Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm định các nhân tố tác động đến lạm phát Việt Nam
lượt xem 5
download
Luận văn xây dựng mô hình nghiên cứu lạm phát gồm 5 biến: Tỷ giá, cung tiền M2, lãi suất, giá dầu thế giới, tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp trong giai đoạn tháng 11 năm 2001 đến tháng 7 năm 2012, dùng phương pháp ước lượng mô hình tự hồi quy vector (VAR) để xác định mức độ tác động của các nhân tố đến lạm phát ở nước ta.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm định các nhân tố tác động đến lạm phát Việt Nam
- i MỤC LỤC Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt iii Danh mục các bảng iv TÓM TẮT (ABSTRACT) 1 PHẦN 1. GIỚI THIỆU 2 PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY 5 2.1 Các nghiên cứu ở nước ngoài 5 2.2 Các nghiên cứu ở Việt Nam 8 PHẦN 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 12 3.1 Khung lý thuyết về lạm phát 12 3.1.1 Định nghĩa Lạm phát 12 3.1.2 Cách tính chỉ số lạm phát 13 3.2 Mô hình tự hồi quy vector (VAR) 18 3.2 Mô hình nghiên cứu lạm phát Việt Nam 19 3.3 Phương pháp ước lượng mô hình tự hồi quy vector VAR 22 3.4 Mô tả dữ liệu 22 PHẦN 4. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 25 4.1 Kiểm định tính dừng của dữ liệu 25 4.2 Xác định độ trễ tối ưu 26 4.4 Kết quả ước lượng 27 4.4.1 Kết quả mô hình VAR 27 4.4.2 Kết quả hàm phản ứng 29
- ii 4.4.3 Kết quả phân rã phương sai 31 4.5 Kiểm định phần dư mô hình VAR 33 PHẦN 5. KẾT LUẬN 34 5.1. Kết quả nghiên cứu chính 34 5.2 Thảo luận chính sách 34 5.3 Hạn chế của luận văn 36 TÀI LIỆU THAM KHẢO 37 PHỤ LỤC 39 Phụ lục 1. Cách tính chỉ số Laspeyres, Paachase, Fisher 39 Phụ lục 2. Chi tiết dữ liệu nghiên cứu 40 Phụ lục 3. Kết quả phân rã phương sai các biến 45
- iii Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt ADB Ngân hàng phát triển Châu Á (Asia develop bank) CPI Chỉ số giá tiêu dùng EIA Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (Energy Information Administration) GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product) GNP Tổng sản phẩm quốc giá (Gross National Product) GSO Tổng cục Thống kê (General statistics office) IFS Thống kê Tài chính thế giới (International Financial Statistics) IMF Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund) M2 Bao gồm: Tổng lượng tiền mặt do NHNN phát hành đang được lưu thông (M0) + Tiền mà các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng trung ương + tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn… tại các tổ chức tín dụng NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam NHTW Ngân hàng Trung ương OLS Phương pháp bình phương bé nhất thông thường (Ordinary least square) USD Đồng đô la Mỹ VND Đồng Việt Nam
- iv Danh mục các bảng Bảng 3.1 Quyền số dùng tính chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam thời kỳ 2009- 2014 của toàn quốc....................................................................................... 17 Bảng 3.2 Giới thiệu nguồn số liệu và kỳ vọng dấu tác động đến CPI............ 23 Bảng 4.1 Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị các biến .................................... 25 Bảng 4.2 Xác định độ trễ tối ưu .................................................................... 26 Bảng 4.3 Kiểm định tự tương quan phần dư ................................................. 27 Bảng 4.4 Kết quả mô hình VAR ................................................................... 28 Bảng 4.5 Hệ số co giản của lạm phát đối với các cú sốc của các biến ........... 30 Bảng 4.6 Kết quả phân rã phương sai biến DGCPI ....................................... 32 Bảng 4.7 Kết quả kiểm định phần dư mô hình VAR..................................... 33 Danh mục các hình Hình 4.1 Hàm phản ứng của gcpi đối với cú sốc các biến trong mô hình 31
- 1 KIỂM ĐỊNH CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN LẠM PHÁT VIỆT NAM TÓM TẮT (ABSTRACT) Luận văn xây dựng mô hình nghiên cứu lạm phát gồm 5 biến: Tỷ giá, cung tiền M2, lãi suất, giá dầu thế giới, tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp trong giai đoạn tháng 11 năm 2001 đến tháng 7 năm 2012, dùng phương pháp ước lượng mô hình tự hồi quy vector (VAR) để xác định mức độ tác động của các nhân tố đến lạm phát ở nước ta. Kết quả nghiên cứu cho thấy lạm phát quá khứ đóng vai trò quan trọng trong trong việc gia tăng lạm phát hiện tại, tăng tỷ giá có tác động đáng kể làm gia tăng lạm phát trong ngắn hạn nhưng với độ trễ 2 tháng, tăng cung tiền M2 có tác động đáng kể đến lạm phát trong ngắn với độ trễ 1 tháng, tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp và lãi suất cơ bản không tác động đến lạm phát cả trong ngắn hạn và trung hạn, mức chuyển của giá dầu thế giới vào mức giá trong nước trong ngắn hạn là đáng kể. Key words: Lạm phát, tự hồi quy vector VAR
- 2 PHẦN 1. GIỚI THIỆU Lạm phát là vấn đề thời sự, được mọi người quan tâm, vì ảnh hưởng của lạm phát đến đời sống kinh tế, xã hội là rất lớn. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm về lạm phát cho thấy hầu hết các nghiên cứu đều khẳng định vai trò của cung tiền, lạm phát quá khứ, tỷ giá hối đoái, thâm hụt ngân sách, tổng sản lượng GDP/GNP đối với lạm phát. Tuy nhiên nguyên nhân lạm phát tại các nước là khác nhau cũng như vai trò và mức độ tác động của nhân tố tiền tệ, tỷ giá, giá nước ngoài là khác nhau đối với lạm phát. Chhibber (1991) cho rằng tác động của phá giá đối với lạm phát tại các nước Châu Phi phụ thuộc vào mức độ linh hoạt tỷ giá hối đoái, sự cởi mở của tài khoản vốn và mức độ kiểm soát giá cả. Lim và Papi (1997) khẳng định cung tiền, tỷ giá và sản lượng GNP là nhân tố quan trọng nhất quyết định lạm phát Thổ Nhĩ Kỳ. McCarthy (2000) cho rằng tỷ giá có ảnh hưởng không đáng kể đến lạm phát giá cả trong nước ở một số nền kinh tế công nghiệp hóa trong khi giá nhập khẩu có tác động mạnh mẽ hơn. Lougani and Swagel (2001) chỉ ra rằng hai phần ba sự thay đổi trong lạm phát của 53 nước đang phát triển là do tăng cung tiền và dịch chuyển tỷ giá. Ngoài ra, họ cũng phát hiện ra rằng lạm phát kỳ vọng đóng vai trò cực kỳ quan trọng tác động đến lạm phát. Ramakrishnan và Vamvakidis (2002) khẳng định tỷ giá hối đoái và lạm phát nước ngoài là yếu tố then chốt ảnh hưởng lạm phát trong nước ở Indonesia, cung tiền chỉ có ý nghĩa thống kê còn mức tác động thì ít. Akinboade và cộng sự (2004) chỉ ra rằng trong dài hạn lạm phát tương quan ngược chiều với lãi suất và cùng chiều với tăng cung tiền. Jongwanich và Park (2008) cho rằng lạm phát diễn ra tại Châu Á gia tăng chủ yếu do tổng cầu và lạm phát kỳ vọng mà không bị ảnh hưởng nhiều bởi nhân tố chi phí đẩy.
- 3 Các nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam đã đưa ra những bằng chứng thực nghiệm góp phần làm sáng tỏ vấn đề lạm phát tại Việt Nam. Tuy nhiên, do mục tiêu nghiên cứu, cách tiếp cận và khoản thời gian lấy số liệu khác nhau nên các nghiên cứu này cho thấy kết quả khác nhau về vai trò tác động và mức độ tác động của các nhân tố vĩ mô lên lạm phát như: cung tiền, tỷ giá, giá quốc tế…. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010) cho rằng tỷ giá có tác động đáng kể làm tăng áp lực lạm phát. Trong khi các nghiên cứu khác đều cho rằng tỷ giá không có tác động hoặc mức tác động rất nhỏ. Dương Thị Thanh Mai (2002) cho rằng tỷ giá không có tính hiệu báo trước cho lạm phát. Còn Trương Văn Phước và Chu Hoàng Long (2005) cho rằng có mối quan hệ dài hạn giữa CPI, tỷ giá, M2, giá xăng dầu, mức cung ứng tiền tệ có tác động đến CPI tuy với cường độ rất nhỏ và với độ trễ 6 tháng. Phạm Thế Anh (2009) khẳng định vai trò của yếu tố lạm phát trong quá khứ, sản lượng và tốc độ tăng cung tiền (sau 3 quý) đến lạm phát, riêng giá dầu quốc tế không có ảnh hưởng đến lạm phát hiện tại. Với mục tiêu xác định chính xác nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam và mức độ tác động của các nhân tố vĩ mô đến lạm phát nên tác giả lựa chọn đề tài “Kiểm định các nhân tố tác động đến lạm phát Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Dựa trên mô hình nghiên cứu làm phát của Bhattacharya (2013), dữ liệu vĩ mô Việt Nam về tốc độ tăng CPI, tỷ giá VNĐ/USD, tốc độ tăng cung tiền M2, lãi suất cơ bản, giá dầu thế giới và tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp trong giai đoạn tháng 12 năm 2001 đến tháng 7 năm 2012, sử dụng phương pháp ước lượng mô hình tự hồi quy vector VAR để chạy mô hình thực nghiệm dưới sự hỗ trợ của phần mềm eview. Dữ liệu thứ cấp được tác giả thu thập tổng hợp từ các nguồn đáng tin cậy. Một số kiểm định có liên quan đến mô hình gồm: kiểm định tính dừng dữ
- 4 liệu, kiểm định phần dư mô hình. Từ kết quả mô hình VAR, tác giả thực hiện phân rã phương sai Choleski của Sim và khảo sát hàm phản ứng xung nhằm xác định phản ứng của CPI trước các cú sốc các biến. Những bằng chứng thu được góp phần cũng cố thêm những nhận định về nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam. Đồng thời gợi mở những định hướng chính sách trong việc điều hành nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay. Kết cấu của luận văn gồm 5 phần: - Phần 1. Giới thiệu - Phần 2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây - Phần 3. Phương pháp nghiên cứu - Phần 4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu - Phần 5. Kết luận
- 5 PHẦN 2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƢỚC ĐÂY 2.1 Các nghiên cứu ở nƣớc ngoài Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đều khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố tiền đối với lạm phát, các yếu tố như lạm phát quá khứ, thâm hụt ngân sách, tổng sản lượng GDP/GNP và tỷ giá hối đoái là những nhân tố quan trọng gây áp lực lên lạm phát. Trong đó nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò của tiền tệ và tỷ giá, giá nước ngoài có tác động khác nhau đến lạm phát. Chhibber (1991), nghiên cứu lạm phát các nước Châu Phi. Xây dựng mô hình lạm gồm: lạm phát hàng hóa thương mại và lạm phát hàng hóa phi thương mại. Trong đó lạm phát phát hàng hóa thương mại được mô phỏng theo cách tiếp cận ngang bằng sức mua - purchasing power parity (PPP). Lạm phát hàng hóa phi thương mại được mô phỏng dựa trên các nhân tố chi phí đẩy và cầu kéo của lạm phát. Nghiên cứu cho thấy rằng tác động của phá giá đối với lạm phát phụ thuộc vào mức độ linh hoạt tỷ giá hối đoái, sự cởi mở của tài khoản vốn và mức độ kiểm soát giá cả. Lim và Papi (1997) nghiên cứu lạm phát Thổ Nhĩ Kỳ giai đoạn 1970- 1995, xây dựng mô hình lạm phát gồm 4 nhóm nhân tố: thị trường hàng hóa, thị trường tiền tệ, thị trường lao động và thị trường bên ngoài. Kết quả khẳng định cung tiền, tỷ giá và sản lượng GNP là nhân tố quan trọng nhất quyết định lạm phát. Callen và Chang (1999) nghiên cứu mô hình lạm phát của Ấn Độ. Với mục đích mở rộng mục tiêu tiền tệ sang các công cụ khác để xây dựng chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương Ấn Độ, nhóm tác giả đã xây dựng mô hình kinh tế lượng để xác định xem công cụ nào cung cấp thông tin có ích nhất cho lạm phát tương lai. Các tác giả đã sử dụng kiểm định dài hạn (cointegration) và mô hình hiệu chỉnh sai số ECM để phân tích quan hệ dài hạn, ngắn hạn giữa các biến lạm phát, cung tiền, lãi suất danh nghĩa, tỷ giá hối
- 6 đoái, lạm phát nước ngoài. Các tác giả đã kết luận giá sản xuất, giá nhập, tỷ giá hối đoái cũng cung cấp những thông tin tốt về lạm phát tương lai. McCarthy (2000) kiểm định sự chuyển giá của các nhân tố bên ngoài và giá nhập khẩu vào lạm phát trong nước ở một số nền kinh tế công nghiệp hóa. Bằng cách sử dụng mô hình VAR kết hợp một chuỗi phân phối giá, tác giả tìm thấy có sự chuyển giá bên ngòai vào tổng giá tiêu dùng, phản ứng thúc đẩy cho thấy tỷ giá có ảnh hưởng không đáng kể đến lạm phát giá cả trong nước trong khi giá nhập khẩu có tác động mạnh mẽ hơn. Lougani and Swagel (2001) nghiên cứu dữ liệu của 53 nước đang phát triển bằng cách sử dụng phương pháp VAR với sáu biến gồm: tăng trưởng tiền lương, ước tính khoảng chênh lệch sản lượng so với sản lượng tiềm năng (output-gap), sự thay đổi trong tỷ giá hối đoái, giá dầu, giá của các hàng hóa không phải là dầu và lạm phát. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hai phần ba sự thay đổi trong lạm phát là do tăng cung tiền và dịch chuyển tỷ giá. Ngoài ra, họ cũng phát hiện ra rằng lạm phát kỳ vọng đóng vai trò cực kỳ quan trọng tác động đến lạm phát, nó ảnh hưởng từ 10-20% sự thay đổi lạm phát trong tương lai. Ramakrishnan và Vamvakidis (2002) xây dựng mô hình nghiên cứu lạm phát giá tiêu dùng ở Indonesia gồm: cung tiền, lương tối thiểu, năng suất lao động, khoảng chênh lệch sản lượng so với sản lượng tiềm năng, lãi suất, tỷ giá, lạm phát nước ngoài. Kết quả khẳng định tỷ giá hối đoái và lạm phát nước ngoài là yếu tố then chốt ảnh hưởng lạm phát trong nước, cung tiền chỉ có ý nghĩa thống kê còn mức tác động thì ít. Akinboade và cộng sự (2004) nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát ở Nam Phi với thị trường tiền tệ, thị trường lao động và thị trường ngoại hối. Nghiên cứu chỉ ra rằng chi phí lao động và tăng cung tiền có tương quan cùng chiều với tỷ lệ lạm phát, trong khi tỷ giá lại có tương quan ngược chiều với
- 7 lạm phát trong ngắn hạn. Trong dài hạn, họ nhận thấy lạm phát tương quan ngược chiều với lãi suất và cùng chiều với tăng cung tiền. Jongwanich và Park (2008) nghiên cứu lạm phát ở 9 nước đang phát triển ở Châu Á (trong đó có Việt Nam) đã sử dụng mô hình kết hợp giữa các nhân tố do “chi phí đẩy” (giá dầu quốc tế và chỉ số giá lương thực) và các nhân tố do “cầu kéo” (tổng cầu, sự truyền dẫn tỷ giá, giá nhập khẩu, chỉ số giá sản xuất và CPI chỉ số giá tiêu dùng). Tác giả đã nhận thấy rằng từ 2007-2008 lạm phát diễn ra tại Châu Á gia tăng chủ yếu do tổng cầu và lạm phát kỳ vọng mà không bị ảnh hưởng nhiều bởi nhân tố “chi phí đẩy” mặc dù khoảng thời gian đó, lạm phát gia tăng cùng với giá dầu quốc tế và giá lương thực. Cầu quá mức cùng với chính sách tiền tệ lỏng lẻo đã khiến cho kỳ vọng lạm phát gia tăng càng làm trầm trọng hơn tình hình lạm phát ở những nước này. Nghiên cứu của nhóm tác giả Fadli Fizari Abu Hassan Asari, Nurul Syuhada Baharuddin, Nurmadihah Jusoh, Zuraida Mohamad, Norazidah Shamsudin and Kamaruzaman Jusoff (2011) nghiên cứu mối quan hệ giữa lãi suất, lạm phát và sự biến động của tỷ giá tại Malaysia giai đoạn 1999-2009. Nghiên cứu sử dụng mô hình VECM. Kết quả kiểm định quan hệ nhân quả Granger-cause cho thấy lạm phát ảnh hưởng đến lãi suất, sau đó lãi suất tác động đến tỷ giá. Nhưng trong dài hạn lãi suất ảnh hưởng tích cực còn lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến biến động tỷ giá ở Malaysia. Hệ quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng sự gia tăng lãi suất có hiệu quả hạn chế sự biến động của tỷ giá.
- 8 2.2 Các nghiên cứu ở Việt Nam Dựa theo những lý thuyết đã có về lạm phát, các nghiên cứu về lạm phát ở Việt Nam cũng kết hợp nhiều yếu tố từ phía cung, cầu trong nước và giá cả nước ngoài nhằm giải thích những biến động của lạm phát. Những nghiên cứu gần đây về lạm phát ở Việt Nam xoay quanh các nhân tố: lạm phát quá khứ, cung tiền, lãi suất, tỷ giá, thu nhập, giá xăng dầu và giá gạo thế giới. Dương Thị Thanh Mai (2002) xây dựng mô hình lạm phát ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào ba yếu tố: cung tiền, thu nhập, tỷ giá. Với chuỗi dự liệu từ năm 1997-2000, tác giả đi đến các kết luận tỷ giá không có tín hiệu báo trước cho lạm phát. Khi kiểm định mô hình trong ba giai đoạn từ năm 1989-1992, 1993-1996, 1997-2000, tác giả cũng cho kết luận là tỷ giá không có tín hiệu báo trước cho lạm phát. Với các kết quả như trên tác giả khuyên các nhà làm chính sách có thể điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt mà không phải quan tâm đến lạm phát. Trương Văn Phước và Chu Hoàng Long (2005) ước lượng trực tiếp phương trình kinh tế lượng cho chỉ số CPI của Việt Nam giai đoạn tháng 7 năm 1994 đến tháng 12 năm 2004 gồm các biến: tỷ giá trung bình USD/VND, mức cung ứng tiền tệ, mức dư cầu, giá xăng thế giới, giá gạo thế giới. Kết quả cho thấy các nhân tố quyết định lạm phát trong giai đoạn này chủ yếu do là lạm phát thời kỳ trước. Nghiên cứu cũng cho thấy có mối quan hệ dài hạn giữa CPI, tỷ giá, M2, giá xăng dầu, giá gạo thế giới và mức dư cầu. Tác động của tỷ giá đến CPI lớn hơn so với giá xăng dầu và giá gạo quốc tế nhưng mức chuyển của tỷ giá vào lạm phát là rất thấp. Mức cung ứng tiền tệ có tác động đến CPI tuy với cường độ rất nhỏ và với độ trễ 6 tháng. Phạm Thế Anh (2008) ứng dụng mô hình SVAR trong việc xác đinh hiệu ứng của chính sách tiền tệ và dự báo lạm phát ở Việt Nam. Số liệu được
- 9 sử dụng theo dạng dữ liệu tháng từ tháng 01 năm 1994 đến tháng 8 năm 2008. Các biến sử dụng gồm: 4 biến nội sinh: sản lượng công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng, cung tiền và lãi suất tiền gửi kỳ hạn 3 tháng; biến ngoại sinh là giá dầu thế giới. Kết quả chỉ ra rằng hầu hết các biến nghiên cứu trong quá khứ có vai trò giải thích cho hầu hết các biến được nghiên cứu, trong đó sốc cung tiền M2 và lãi suất đóng vai trò rất nhỏ đối với lạm phát. Vương Thị Thảo Bình (2008) sử dụng mô hình đường Phillips giai đoạn 1995Q1-1998Q3 để phân tích động thái giá cả - lạm phát. Kết quả cho thấy lạm phát bị ảnh hưởng nhiều bởi lạm phát trễ hay lạm phát kỳ vọng. Khoảng chênh lệch sản lượng so với sản lượng tìm năng có tác động đáng kể đến sự thay đổi lạm phát. Trong khi tổng cầu danh nghĩa và giá dầu có tác động cùng chiều đến biến động lạm phát, nhưng không nhiều. Phạm Thế Anh (2009) xây dựng mô hình lạm phát giai đoạn quý 1 năm 1995 đến quý 4 năm 2008 phụ thuộc vào sự thay đổi của giá hàng hóa thương mại, giá hàng hóa phi thương mại. Dùng phương pháp ước lượng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM). Các biến sử dụng gồm: CPI, cung tiền, lãi suất, tỷ giá, sản lượng công nghiệp và sai số ECM từ kiểm định tự tương quan mối quan hệ về cầu tiền. Mô hình cho thấy không có mối quan hệ đồng tích hợp giữa các biến giá cả trong nước, giá cả quốc tế, và tỉ giá hối đoái hay còn gọi là điều kiện ngang bằng sức mua. Kết quả ước lượng khẳng định vai trò của yếu tố lạm phát trong quá khứ, sản lượng và tốc độ tăng cung tiền (sau 3 quý) đến lạm phát. Riêng giá dầu quốc tế không có ảnh hưởng đến lạm phát hiện tại. Phạm Thị Thu Trang (2009) sử dụng mô hình hồi quy chuyển tiếp trơn để phân tích 4 nhóm yếu tố ảnh hưởng tới lạm phát ở Việt Nam gia đoạn từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 10 năm 2008 gồm: Cung tiền, giá dầu, giá trị sản xuất công nghiệp, giá gạo, giá trị trễ của tỷ lệ lạm phát. Kết quả cho rằng tăng
- 10 cung tiền ngay lập tức làm cho lạm phát tăng và tác động mạnh nhất tới lạm phát, ảnh hưởng của nó còn kéo dài tới 3 tháng sau đó. Tổng cầu tăng ngay lập tức làm lạm phát tăng và tiếp tục tăng ở 3 tháng tiếp theo. Tổng cầu tác động tới lạm phát mạnh nhất sau 1 tháng. Tỷ lệ lạm phát biến động cùng chiều với biến động giá gạo xuất khẩu với độ trễ tác động là 1, 2 và 3 tháng. Giá dầu thế giới tác động tới lạm phát với độ trễ tác động là 1 tháng. Lạm phát trong quá khứ có ảnh hưởng tới lạm phát hiện tại. Lạm phát kỳ vọng hay lạm phát do tâm lý là hiện tượng thường thấy ở Việt Nam. Đây là yếu tố tác động yếu nhất tới lạm phát. Độ trễ tác động là 1 và 3 tháng. Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành (2010) xây dựng mô hình lạm phát giai đoạn (2000-2010) phụ thuộc vào sự thay đổi của giá hàng hóa thương mại, giá hàng hóa phi thương mại và giá được kiểm soát. Kết quả nghiên cứu trái ngược với những nghiên cứu về vai trò của tỷ giá, cụ thể là việc phá giá, có tác động đáng kể làm tăng áp lực lạm phát. Sự khác biệt trong kết quả này có thể được giải thích một phần là do các nghiên cứu trước đây chủ yếu nghiên cứu trong các giai đoạn tỷ giá được giữ tương đối cứng nhắc. Các kết quả khác cũng cho rằng kỳ vọng lạm phát là nhân tố quan trọng quyết định lạm phát hiện tại. Cung tiền và lãi suất có tác động đến lạm phát nhưng với độ trễ. Mức chuyển giá quốc tế đến mức giá nội địa trong ngắn hạn có vai trò nhất định. Bhattacharya (2013) nghiên cứu tác động của chính sách tiền tệ đối với lạm phát tại Việt Nam và các nước mới nổi ở Châu Á. Xây dựng mô hình nghiên cứu lạm phát Việt Nam giai đoạn quý 1 năm 2004 đến quý 2 năm 2012 gồm 5 nhân tố: Tốc độ phát triển GDP, lãi suất tái cấp vốn, tỷ giá hiệu dụng danh nghĩa, giá nhập khẩu, tốc độ phát triển tín dụng. Kết quả khẳng định trong ngắn hạn tỷ giá hối đoái danh nghĩa là nhân tố tác động chính đến lạm phát. Tốc độ phát triển tín dụng có tác động cùng chiều với lạm phát
- 11 trong trung hạn với độ trễ từ 2 đến 10 quý. Sự truyền dẫn của sốc phát triển tín dụng lên tốc độ GDP là cùng chiều và có khuynh hướng làm tăng áp lực lên lạm phát sau 4 quý và kéo dài tới 5 quý tiếp theo. Trong khi đó sốc lãi suất có khuynh hướng ảnh hưởng đến tốc độ phát triển GDP và tốc độ phát triển tín dụng trong ngắn hạn. Phản ứng của lạm phát đối với tăng lãi suất chỉ có ý nghĩa trong 2 quý đầu. Tóm lại, việc xem xét tổng quan các nghiên cứu đã có về các nhân tố quyết định lạm phát ở Việt Nam cho thấy: - Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của tiền tệ, tỷ giá, mức chuyển của giá quốc tế là trái ngược nhau có thể là do các giai đoạn nghiên cứu khác nhau, tần suất lấy số liệu khác nhau và phương pháp ước lượng khác nhau. - Mặt khác, các nghiên cứu đều khá đồng nhất về vai trò quan trọng của lạm phát trong quá khứ và tổng sản lượng GDP/tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp đối với lạm phát hiện tại. Xuất phát từ thực trạng trên, trong nghiên cứu ở phần sau, tác giả sẽ làm rõ vai trò tác động của các yếu tố này.
- 12 PHẦN 3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Khung lý thuyết về lạm phát 3.1.1 Định nghĩa Lạm phát Lạm phát (inflation) là sự tăng lên của mức giá cả chung theo thời gian. Định nghĩa này bao hàm một số nội dung quan trọng sau: Thứ nhất, lạm phát là sự tăng lên của mặt bằng giá nói chung chứ không phải của từng loại giá riêng biệt. Nếu chỉ có giá của một hoặc một số rất ít loại hàng hóa tăng lên thì chưa chắc đã phải là lạm phát vì giá của đông đảo các loại hàng hoá và dịch vụ khác không thay đổi, thậm chí có thể giảm đi. Thứ hai, định nghĩa này không chỉ nói về tình trạng tăng lên hiện tại của mặt bằng giá (lạm phát mở) mà còn bao hàm cả sự tăng lên tiềm năng của mặt bằng giá (lạm phát bị kìm hãm). Thực tế không ít chính phủ trong bối cảnh lạm phát cao đã thực hiện các biện pháp quản lý hành chính nghiêm ngặt để duy trì sự ổn định của giá, nhưng lại dẫn đến nhiều mâu thuẫn khác trong nền kinh tế. Định nghĩa này bao gồm cả trường hợp lạm phát trên; Trong đó giá mặc dù ổn định, nhưng do áp dụng các biện pháp “đông cứng” giá một cách hành chính và nếu không áp dụng các biện pháp này thì giá sẽ tăng lên. Thứ ba, sự tăng lên (hiện tại hoặc tiềm năng) của mặt bằng giá phải có tính dai dẳng. Như vậy nếu sự tăng giá chỉ diễn ra trong một số khoảng thời gian và do một số nguyên nhân khách quan rõ ràng rồi lại giảm xuống khi những nguyên nhân này chấm dứt thì đây chưa phải là lạm phát. Hoặc nếu tại một thời điểm nào đó mà giá tất cả các loại hàng hoá đều đồng loạt tăng lên, nhưng tiếp đến lại ổn định trong một khoảng thời gian dài (nhiều tháng là đủ), thì đây cũng không phải là tình trạng lạm phát. Lạm phát cơ bản (core inflation) hay lạm phát cơ sở (underlying inflation) được các nhà thống kê tìm cách loại trừ đi các biến động nhất thời
- 13 như các cú sốc về giá dầu, yếu tố thời tiết …để thấy được xu hướng cơ bản và ổn định của giá cả. 3.1.2 Cách tính chỉ số lạm phát Về mặt tính toán, lạm phát là phần trăm thay đổi của chỉ số giá chung trong nền kinh tế theo từng giai đoạn, nó có thể là tháng, quí hoặc năm. Tỷ lệ lạm phát cho thời kỳ t được tính theo công thức sau: Trong đó: πt: tỷ lệ lạm phát của thời kỳ t (có thể là tháng, quí, hoặc năm) Pt: mức giá chung của thời kỳ t Pt-1: mức giá chung của thời kỳ trước đó Để đo lường mức giá chung này, các nhà thống kê xây dựng hai chỉ số giá để đo lường. Thứ nhất là chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và thứ hai là GDP điều chỉnh (GDP deflator). Cả hai chỉ số này đều tính toán mức giá trung bình (có trọng số) của toàn bộ hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế. Sự khác biệt duy nhất giữa hai loại chỉ số này là quan điểm của rổ hàng hoá làm trọng số tính toán. CPI là một tỷ số phản ánh giá của một rổ hàng hoá trong nhiều năm so với chính giá của rổ hàng đó ở một năm nào đó. Thống kê gọi đó là năm cơ sở hay năm gốc (based year). Nghĩa là, rổ hàng hoá được lựa chọn để tính giá là không thay đổi trong nhiều năm. Chỉ số giá này phụ thuộc vào năm được chọn làm gốc và sự lựa chọn rổ hàng hoá tiêu dùng. CPI có một số nhược điểm cơ bản. Thứ nhất, mức độ bao phủ của chỉ số giá này chỉ giới hạn đối với một số hàng hoá tiêu dùng và do vậy không phản ảnh biến động giá của hàng hoá tư bản. Thứ hai, trọng số cố định dựa vào tỷ phần chi tiêu đối với một số hàng hoá cơ bản của người dân thành thị mua vào năm gốc và do vậy nó không phải ảnh đúng và đầy đủ những cơ cấu chi tiêu khác
- 14 nhau trong toàn xã hội, đặc biệt ở những xã hội có sự phân tán nông thôn – thành thị. Thứ ba, bởi vì trọng số của rổ hàng hoá là cố định ở một năm “gốc”, do vậy không phản ánh sự biến đổi trong cơ cấu hàng hoá tiêu dùng cũng như sự thay đổi trong phân bổ chi tiêu của người tiêu dùng cho những hàng hoá khác nhau theo thời gian. GDP deflator, thì ngược lại với CPI, là một tỷ số phản ánh giá của một rổ hàng hoá trong nhiều năm so với giá của chính rổ đó nhưng với giá của năm gốc. Như vậy, rổ hàng hoá được lựa chọn để tính giá là có sự khác biệt trong giai đoạn tính toán. Về cơ bản, sự khác biệt giữa các rổ hàng hoá trong các thời điểm tính giá là không nhiều bởi vì cơ cấu tiêu dùng của dân chúng thường mang tính ổn định trong ngắn hạn. GDP deflator là loại chỉ số có mức bao phủ rộng nhất. Nó bao gồm tất cả các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong nền kinh tế và trọng số tính toán được điều chỉnh tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp tương ứng của các loại hàng hoá và dịch vụ vào giá trị gia tăng. Về mặt khái niệm, đây là chỉ số đại diện tốt nhất cho việc tính toán tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ số giá này không phản ánh trực tiếp sự biến động trong giá hàng nhập khẩu cũng như sự biến động của tỷ giá hối đoái. Nhược điểm chính của chỉ số giá này là không thể hiện được sự thay đổi của chất lượng hàng hoá khi tính toán tỷ lệ lạm phát. Hơn nữa, về mặt thống kê chỉ số giá này thường được tính toán chậm hơn so với CPI và có thể phản ảnh trễ diễn biến giá của nền kinh tế vì nó được tính toán căn cứ vào GDP thực và GDP danh nghĩa, mà kết quả thống kê của hai loại GDP này trong nền kinh tế thường được công bố trễ từ một quí đến một năm (tuỳ vào cơ quan thống kê của từng quốc gia). Bởi vì tính chất khác biệt như trên, về mặt lý thuyết, CPI thường phóng đại mức giá sinh hoạt. Còn đối với GDP deflator thì ngược lại, nghĩa là có khuynh hướng đánh giá thấp mức giá này.
- 15 Chính vì sự thiếu hoàn hảo của cả hai chỉ số, một chỉ số trung bình nhân của cả CPI và GDP deflator được đề nghị và gọi là chỉ số Fisher (Fisher Index) theo tên của nhà kinh tế học Irving Fisher. Ba chỉ số trên 1 là giá trị cơ sở, các cơ quan thống kê của các nước có thể ước tính chỉ số giá theo một số đặc điểm khác nhau nhằm phục vụ cho những phân tích khác nhau của nền kinh tế. Ví dụ như chỉ số giá tiêu dùng ở nông thôn, thành thị, chỉ số giá bán buôn, chỉ số giá công nghiệp, chỉ số giá nhập khẩu,… Ngoài ra các quốc gia trên thế giới còn áp dụng chỉ số lạm phát cơ bản (core inflation) hay lạm phát thực (underlying inflation) là một dạng chỉ số biểu hiện sức mua thực sự của đồng tiền vì lạm phát cơ bản đã tìm cách loại trừ biến động giá cả có nguồn gốc không xuất phát từ bản thân nội tại của nền kinh tế; chẳng hạn như những biến động khách quan và thường xuyên xảy ra trong giá sắt thép, xăng dầu, hoặc những biến động thất thường như thảm họa dịch gia cầm, gia súc, những nhân tố vốn đã tác động rất nhiều đến CPI nước ta thời gian qua. Đây là phương pháp tính phổ biến đang sử dụng hiện nay tại nhiều nước. Khi tính chỉ số lạm phát cơ bản, các nhà kinh tế phải loại bỏ các loại hàng hoá mà giá cả của chúng phản ánh sai lệch sự biến động thực của mức giá chung. Các tiêu chí loại bỏ các hàng hoá là: - Các hàng hoá có sự biến động lớn về giá cả; - Các hàng hoá mà giá cả hình thành chủ yếu do các nhân tố cung; - Các loại hàng hoá mà giá cả hình thành do các quy định hành chính; - Những thay đổi giá cả gây nhiễu cho ngân hàng trung ương. So với CPI ban đầu, CPI sau khi loại bỏ đi các yếu tố trên có thể phản ánh chính xác hơn sức mua thực sự của đồng tiền và cho phép có được một 1 Xem Phụ lục 1- Chỉ số giá Laspeyres, Paachase, fisher
- 16 dự báo đáng tin cậy hơn về xu hướng biến động giá chung dài hạn của nền kinh tế. Tuy nhiên, việc sử dụng CPI mới này làm thước đo lạm phát cũng có những hạn chế nhất định, đó là khi loại trừ hoàn toàn ảnh hưởng của một nhân tố nào đó ra khỏi CPI thì thông tin về nhân tố đó sẽ bị triệt tiêu và như vậy thông tin phản hồi từ các tín hiệu thị trường phản ánh trên giá nhân tố đó cũng bị loại trừ. Hơn nữa, CPI tính theo cách này cũng không thể khắc phục được hoàn toàn độ lệch cơ cấu và độ lệch thay thế của CPI. Chính vì vậy mà hiện nay người ta tìm các phương pháp khác để xây dựng các thước đo lạm phát cơ bản dựa trên cơ sở lý thuyết vững chắc hơn. Lạm phát cơ bản cũng chỉ là một chỉ tiêu như các chỉ tiêu đo lường lạm phát khác. Chúng bổ sung cho nhau chứ không phải thay thế, loại trừ nhau. Hiện tại ở Việt Nam chưa tính toán và công bố các chỉ số lạm phát cơ bản. Thước đo lạm phát tổng thể ở Việt Nam được tính toán theo sự thay đổi của chỉ số giá tiêu dùng (CPI). CPI là một chỉ tiêu thống kê phản ánh mức độ biến động qua thời gian về giá cả của các loại hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng. Rổ hàng hóa được sử dụng để tính CPI của Việt Nam hiện nay bao gồm 11 nhóm hàng chính. Việc xây dựng rổ hàng hóa này được dựa trên trên kết quả khảo sát thị trường tại các tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương, kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình và điều tra quyền số CPI do Tổng cục Thống kê thực hiện trong năm 2008. Theo kế hoạch, rổ hàng hóa này được sử dụng trong giai đoạn 2009-2014. Chi tiết về rổ hàng và các tính chỉ số thống kê được trình bày trong Bảng 3.1
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong kinh doanh của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
115 p | 346 | 62
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 27 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 17 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 18 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 5 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 10 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn