Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thái Bình
lượt xem 4
download
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của lao động nông thôn ở nước ta nói chung và Thái Bình nói riêng, từ đó đề xuất những giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Thái Bình hiện nay.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thái Bình
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị Phí Thị Nguyệt Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở tỉnh Thái Bình LUẬN VĂN THẠC SĨ Mã số: 60 31 01 HÀ NỘI – 2008
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một nước đang phát triển, có dân số đông với hơn 85 triệu dân, trong đó lao động nông thôn chiếm 75% tổng lực lượng lao động của cả nước. Khả năng tạo việc làm cho lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng là vấn đề lớn còn rất khó khăn. Những năm gần đây, nhờ chính sách đổi mới, cùng với việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo- việc làm, nền kinh tế nước ta tăng trưởng nhanh, đời sống đại bộ phận nhân dân đã được nâng lên một cách rõ rệt. Tuy nhiên, tình trạng không có việc làm và thiếu việc làm, tình trạng thừa lao động ở nông thôn có xu hướng gia tăng, điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị và an ninh quốc gia. Bởi vậy, giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn đang là một vấn đề cấp bách cả lý luận và thực tiễn, cần được quan tâm nghiên cứu. Đây là vấn đề cơ bản có tính trước mắt vừa có tính lâu dài đối với sự phát triển bền vững, do đó đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và coi đó là một trong những “giải pháp có tính chiến lược ở nước ta”. Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua Thái Bình luôn coi trọng chương trình giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh, đặc biệt là lao động ở nông thôn. Song là một tỉnh kinh tế chưa phát triển có quy mô dân số lớn, hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động tăng nhanh nên vẫn còn khá đông những người lao động không có việc làm và có việc làm nhưng không ổn định, thu nhập của lao động nông thôn còn thấp, đời sống của người nông dân còn gặp nhiều khó khăn. Trong bối cảnh đó, đề tài: 1
- “Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Tỉnh Thái Bình” là vấn đề thiết thực có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề “việc làm”, “giải quyết việc làm” đã được nhiều tác giả, cơ quan nghiên cứu trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: - Vấn đề dân số - lao động - việc làm Đồng bằng sông Hồng, Luận án Tiến sĩ Địa lý của Trần Thị Bích Hằng, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội, 2000. - Mối quan hệ giữa dân số và việc làm ở nông thôn Đồng bằng Sông Hồng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án Tiến sĩ Xã hội học của Đặng Xuân Thao, Viện xã hội học- Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2000. - Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở vùng Đồng bằng Bắc bộ, Luận án tiến sĩ kinh tế của Lê Doãn Khải, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2001. - Tạo việc làm cho lao động nữ thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án tiến sĩ Kinh tế của Trần Thị Thu, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2002. - Sử dụng có hiệu quả nguồn lao động ở các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền trung trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Luận án Tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Bích Hạnh, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003. - Thị trường lao động- cơ sở lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. 2
- - Nguồn lực và động lực phát triển kinh tế do GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005. - Giải quyết việc làm cho lao động khu vực chuyển đổi mục đích sử dụng đất, Hồng Minh, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 270, tháng 9/2005. - Giải quyết việc làm ở Thanh Hoá - thực trạng và giải pháp, Lê Hồng Sơn, Tạp chí Lao động và Xã hội số 291, tháng 7/2006. - Vấn đề thừa lao động ở nông thôn Việt Nam hiện nay, TS. Nguyễn Bá Ngọc, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 314+315, tháng 7/2007. - Giải quyết về việc làm và ổn định đời sống dân cư vùng chuyển đổi sử dụng đất nông nghiệp, PGS.TS Nguyễn Tiệp, Tạp chí Lao động và Xã hội, số 322, tháng 11/2007. - Nông nghiệp - nông dân - nông thôn do TS. Đặng Kim Sơn chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008. - Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hoá ở Hải Dương, đề tài khoa học cấp bộ năm 2007 do PGS. TS Nguyễn Thị Thơm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh làm chủ nhiệm, Hà Nội, 2008. - Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê 2007, Nxb thống kê Hà Nội, 2008. Tuy nhiên, việc nghiên cứu giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Thái Bình chưa được các tác giả đề cập và giải quyết vấn đề một cách có hệ thống. Luận văn có thể góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Thái Bình, hy vọng góp thêm tiếng nói cùng các nhà nghiên cứu, lãnh đạo, quản lý giải quyết vấn đề cấp bách trong giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của lao động nông thôn ở nước ta nói chung và Thái Bình nói riêng, từ đó đề xuất 3
- những giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Thái Bình hiện nay. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm và giải quyết việc làm. - Phân tích thực trạng việc làm và vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Thái Bình trong thời gian qua. - Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn của tỉnh trong những năm tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề việc làm của lao động nông thôn ở Tỉnh Thái Bình . - Phạm vi nghiên cứu: Tạo việc làm cho lao động nông thôn ở Thái Bình. - Thời gian: từ 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc làm và giải quyết việc làm để nghiên cứu đề tài này. - Nguồn tài liệu: + Văn kiện của Đảng và Nhà nước, văn kiện Đảng bộ tỉnh Thái Bình + Sách chuyên khảo về lao động và việc làm + Tài liệu giải quyết việc làm của tỉnh Thái Bình từ 2000 đến 2008 - Phương pháp nghiên cứu: Ngoài phương pháp duy vật biện chứng- phương pháp luận nghiên cứu của kinh tế học chính trị, tác giả còn sử dụng tổng hợp các phương pháp: lôgic kết hợp với lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kê đánh giá, so sánh…các phương pháp này được sử dụng phù hợp với từng nội dung trong luận văn. Trong quá trình tập hợp tư liệu, thông tin và 4
- nghiên cứu, xử lý số liệu, tác giả cố gắng kết hợp lý luận với thực tiễn việc làm của lao động nông thôn ở tỉnh Thái Bình hiện nay. 6. Đóng góp của luận văn Nghiên cứu đề tài này, luận văn có thể cung cấp một số luận cứ khoa học nhất định cho các nhà hoạch định chính sách, quản lý của địa phương có thể tham khảo, sử dụng trong việc giải quyết việc làm. 7.Về kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 11 tiết. Chương 1. Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về việc làm và giải quyết việc làm ở nông thôn Chương 2. Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Thái Bình Chương 3. Giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở Thái Bình trong những năm tới. 5
- 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN 1.1 Lao động nông thôn và những nhân tố ảnh hưởng tới giải quyết việc làm của lao động nông thôn 1.1.1 Một số khái niệm cơ bản Nguồn nhân lực: Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người, là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Đó là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự phát triển: con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, trong các yếu tố của sản xuất, đây là yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất. Nguồn nhân lực là một bộ phận của dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động, không kể đến trạng thái có làm việc hay không làm việc. Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, khái niệm này còn được gọi là “dân cư hoạt động” có nghĩa là tất cả những người có khả năng làm việc trong dân cư theo độ tuổi quy định. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên cả hai mặt: về số lượng, là tổng thể những người trong độ tuổi lao động và thời gian làm việc có thể huy động được của họ. Về chất lượng nguồn nhân lực, là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực, thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn nhân lực. Theo quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam, chất lượng nguồn nhân lực được xem là chất lượng con người, bao gồm cả thể chất, tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực, phẩm chất, thái độ và phong cách lao động. Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển kinh tế, mà còn là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, bởi lẽ chất lượng nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là nguồn lực 7
- của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định. Như vậy, chất lượng nguồn nhân lực thường được xem xét trên các mặt: thể lực (tình trạng sức khoẻ, tầm vóc…) và trí lực (trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn – nghiệp vụ, năng lực phẩm chất…). Việc quy định cụ thể về độ tuổi lao động có sự khác nhau ở các nước, thậm chí khác nhau ở mỗi giai đoạn của mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc trình độ phát triển của nền kinh tế- xã hội. Đa số các nước quy định tuổi tối thiểu của độ tuổi lao động là 15 tuổi, còn tối đa là có sự khác nhau (60 tuổi hoặc 64 tuổi...). Ở Ôxtraylia không quy định tuổi về hưu và cũng không có giới hạn tuổi tối đa. Ở Việt Nam theo quy định của Bộ Luật Lao động (2002) độ tuổi này được quy định là 60 tuổi đối với nam và 55 tuổi đối với nữ . Nguồn lao động: Nguồn lao động là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động đang tham gia làm việc và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng như nguồn nhân lực. Tuy nhiên, giữa nguồn nhân lực và nguồn lao động có sự khác nhau. Sự khác nhau này là do trong thực tế có một bộ phận dân số tuy trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động nhưng vì nhiều lý do khác nhau họ chưa tham gia lao động. Đây là bộ phận ngoài lực lượng lao động. Lao động: Hiện nay có những quan niệm khác nhau về “lao động”, tuy nhiên các quan niệm đều tập trung ở hai khía cạnh: thứ nhất, coi lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức, là phương thức tồn tại của con người. Thứ hai, coi lao động chính là con người với sức khoẻ và trí tuệ nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất và tinh thần để thoả mãn các nhu cầu của đời sống con người. Lao động không những tạo ra của cải vật chất để nuôi sống con người mà còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về mặt thể lực và trí lực. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đồng tình với khái niệm “lao động” đó 8
- là hoạt động có mục đích có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống con người [13, tr. 41]. Lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh ngoài các địa điểm được quy định là thành thị được coi là lao động nông thôn. Việc làm: Khái niệm việc làm không phải là vấn đề mới, nhiều nhà kinh tế học đã nêu lên quan điểm của họ về khái niệm việc làm, tuy nhiên hiểu thế nào là việc làm điều này vẫn đang có sự khác nhau. Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo mục đích của con người. Việc làm đã được tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) quan tâm ngay từ khi nó được thành lập vào năm 1919. Hội nghị lần đầu tiên của tổ chức này đã thông qua công ước về thất nghiệp yêu cầu các quốc gia thành viên phải báo cáo những biện pháp thi hành chế độ chống thất nghiệp. Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): việc làm là những hoạt động lao động được trả công bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Theo Bộ luật Lao động ở nước ta, khái niệm việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”[1, tr. 15]. Từ quan niệm trên cho thấy, khái niệm việc làm phải được thoả mãn ở các điều kiện sau: Thứ nhất: Là hoạt động lao động của con người. Thứ hai: Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập. Thứ ba: Hoạt động lao động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Như vậy, nếu một hoạt động mà chỉ tạo ra thu nhập nhưng vi phạm quy định của pháp luật thì không thể coi đó là việc làm. Mặt khác, có những hoạt 9
- động lao động hợp pháp, có ích nhưng không tạo ra thu nhập thì cũng không được thừa nhận là việc làm. Tuy nhiên, trong thực tế có những hoạt động có ích cho gia đình, cho xã hội, không vi phạm pháp luật, nhưng không tạo ra thu nhập trực tiếp cho người tham gia lao động chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của người phụ nữ cho chính gia đình mình lại không được coi là việc làm. Chính nhờ những người phụ nữ làm công việc nội trợ đã góp phần làm giảm một khoản chi tiêu cho gia đình; họ tạo điều kiện cho chồng con yên tâm làm việc, tăng thu nhập cho cả gia đình. Bởi vậy, thực chất lao động của người phụ nữ làm công việc nội trợ ở đây cũng đã góp phần làm tăng thu nhập của cả gia đình. Như vậy, quan điểm về việc làm cần được hiểu một cách đầy đủ hơn là những hoạt động có ích, không vi phạm pháp luật, có thu nhập hoặc tạo điều kiện làm tăng nguồn thu cho người khác và cho xã hội. Trong kinh tế thị trường, số lượng việc làm phản ánh cung cầu về lao động. Ngày nay, năng suất lao động tăng đã làm ảnh hưởng rất lớn tới cầu lao động và cơ cấu lao động. Nếu người lao động không tự nâng cao trình độ, kỹ năng cho phù hợp với tính chất và công việc của mình thì tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm sẽ khó tránh khỏi. Hậu quả của thất nghiệp và thiếu việc làm cho chính bản thân người lao động và xã hội là rất lớn. Đối với bản thân người lao động, họ sẽ mất tiền lương, tiền công, ảnh hưởng đến mức sống, họ sẽ mất đi cơ hội trau dồi tri thức và hao mòn kiến thức đối với những lao động được đào tạo. Đối với xã hội, thất nghiệp và thiếu việc làm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, xã hội, chính trị, an ninh của quốc gia. Giải quyết việc làm: chính là tạo ra các cơ hội để người lao động có việc làm và tăng thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình, cộng đồng và xã hội. 10
- Quá trình tạo việc làm là: (1) quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Mà số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, vốn đầu tư, tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó; (2) quá trình tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao động phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, quy định về độ tuổi lao động và tốc độ di chuyển của lao động. Chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục và đào tạo, y tế, thể dục thể thao và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng; (3) quá trình tạo ra những điều kiện kinh tế – xã hội khác như các chính sách của nhà nước, các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao, các giải pháp để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm… Giải quyết việc làm phải được xem xét từ ba phía: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Vì vậy, giải quyết việc làm theo nghĩa rộng là tạo ra môi trường và các điều kiện cần thiết để người lao động tự do làm ăn, tạo ra thu nhập, tự tạo việc làm cho bản thân mình và cho người khác theo pháp luật, phát huy đến mức cao nhất nhân tố con người với khả năng sáng tạo vô hạn của con người. Giải quyết việc làm theo nghĩa hẹp là các biện pháp chủ yếu hướng vào đối tượng thiếu việc làm, thất nghiệp nhằm tạo ra chỗ làm việc cho người lao động, duy trì tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức thấp. Với lao động nông thôn, phần lớn họ làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, bởi vậy đây là loại hình việc làm gắn với cây trồng, vật nuôi, gắn với những công việc theo thời vụ. Do vậy, vào thời kỳ mùa màng bận rộn thì khối lượng công việc nhiều và tăng đột biến. Tuy nhiên, lúc hết vụ thì khối lượng công việc giảm đột ngột và có lúc người nông dân không có việc làm. Hiện nay, dân số ở khu vực nông thôn vẫn không ngừng tăng nhanh, trong khi diện tích đất canh tác không tăng thậm chí có xu hướng giảm dần do công 11
- nghiệp hoá và đô thị hoá, mặt khác với khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất bên cạnh việc làm cho năng suất lao động không ngừng tăng nhanh sẽ giải phóng một lượng lớn lao động ra khỏi ngành nông nghiệp. Nếu không tạo đủ chỗ làm việc cho người nông dân, đặc biệt là những lúc nông nhàn thì sẽ dẫn đến hiện tượng người nông dân đổ xô ra các thành phố lớn và các khu công nghiệp tìm kiếm việc làm một cách tự phát gây nhiều vấn đề phức tạp cho việc quản lý lao động, tệ nạn xã hội gia tăng. 1.1.2 Đặc điểm của lao động nông thôn Lao động nông thôn phần lớn làm việc trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, mọi hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh của họ đều gắn liền với đối tượng cây trồng, vật nuôi - là những cơ thể sống với những đặc điểm riêng biệt. Vì vậy, lao động nông nghiệp nông thôn có những đặc điểm riêng, không giống với lao động làm việc ở khu vực thành thị và ở các lĩnh vực kinh tế khác. 1.1.2.1 Cung lao động tăng nhanh Cung lao động nông nghiệp nông thôn về cơ bản là do cung dân số quyết định. Xuất phát từ nhiều lý do: trình độ dân trí, quan niệm, phong tục tập quán… dẫn đến một thực tế là tốc độ gia tăng dân số ở khu vực nông thôn thường cao hơn nhiều so với khu vực thành thị. Thực tiễn tăng dân số ở các nước trên thế giới và trong từng quốc gia cho thấy chức năng sinh đẻ duy trì nòi giống thường không vận động cùng chiều với trình độ phát triển và hoàn cảnh kinh tế. Hiện tượng phổ biến là: ở các nước phát triển có tốc độ tăng dân số và lao động tự nhiên thấp hơn các nước đang phát triển và các nước nghèo; trong mỗi quốc gia bình quân số con đẻ ra của một phụ nữ nông thôn trong độ tuổi sinh đẻ cao hơn ở thành thị và bình quân số con của một phụ nữ trí thức thường thấp hơn các nhóm xã hội khác. Đối với nước ta tình hình cũng diễn ra tương tự như vậy. 12
- Khu vực nông thôn đang tập trung một số lượng lớn lực lượng lao động của cả nước và với tốc độ tăng khoảng hơn 2,5%/năm. Với lực lượng lao động ở nông thôn năm 2002 là 30,98 triệu người và thời gian chưa sử dụng trung bình cả nước là 24,46%, nếu quy đổi thì sẽ tương đương với 7,5 triệu người không có việc làm. 1.1.2.2 Cầu lao động tăng chậm và mang tính chất thời vụ Tính chất thời vụ đã làm cho lao động nông nghiệp nông thôn lúc thì căng thẳng, lúc thì nhàn rỗi thiếu việc làm. Do thu nhập thấp, thời gian nhàn rỗi việc đồng áng tương đối dài, nên lao động nông thôn đều muốn tìm kiếm thêm việc làm. Tuy nhiên, có người tìm được việc làm có người không. Kinh tế học hiện đại người ta gọi những người không tìm được việc làm thêm này là người thất nghiệp tạm thời. Về cơ cấu ngành kinh tế năm 2002 trong tổng số gần 31 triệu người tham gia lực lượng lao động ở nông thôn, có tới 75% làm việc trong ngành nông- lâm- thuỷ sản, chỉ 15% làm việc trong công nghiệp và dịch vụ. Trong những người thiếu việc làm ở nông thôn có tới 80% tập trung trong nông nghiệp. Theo lý thuyết thì tăng trưởng kinh tế sẽ thu hút thêm lao động giải quyết việc làm. Với tốc độ tăng trưởng bình quân của nông nghiệp là 5,4 % nhưng hệ số co dãn việc làm so với 1% tăng trưởng kinh tế của nông thôn nước ta chỉ là 0,43% trong giai đoạn 1990-2000 nghĩa là mỗi năm khu vực nông nghiệp chỉ tạo thêm được số việc làm mới bằng 2,3% lực lượng lao động. Cơ cấu của lao động ở nông thôn Việt Nam thể hiện tính thuần nông. Trong 8 vùng của cả nước ngoại trừ vùng Đông Nam bộ có cơ cấu ngành nghề của các hộ nông thôn khá tiến bộ 64,2% nông nghiệp và 35,8% còn lại là phi nông nghiệp, các vùng Tây nguyên và vùng núi phía Bắc cơ cấu ngành nghề của các hộ mang tính thuần nông nặng và chuyển dịch rất chậm, tỷ lệ 13
- giữa nông nghiệp và phi nông nghiệp của Tây nguyên là 91,1% và 7,1%; vùng Đông Bắc là 88,4 và 8,6%; Tây Bắc là 93% và 5,97 [47, tr.30]. 1.1.2.3 Chất lượng lao động của nông thôn thấp Nếu xét trên góc độ trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật và thể lực của người lao động, có thể nói rằng vẫn còn khoảng cách khá xa về mặt chất lượng lao động giữa nông thôn và thành thị. Khoảng cách này còn lớn hơn khi xem xét ở các loại lao động có trình độ cao. Ở Việt Nam theo các số liệu thống kê lao động - việc làm cho thấy, trình độ văn hoá phổ biến của lao động nông thôn là ở mức tốt nghiệp tiểu học và trung học cơ sở. Số người có trình độ này chiếm tới trên 60% lao động ở nông thôn. Theo các nhà nghiên cứu, năng suất lao động sẽ tăng nếu người nông dân có trình độ học vấn ở mức độ nào đó, và nếu tốt nghiệp phổ thông mức tăng này là 11%. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn với 85% năm 2004, mặc dù giảm 7% so với năm 1996(với 92%); số lao động được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học và tương đương ở nông thôn chỉ chiếm 1,5%. Số lao động được đào tạo nghề gồm sơ cấp và công nhân kỹ thuật là 2,3%, trung cấp kỹ thuật là 2,4%. Trong số 8 vùng nông thôn, những vùng có trình độ học vấn thấp cũng chính là những vùng có tỷ lệ lao động đã qua đào tạo thấp, vùng Tây bắc chỉ có 2,3%, Tây Nguyên là 3,41% [47, tr. 25]. Về mặt thể lực, mặc dù thể lực và chiều cao của lao động có tăng lên do chất lượng cuộc sống được nâng cao hơn nhưng lao động nông thôn cũng yếu hơn so với lao động ở thành thị. Theo điều tra y tế quốc gia năm 2000, lao động nông thôn bị ốm nhiều hơn lao động thành thị, trong khi lao động thành thị bình quân có 1,1 lần ốm/năm thì lao động nông thôn là 1,7 lần. Số ngày ốm 14
- không tham gia hoạt động kinh tế của lao động nông thôn cũng dài hơn (6,7 ngày so với 4,8 ngày của lao động ở thành thị) [47, tr. 26]. 1.1.2.4 Khả năng tự tạo việc làm của lao động hạn chế Do lực lượng lao động tăng nhanh đã dẫn đến thiếu đất canh tác, và diện tích gieo trồng bình quân một lao động bị giảm rõ rệt. Nếu như trước năm 1965 bình quân một lao động 1 ha gieo trồng thì năm 2000 giảm xuống còn 0,49 ha, đến năm 2006 còn 0,28 ha, ở các tỉnh thuộc Đồng bằng Bắc bộ chỉ 0,16 ha [19, tr. 57]. Đó là con số quá thấp nếu so sánh với các nước trong khu vực khoảng 0,8 ha. Sự thu hẹp này còn tiếp tục do quá trình đô thị hoá, xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất còn kéo dài. Thu nhập của lao động nông nghiệp nông thôn thấp nên ít có khả năng mở rộng sản xuất. Đến cuối năm 2005, bình quân thu nhập 1 nhân khẩu nông thôn 1 tháng chỉ khoảng 375.000đ. Theo chuẩn nghèo mới giai đoạn 2006- 2010, ở nông thôn là 200.000đ/người/tháng. Nếu chi tiêu cho ăn 6000 đồng một ngày thì chỉ đủ chi cho gạo và chất đốt, còn dư được 20.000/ tháng. Ở Bắc Cạn, theo chuẩn này dù đã rất thấp kém thì cũng có tới 50% hộ nông dân thuộc diện nghèo [27, tr. 15]. 1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra và kết hợp giữa các yếu tố tư liệu sản xuất, sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để đảm bảo cho việc làm và duy trì việc làm. Giải quyết việc làm liên quan đến nhiều chủ thể, bao gồm người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước. Vì vậy, giải quyết việc làm nói chung và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn nói riêng chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau: 1.1.3.1 Nhóm các nhân tố liên quan đến quá trình tạo ra tư liệu sản xuất 15
- - Tài nguyên thiên nhiên: Để giải quyết việc làm phải có tư liệu sản xuất tức là phải có đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp là những nhân tố có tính chất tự nhiên, sẵn có đó là tài nguyên thiên nhiên mà trước hết là đất đai, rừng biển. Tài nguyên thiên nhiên vừa là đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Vì thế, nó là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và là cơ sở quan trọng đầu tiên để tạo việc làm cho người lao động. Nếu một quốc gia, một địa phương ở vào vị trí địa lý thuận lợi có đất đai màu mỡ, phì nhiêu, tài nguyên khoáng sản phong phú thì chắc chắn sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong giải quyết việc làm cho người lao động. Ngược lại, người lao động sống ở những nơi bất lợi như khí hậu khắc nghiệt, đất đai cằn cỗi, vùng núi, hải đảo…thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong tìm kiếm và giải quyết việc làm tại chỗ. - Vốn và Khoa học - công nghệ: Vốn làm tăng thêm đầu vào và tăng thêm đầu ra của quá trình sản xuất do đó làm tăng thêm việc làm và tăng thu nhập. Theo tổng kết của các nhà kinh tế, các yếu tố làm tăng thu nhập khoảng 1/2 ở các nước phát triển và khoảng 1/4 đến 1/3 ở các nước đang phát triển là do các yếu tố vật chất tăng lên. Vốn là tiền đề để đồng thời đạt được 3 mục tiêu cơ bản của nền kinh tế là tăng trưởng, việc làm đầy đủ và phân phối công bằng hợp lý. Muốn có việc làm đầy đủ thì nền kinh tế phải tăng trưởng. Nền kinh tế tăng trưởng phải có đầu tư. Sự phát triển của khoa học - công nghệ sẽ làm xuất hiện nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, do đó nó sẽ tạo mở thêm nhiều việc làm mới cho người lao động. Nếu tăng vốn đầu tư vào phát triển các ngành sử dụng công nghệ thấp sẽ làm gia tăng việc làm, nhưng đó chỉ là việc làm giản đơn, năng suất lao động thấp, thu nhập thấp. Ngược lại, nếu tăng vốn vào những 16
- ngành sử dụng công nghệ cao thì việc làm sẽ giảm nhưng lại là những việc làm có năng suất lao động cao, thu nhập cao. Như vậy, việc tăng hay giảm đầu tư vào phát triển các ngành nghề, lĩnh vực sử dụng công nghệ cao, trung bình hay thấp thì đều có ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động. Đối với lao động nông nghiệp, nông thôn thì mức độ ảnh hưởng đó càng mạnh hơn. Nếu tăng vốn đầu tư vào những ngành sử dụng công nghệ thấp thì cơ hội giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn sẽ tăng lên và ngược lại. Điều này còn tuỳ thuộc vào chiến lược và chính sách của Nhà nước. 1.1.3.2 Nhóm các nhân tố liên quan đến quá trình tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động - Dân số và lao động: Dân số là nguồn cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội. Do vậy, quy mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực. Khi quy mô dân số lớn, tốc độ tăng trưởng dân số nhanh thì quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực sẽ lớn và do đó nhu cầu giải quyết việc làm sẽ rất lớn và ngược lại. Chất lượng dân số cao, khả năng tiếp thu và lĩnh hội kiến thức và kỹ năng của người lao động tốt thì khả năng giải quyết việc làm sẽ thuận lợi. Ngược lại, chất lượng dân số thấp, chất lượng nguồn nhân lực thấp sẽ gây khó khăn cho việc lĩnh hội tri thức và do đó sẽ khó khăn trong giải quyết việc làm. Hàng năm nước ta có khoảng hơn 1 triệu lao động mới được bổ sung có nhu cầu giải quyết việc làm. Chất lượng dân số nước ta thấp nên chất lượng lao động không cao nhất là với lao động nông nghiệp, nông thôn. Quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ thì đội ngũ lao động chất lượng thấp này không kịp thích ứng, và đã trở thành sức ép rất lớn về vấn đề giải quyết việc làm. 17
- Việc khống chế mức gia tăng dân số, giảm tỷ lệ gia tăng dân số cũng có nghĩa là có sự đầu tư cao hơn vào các lĩnh vực giáo dục, sức khoẻ và các dịch vụ xã hội sẽ giảm áp lực đối với giải quyết việc làm Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị cũng gây ra nhiều áp lực lớn đối với giải quyết việc làm. Khoảng cách chênh lệch lớn về kinh tế- xã hội giữa nông thôn và thành thị là nguyên nhân gây nên sự di chuyển này. Nhất là trong quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá thì dòng di cư này càng mạnh hơn. Để có thể thu hút hết số lao động này phải nhanh chóng tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc. Đồng thời có chiến lược chính sách phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn đặc biệt là kinh tế nông thôn, nâng cao điều kiện sống cho cư dân nông thôn. - Giáo dục và đào tạo: Giáo dục - đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng nguồn lao động và do đó nó có ảnh hưởng đến việc làm và giải quyết việc làm. Giáo dục theo nghĩa rộng là tất cả các dạng học tập nhằm nâng cao kiến thức và kỹ năng của con người trong suốt cả cuộc đời. Giáo dục đào tạo tốt sẽ tạo ra một lực lượng lao động có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có phẩm chất đạo đức và tác phong làm việc tốt, có cơ cấu theo trình độ và ngành nghề phù hợp với cầu về lao động điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giải quyết việc làm. Ngược lại, khi người lao động không được giáo dục - đào tạo, không được trang bị những kiến thức và kỹ năng làm việc phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động thì sẽ gây khó khăn cho vấn đề giải quyết việc làm. Nước ta hiện nay giáo dục đào tạo còn nặng về lý thuyết, sinh viên ít được thực hành trong quá trình học tập. Về cơ cấu đào tạo có nhiều bất hợp lý so với yêu cầu của thị trường lao động. Theo thống kê, năm 2005, lực lượng lao động cả nước theo cấp trình độ như sau: lao động qua đào tạo nghề là 15,2%; qua đào tạo trung học chuyên nghiệp là 4,3% và qua đào tạo cao đẳng, 18
- đại học, trên đại học là 5,3%. Như vậy, cứ 1 lao động cao đẳng, đại học, trên đại học thì có 0,8 lao động trung học chuyên nghiệp và 2,8 công nhân kỹ thuật. Trong khi đó, cơ cấu của các nước trong khu vực là 1;3,5;10 [28, tr. 23]. Chất lượng lao động của Việt Nam thấp còn được thể hiện trong những cuộc tuyển dụng tại các hội chợ việc làm được tổ chức thường xuyên trong vài năm gần đây và kết quả cho thấy tỷ lệ người tìm việc đạt yêu cầu tuyển dụng còn rất thấp, trong khi cả số người cần tìm việc làm và số chỗ làm việc cần người đều cao. Với lao động nông thôn như đã trình bày ở phần trên thì chất lượng thấp hơn nhiều so với lao động ở khu vực thành thị. Phần đông lao động nông thôn trình độ học vấn thấp, không được đào tạo nghề, vì thế giải quyết việc làm cho họ có nhiều khó khăn. Nếu người lao động nông nghiệp, nông thôn nói riêng và lao động trong các ngành nói chung không được đào tạo và đào tạo lại đáp ứng yêu cầu mới thì tự họ sẽ mất công ăn việc làm, cơ hội tìm kiếm việc làm sẽ rất khó khăn, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm là khó tránh khỏi. - Dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ: Sức khoẻ có tác động lớn tới chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai do đó có ảnh hưởng đến việc làm và giải quyết việc làm. Sức khoẻ của người lao động thường được đánh giá ở thể lực (chiều cao, cân nặng). Một nền y tế tốt thường xuyên chăm lo đến sức khoẻ cộng đồng sẽ tạo ra một lực lượng lao động khoẻ mạnh. Điều này sẽ thuận lợi trong giải quyết việc làm. Với lao động ở khu vực nông thôn, thu nhập của người nông dân thấp, do mạng lưới y tế còn hạn chế kém phát triển nên việc chăm lo tới sức khoẻ của lực lượng lao động này còn rất hạn chế. Khi trình độ của họ đã thấp cộng với sức khoẻ yếu kém thì sẽ ảnh hưởng đến giải quyết việc làm. 1.1.3.3 Nhóm nhân tố liên quan đến cơ chế chính sách 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 27 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn