Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
lượt xem 8
download
Đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện mô hình, phương thức tổ chức kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế
- MỤC LỤC Nội dung Trang Mở đầu 1 Chương 1: Phát triển siêu thị bán lẻ – Một số vấn đề lý luận và kinh 6 nghiệm quốc tế 1.1. Lý luận chung về phát triển siêu thị bán lẻ 6 1.1.1. Bản chất, vai trò của siêu thị bán lẻ 6 1.1.1.1. Khái niệm và phân loại siêu thị bán lẻ 6 1.1.1.2. Đặc điểm và mô hình tổ chức của siêu thị bán lẻ 15 1.1.1.3. Chức năng của siêu thị bán lẻ 17 1.1.1.4. ưu và nhược điểm của siêu thị bán lẻ 19 1.1.2. Điều kiện phát triển siêu thị bán lẻ 21 1.1.3. Phát triển các siêu thị bán lẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế 23 1.1.3.1. Tập trung hóa hình thành các tập đoàn lớn chuyên kinh doanh 23 siêu thị bán lẻ 1.1.3.2. Mở rộng mạng lưới siêu thị bán lẻ ra ngoài biên giới quốc gia 24 1.1.3.3. Xu hướng sử dụng ngày càng phổ biến công nghệ thông tin trong 25 hoạt động kinh doanh siêu thị 1.1.3.4. Hợp nhất chức năng bán buôn và bán lẻ 26 1.1.3.5. Phát triển các dịch vụ phục vụ khách hàng 26 1.1.3.6. Nhượng quyền thương mại phát triển sâu rộng 26 1.2. Kinh nghiệm phát triển siêu thị bán lẻ của một số nước trên thế giới 27 1.2.1. Tình hình phát triển siêu thị hệ thống bán lẻ ở một số nước 27 1.2.2. Một số bài học kinh nghiệm phát triển siêu thị bán lẻ cho Việt Nam 36 Chương 2: Thực trạng phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội 43 nhập kinh tế quốc tế 2.1. Thực trạng hoạt động của hệ thống siêu thị bán lẻ Việt Nam thời gian 43 qua 2.1.1. Số lượng siêu thị bán lẻ 45 2
- 2.1.2. Quy mô siêu thị bán lẻ 48 Nội dung Trang 2.1.3. Thành phần kinh tế tham gia kinh doanh siêu thị bán lẻ 50 2.1.4. Mô hình hoạt động của siêu thị bán lẻ 51 2.1.5. Hàng hóa trong siêu thị bán lẻ 52 2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bán lẻ Việt Nam 53 2.2.1. Môi trường pháp lý 53 2.2.2. Môi trường kinh doanh 57 2.2.3. Các nhân tố khác 58 2.3. Đánh giá chung về thực trạng phát triển của các siêu thị bán lẻ Việt 60 Nam thời gian qua 3.1. Những thành tựu đạt được 60 3.2. Những hạn chế, tồn tại 67 2.3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế 72 Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển 75 các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 3.1. Bối cảnh và điều kiện mới đối với việc phát triển các siêu thị bán lẻ 75 Việt Nam 3.1.1. Những xu hướng mới của môi trường kinh doanh quốc tế và trong 75 nước 3.1.2. Những cơ hội và thách thức đối với việc phát triển các siêu thị bán 90 lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 3.1.2.1. Cơ hội 90 3.1.2.2. Thách thức 92 3.2. Quan điểm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập 95 kinh tế quốc tế 3.2.1. Phát triển siêu thị bán lẻ Việt Nam phải đảm bảo phù hợp với 95 những quy luật khách quan của kinh tế thị trường 3.2.2. Đảm bảo kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại 96 3
- 3.2.3. Huy động sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế 97 Nội dung Trang 3.2.4. Nâng cao hiệu quả điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động 98 của các siêu thị bán lẻ 3.2.5. Phát triển siêu thị bán lẻ Việt Nam phải phù hợp với đặc điểm kinh 99 tế, văn hóa, tập quán của người Việt Nam 3.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát triển hệ thống siêu thị bán lẻ Việt 100 Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 3.3.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước 100 3.3.1.1. Triển khai xây dựng và phê duyệt quy hoạch phát triển tổng thể 100 hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại 3.3.1.2. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong 101 lĩnh vực siêu thị bán lẻ 3.3.1.3. Hỗ trợ trực tiếp của Nhà nước từ ngân sách trung ương 103 3.3.1.4. Ban hành một số chính sách khuyến khích nhằm phát triển các 104 siêu thị bán lẻ nội địa 3.3.1.5. Thành lập hiệp hội các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị bán lẻ 105 3.3.2. Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp kinh doanh siêu thị bán lẻ 105 3.3.2.1. Củng cố hoạt động kinh doanh của các siêu thi hiện tại 105 3.3.2.2. Phát triển mạng lưới siêu thị nhằm chiếm lĩnh thị trường nội địa 108 3.3.2.3. Chính sách giá cả hợp lý 109 3.3.2.4. Tăng cường hoạt động quảng cáo, chất lượng phục vụ khách hàng 109 3.3.2.5. Vấn đề hậu cần 110 3.3.2.6. Đào tạo và quản lý nhân viên 110 Kết luận 112 Tài liệu tham khảo 4
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Dịch vụ bán lẻ là hoạt động quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nó là mắt xích không thể thiếu trong hệ thống phân phối hàng hóa từ khâu sản xuất tới người tiêu dùng cuối cùng, từ đó thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế và gia tăng lợi ích cho người tiêu dùng. Khi xã hội càng phát triển, phân công lao động xã hội và trình độ chuyên môn hóa càng cao thì nhu cầu của người tiêu dùng càng được cá biệt hóa thì vai trò của dịch vụ bán lẻ càng trở nên quan trọng. Sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có bước phát triển kinh tế – xã hội vượt bậc với tốc độ tăng trưởng bình quân 2001 – 2007 trên 7,5%. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao thứ hai trên thế giới là sự ổn định chính trị - xã hội, quy mô thị trường với hơn 85 triệu dân, mức độ tiêu dùng ngày càng lớn khiến cho Việt Nam được đánh giá là thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới hiện nay trong số 20 nước mới nổi (Theo hãng tư vấn quản lý hàng đầu thế giới – AT Kearney đưa ra vào tháng 6/2008). Việc nghiên cứu và áp dụng kênh phân phối hàng hóa qua hệ thống siêu thị bán lẻ tới người tiêu dùng cuối cùng sao cho hiệu quả, phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng đã trở nên cấp thiết. Việc phân phối theo kiểu truyền thống thông qua các chợ, cửa hàng tạp hóa nhỏ, các tiểu thương có vai trò rất quan trọng trong lưu thông hàng hóa nhưng cũng không tránh khỏi những bất cập như: giá cao, hàng hóa lưu thông chậm, bán hàng mang tính tự phát, thiếu chuyên nghiệp và khó quản lý,… Chính vì vậy, việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam theo theo hướng thuận tiện, hiện đại và hiệu quả là nhu cầu cấp thiết hiện nay. Cùng với sự phát triển mạnh của nền kinh tế, trước yêu cầu của hội nhập sâu rộng trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội, các siêu thị bán lẻ Việt Nam đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như: Hoạt động kinh doanh của 5
- các siêu thị bán lẻ Việt Nam còn bộc lộ nhiều yếu kém từ khâu tổ chức, thiết lập mạng lưới bán hàng, hậu cần, chiến lược kinh doanh chưa thực sự phù hợp cho sự phát triển lâu dài; Kết cấu hạ tầng phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhìn chung còn yếu kém, lạc hậu và thiếu thốn; Nguồn nhân lực còn yếu về kỹ năng, nghiệp vụ và thiếu chuyên nghiệp. Vì vậy, việc nghiên cứu và đưa ra giải pháp nhằm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong điều kiện hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết. Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội, trước áp lực của cạnh tranh khốc liệt khi Việt Nam đã gia nhập WTO, các siêu thị bán lẻ Việt Nam phải thực sự đổi mới, hiện đại hóa mới có thể đứng vững và phát triển. Mặt khác, với lộ trình đã cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam thực sự mở cửa trong lĩnh vực bán lẻ vào ngày 1.1.2009 khi các tập đoàn lớn được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (hiện nay chỉ được phép liên doanh) - điều đó đặt các doanh nghiệp phân phối bán lẻ trong nước, các kênh phân phối truyền thống có nguy cơ bị “xâm lấn” từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và cả nền kinh tế. Vì thế, việc nghiên cứu để tìm ra những giải pháp thực sự cần thiết nhằm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cần được nghiên cứu. Việc nghiên cứu nhằm thúc đẩy sự phát triển của các siêu thị bán lẻ Việt Nam sẽ góp phần tạo thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế, giúp tăng tỷ trọng của dịch vụ trong cơ cấu ngành kinh tế nước nhà, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. 2. Tình hình nghiên cứu: * Phát triển siêu thị bán lẻ đã được Nhà nước, các Bộ, ngành và các địa phương quan tâm nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Các chủ trương, chính sách lớn của Nhà nước như: - Nghị định 02/2003/NĐ - CP của Chính phủ ngày 14/1/2003 về phát triển và quản lý chợ. - Quyết định 311/QĐ-TTg ngày 20/3/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển mạnh thị trường nội địa 6
- đã chứa đựng các nội dung quan trọng về phát triển dịch vụ bán buôn, bán lẻ ở Việt Nam. - Quyết định 1371/2004/QĐ-BTM ngày 24/9/2004 của Bộ Thương mại ban hành “Quy chế siêu thị và trung tâm thương mại ở Việt Nam”. - Quyết định 27/2007/QĐ-TTg ngày 15/2/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Phát triển thương mại trong nước 2006 – 2010, định hướng đến 2020”. * Các công trình nghiên cứu như đề tài khoa học cấp Bộ, các bài viết đăng trên các tạp chí, luận văn, luận án...đều đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập tới việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam như: - Đề tài khoa học cấp bộ “Thực trạng và giải pháp phát triển hệ thống siêu thị của Việt Nam hiện nay” – do Viện nghiên cứu thương mại thực hiện năm 2005. - Đề tài khoa học cấp bộ “Hệ thống siêu thị trên địa bàn Hà Nội” – PGS.TS Trần Hùng 2004, Đại học thương mại - Đề tài khoa học cấp bộ “Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động các chợ đầu mối trên trên địa bàn thành phố Hà Nội” – TS. Nguyễn Thị Bích Loan, Đại học Thương mại 2005. - Đề tài khoa học cấp bộ “Phát triển chuỗi cửa hàng tiện lợi tại các khu đô thị mới trên địa bàn Hà Nội” – TS. Lêdi a Quân, Đại học Thương mại 2008 - Luận văn Thạc sỹ “Những yếu tố quyết định đến thị trường bán lẻ Việt Nam” – Nguyễn Thị Uyên, Đại học Thương mại 2006. - Ngoài ra, rất nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí, interner… đều có đề cập đến siêu thị bán lẻ đặc biệt sau khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Tuy đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, đề tài, luận văn, luận án đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến phát triển các siêu thị bán lẻ nhưng những công trình này chỉ dừng lại ở việc mô tả thực trạng và xu hướng phát triển của hệ thống siêu thị trên lãnh thổ Việt Nam (bao gồm cả siêu thị nội địa và siêu thị ngoại); trên một địa bàn cụ thể (một địa phương, một khu vực…); một doanh 7
- nghiệp bán lẻ cụ thể…Việc tách riêng hệ thống siêu thị bán lẻ mang quốc tịch Việt Nam để nghiên cứu thì chưa có đề tài nào đề cập tới. Mặt khác, đề tài được thực hiện trong bối cảnh Việt Nam đã trở là thành viên của WTO - điều này có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của hệ thống siêu thị Việt trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, sự cạnh tranh từ các siêu thị nước ngoài là rất khốc liệt. Vì vậy, việc thực hiện đề tài này sẽ không trùng lắp, đảm bảo tính độc lập có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao đối với việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục đích: Đề xuất các giải pháp đổi mới và hoàn thiện mô hình, phương thức tổ chức kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Nhiệm vụ: - Hệ thống hóa và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về dịch vụ bán lẻ tại các siêu thị trong hội nhập kinh tế quốc tế. - Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra hiện nay của hệ thống siêu thị bán lẻ Việt Nam về hệ thống pháp lý, chính sách của Nhà nước; các mô hình hoạt động và cách thức tổ chức kinh doanh.... - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm góp phần đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách, vận dụng và phát triển các mô hình và phương thức tổ chức kinh doanh vào việc phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam một cách hiệu quả, hiện đại và phù hợp với điều kiện thực tiễn hội nhập sâu rộng ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu: 4.1. Đối tượng: Luận văn nghiên cứu siêu thị bán lẻ với tư cách là một hình thức lưu thông hàng hóa, dịch vụ – một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu: 8
- - Nghiên cứu hoạt động kinh doanh của các siêu thị bán lẻ Việt Nam (Quốc tịch Việt Nam) chủ yếu ở 2 thị trường lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. - Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng hoạt động của hệ thống siêu thị bán lẻ Việt Nam từ 1996 đến nay và đề xuất giải pháp phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam đến 2010, định hướng đến 2020. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp tiếp cận và nghiên cứu chủ đạo với những phương pháp cụ thể: - Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh và dự báo. - Nghiên cứu tài liệu trên cơ sở nguồn tài liệu thứ cấp là sách, báo, websites... đặc biệt là các nguồn tài liệu của Bộ Thương mại, các chính sách, Quyết định, đề án... nhất là các báo cáo khảo sát hệ thống phân phối của các nước Trung Quốc, Thái Lan do Vụ chính sách thị trường trong nước thực hiện. 6. Dự kiến đóng góp mới của luận văn: - Hệ thống hóa và làm rõ hơn những lý luận về siêu thị bán lẻ trong hội nhập kinh tế quốc tế. - Phân tích nhằm làm rõ thực trạng hoạt động của siêu thị bán lẻ Việt Nam hiện nay - Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới. 7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau: Chương 1: Phát triển siêu thị bán lẻ – Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế 9
- Chương 2: Thực trạng phát triển các siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế Chương 3: Phƣơng hƣớng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển siêu thị bán lẻ Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế CHƢƠNG 1 PHÁT TRIỂN SIÊU THỊ BÁN LẺ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 1.1. Lý luận chung về phát triển siêu thị bán lẻ 1.1.1. Bản chất, chức năng của siêu thị bán lẻ 1.1.1.1. Khái niệm và phân loại siêu thị bán lẻ a. Các khái niệm * Khái quát về hệ thống phân phối Hoạt động phân phối có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Đối với người sản xuất, phân phối là những cách thức và những tổ chức giúp họ đạt tới các khách hàng cuối cùng. Lựa chọn một chính sách phân phối có nghĩa là lựa chọn những phương thức phân phối phù hợp nhất cho việc bán một hàng hóa hoặc dịch vụ. Đối với người tiêu dùng, hoạt động phân phối được thể hiện chủ yếu tại các cửa hàng bán lẻ – mắt xích cuối cùng của quá trình biến đổi, vận chuyển, dự trữ và đưa hàng hóa, dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Còn đối với bản thân các nhà phân phối, hoạt động phân phối là một lĩnh vực kinh tế riêng biệt có chức năng trung gian giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Tuy nhiên, có thể định nghĩa hoạt động phân phối như sau: Phân phối là quá trình lưu thông hàng hóa từ nhà chế tạo/sản xuất hay nhập khẩu tới các nhà phân phối trực tiếp/các đại lý bán hàng hay các công ty thương mại, các đối tác thu mua tới tay người tiêu dùng/các khách hàng kinh doanh, nhà chuyên môn (các trung gian phân phối). Các trung gian phân phối bao gồm các thể nhân và pháp nhân kinh tế hợp thức đứng giữa nhà sản xuất và nhà tiêu dùng thực hiện chức năng phân phối hàng hóa để tìm kiếm lợi nhuận cho họ. Theo chức năng của các trung gian 10
- phân phối, thường có hai loại trung gian phân phối là trung gian bán buôn và trung gian bán lẻ. Tuy nhiên, trong thực tế lại có trung gian thương mại vừa bán buôn và kiêm cả bán lẻ, khi đó họ sẽ được coi là trung gian bán buôn hay bán lẻ là tùy thuộc vào tỷ trọng bán buôn hay bán lẻ cao thấp khác nhau. Như vậy, phân phối bao gồm toàn bộ các quá trình hoạt động theo thời gian và không gian từ lúc kết thúc sản xuất cho đến lúc kết thúc khách hàng cuối cùng nhận được sản phẩm tiêu dùng. Đó là các khâu đóng gói, vận chuyển, lưu kho, dự trữ và đem bán cho người tiêu dùng. Dù hoạt động phân phối có thể do chính người sản xuất thực hiện hay do các trung gian đảm nhiệm theo yêu cầu của người sản xuất, nó luôn được coi là chiếc cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Nó giúp cho hàng hóa và dịch vụ có thể thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng được tạo ra trong giai đoạn sản xuất. Nhờ có phân phối, hàng hóa và dịch vụ mới được lưu thông rộng khắp trên toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày một đa dạng hơn của người tiêu dùng. Hệ thống phân phối sản phẩm hay dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu thụ có thể là trực tiếp hay gián tiếp, có thể đi qua các kênh phân phối dài hay ngắn như sau: Bảng 1.1: Sơ đồ các kênh phân phối sản phẩm từ nhà sản xuất cho tới người tiêu thụ cuối cùng 11
- Người Người sản tiêu xuất dùng Người Người Người sản bán lẻ tiêu xuất dùng Người Người Người Người sản bán bán lẻ tiêu xuất buôn dùng Người Đại lý Người Người Người sản môi bán bán lẻ tiêu xuất giới buôn dùng - Kênh trực tiếp (còn gọi là kênh cực ngắn): Khi nhà sản xuất trực tiếp đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng, không qua trung gian nào cả. Bán hàng tại các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty hay bán hàng qua điện thoại, qua catalogue....chính là những kênh phân phối trực tiếp. - Kênh ngắn: Nhà sản xuất đưa hàng hóa đến các nhà bán lẻ và từ đó đưa hàng hóa đến với người tiêu dùng thông qua vai trò trung gian của những người bán lẻ. - Kênh trung bình: Hàng hóa qua hai cấp độ trung gian là nhà sản xuất – người bán buôn, ngưới bán lẻ, người tiêu dùng. - Kênh dài: Hàng hóa đi từ nhà sản xuất đến các đại lý hoặc môi giới rồi mới đến người bán buôn, bán lẻ để đến được người tiêu dùng cuối cùng. * Khái niệm bán buôn Căn cứ công văn 4660 TCT/NV6 ngày 19/10/2000 của Tổng cục thuế thì khái niệm bán buôn được hiểu là các hộ kinh doanh thương mại ở các chợ đầu mối, các trung tâm thương mại ở tỉnh, thành phố, thị xã... bán hàng với số lượng lớn cho những người kinh doanh mua về để bán lại. 12
- Theo Quyết định của hội đồng Bộ trưởng số 318/CT ngày 23/12/1988 về việc ban hành quy định về tổ chức kinh doanh bán buôn hàng tiêu dùng ở thị trường trong nước thì bán buôn hàng tiêu dùng là một khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa nối liền sản xuất với bán lẻ. Bán buôn không giới hạn ở mức độ bán đến người bán lại mà nó còn bao gồm vả việc bán hàng đến tất cả các loại hình kinh doanh bất kể họ có bán lại, có chế biến hay chỉ sử dụng cho mục đích chuyên môn nào đó. * Khái niệm bán lẻ Bán lẻ là bán hàng hóa hay dịch vụ cho khách hàng riêng lẻ. Nói cách khác, bán lẻ là hoạt động cung cấp hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp đến tay người tiêu dùng. b. Phân loại bán buôn, bán lẻ * Bán buôn Các trung gian bán buôn bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân mua hàng hóa để bán lại cho các doanh nghiệp hoặc tổ chức khác (Các nhà bán lẻ, các nhà bán buôn khác, các doanh nghiệp sản xuất, các tổ chức xã hội và cơ quan nhà nước). Trong thực tế, các doanh nghiệp có thể vừa bán buôn, vừa bán lẻ. Họ được coi là nhà bán buôn nếu tỷ trọng bán buôn là chủ yếu trong doanh số. Những nhà bán buôn được chia làm 3 loại chính: - Người bán buôn sở hữu hàng hóa thực sự - Đại lý, môi giới và nhà bán buôn hưởng hoa hồng - Chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất. Sở dĩ coi chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất như người bán buôn là do họ thực hiện các chức năng bán buôn là chủ yếu. * Bán lẻ Các trung gian bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp và cá nhân bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cá nhân hoặc hộ gia đình. Những nhà bán lẻ có thể được phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Các trung gian 13
- bán lẻ thường có số lượng lớn hơn, lĩnh vực hoạt động và các hình thức tổ chức lại đa dạng hơn. Có thể chia thành: - Các nhà bán lẻ truyền thống, các nhà bán lẻ áp dụng phương thức kinh doanh hiện đại - Các nhà bán lẻ độc lập và các nhà bán lẻ liên kết - Các cửa hàng bán lẻ độc lập và các doanh nghiệp bán lẻ - Cửa hàng chuyên doanh và cửa hàng tổng hợp - Siêu thị chuyên doanh và siêu thị tổng hợp, đại siêu thị - .... c. Siêu thị * Khái niệm siêu thị "Siêu thị" là từ được dịch ra từ các thuật ngữ nước ngoài - "Supermarket" (tiếng Anh) hay "Supermarché" (Tiếng Pháp), trong đó "Super" nghĩa là "Siêu" và "Market" là "Chợ". Siêu thị ra đời lần đầu tiên vào năm 1930 tại Mỹ và chính những ưu thế nổi trội của nó đã làm nên cuộc cách mạng trong lĩnh vực phân phối bán lẻ của thế giới hiện đại. Hiện nay, khái niệm siêu thị được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau tùy theo từng quốc gia, ví dụ: - Nước Mỹ coi siêu thị là "cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối luợng hàng hóa bán ra lớn, đảm bảo thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, bột giặt, các chất tẩy rửa và những mặt hàng chăm sóc nhà cửa" (Philips Kotler, "Marketing căn bản"). - Siêu thị ở Pháp được định nghĩa là "cửa hàng bán lẻ theo phương thức tự phục vụ có diện tích từ 400m2 đến 2500m2 chủ yếu bán hàng thực phẩm" (Marc Benoun,"Marketing: Savoir et savoir - faire",1991). - Siêu thị ở Anh: "Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ bày bán nhiều mặt hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người tiêu dùng như thực phẩm, đồ uống, dụng cụ gia đình và các loại vật dụng cần thiết khác" (Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z) 14
- Ở Việt Nam, bản chất của siêu thị cũng được thấy rõ trong quy chế “Siêu thị, trung tâm thương mại” của Bộ công thương, trước là Bộ thương mại: “Siêu thị là loại cửa hàng hiện đại, kinh doanh tổng hợp hoặc chuyên doanh; có cơ cấu chủng loại hàng hoá phong phú, đa dạng, đảm bảo chất lượng; đáp ứng các tiêu chuẩn về diện tích kinh doanh, trang bị kỹ thuật và trình độ quản lý, tổ chức kinh doanh; có phương thức phục vụ văn minh thuận tiện nhằm thỏa mãn nhu cầu mua sắm hàng hóa của khách hàng”. Tóm lại, có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau về siêu thị nhưng từ các định nghĩa khác nhau này, người ta vẫn thấy những nét chung nhất cho phép phân biệt siêu thị với các dạng cửa hàng bán lẻ khác. Đó là siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ và hàng hóa chủ yếu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày. * Những đặc trƣng nổi bật của siêu thị - Siêu thị trước hết là cửa hàng bán lẻ: Mặc dù được định nghĩa là "chợ" song đây được coi là loại "chợ" ở mức phát triển cao, được quy hoạch và tổ chức kinh doanh dưới hình thức những cửa hàng bề thế, có trang thiết bị và cơ sở vật chất hiện đại, văn minh, do thương nhân đầu tư và quản lý, được Nhà nước cấp phép hoạt động. Siêu thị chủ yếu thực hiện chức năng bán lẻ - bán hàng hóa trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng chứ không phải để bán lại. - Siêu thị áp dụng phương thức tự phục vụ: Khi nói đến siêu thị người ta không thể không nghĩ tới "tự phục vụ", một phương thức bán hàng do siêu thị sáng tạo ra, được ứng dụng trong nhiều loại cửa hàng bán lẻ khác và là phương thức kinh doanh chủ yếu của xã hội văn minh công nghiệp hóa... ở đây cũng cần phân biệt giữa phương thức tự chọn và tự phục vụ: + Tự chọn: khách hàng sau khi chọn mua được hàng hoá sẽ đến chỗ người bán để trả tiền hàng, tuy nhiên trong quá trình mua vẫn có sự giúp đỡ, hướng dẫn của người bán. 15
- + Tự phục vụ: khách hàng xem xét và chọn mua hàng, bỏ vào giỏ hoặc xe đẩy đem đi và thanh toán tại quầy tính tiền đặt gần lối ra vào. Người bán gần như vắng bóng trong quá trình mua hàng. Chính thức ra đời từ những năm 1930, tự phục vụ đã trở thành công thức chung cho ngành công nghiệp phân phối ở các nước phát triển. Tự phục vụ đồng nghĩa với văn minh thương mại hiện đại. Nó có nhiều ưu điểm so với cách bán hàng truyền thống: doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí bán hàng, đặc biệt là chi phí tiền lương cho nhân viên bán hàng (thường chiếm tới 30% tổng chi phí kinh doanh). Tự phục vụ giúp người mua cảm thấy thoải mái khi được tự do lựa chọn, ngắm nghía, so sánh hàng hóa mà không cảm thấy bị ngăn trở từ phía người bán. Do áp dụng phương thức tự phục vụ, giá cả trong các siêu thị được niêm yết rõ ràng để người mua không phải tốn công mặc cả, tiết kiệm được thời gian và hàng hóa bày bán trong siêu thị thường là những hàng hóa tiêu dùng phổ biến. Ngoài ra, phương thức thanh toán tại các siêu thị rất thuận tiện. Hàng hóa gắn mã vạch, mã số được đem ra quầy tính tiền ở cửa ra vào, dùng máy quét scanner để đọc giá, tính tiền bằng máy và tự động in hóa đơn. Hình ảnh các quầy tính tiền tự động luôn là biểu tượng cho các cửa hàng tự phục vụ. Đây chính là tính chất "siêu" của siêu thị, đem đến cảm giác thoải mái, hài lòng, tự tin và sự thỏa mãn cao nhất cho người mua sắm... Có thể khẳng định rằng phương thức tự phục vụ là sáng tạo kỳ diệu của kinh doanh siêu thị và là cuộc đại "cách mạng" trong lĩnh vực thương mại bán lẻ mà người tiên phong không ai khác là những người kinh doanh siêu thị. - Siêu thị sáng tạo nghệ thuật trưng bày hàng hoá Ngoài việc sáng tạo ra phương thức bán hàng tự phục vụ, đóng góp của siêu thị cho hệ thống bán lẻ còn là nghệ thuật trưng bày hàng hoá. Các siêu thị cũng là những nhà bán lẻ đầu tiên nghĩ đến tầm quan trọng của nghệ thuật trình bày hàng hoá và nghiên cứu cách thức vận động của người mua hàng khi vào cửa hàng. Nhiều cửa hàng bán lẻ khác, dựa trên cơ sở các nghiên cứu của siêu 16
- thị để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khách hàng sâu sắc hơn nhằm tối đa hoá hiệu quả của không gian bán hàng. Do người bán không có mặt tại các quầy hàng nên hàng hóa phải có khả năng "tự quảng cáo", lôi cuốn người mua. Siêu thị làm được điều này thông qua các nguyên tắc sắp xếp, trưng bày hàng hóa (merchandising) nhiều khi được nâng lên thành những thủ thuật. Chẳng hạn, hàng có tỷ suất lợi nhuận cao được ưu tiên xếp ở những vị trí dễ thấy nhất, được trưng bày với diện tích lớn; những hàng hóa có liên quan đến nhau được xếp gần nhau; hàng khuyến mại phải thu hút khách hàng bằng những kiểu trưng bày đập vào mắt; hàng có trọng lượng lớn phải xếp ở bên dưới để khách hàng dễ lấy; bày hàng với số lượng lớn để tạo cho khách hàng cảm giác là hàng hoá đó được bán rất chạy... - Hàng hóa trong siêu thị chủ yếu là hàng tiêu dùng thường ngày như thực phẩm, quần áo, bột giặt, đồ gia dụng điện tử... với chủng loại rất phong phú, đa dạng. Điều này thể hiện đúng tính chất "chợ" của siêu thị. Xem xét ở khía cạnh danh mục hàng hóa thì siêu thị thuộc hệ thống các cửa hàng kinh doanh tổng hợp, khác với các cửa hàng chuyên doanh chỉ chuyên sâu vào một hoặc một số mặt hàng nhất định. Theo quan niệm của nhiều nước, siêu thị phải là nơi mà người mua có thể tìm thấy mọi thứ họ cần ở "dưới một mái nhà" và với một mức giá "ngày nào cũng thấp" (everyday-low-price). Chủng loại hàng hóa của siêu thị có thể lên tới hàng nghìn, thậm chí hàng chục nghìn loại hàng. Thông thường, một siêu thị có thể đáp ứng được 70 - 80% nhu cầu hàng hóa của người tiêu dùng về ăn uống, trang phục, mỹ phẩm, đồ làm bếp, chất tẩy rửa, vệ sinh... Chưa bàn đến vấn đề chất lượng, ta có thể thấy siêu thị là loại cửa hàng phục vụ cho quảng đại công chúng và phần nhiều là tầng lớp bình dân có thu nhập từ mức thấp trở lên. * Siêu thị trong mạng lƣới phân phối bán lẻ hiện đại Siêu thị là một dạng cửa hàng bán lẻ thuộc mắt xích trung gian gần với người tiêu dùng nhất. Tuy nhiên, khi nói đến siêu thị, ta ngầm hiểu đó là cách tiếp cận từ góc độ phân loại mang tính tổ chức đối với những cửa hàng bán lẻ theo phương thức hiện đại. Hệ thống các cửa hàng này ở các nước phương Tây 17
- bao gồm cửa hàng tiện dụng (Convenience store), siêu thị nhỏ (Mini-super), siêu thị (Supermarket), đại siêu thị (Hypermarket), cửa hàng bách hoá lớn (Department store), cửa hàng bách hoá thông thường, cửa hàng đại hạ giá (Hard discounter), trung tâm thương mại (Commercial center)... Những loại hình cửa hàng này với quy mô ngày càng lớn, trang hoàng đẹp và mua bán nhanh chóng, thuận tiện đã tạo nên diện mạo của ngành thương nghiệp bán lẻ hiện đại tại các nước công nghiệp phát triển. Trong hệ thống các cửa hàng bán lẻ hiện đại, siêu thị được xếp ở vị trí cao hơn các cửa hàng tự phục vụ nhỏ, cửa hàng tiện dụng và thấp hơn so với đại siêu thị, cửa hàng đại hạ giá(hard discounter), cửa hàng bách hoá, trung tâm thương mại xét về mặt quy mô, diện tích và phương thức kinh doanh. Những cửa hàng bán lẻ này đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài, có suy thoái và có diệt vong tùy theo từng thời kỳ. Chính phương thức bán hàng tự phục vụ và nghệ thuật trưng bày hàng hoá của siêu thị đã mở ra kỷ nguyên thương mại bán lẻ văn minh hiện đại. Cùng với khái niệm siêu thị là chuỗi siêu thị, chỉ một tập hợp các siêu thị của một nhà phân phối được đặt ở các địa bàn khác nhau nhưng áp dụng phương thức kinh doanh thống nhất. Trong chuỗi siêu thị, diện mặt hàng, giá cả, phương thức quản lý quầy hàng, gian hàng, cách trưng bày hàng hoá, biển hiệu và hình thức bên ngoài là tương tự nhau. Ở nước ta, thuật ngữ chuỗi siêu thị mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Chính sự phát triển ngày sàng sâu rộng của siêu thị đã hình thành một khái niệm mới liên quan là hệ thống siêu thị. Hệ thống siêu thị là thuật ngữ chỉ mạng lưới cửa hàng bán lẻ hợp nhất áp dụng phương pháp bán hàng tự phục vụ các hàng hoá phổ biến của người dân. Căn cứ vào quy mô, diện tích mặt bằng kinh doanh và tập hợp hàng hoá, hệ thống siêu thị gồm siêu thị nhỏ, siêu thị và đại siêu thị. Trong đó: - Siêu thị nhỏ: là cửa hàng bán lẻ nhỏ, chủ yếu bán hàng thực phẩm theo phương thức tự phục vụ, hợp nhất, thường nằm giữa các khu dân cư đô thị. 18
- - Đại siêu thị: là cửa hàng thương mại bán lẻ khối lượng lớn tại một địa điểm, dựa trên nguyên tắc bán hàng tự phục vụ và quy mô lớn hơn nhiều so với siêu thị, thường nằm ở ngoại ô các thành phố lớn có bãi xe rộng. Như vậy, hệ thống siêu thị được cấu thành bởi các siêu thị nhỏ, siêu thị và các đại siêu thị áp dụng phương thức bán hàng tự phục vụ, hợp nhất các hàng hóa tiêu dùng phổ biến cho người dân. Nhưng cần phải nói thêm, do sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống phân phối ngày nay, khái niệm siêu thị hay hệ thống siêu thị cũng có những bước phát triển mới, siêu thị có thể được dùng để chỉ tất cả các dạng cửa hàng bán lẻ áp dụng phương thức bán hàng hiện đại. * Phân loại siêu thị ở Việt Nam (Tiêu chuẩn siêu thị bán lẻ của bộ thương mại nay là Bộ công thương) - Siêu thị hạng 1: Diện tích từ 1000 m2 trở lên với siêu thị chuyên doanh, có 2000 tên hàng hóa trở lên và từ 5000 m2 trở lên với siêu thị tổng hợp có số lượng hàng hóa kinh doanh từ 20000 tên hàng trở lên. - Siêu thị hạng 2: 500 m2 với siêu thị chuyên doanh có 1000 tên hàng hóa và 2000 m2 với siêu thị tổng hợp có 10000 tên hàng hóa trở lên. - Siêu thị hạng 3: 250 m2 với siêu thị chuyên doanh có 500 tên hàng và 500 m2 trở lên với siên thị tổng hợp có từ 4000 tên hàng trở lên. Bên cạnh đó, các siêu thị phải có đầy đủ các thiết bị cần thiết khác như: Phòng cháy chữa cháy, vệ sinh môi trường, an ninh. Có kiến trúc công trình thẩm mỹ, thiết bị kỹ thuật tiên tiến, hàng hóa phải được để trong kho đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm... 1.1.1.2. Đặc điểm và mô hình tổ chức của siêu thị bán lẻ a. Đặc điểm - Những siêu thị bán lẻ có thể được phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Ví dụ, theo những mặt hàng mà siêu thị bán, người ta chia 19
- ra siêu thị chuyên doanh hoặc siêu thị tổng hợp... Siêu thị chuyên doanh bán những dòng sản phẩm hẹp và chuyên sâu. Siêu thị tổng hợp bày bán nhiều mặt hàng khác nhau, mỗi mặt hàng là một quầy riêng. - Hàng hóa, dịch vụ của các siêu thị bán lẻ thường là các hàng hóa tiêu dùng hằng ngày. - Các loại siêu thị bán lẻ khác nhau có quy mô, phương thức kinh doanh và sức mạnh chi phối thị trường khác nhau, tất nhiên họ cũng có khả năng điều khiển hệ thống phân phối khác nhau. - Đối tượng khách hàng của các siêu thị bán lẻ thường là người tiêu dùng cuối cùng. Các nhà cung cấp cho các nhà phân phối bán lẻ thường là các nhà bán buôn, các đại lý vừa bán buôn vừa bán lẻ. - Trong hệ thống các kênh phân phối hàng hóa từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng thì hoạt động của siêu thị bán lẻ chỉ thực hiện ở 3 kênh đó là kênh ngắn, kênh trung bình và kênh dài. Đối với 2 kênh trung bình và dài, thông thường các nhà bán lẻ phải mua hàng hóa của các nhà bán buôn và từ đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. b. Mô hình tổ chức của hệ thống siêu thị bán lẻ Mô hình tổ chức hoạt động của siêu thị bán lẻ có thể dựa trên xác định sự lặp lại của quan hệ kinh doanh, mức độ phụ thuộc lẫn nhau và liên kết dài hạn giữa các thành viên trong hoạt động. Để tăng hiệu quả kinh doanh và sức mạnh cạnh tranh trên thị trường các doanh nghiệp cần hướng tới phát triển hình thức phân phối theo liên kết dọc. Các hệ thống marketing liên kết dọc là các mạng lưới được thiết lập gồm các liên kết dọc và các phối hợp ngang. Mỗi loại hệ thống phân phối liên kết dọc có một cách khác nhau để thiết lập hoặc sử dụng quyền lãnh đạo hệ thống phân phối. Trong hệ thống liên kết dọc tập đoàn, doanh nghiệp sở hữu tất cả các thành viên trong hệ thống phân phối nên đảm bảo sự hợp tác và giải quyết xung đột một cách chủ động. Trong hệ thống phân phối liên kết dọc hợp đồng, các nhiệm vụ và quan hệ giữa các thành viên của hệ thống phân phối được xác định qua những hợp đồng thỏa thuận phân chia công việc phân phối và lợi ích. Trong 20
- hệ thống phân phối liên kết dọc được quản lý, sự lãnh đạo thuộc một hoặc một vài thành viên có sức mạnh nhất trong hệ thống phân phối. - Liên kết dọc tập đoàn Liên kết dọc tập đoàn là sự kết hợp các giai đoạn sản xuất và phân phối về cùng một chủ sở hữu. Ví dụ, người sở hữu có thể sở hữu các trung gian thương mại ở phía tiếp sau (cấp bán buôn) trong hệ thống phân phối hoặc thậm chí xây dựng cả những cửa hàng bán lẻ của họ. Các hệ thống phân phối này là kết quả của sự mở rộng của một doanh nghiệp bán lẻ theo chiều dọc ngược lên phía trên (nhà bán lẻ có thể phát triển các cơ sở sản xuất để cung cấp hàng cho họ) hoặc của sự phát triển của một nhà sản xuất xuôi xuống phía dưới (mua hoặc lập các đơn vị bán buôn và bán lẻ của họ). Tổng công ty xăng dầu là một ví dụ về kênh phân phối tập đoàn khi họ sở hữu toàn bộ hệ thống phân phối từ nhập khẩu đến bán buôn và bán lẻ. Người sở hữu và điều khiển các thành viên khác nhau trong hệ thống phân phối có thể là nhà sản xuất, bán buôn hay bán lẻ. Khi người sản xuất sở hữu và điều khiển các tổ chức bán buôn hoặc các nhà bán lẻ, hệ thống phân phối là kết quả của một sự phát triển xuôi chiều theo quá trình kinh doanh. Khi các nhà bán lẻ hay bán buôn sở hữu và quản lý các đơn vị sản xuất của họ, các hệ thống phân phối hàng hóa hòa nhập ngược chiều xuất hiện. Trong các hệ thống phân phối tập đoàn, sự hợp tác và giải quyết xung đột được thực hiện qua mệnh lệnh hành chính và quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. - Liên kết dọc hợp đồng Một hệ thống phân phối liên kết dọc hợp đồng bao gồm các doanh nghiệp kinh doanh độc lập ở nhiều khâu sản xuất và phân phối khác nhau cùng thống nhất phân chia công việc phân phối nhằm đạt hiệu quả kinh tế trong phân phối. Các doanh nghiệp tham gia hệ thống phân phối ký kết các bản hợp đồng trong đó chỉ rõ trách nhiệm thực hiện các công việc phân phối của mỗi người và lợi ích họ sẽ nhận được. Trên thị trường thế giới hiện nay hệ thống phân phối liên kết dọc hợp đồng là phổ biến nhất, ước đạt khoảng 40% tổng doanh số bán lẻ. - Hệ thống phân phối dọc được quản lý 21
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 23 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 10 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 7 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 3 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn