không giam giữ phải chấp hành nghiêm cam kết của mình trong việc tuân thủ pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân, nội quy, quy chế nơi cư trú, làm việc; tích cực tham gia lao động, học tập; có mặt theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục… Đặc biệt, người bị kết án về hình phạt này còn phải chịu nghĩa vụ là khấu trừ một phần thu nhập. Theo quy định hiện nay, người bị kết án phải khấu trừ một phần thu nhập từ 5%-20% để sung vào công quỹ. Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Đây là quy định thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, tuy nhiên qua thực tiễn xét xử hiện nay, đa phần các bản án đều ghi rõ “Miễn khấu trừ thu nhập đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm và thu nhập thường xuyên”. Đối với việc hiểu thế nào là trường hợp đặc biệt thì chưa có hướng dẫn cụ thể, dẫn đến việc áp dụng không thống nhất, tùy tiện cho miễn khấu trừ thu nhập. Việc người bị phạt cải tạo không giam giữ bị khấu trừ thu nhập là quy định bắt buộc nên để làm căn cứ cho việc khấu trừ thì phải biết được nguồn thu nhập của người đó trong tháng là bao nhiêu. Đối với những người không có thu nhập ổn định hoặc không tự chứng minh được thu nhập thì việc xác định là rất khó khăn. Đây là lý do dẫn đến việc miễn khâu trừ tùy tiện với lý do “không có thu nhập ổn định thường xuyên” mà không cần xem xét đây có phải “trường hợp đặc biệt hay không”. Điều này làm cho tính cưỡng chế của cải tạo không giam giữ thấp đi, hay nói cách khác, hình phạt chỉ nặng về “không giam giữ” và hạn chế ở việc “cải tạo”.
54
Trong trường hợp này, nếu người bị kết án không có thu nhập ổn định thường xuyên thì cần lấy thu nhập trung bình hoặc mức lương cơ sở ở địa phương làm cơ sở tính khấu trừ (tương tự quy định liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng). Đồng thời phải ấn định thời hạn thực hiện việc khấu trừ (trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ).
Như vậy, mặc dù quy định của BLHS 2015 đã quy định đầy đủ, chi tiết về hình phạt này tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định cần các cơ quan chức năng tiếp tục triển khai hướng dẫn áp dụng trong thời gian tới.
2.3.3. Hạn chế trong áp dụng pháp luật về hình phạt cải tạo không giam
giữ
Kể từ khi BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đến nay, hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại điều 36 có nhiều điểm mới so với Điều 31 của BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Những điểm mới này chưa được hướng dẫn cụ thể nên cách hiểu còn có sự khác nhau dẫn đến việc áp dụng còn chưa thống nhất. Cụ thể [70]:
Về quy định Tòa án giao bị cáo để giám sát giáo dục:
Tình huống pháp luật: Bị cáo Nguyễn Văn A có hộ khẩu thường trú tại xã B, huyện C, tỉnh D. Bị cáo là công nhân công ty Z thuộc tỉnh Y. Ngày 20/02/2020 bị cáo bị TAND huyện C xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội trộm cắp tài sản. Giao bị cáo cho Công ty Z là nơi bị cáo đang làm việc giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Việc Tòa án tuyên như vậy có 02 quan điểm.
Quan điểm thứ nhất: Việc Tòa án giao bị cáo cho Công ty Z là nơi bị cáo đang làm việc giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 36 BLHS: “Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát giáo dục...”.
Như vậy, BLHS quy định cụ thể cho từng trường hợp bị phạt cải tạo không giam giữ là người có việc làm, người đang học tập và người không có việc làm cho cơ quan, tổ chức hoặc UBND để giám sát, giáo dục nhằm quản lý chặt chẽ những người bị phạt cải tạo không giam giữ.
55
Quan điểm thứ hai cho rằng phải giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã B nơi bị cáo thường trú giám sát, giáo dục. Vì theo quy định tại Điều 11 Luật thi hành án hình sự 2019 thì Hệ thống tổ chức thi hành án hình sự không có cơ quan, tổ chức nơi người chấp hành án làm việc, học tập và theo quy định tại Mục 3 - Thi hành án phạt Cải tạo không giam giữ từ Điều 96 đến Điều 106 Luật thi hành án hình sự chỉ quy định Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo
dục người chấp hành án, không có trình tự, thủ tục giao cho cơ quan, tổ chức nơi người chấp hành án làm việc, học tập như quy định tại điều 36 BLHS.
Ví dụ: khoản 4 Điều 99 Luật THAHS năm 2019 quy định: Nghĩa vụ của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ và khoản 2 Điều 100 Luật THAHS quy định: Giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.
Khoản 4 Điều 99 quy định: Nghĩa vụ của người chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ
1…
….
4. Chịu sự giám sát, giáo dục của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân khu nơi cư trú, nơi làm việc.
Khoản 2 Điều 100 quy định: Giải quyết việc vắng mặt tại nơi cư trú, thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ.
1…
2. Người chấp hành án khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục;
56
Theo quy định tại khoản 4 Điều 99, khoản 2 điều 100 LTHAHS thì không có nơi được giao giám sát, giáo dục là cơ quan, tổ chức để giám sát, giáo dục đối với những người đang học tập và có việc làm. Vậy những người bị phạt cải tạo không giam giữ mà có việc làm và đang học tập nhưng không có nơi cư trú rõ ràng mà Luật THAHS không quy định việc giao những người này cho một cơ quan, tổ chức nào giám sát, giáo dục, quản lý thì ai có trách nhiệm quản lý những người này. Nếu những người bị phạt cải tạo không giam giữ đang học tập và làm việc mà có nơi cư trú rõ ràng thì Tòa giao cho UBND nơi cư trú giám sát giáo dục, quản lý lại phù hợp với quy định của Luật THAHS. Việc quy định không thống nhất nhau giữa hai luật gây khó khăn trong việc áp dụng Điều 36 BLHS và khi thi hành Luật THAHS. Như vậy, việc Tòa án giao bị cáo A cho nơi nào giám sát, giáo dục là đúng. Đây là điểm còn bất cập giữa Điều 36 BLHS và Luật Thi hành án hình sự.
Tương tự như trường hợp bị phạt cải tạo không giam giữ, thì đối với những trường hợp xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng còn mâu thuẫn, cụ thể: Theo quy định tại khoản 2 Điều 65 BLHS thì ngoài việc giao bị cáo cho chính quyền địa phương thì cũng có quy định giao bị cáo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, và Nghị quyết số 02 ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 65 về án treo cũng có quy định việc giao người được hưởng án treo cho Cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Tuy nhiên theo quy định tại Mục 1 Thi hành án treo từ Điều 84 đến Điều 94 Luật thi hành án hình sự không có quy định về trình tự, thủ tục giao người được được hưởng án treo cho Cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, mà chỉ có quy định giao cho Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Đây cũng là điểm còn bất cập giữa Điều 65 BLHS và Luật thi hành án hình sự.
Từ những vướng mắc trên tác giả cho rằng trong khi giải quyết một vụ án cụ thể chúng ta cần xác minh, làm rõ người phạm tội đang học tập, làm việc có nơi cư trú ổn định hay không để ra bản án chính xác, đúng luật tránh gây khó khăn cho việc thi hành về sau.
Về việc xác định thời gian còn lại chưa chấp hành hình phạt cải tạo không
giam giữ:
Ví dụ: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 23/7/2019, tại quán Internet thuộc tổ 5, phố T, xã T, huyện C, tỉnh B. Nguyễn Văn T đã trộm cắp của anh Đ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, biển kiểm soát 19L1- xxx có trị giá 38.540.000 đồng.
Bị cáo Nguyễn Văn T có 01 tiền án, tại bản án số 184/2018/HS-ST ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt Nguyễn Văn T 15 tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày 12/9/2018 là ngày UBND xã T, huyện C nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.
Trong thời gian chấp hành bản án, ngày 23/7/2019 bị cáo phạm tội mới và bị
khởi tố điều tra, bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam.
57
Bản án số 50 ngày 11/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện C nhận định bị cáo T đã chấp hành thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày 12/9/2018 đến ngày xét xử 11/9/2019 là được 12 tháng. Thời gian còn lại chưa chấp hành xong hình
phạt của bản án số 184/2018/HS-ST ngày 01/8/2018 là 03 tháng cải tạo không giam giữ chuyển đổi thành 01 tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; khoản 1 Điều 55, khoản 2 Điều 56, điểm h khoản 1 điều 52; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 33 BLHS. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T: 12 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt còn lại chưa chấp hành của bản án số 184/2018/HSST ngày 01/8/2018 là 01 tháng tù. Buộc bị cáo T phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 13 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo
của các bị cáo, người bị hại.
Từ vụ án này có nhiều quan điểm khác nhau về việc xác định thời gian còn lại chưa chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của Bản án số 184/2018/HSST ngày 01/8/2018 để tổng hợp hình phạt đối với tội mới.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: phải xác định T được tính thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mới là ngày 23/7/2019 và lập luận như sau:
Việc ngày 23/7/2019, T đã thực hiện hành vi phạm tội mới chứng tỏ việc chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bản án 184/2018/HS-ST của T là chưa nghiêm, T đã vi phạm nghĩa vụ của người bị kết án cải tạo không giam giữ, mục đích của hình phạt cải tạo không giam giữ không đạt được tính từ ngày 23/7/2019, lần phạm tội này bị cáo T đã tái phạm theo khoản 1 điều 53 Bộ luật hình sự “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý ...” và phải tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo khoản 2 điều 56 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017: “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.”
58
Như vậy thời gian cải tạo không giam giữ đã chấp hành của bị cáo T chỉ được tính từ ngày bị cáo được giao cho chính quyền địa phương giám sát giáo dục tức là ngày 12/9/2018 đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới là ngày 23/7/2019. Nhưng bản án lại trừ thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo
không giam giữ cho bị cáo T từ ngày 12/9/2018 đến ngày xét xử là ngày 11/9/2019 là không đúng.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Mặc dù trong khi đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, T lại thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 23/7/2019 và bị khởi tố, điều tra nhưng không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam mà vẫn ở tại địa phương, Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện C và UBND xã T không có bất cứ quyết định nào để chấm dứt, tạm dừng (đình chỉ, tạm đình chỉ) việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ của bị án T (thậm chí nếu bị khấu trừ thu nhập thì T vẫn nộp đầy đủ hàng tháng đến tháng 9/2019). Vì vậy, để có lợi cho T thì phải xác định T đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ từ ngày 12/9/2018 đến ngày xét xử là ngày 11/9/2019 như bản án đã tuyên là đúng.
Tác giả cho rằng lập luận như quan điểm thứ nhất là có cơ sở vì khoản 2 điều 56 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này. Nhận thức như vậy sẽ phù hợp với quy định về tái phạm tại khoản 1 Điều 53 BLHS “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý ...” (VD: Trường hợp bị án chỉ còn 01 ngày nữa thì được đương nhiên xóa án tích, nhưng lại thực hiện hành vi phạm tội mới, thì vẫn phải chịu tình tiết tái phạm mà không được tính đến ngày phát hiện hành vi phạm tội mới hay ngày khởi tố hoặc xét xử đối với tội mới này). Như vậy chỉ cần đối tượng thực hiện hành vi phạm tội mới thì việc chấp hành hình phạt của bản án trước đã chấm dứt, thời gian còn lại của bản án này được coi là chưa chấp hành (kể cả đối tượng bị khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú hay các biện pháp ngăn chặn khác vào bất kỳ thời điểm nào).
59
Tuy nhiên có một vướng mắc đó là hiện nay chưa có văn bản nào quy định việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ (trừ trường hợp khi người chấp hành án chết theo quy định tại Khoản 5, Điều 97 Luật THA Hình sự) khoản 2, Điều 105. Xử lý vi phạm đối với người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ cũng chỉ quy định: “Người chấp hành án đã bị kiểm điểm nhưng tiếp tục cố ý không chấp hành nghĩa vụ quy định tại Điều 99 của Luật này thì không được xem xét giảm thời hạn chấp hành án. Tùy theo tính chất, mức độ của
hành vi vi phạm, Ủy ban nhân dân cấp xã, đơn vị quân đội được giao giám sát, giáo dục đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính hoặc xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.”
Như vậy, trường hợp bị án sau khi thực hiện hành vi phạm tội mới do Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục không nắm được, hoặc chưa kịp đề nghị cơ quan, người có thẩm quyền xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy không có quyết định đình chỉ, hoặc tạm đình chỉ thi hành án nên hàng tháng bị án vẫn đến UBND xã để trình diện, nộp bản tự nhận xét và vẫn nộp tiền khấu trừ thu nhập tại Cơ quan Thi hành án dân sự thì giải quyết như thế nào? UBND xã, Cơ quan THADS đều là cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhất định trong công tác thi hành án hình sự, dân sự, đồng ý cho bị án thực hiện nghĩa vụ của người bị kết án cải tạo không giam giữ trong thời gian này thể hiện qua việc vẫn thu tiền khấu trừ thu nhập, vẫn tiếp nhận báo cáo nhận xét, tự kiểm điểm của bị án để lưu hồ sơ - vậy tại sao các cơ quan tiến hành tố tụng không chấp nhận thời gian thi hành án này của bị án?
60
Đối với quan điểm thứ hai tác giả cho rằng nếu Cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng do bị án không có quyết định đình chỉ, hoặc tạm đình chỉ thi hành án nên cần xác định bị án đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ đến ngày xét xử để có lợi hơn cho bị án. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thấy rằng có vụ án được xét xử ở nhiều cấp, nếu cho rằng bị án không có quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ thi hành án nên làm lợi cho bị cáo đến ngày xét xử sơ thẩm, nhưng do bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, bị cáo kháng cáo, kháng nghị thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm cũng cần tính theo hướng có lợi cho bị cáo đến ngày xét xử phúc thẩm, mỗi lần xét xử thời gian đã chấp hành án tăng lên và thời gian còn lại được tính là chưa thi hành án sẽ được giảm đi. Như vậy, bản án sơ thẩm đương nhiên sẽ bị cấp phúc thẩm sửa về phần tổng hợp hình phạt (bị cáo không kháng cáo thì sẽ bất lợi hơn bị cáo có kháng cáo, có thể bị cáo lợi dụng việc kháng cáo để giảm thời gian chấp hành hình phạt còn lại). Thậm chí nếu cấp sơ thẩm có vi phạm bị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại thì phải tính đến tận thời gian bị cáo xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm lần sau, lúc này có thể bị cáo đã được coi là chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc xác định như vậy sẽ rất khó khăn, phức tạp và không chính xác, không thể đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.
Về việc thực hiện một số công việc phục vụ cộng đồng
Đây là một điểm mới được quy định tại khoản 4 điều 36 của BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
Khoản 4 Điều 36 quy định: “Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồngtrong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và
không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm ngèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy
định tại Luật Thi hành án hình sự”
Trong thời gian từ 31/12/2019 trở về trước do chưa có hướng dẫn cụ thể nên còn có nhiều Bản án ở nhiều địa phương khác nhau còn có cách tuyên không thống nhất:
Có Bản án tuyên: Áp dụng khoản 1, 2, 3 Điều 36, xử phạt bị cáo 30 tháng cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho UBND xã nơi cư trú; khấu trừ thu nhập hàng tháng của bị cáo.
Có bản án tuyên: Áp dụng khoản 1, 2,3,4 Điều 36, xử phạt bị cáo 30 tháng cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho UBND xã nơi cư trú; khấu trừ thu nhập hàng tháng của bị cáo; buộc bị cáo phải lao động phục vụ cộng đồng 04 giờ trong một ngày, 05 ngày trong một tuần.
Có bản án tuyên: Áp dụng khoản 1, 2,3 Điều 36, xử phạt bị cáo 30 tháng cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho UBND xã nơi cư trú; khấu trừ thu nhập hàng tháng của bị cáo; buộc bị cáo phải lao động công ích…
61
Có bản án tuyên: Áp dụng khoản 1, 2,3, 4 Điều 36, xử phạt bị cáo 30 tháng cải tạo không giam giữ, giao bị cáo cho UBND xã nơi cư trú; khấu trừ thu nhập hàng tháng của bị cáo. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có
việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Việc bản án không tuyên biện pháp lao động phục vụ cộng đồng, hoặc có tuyên nhưng ấn định cụ thể thời gian lao động phục vụ cộng đồng, hoặc tuyên buộc bị cáo phải lao động công ích trong thời gian cải tạo không giam giữ mà không có việc làm hoặc mất việc làm đối với người bị kết án là chưa đúng với khoản 4, Điều 36 của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và khoản 5 Điều 101 của Luật Thi hành án hình sự.
“Điều 101. Việc lao động, học tập của người chấp hành án phạt cải tạo
không giam giữ
1.…
5. Người chấp hành án không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành án thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày người chấp hành án được xác định là không có việc làm hoặc bị mất việc làm, Công an cấp xã có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với Ủy ban nhân dân cùng cấp; trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo, Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm báo cáo Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã, Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải xem xét, quyết định buộc người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng.
Báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã, quyết định của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải nêu rõ loại công việc, thời gian lao động phục vụ cộng đồng dự kiến buộc người chấp hành án phải thực hiện.
62
Căn cứ quyết định buộc người chấp hành án phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng, Ủy ban nhân dân cấp xã giao cho người chấp hành án thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng dưới sự giám sát của Công an cấp xã.”
Tại khoản 4 Điều 36 BLHS chỉ quy định giới hạn tối đa của thời gian lao động của người bị kết án “Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.”
Khoản 5 điều 101 Luật thi hành hình sự quy định rõ về cơ quan được ban hành quyết định, loại công việc và thời gian lao động của người bị kết án “Báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã, quyết định của cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện phải nêu rõ loại công việc, thời gian lao động phục vụ cộng đồng dự kiến buộc người chấp hành án phải thực hiện.”
Từ ngày 01/01/2020 Luật Thi hành án hình sự có hiệu lực thi hành tuy nhiên vẫn còn nhiều Bản án của tòa án cấp sơ còn có tình trạng tuyên trong bản án như trên.
Trên đây là một số vướng mắc khi áp dụng Điều 36 của BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và giải pháp khắc phục. Tuy nhiên đây chỉ là ý kiến của cá nhân tác giả nêu ra để các bạn đọc cùng tham gia, bổ sung nhằm giúp cho các cơ quan cấp trên xem xét, đánh giá và có thể ban hành văn bản hướng dẫn rõ, cụ thể để các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng thống nhất trong thực tiễn.
Tiểu kết chương 2
63
Kết quả nghiên cứu tại Chương 2, tác giả đã nêu được các quy định của pháp luật hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ được quy định trong BLHS năm 2015 và LTHAHS năm 2019. Tác giả cũng phân tích được các điều kiện để áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ dựa trên các quy định hiện hành. Đồng thời tại chương 2 tác giả đã đưa ra những hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành về hình phạt cải tạo không giam giữ và hạn chế trong áp dụng các quy định này. Trên cơ sở phân tích số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh, chúng ta thấy rằng việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ chiếm một tỷ lệ rất thấp trong các hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với bị cáo.
Chương 3:
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT CẢI TẠO KHÔNG GIAM GIỮ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẮC NINH
3.1. Một số yêu cầu nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ
Thứ nhất, là yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp
Cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, được Đảng ta đề ra tại các văn kiện Đại hội từ năm 1991 đến nay, đặc biệt là tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 để đạt được những yêu cầu như:
Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám
sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn.
Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.
64
Trong mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế.
Quy định trách nhiệm hình sự nghiêm khắc hơn đối với những tội phạm là người có thẩm quyền trong thực thi pháp luật, những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội. Người có chức vụ càng cao mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn phạm tội thì càng phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác.
Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ chức quần chúng trong phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; bảo vệ người trung thực phát hiện, tố cáo, người điều tra truy tố, xét xử hành vi tham nhũng; khen thưởng người có công trong đấu tranh phòng chống tham nhũng. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc ngăn ngừa, kiểm soát các hành vi tham nhũng.
Để góp phần thực hiện những mục tiêu trên thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt nói chung và áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ có vai trò thiết yếu, cần được giải quyết kịp thời.
Thứ hai, yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay
Hiện nay, tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng tại tỉnh Bắc Ninh trong đó tập trung nhiều ở một số huyện có nhiều khu công nghiệp, tình hình an ninh chính trị phức tạp là huyện Quế Võ, và huyện Yên Phong... Chính vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt là góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới, đảm bảo cuộc sống ổn định phát triển kinh tế của các cá nhân, tổ chức.
Thứ ba, yêu cầu khắc phục những hành chế của việc định tội danh và quyết
định hình phạt cải tạo không giam giữ.
65
Những hạn chế, thiếu sót trong việc định tội danh và quyết định hình phạt cải tạo không giam giữ chủ yếu xuất phát từ một số quy định của pháp luật hình sự còn chưa rõ ràng, thiếu chặt chẽ, cũng như một số cán bộ tư pháp trong quá trình giải quyết công việc thiếu bản lĩnh, còn bị tác động bởi lợi ích vật chất; do quan hệ hoặc do thiếu trách nhiệm, không tận tâm, tận lực trong công việc, do trình độ, năng lực, kinh nghiệm chuyên môn, trình độ chuyên sâu của cán bộ các chức danh tư pháp còn hạn chế, còn có biểu hiện nôn nóng, chạy theo thành tích, giải quyết cho xong việc, cộng với trình độ, năng lực yếu kém nên dẫn đến oan, sai. Chính vì vậy, để thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp, đấu tranh phòng chống tội phạm thì việc khắc phục những yếu kém trong công tác định tội danh và quyết định hình phạt cải
tạo không giam giữ có vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết, cần được tiến hành nghiêm túc và toàn diện trên toàn địa bàn tỉnh từ Tòa án cấp huyện, cho tới Tòa án cấp tỉnh tại tỉnh Bắc Ninh.
3.2. Giải pháp về pháp luật
Để chấn chỉnh và tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả áp dụng và công tác thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ, đảm bảo hiệu lực thi hành các bản án, quyết định của Tòa án được nghiêm minh, tạo điều kiện cho người chịu hình phạt cải tạo không giam giữ làm ăn sinh sống và chứng tỏ sự hối cải hoàn lương ngay trong môi trường xã hội bình thường, dưới sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được hưởng án treo, cải tạo không giam giữ làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của họ, góp phần giữ gìn an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh, xây dựng đời sống xã hội văn minh lành mạnh, chúng ta cần hoàn thiện các quy định về cải tạo không giam giữ, thống nhất nhận thức về áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và có các biện pháp tăng cường hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ.
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về cải tạo không
giam giữ
Để việc thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ có ý nghĩa trên thực tiễn, đảm bảo chính sách hình sự, đạt được mục tiêu đem lại công bằng xã hội và đấu tranh phòng, chống tội phạm, chúng ta cần phải hoàn thiện các quy phạm pháp luật về cải tạo không giam giữ.
66
Quy trình hoàn thiện này phải tuân thủ nguyên tắc: khi ban hành những quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ cũng không được trái với những nguyên tắc hiến định trong Hiến pháp. Ngoài ra nó cũng không được trái với các văn bản pháp luật khác. Cụ thể: đối với hình phạt cải tạo không giam giữ là một chế định của Luật hình sự, trước tiên nó phải phù hợp với ngành luật gần với Luật hình sự nhất đó là Luật tố tụng hình sự. Bất cứ sự sửa đổi, bổ sung nào cũng đi liền với việc rà soát các văn bản pháp luật có liên quan đặc biệt là Bộ luật Tố tụng hình sự để có những quy định phù hợp, có tính khả thi cao. Hơn nữa, việc sửa đổi, bổ sung còn cần phải đảm bảo tính kế thừa có chọn lọc, tiếp thu khái niệm lập pháp hình sự của các nước trên thế giới nói chung, các quy định về hình phạt cải tạo không giam giữ đã được quy định trong các Bộ luật Hình sự trước nói riêng
Bộ luật Hình sự cần phải có các chế tài xử lý đối với những hành vi vi phạm của cơ quan, tổ chức và gia đình trong công tác thi hành án cải tạo không giam giữ khi các chủ thể này không thực hiện đúng trách nhiệm và nghĩa vụ của mình.
Những quy định về quyền của người bị kết án tại Điều 1 Nghị định 60 nêu trên cần được ghi nhận cụ thể trong Bộ luật Hình sự để khẳng định lại chính sách hình sự nhân đạo của nhà nước ta "Khi người bị kết án đã chấp hành được một phần ba thời hạn cải tạo không giam giữ và có nhiều tiến bộ hoặc lập công, mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được Tòa án xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại các điều 58, 59, và 76 Bộ luật này".
Ngoài ra, các văn bản luật hình sự nên quy định rõ thế nào là trường hợp "xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội" tránh trường hợp áp dụng tùy nghi như thực tiễn hiện nay ở một số Tòa án. Cụ thể: những tình tiết về nhân thân như gia đình, học vấn, độ tuổi; những tình tiết liên quan đến tội phạm người đó thực hiện v.v... Ngoài ra, một số điều kiện khác cần phải được nhấn mạnh và bổ sung thêm như: người chấp hành hình phạt không được tự ý thay đổi nơi cư trú và nơi làm việc, việc thay đổi phải có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền giám sát, giáo dục, cải tạo; thời gian thi hành án không được tính vào thâm niên công tác; các trường hợp đang thi hành cải tạo không giam giữ lại tiếp tục tái phạm nguy hiểm hoặc tái phạm cố ý cần được xử lý cụ thể.
Mặt khác, việc duy trì cải tạo không giam giữ sẽ xóa đi khoảng cách rất lớn giữa hình phạt tù và các hình phạt không tước tự do, tăng tính đa dạng của hệ thống hình phạt - một vấn đề mà chúng ta đang cố gắng đạt được.
67
Là hình phạt chính, cải tạo không giam giữ cũng phải thể hiện đầy đủ tính nghiêm khắc trong việc trừng trị, cải tạo và giáo dục người phạm tội. Do đó, giống như hình phạt tử hình, phạt tù và các hình phạt chính khác, cải tạo không giam giữ cần có một vị trí rõ ràng và cụ thể hơn trong các điều luật. Cụ thể, các nhà làm luật nên đưa ra những điều luật với chế tài bắt buộc phải sử dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc duy trì hình phạt này dưới dạng lựa chọn áp dụng hay không áp dụng cùng với một hoặc một số hình phạt, biện pháp tư pháp khác (chủ yếu là hình phạt tủ và án treo) không còn hợp lý, làm giảm vai trò của cải tạo không giam giữ. Thực tế cho thấy, các quy định về điều kiện càng rõ ràng và cụ thể bao nhiêu, người tiến hành tố tụng càng dễ áp dụng bấy nhiêu, gạt bỏ đựợc tính chủ quan trong
quyết định hình phạt.
Các nhà làm luật cần ghi nhận một cách cụ thể hơn trong các văn bản pháp quy những quy định về quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan có thẩm quyền giám sát việc giáo dục và cải tạo người bị kết án cải tạo không giam giữ. Đặc biệt cần nhấn mạnh trách nhiệm liên kết và tương trợ giữa các cơ quan đó trong công tác cải tạo và giáo dục người phạm tội, đảm bảo việc thi hành án được nghiêm túc, hiệu quả.
Từ việc nghiên cứu các quy định của Bộ luật hình sự và Luật thi hành án hình sự về hình phạt cải tạo không giam giữ, chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến về việc quy định và áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ như sau:
Bộ luật hình sự năm 2015 hiện hành chưa đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm hình phạt cải tạo không giam giữ. Tác giả mạnh dạn đề nghị bổ sung khái niệm hình phạt cải tạo không giữ vào điều 36 bộ luật hình sự Việt Nam như sau: “Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục, khi họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội cũng đủ để giáo dục, cải tạo họ thành người tốt”
Chúng tôi mạnh dạn đề xuất điều 36 Bộ luật hình sự năm 2015 sau khi sửa
đổi bổ sung như sau:
“1. Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước do Bộ luật hình sự Việt Nam quy định, người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội mà được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục, khi họ phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng và Tòa án xét thấy không cần thiết phải cách ly khỏi xã hội cũng đủ để giáo dục, cải tạo họ thành người tốt.
68
Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.
3. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.
Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực
hiện nghĩa vụ quân sự.
4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và
không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy
định tại Luật thi hành án hình sự.”
69
Như vướng mắc nêu ở Chương 2 cho rằng để việc áp dụng pháp luật được thống nhất cần có quy định rõ hơn về xử lý vi phạm đối với người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ tại Khoản 2, Điều 105 của Luật thi hành án hình sự hoặc bổ sung quy định về việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ thi hành hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người bị kết án thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời gian thi hành án; hoặc bổ sung vào khoản 2 điều 36 của BLHS hoặc TANDTC có hướng dẫn cách tuyên trong bản án khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ
đối với bị cáo như sau: “ …Giao bị cáo cho UBND…giám sát giáo dục, thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND… nhận được bản sao bản án và quyết định thi hành án. Trong thời gian thi hành án nếu bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới thì thời gian thi hành án còn lại được tính từ khi bị cáo thực hiện hành vi phạm tội mới…”. Đồng thời hướng dẫn bổ sung điểm g, khoản 1, Điều 98 Luật Thi hành án hình sự về quan hệ phối hợp giữa UBND cấp xã và Cơ quan THADS khi thực hiện khấu trừ thu nhập của người chấp hành án theo quyết định của Tòa án để sung quỹ nhà nước và không thực hiện việc khấu trừ thu nhập khi người này thực hiện hành vi phạm tội mới.
3.2.2. Thống nhất một cách hiểu về áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ
Chính sách hình sự coi trọng phòng ngừa trong đấu tranh phòng chống tội phạm, tăng cường hình phạt không phải tù, hạn chế hình phạt tù … được thể hiện trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước ta. Cụ thể là trong Nghị quyết số 08 -NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49 -NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Việc nghiên cứu thực tiễn xét xử cũng cho phép khẳng định: hiệu quả áp dụng của hình phạt cải tạo không giam giữ chỉ có thể đạt được khi chúng ta thống nhất được nhận thức về việc áp dụng hình phạt này. Cụ thể là:
- Nhận thức đúng đắn vai trò của hình phạt cải tạo không giam giữ trong hệ thống hình phạt nước ta. Hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt chính có khả năng đạt được mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ trở thành người có ích cho xã hội mà không cần cách ly, không cần nhà tù, người phạm tội vẫn đóng góp lao động, tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội; không làm phát sinh hậu quả xã hội tiêu cực của việc áp dụng hình phạt. Để từ đó mạnh dạn áp dụng hình phạt này trên thực tế.
70
- Thống nhất cách hiểu về các điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Các cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần có văn bản hướng dẫn thế nào là không cần cách ly ra khỏi xã hội, các tình tiết nhân thân thế nào để có thể áp dụng hình phạt này; phân biệt trường hợp nào là áp dụng án treo, trường hợp nào là áp dụng hình phạt cải tạo không giam
giữ … để các Tòa án dễ dàng hơn trong thực tế xét xử;
- Cũng cần có hướng dẫn, nhận thức thống nhất về tổng hợp hình phạt cải tạo không giam giữ với hình phạt khác, cách tính thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ ...
Ngoài ra, như để việc tuyên bản án được thống nhất tác giả cho rằng TANDTC cần có hướng dẫn cụ thể theo hướng: khi tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người bị kết án và áp dụng khoản 4 Điều 36 của BLHS, Tòa án cần ghi rõ trong Bản án “Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Việc lao động, học tập của người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ thực hiện theo quy định tại Điều 101 của Luật Thi hành án hình sự. Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.
Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
Người bị kết án cải tạo không giam giữ còn phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật Thi hành án hình sự”.
3.3. Giải pháp khác
3.3.1. Nâng cao vị thế của thẩm phán trong tố tụng hình sự [20, tr. 94-
100]
71
Thẩm phán giữ vị trí quan trọng trong việc xét xử - giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng, vì thế số lượng, chất lượng của đội ngũ thẩm phán cũng như cách thức tổ chức, cơ chế vận hành đối với đội ngũ thẩm phán là yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, Luật tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 quy định điều kiện, tiêu chuẩn thẩm phán, cũng như quyền hạn, nghĩa vụ của họ khi tiến hành tố tụng ... đã góp phần nâng cao một bước chất lượng của đội ngũ thẩm phán những năm vừa qua. Tuy nhiên, theo
Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị thì: Công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bị lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp; và cán bộ của các cơ quan Tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình hiện nay. Đội ngũ thẩm phán còn thiếu về số lượng, yếu về trình độ năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút phẩm chất đạo đức. Đây là vấn đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến kỷ cương, pháp luật và hiệu lực của bộ máy Nhà nước.
72
Thẩm phán là một chức danh tư pháp quan trọng không thể thiếu trong tổ chức Tòa án nói riêng và trong bộ máy nhà nước nói chung. Ở nước ta, từ năm 2002, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân đã ghi nhận thẩm phán là một chức danh tư pháp mà trước đó về mặt pháp lý thẩm phán chỉ được coi là một chức vụ. Quy định này đánh dấu một bước ngoặt về nhận thức để xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động xét xử, nhất là xét xử các vụ án hình sự. Chỉ khi nào thực sự coi thẩm phán là một nghề, có vị trí, chức danh nhất định trong xã hội thi Họ mới có cơ sở và điều kiện pháp lý để làm việc và yên tâm cống hiến, phấn đấu cho sự nghiệp của mình. Hoạt động xét xử của thẩm phán là chuyên nghiệp, do đó thẩm phán phải được tuyển chọn một cách kỹ lưỡng, cẩn thận để tìm được người đủ năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức có thể đảm đương tốt vai trò của người thẩm phán. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã lựa chọn cách thức thi tuyển, bổ nhiệm để tuyển chọn thẩm phán và cũng đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể trong việc tuyển chọn thẩm phán. Về cơ bản những qui định này bước đầu đã tạo ra những cơ sở pháp lý để hình thành đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp cho hoạt động xét xử. Tuy nhiên, pháp luật cũng cần qui định rõ ràng, cụ thể hơn nữa về tính chuyên nghiệp của thẩm phán trên tất cả các lĩnh vực như: cơ chế bảo đảm, năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nhiệp, kỹ năng xét xử... để có thể xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp. Cũng cần xem xét, nghiên cứu về chế độ Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời để họ có thể yên tâm làm công việc đầy khó khăn đã lựa chọn. Nhà nước nên có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với thẩm phán về vật chất và tinh thần, có những hình thức tôn vinh thẩm phán tương xứng với địa vị, công sức, bản lĩnh của thẩm phán trước xã hội. Từ những
phân tích trên có thể đưa ra kết luận đảm bảo tính chuyên nghiệp trong hoạt động xét xử của thẩm phán và xây dựng đội ngũ thẩm phán chuyên nghiệp là yếu tố quan trọng mang tính tiên quyết để nâng cao địa vị của thẩm phán trong hoạt động tư pháp và đối với xã hội góp phần nâng hiệu quả của hoạt xét xử.
Để thực hiện chức năng xét xử, pháp luật đã quy định quyền và nghĩa vụ cho thẩm phán trong các văn bản quy phạm như: Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án Nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự… Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán là cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo cho thẩm phán thực hiện tốt chức năng xét xử của mình. Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ xét xử thẩm phán chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi, quyết định của mình, như C.Mác đã từng nói “đối với người thẩm phán thì vị tư lệnh (hay cấp trên của họ) chính là pháp luật”. Đây là điểm khác biệt rất cơ bản về phạm vi trách nhiệm của thẩm phán so với phạm vi trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Đối với Điều tra viên và Kiểm sát viên ngoài việc chịu trách nhiệm trước pháp luật, Họ còn phải chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng cơ quan và cơ quan quản lý cấp trên. Thẩm phán thực hiện quyền lực công, các phán quyết của Thẩm phán nhân danh nhà nước, nhân danh công lý, đồng thời các phán quyết đó còn ảnh hưởng sinh mạng chính trị của con người, quyền và lợi ích thiết thân của từng con người. Do vậy. cần phải nghiên cứu xem xét điều chỉnh chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của thẩm phán trong hoạt động xét xử nhằm đảm bào cho việc ra bản án khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
Địa vị và chất lượng xét xử của thẩm phán chỉ được nâng cao khi đảm bảo nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc xét xử của Tòa án phải dựa trên cơ sở pháp luật mới bảo đảm tính khách quan, vô tư không bị phụ thuộc bởi bất kỳ tác động khách quan hay chủ quan nào. Nguyên tắc này đòi hỏi sự độc lập giữa các thành viên của Hội đồng xét xử trong việc nghiên cứu hồ sơ, xem xét, đánh giá chứng cứ và đưa ra các kết luận về sự việc phạm tội và người thực hiện tội phạm không bị phụ thuộc vào quan điểm của các thành viên khác trong Hội đồng xét xử.
73
Thẩm phán là người có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự so với những người tiến hình tố tụng khác đồng thời thẩm phán còn là người có vai trò quyết định trong hoạt động xét xử. Không những thế, vị trí của thẩm phán còn thể hiện ở việc thẩm phán là người đảm bảo sự công bằng thông qua
hoạt động xét xử và do vậy bảo vệ công bằng trong hoạt động xét xử là yêu cầu không thể thiếu trong hoạt động nghề nghiệp của người Thẩm phán. Công bằng trong xét xử là công bằng đối với tất cả mọi người bất kể người đó là ai, giữ cương vị gì, chức vụ gì đều phải xử lý nghiêm minh theo đúng tội trạng và hậu quả của hành vi phạm tội. Công bằng ở đây là không được thiên lệch, không được nhân nhượng về bên nào, tất cả các đương sự, bị cáo không phân biệt thành phần xuất thân, địa vị xã hội, thành phần kinh tế đều phải được bình đẳng như nhau trước pháp luật, các hành vi, quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Thẩm phán nhìn nhận đánh giá một cách khách quan giữa hành vi phạm tội và trách nhiệm trước pháp luật của tội phạm. Xác định tội danh đúng là tiền đề quan trọng để cho việc lượng hình đảm bảo khách quan, chính xác, đảm bảo sự công bằng.
Số lượng và chất lượng thẩm phán là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả xét xử cũng như địa vị của thẩm phán. Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao thì số lượng thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp, đặc biệt là khối Tòa án cấp huyện còn thiếu, chưa đủ chỉ tiêu được giao. Do thiếu thẩm phán nên nhiều Tòa án đang bị quá tải về công việc dẫn đến số lượng các vụ án tồn đọng nhiều vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Mặt khác, do sức ép công việc (có nơi thẩm phán được giao giải quyết trung bình trên 10 vụ/tháng) đã dẫn đến những sai sót không đáng có về nghiệp vụ. Tình hình thiếu thẩm phán cũng gây ra những khó khăn nhất định đối với công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ của ngành (do việc nhiều, người ít nên nhiều nơi không thể cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng theo kế hoạch, quy hoạch). Thực tế cũng cho thấy đa số những đơn vị có nhu cầu bổ sung thêm thẩm phán do đang bị quá tải ở mức cao về công việc (với số lượng án được giao vượt quá 7 vụ án/tháng) thì lại thường rơi vào những trường hợp chưa thực hiện đủ chỉ tiêu số lượng thẩm phán được giao vì không só đủ nguồn tại chỗ để tuyển dụng và bổ nhiệm thẩm phán. Đây chính là mâu thuẫn, thách thức lớn nhất đặt ra đối với hệ thống Tòa án khi xử lý, giải quyết về vấn đề số lượng thẩm phán của Tòa án các cấp. Về chất lượng đội ngũ thẩm phán: Số thẩm phán được bổ nhiệm lần đầu đều có trình độ đại học Luật và đều được đào tạo nghiệp vụ xét xử.
74
Chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với thẩm phán. Mặc dù lương và chế độ đãi ngộ đối với thẩm phán đã được cải thiện, nhưng nhìn chung đời sống của thẩm phán vẫn còn nhiều khó khăn. Lương trên thực tế chưa đủ nuôi thẩm phán và gia đình, thẩm phán lại không được buôn bán, làm dịch vụ. Điều này dễ phát sinh
tiêu cực đối với những người không vững vàng. Các chế độ đãi ngộ khác cũng quá thấp chưa tương xứng với tính chất đặc thù công việc và trách nhiệm ngày càng cao của thẩm phán. Do vậy, nó vô tình hạn chế nguồn thẩm phán và sự khuyến khích đội ngũ Thẩm phán phấn đấu vươn lên. Những bất cập trong chính sách tiền lương và các chính sách đãi ngộ khác cũng đã khiến cho việc điều động, biệt phái thẩm phán gặp không ít khó khăn. Để khắc phục tình trạng trên cần nghiên cứu sửa đổi một cách tổng thể chế độ chính sách đãi ngộ của thẩm phán. Cần quan tâm điều chỉnh một cách căn bản tiền lương và các phụ cấp khác.
3.3.2. Tăng cường tuyên truyền pháp luật
Công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật có vai trò rất quan trọng, là cầu nối để đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với mọi người dân, góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật trong toàn xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nói chung và chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật về cải tạo không giam giữ đối với người bị kết án nói riêng. Do đó, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật phải được tiến hành thực hiện thường xuyên, liên tục, đổi mới về nội dung và hình thức tuyên truyền với sự nỗ lực, phối hợp thực hiện đồng bộ thống nhất của cả hệ thống chính trị và toàn dân. Những việc chúng ta cần làm ngay hiện nay, đó là:
Một là, việc phổ biến, giáo dục pháp luật phải là một quá trình thống nhất, liên tục, các cơ quan, đoàn thể có trách nhiệm phải trực tiếp tham gia vào quá trình này. Cập nhật các phương thức tuyên truyền cụ thể, sống động, dễ hiểu; phải xây dựng nếp sống văn hoá pháp luật, tự giác chấp hành pháp luật. Có như vậy hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật mới rõ ràng, bền vững. Đặc biệt những người có chức năng quản lý người bị kết án thì cần phải tăng cường tuyên truyền cho người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ những hậu quả mà họ không chấp hành quy định của pháp luật phải gánh chịu.
75
Hai là, Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn xã, huyện. Quan tâm tăng cường các hoạt động phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị và địa phương nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật. Phát huy tốt vai trò của mặt trận tổ quốc trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và chấp hành pháp luật trong nhân dân. Với tính chất là tổ chức gần gũi, có tầm ảnh hưởng sâu rộng và chi phối đến nhiều mặt của đời sống cộng đồng dân cư, huy động đông đảo các thành phần xã hội tham gia, Mặt trận Tổ quốc có lợi thế rất lớn khi tham gia công tác hòa giải ở cơ sở.
Nói tóm lại, là một hình phạt chính, áp dụng cho các tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trong, có thể áp dụng đối với tội rất nghiêm trọng trong những trường hợp đặc biệt, vô hình chung, cải tạo không giam giữ là một hình phạt đặc biệt quan trọng. Nó có giá trị rất lớn trong công tác phòng ngừa và chống tội phạm, đảm bảo được chính sách nhân đạo của nhà nước ta.
Để nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, chúng ta cần đảm bảo việc thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật và đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ Tòa án và các cán bộ tư pháp thông qua các buổi tập huấn chuyên đề hoặc các hình thức học tập khác.
Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, đặc biệt qua phổ biến giáo dục pháp luật chúng ta phải đảm bảo việc không ngừng tăng cường công tác giáo dục ý thứ tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật đối với những người đã và đang chấp hành hình phạt cũng như các thành viên khác trong xã hội. Có thể nói, công tác giáo dục và mục tiêu cải tạo giáo dục, phòng ngừa tội phạm đặc biệt cần được chú ý giai đoạn này.
3.3.3. Đảm bảo cơ sở vật chất kĩ thuật cho người tiến hành tố tụng
76
Cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ cải cách tư pháp, nhất là trong điều kiện thực hiện các đạo luật mới về tư pháp có hiệu lực từ 01/01/2018. Đó là trang thiết bị ghi âm, ghi hình phục vụ cho công tác điều tra, kiểm sát, xét xử chưa được trang bị đầy đủ, đồng bộ. Trại tạm giam, các nhà tạm giữ hiện cũng quá tải, chưa đúng quy chuẩn. Trụ sở tòa án một số địa phương đã xuống cấp, phòng xử án chưa đủ diện tích bố trí theo mô hình mới. Kho vật chứng của công an và cơ quan thi hành án dân sự các địa phương chưa đảm bảo diện tích, quy mô theo mẫu quy định. Một số cơ sở vật, thiết bị, phương tiện phục vụ công tác tư pháp còn thiếu như: nhà công vụ, xe ô tô, công cụ hỗ trợ..; chế độ chính sách đãi ngộ cho đội ngũ cán bộ tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán còn
bất cập. Đặc biệt là hoạt động của đoàn Hội thẩm nhân dân cấp tỉnh và các địa phương còn khó khăn về kinh phí.
Trước những vấn đề này, tỉnh cũng đã có những kiến nghị, đề nghị các ngành tư pháp Trung ương quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ quan tư pháp ở địa phương.
KẾT LUẬN
Thực hiện đề tài: “Hình phạt cải tạo không giam giữ- Từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” tác giả đưa ra những nghiên cứu về cơ sở lý luận của hình phạt cải tạo không giam giữ và thực tiễn áp dụng hình phạt này trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật; đánh giá thực trạng công tác áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trong những năm qua ở nước ta, nêu ra những bất cập, tồn tại; trên cơ sở đó đưa ra được những đề xuất, những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hệ thống hình phạt nói chung và hình phạt cải tạo không giam giữ nói riêng. Sau đây là những ý kiến tác giả rút ra được sau khi thực hiện nghiên cứu luận văn này:
Một là, hình phạt cải tạo không giam giữ là một hình phạt chính nằm trong hệ thống hình phạt quy định trong Bộ luật Hình sự “được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội” Là một hình phạt không phải hình phạt tù, cải tạo không giam giữ mang tính nhân đạo sâu sắc, hướng tới mục tiêu cải tạo, giáo dục người phạm tội ngay tại môi trường sinh sống bình thường của họ, mở rộng khả năng và con đường hoàn lương cho những người lầm lỗi.
77
Hai là, với hình phạt cải tạo không giam giữ, một đặc điểm riêng biệt được khẳng định, đó là, cơ quan thi hành án được mở rộng. Bên cạnh Tòa án, Viện kiểm sát, Đội thi hành án, các cơ quan tổ chức hữu quan khác cũng có vai trò nhất định trong công tác thi hành án, phối hợp với các cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình người bị kết án để quản lý, kiểm tra, giám sát người bị kết án, có cơ chế giúp họ sớm trở thành người có ích cho xã hội. Tính chất xã hội hóa được mở rộng, khả năng giáo dục và phòng ngừa tội phạm nâng cao.
Ba là, việc mở rộng áp dụng cải tạo không giam giữ phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp. Việc mở rộng áp dụng hình phạt không giam giữ là rất cần thiết, giúp Bộ luật hình sự 2015 có tính khả thi cao. Trong hệ thống hình phạt hiện nay có 4 hình phạt không tước tự do của người phạm tội, gồm cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và trục xuất, song các hình phạt này không được áp dụng nhiều trong thực tế. Nguyên nhân chúng được quy định trong bộ luật hình sự 1999 có tính cưỡng chế không cao nên không có tác dụng phòng ngừa, giáo dục người phạm tội, trong khi điều kiện áp dụng hình phạt tương đối khắt khe…
Với vai trò là hình phạt chính, cho nên Tòa án còn có thể quyết định thêm sau khi tuyên án hình phạt cải tạo không giam giữ là hình phạt bổ sung mà luật có quy định đối với tội đó. Việc khấu trừ thu nhập của người bị kết án để sung quỹ Nhà nước không bắt buộc trong mọi trường hợp. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, thu nhập thực tế và tình hình tài sản cũng như hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội, cơ quan chức năng có quyết định khấu trừ hoặc không khấu trừ thu nhập của họ. Có thể khẳng định, việc giảm hình phạt tù để mở rộng phạm vi áp dụng các hình phạt không giam giữ là hoàn toàn phù hợp trong điều kiện hiện nay. Hình phạt tù chỉ nên áp dụng đối với các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp cần thiết phải tước tự do của người phạm tội.
Ngoài ra, khi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh là một địa phương phát triển, tình hình tội phạm diễn ra phức tạp cả về số lượng và chất lượng, tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng ngày càng tăng. Do vậy, việc tăng cường áp dụng các hình phạt không cách ly khỏi xã hội như Cải tạo không giam giữ là cần thiết nhưng phải đảm bảo tính khách quan và sự nghiêm minh của pháp luật, cũng như đạt được mục đích của hình phạt.
78
Tác giả hy vọng rằng, với những đề xuất mà tác giả đưa ra trong luận văn này sẽ được các nhà làm luật và các nhà khoa học nghiên cứu luật lấy làm tư liệu để nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ ngày càng hoàn thiện hơn.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo cải cách Tư pháp Trung ương (2004), Tài liệu tập huấn về Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.
2. Bộ Tư pháp (2005), Ngành Tư pháp 60 năm phấn đấu xây dựng và trưởng thành,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
3. Tô Xuân Bốn (2010), "Công tác tổ chức, cán bộ đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng, trưởng thành của lực lượng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (1), tr. 20-24.
4. Tô Xuân Bốn (2010), "Một số vấn đề về tăng cường năng lực cán bộ Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới", Tạp chí Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (7), tr. 28-29.
5. Lê Văn Cảm (2009), Hệ thống tư pháp hình sự trong giai đoạn xây dựng nhà
nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
6. Lê Văn Cảm (2003), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam (phần chung), Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
7. Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
8. Trần Đức Châm (2012), Xã hội học tội phạm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Nguyễn Ngọc Chí (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Chính phủ (1945), Sắc lệnh số 33B/SL ngày 03/9/1945 của Chủ tịch nước về việc định thể lệ cho ty liêm phóng và Sở cảnh sát theo mỗi khi bắt người nào.
11. Chính phủ (2010 - 2014), Báo cáo về công tác thi hành án các năm 2010, 2011,
2012, 2013, 2014, Hà Nội.
12. Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện
nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
79
13. Nguyễn Hữu Duyện (2010), "Nâng cao chất lượng đào tạo học viên đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình hiện nay", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (1), tr. 46-49.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác Tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Trần Thu Hạnh, Một số giải pháp nâng cao vị thế của đội ngũ thẩm phán trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 25 (2009) tr. 94-100
21. Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án
hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
22. Nguyễn Phong Hòa (2006), "Thực trạng công tác thi hành án hình sự và những
kiến nghị", Tòa án nhân dân, (21), tr. 16-19.
23. GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Phần chung, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
24. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (1999), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
80
27. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về
quyền con người, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
29. Dương Thị Thanh Mai (2010), Dự án điều tra cơ bản thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hình sự, Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
30. Nguyễn Ngọc Mùi (2010), "Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thi hành án hình sự trong thời gian tới", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (1), tr. 28-31.
31. TS. Nguyễn Văn Nam (2016), Thi hành án phạt tù ở Việt Nam trước yêu cầu cải
cách tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
32. Nguyễn Văn Ninh (2011), "Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với công tác
thi hành án hình sự", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (5), tr. 16-20.
33. Võ Thị Kim Oanh (2010), Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
34. Cao Ngọc Oánh (2011), "Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp trong tình hình hiện nay", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm số, (5), tr. 11-15.
35. Nguyễn Đức Phố (Chủ nhiệm đề tài) (2005), Trình tự đưa bản án hình sự ra thi hành - Những vướng mắc và giải pháp hoàn thiện trình tự đưa bản án hình sự ra thi hành, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội.
36. Đỗ Ngọc Quang (2007), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (Giáo trình dùng cho hệ cao học luật Chuyên ngành Tội phạm học và điều tra tội phạm), In tại Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội.
37. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
38. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
39. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
40. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
81
41. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
42. Quốc hội (2010), Luật thi hành án hình sự, Hà Nội.
43. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
44. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
45. Quốc hội (2014), Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà Nội.
46. Quốc hội (2015), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
47. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
48. Quốc hội (2017), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội.
49. Quốc hội (2019), Luật thi hành án hình sự, Hà Nội.
50. Vũ Huy Thuận (2012), "Nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án hình sự của Viện kiểm sát nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (8+9), tr. 59-62.
51. Trần Quang Tiệp (2002), Một số vấn đề về thi hành án hình sự, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
52. Trần Quang Tiệp (2004), Bảo vệ quyền con người trong Luật hình sự, Luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
54. Tòa án nhân dân tối cao (2009 - 2013), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, Hà Nội.
55. Trịnh Quốc Toản (1998), Giáo trình Luật tổ chức Tòa án, Viện kiểm sát, Công
chứng, Luật sư, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
56. Trịnh Quốc Toản (2007), Đấu tranh phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Trương Vĩnh Trọng (2010), "Đặc xá là tiếp tục khẳng định truyền thống nhân đạo và chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với người phạm tội thực sự cải tạo tiến bộ", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (1), tr. 5-7.
82
58. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người và quyền công dân - Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giới thiệu các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội.
59. Trường Đại học luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
60. Đào Trí Úc (chủ biên) (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Nguyễn Ngọc Văn (2012), "Nâng cao hiệu quả công tác quản lý tài chính phục vụ công tác thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp trong tình hình hiện nay", Khoa học quản lý và giáo dục tội phạm, (8+9), tr. 45-47.
62. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự
nghiệp xây dựng và phát triển ngành Tư pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
63. Trịnh Tiến Việt (2003), Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb Giao thông
vận tải, Hà Nội.
64. Trịnh Tiến Việt (2014), "Biện pháp miễn, giảm hình phạt của một số quốc gia trên
thế giới - kinh nghiệm đối với Việt Nam", Nội chính, (15), tr. 52-54.
65. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
66. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2006), Giáo trình luật thi hành án hình sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
67. Võ Khánh Vinh, Nguyễn Mạnh Kháng (2006), Pháp luật thi hành án hình sự Việt
Nam.
68. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
69. http://bacninh.gov.vn/news/-/details/20182/khai-quat-ve-bac-ninh
70. Trích từ: http://vienkiemsattinhphutho.gov.vn/tin-tuc/Phong-7/30102/mot-so-
83
vuong-mac-khi-ap-dung-thi-hanh-hinh-phat-cai-tao-khong-giam-giu-quy-dinh- tai-dieu-36-blhs
PHỤ LỤC
Bảng 2.1. Số liệu Bị cáo bị tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ so với các hình phạt khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
Cải tạo Tù có Tù Số bị Cảnh Phạt Trục Tử Năm không chung thời cáo cáo tiền xuất hình giam giữ thân hạn
9 5 0 2.085 0 108 1.628 5 2016
7 2 0 2.600 0 68 2.370 2 2017
7 3 0 2.467 3 103 2.176 8 2018
2 6 0 2.380 11 108 2.102 11 2019
3 0 2.290 5 142 10 1.440 4 2020
Nguồn: Văn phòng TAND tỉnh Bắc Ninh
Bảng 2.2: Tỷ lệ bị cáo bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trên tổng số
các vụ án xét xử từ năm 2015 đến 09/2019 trong phạm vi cả nước
Tỷ lệ Năm
Số vụ án xét xử Số bị cáo xét xử Số bị cáo xét xử hình phạt cải tạo không giam giữ 3652 3073 3721 4397 3350 107241 100494 95995 98506 69749 61158 60343 58312 58586 42231 5,97% 5,09% 6,38% 7,5% 7,93%
2015 2016 2017 2018 01/2019 – 09/2019
84
Nguồn: Vụ tổng hợp – TAND tối cao