intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến thành quả tài chính của các công ty cổ phần Việt Nam

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:123

6
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là đánh giá sự ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến thành quả tài chính của các công ty cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tìm hiểu nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến thành quả tài chính của các công ty cổ phần Việt Nam

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM --------------- HỒ MỸ HÒA NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC TÍNH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ VÀ CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐẾN THÀNH QUẢ TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ Tp.HCM --------------- HỒ MỸ HÒA NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC TÍNH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ VÀ CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐẾN THÀNH QUẢ TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN VIỆT NAM Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã số: 60340201 LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN THỊ HẢI LÝ TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Bản luận văn thạc sĩ kinh tế với đề tài "Nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến thành quả tài chính của các công ty cổ phần Việt Nam" là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi và dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Trần Thị Hải Lý. Các số liệu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy và được xử lý khách quan, trung thực. Các tham khảo dùng trong luận văn đều được trích dẫn rõ ràng Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2013 Học viên thực hiện Hồ Mỹ Hòa
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC CÁC BẢNG DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ TÓM LƯỢC CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ................................................................................ 1 1.1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu. ..................................................................... 1 1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu. .................................................................. 2 1.3. Đối tượng – phạm vi nghiên cứu. ................................................................ 2 1.4. Phương pháp nghiên cứu. ............................................................................ 3 1.5. Tính mới của luận văn: ................................................................................ 4 CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC TÍNH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐẾN THÀNH QUẢ TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN. ........................................................... 5 2.1. Quản trị công ty (Corporate Governance). ................................................... 5 2.2. Đặc tính hội đồng quản trị và thành quả tài chính của công ty ..................... 8 2.3. Cấu trúc sở hữu và thành quả tài chính của công ty ................................... 14 2.4. Quản trị công ty tại Việt Nam.................................................................... 19 CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................ 25 3.1. Mô hình nghiên cứu. ................................................................................. 25 3.1.1. Biến phụ thuộc: thành quả tài chính của công ty ............................. 25 3.1.2. Biến độc lập. ................................................................................... 27 3.1.3. Biến kiểm soát: đặc tính công ty ..................................................... 30 3.1.4. Mô hình nghiên cứu. ....................................................................... 32 3.2. Phát triển các giả thiết nghiên cứu. ............................................................ 34 3.3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 40 CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH – THẢO LUẬN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ......... 44 4.1. Thống kê mô tả các biến độc lập, các biến kiểm soát và biến phụ thuộc. ... 44 4.2. Kiểm định tương quan cặp giữa các biến độc lập và các biến kiểm soát. ... 45
  5. 4.3. Kết quả hồi quy: ........................................................................................ 47 4.5. Thảo luận kết quả. ..................................................................................... 56 CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ................................................................................ 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HĐQT Hội đồng quản trị BKS Ban kiểm soát BĐH Ban điều hành
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1: Tóm tắt các biến nghiên cứu Bảng 3.2: Tóm tắt các giả thiết nghiên cứu Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến Bảng 4.4: Tương quan cặp giữa các biến độc lập và các biến kiểm soát Bảng 4.5: Mối quan hệ ROE và đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu ước lượng bằng 3 mô hình Pool, Fixed effect, Random effect Bảng 4.6: Kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan trên mô hình Fixed effect ước lượng tương quan của biến ROE và các biến độc lập Bảng 4.7: Mối tương quan giữa ROE và đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu ước lượng bằng GLS Bảng 4.8: Mối quan hệ ROA và đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu ước lượng bằng 3 mô hình Pool, Fixed effect, Random effect Bảng 4.9: Kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan trên mô hình Fixed effect ước lượng tương quan của biến ROA và các biến độc lập Bảng 4.10: Mối tương quan giữa ROA và đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu ước lượng bằng GLS Bảng 4.11: Mối quan hệ lnTobin’s Q và đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu ước lượng bằng 3 mô hình Pool, Fixed effect, Random effect Bảng 4.12: Kiểm định phương sai thay đổi và tự tương quan trên mô hình Fixed effect ước lượng tương quan của biến lnTobin’s Q và các biến độc lập Bảng 4.13: Mối tương quan giữa lnTobin’s Q và đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu ước lượng bằng GLS Bảng 4.14: Tóm tắt kết quả nghiên cứu
  8. DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 3.1: Khung lý thuyết của luận văn.
  9. TÓM LƯỢC Dựa vào dữ liệu thu thập 228 công ty cổ phần niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TPHCM và Hà Nội trong giai đoạn 2008 – 2012, luận văn tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến thành quả tài chính của các công ty cổ phần Việt Nam. Thành quả tài chính của công ty được nghiên cứu trong luận văn dựa trên quan điểm kế toán thông qua chỉ số ROE và ROA, dựa trên ban điểm thị trường thông qua chỉ số lnTobin’s Q. Nghiên cứu đã tìm thấy mối quan hệ đa dạng giữa các yếu tố trong đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu. Đối với đặc tính hội đồng quản trị thì độ tuổi có quan hệ thuận chiều với thành quả tài chính, quốc tịch nước ngoài, sự kiêm nhiệm Tổng giám đốc của Chủ tịch hội đồng quản trị có quan hệ nghịch chiều với thành quả tài chính; các yếu tố còn lại như thành phần hội đồng quản trị độc lập, quy mô hội đồng quản trị, trình độ học vấn, sự đa dạng về giới tính có ảnh hưởng hỗn hợp. Đối với cấu trúc sở hữu kết quả nghiên cứu cũng cho thấy cấu trúc sở hữu ảnh hưởng khác nhau lên các thước đo thành quả tài chính công ty.
  10. 1 CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1.1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu. Quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời gian qua đã tạo điều kiện ra đời và phát triển mạnh mẽ loại hình công ty cổ phần và sự phát triển của thị trường chứng khoán, đỉnh cao của thị trường tài chính. Trong bối cảnh đó, việc quản trị các công ty còn nhiều vấn đề mới mẻ không chỉ đối với các nhà quản lý công ty, mà còn đối với các cơ quan quản lý nhà nước và các bên liên quan khác như công chúng đầu tư, các tổ chức tài chính trung gian, các nhà nghiên cứu hàn lâm... Việc áp dụng các nguyên tắc điều hành công ty vào thực tiễn quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, đối với thị trường chứng khoán ở Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn du nhập và phát triển chậm chạp. Trong khi đó, lịch sử phát triển của công ty cổ phần trên thế giới và khoa học chuyên ngành tài chính doanh nghiệp cho thấy việc tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý trong công ty cổ phần một mặt tạo ra tác động tích cực trong việc huy động các nguồn vốn trong xã hội cho các công ty này phát triển hoạt động kinh doanh nhưng mặt khác đã gây ra vấn đề mâu thuẫn về lợi ích của cổ đông và người đại diện (Hội đồng quản trị, Ban điều hành). Tại các nền kinh tế phát triển trên thế giới, các sáng kiến để giải quyết vấn đề này trong hoạt động quản lý công ty cổ phần từ lâu đã hình thành nên các quy tắc quản trị công ty (corporate governance). Các bản quy tắc này đã góp phần tạo ra khung pháp lý, thể chế cho hoạt động điều hành công ty tại các quốc gia này, đồng thời cung cấp các chỉ dẫn và đề xuất cho thị trường chứng khoán, nhà đầu tư, các công ty và các bên khác tham gia vào quá trình phát triển hoạt động điều hành công ty.Có nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm tìm ra trong thực tiễn những yếu tố của quản trị công ty, cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng như thế nào đến thành quả tài chính của công ty như Alexander von Nandelstadh và Matts Rosenberg (2003) nghiên cứu bằng chứng thực nghiệm về cơ chế quản trị và thành quả tài chính công ty tại Phần Lan; Rejie George Pallathitta (2005) nghiên cứu quản trị công ty và thành quả tài chính của các công ty tại Ấn Độ, trong đó phân tích về cấu trúc sở hữu, tái phân phối lợi nhuận, chiến lược đa dạng hóa; Kumudini Heenetigala (2011) cũng đã thực hiện nghiên cứu thực nghiệm quản trị công ty và thành quả tài
  11. 2 chính của các công ty niêm yết tại Sri Lanka; Augustine Ujunwa (2012) tiến hành nghiên cứu đặc tính hội đồng quản trị và thành quả các công ty niêm yết tại Nigeria; Jaana Lappalainen và Mervi Niskanen (2012) đã thực hiện nghiên cứu cấu trúc sở hữu và thành phần hội đồng quản trị tác động đến thành quả doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Phần Lan; và còn nhiều nghiên cứu khác. Tại Việt Nam, mặc dù các quy tắc quản trị công ty này đã du nhập và đã tiến hành áp dụng vào thực tiễn hoạt động của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng vẫn chưa có nhiều những nghiên cứu chuyên sâu vận dụng các lý thuyết, triết lý quản trị công ty vào hoạt động của các công ty cổ phần. Chính vì vậy, rất cần có những nghiên cứu khoa học về ảnh hưởng của các khía cạnh chủ yếu của quản trị công ty (như đặc tính của hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu…) đến thành quả hoạt động của công ty cổ phần, một mặt đóng góp vào hệ thống lý luận về điều hành công ty, mặt khác đề xuất các gợi ý hoàn thiện hoạt động quản trị công ty tại thị trường Việt Nam. Do đó, tác giả quyết định chọn đề tài “Nghiên cứu ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến thành quả tài chính của các công ty cổ phần Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ kinh tế chuyên ngành tài chính doanh nghiệp. 1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu. Mục tiêu nghiên cứu của luận vănlà đánh giá sự ảnh hưởng của đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu đến thành quả tài chính của các công ty cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Câu hỏi nghiên cứu. Đối với các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu có ảnh hưởng như thế nào đến thành quả tài chính của các công ty đó ? 1.3. Đối tượng – phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu.
  12. 3 Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối liên hệ ảnh hưởng giữa đặc tính hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữuvới thành quả tài chính của công ty cổ phần Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu. Phạm vi thời gian: luận văn nghiên cứu các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2012. Phạm vi không gian: Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội. 1.4. Phương pháp nghiên cứu. Với mục tiêu nghiên cứu như trên, luận văn tiến hành kiểm chứng các giả thiết nghiên cứu trong mẫu nghiên cứu. Bằng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng (Pooled, Fixed effect, Random effect) tác giả xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu và đặc tính công ty với thành quả tài chính của công ty cổ phần. Mô hình nghiên cứu xây dựng biến phụ thuộc là thành quả tài chính của công ty cổ phần, các biến độc lập được phân loại thành 3 nhóm: - Đặc tính hội đồng quản trị gồm có các biến: thành phần hội đồng quản trị, quy mô hội đồng quản trị, sự đa dạng của hội đồng quản trị, sự kiêm nhiệm tổng giám đốc của chủ tịch hội đồng quản trị - Cấu trúc sở hữu gồm có các biến: sở hữu công lớn, sở hữu ngoại quốc lớn, sở hữu tư nhân lớn, sở hữu có quyền quản trị - Các biến kiểm soát đặc tính công ty gồm có các biến: quy mô công ty, cấu trúc vốn của công ty, thời gian hoạt động liên tục của công ty trên thị trường Dữ liệu nghiên cứu được thu thập trên 228 công ty cổ phần niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Đây là nhóm các công ty hoạt động liên tục 5 năm từ năm 2008 đến năm 2012 thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau (phi tài chính). Thông tin sử dụng gồm có báo cáo thường niên, báo cáo tài chính, các thông tin được công bố chính thức trên hai sở giao dịch chứng khoán. Đầu tiên tác giả thống kê, mô tảdữ liệu, sau đó tiến hành phân tích hồi quy trên toàn mẫu bằng Pooled, Fixed effect, Random effect. Kiểm định các hệ số
  13. 4 hồi quy, các giả thiết nghiên cứu luận văn, và kiểm định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu. 1.5. Tính mới của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa những nghiên cứu đã thực hiện tại Việt Nam và các nghiên cứu khác trên thế giới, luận văn được thực hiện cố gắng khắc phục những điểm hạn chế của các nghiên cứu trước về số lượng mẫu quan sát được thu thập nhiều hơn (228 công ty) với dữ liệu đầy đủ và liên tục từ năm 2008 đến năm 2012 của các công ty niêm yết trên 2 Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn tập trung nghiên cứu các đặc tính của hội đồng quản trị và cấu trúc sở hữu tác động đến thành quả tài chính của công ty. Chỉ tiêu đo lường thành quả tài chính của công ty được kết hợp 2 chỉ số đo lường hiệu quả tài chính theo phương pháp kế toán là ROA, ROE và và chỉ số đo lường hiệu quả tài chính theo thị trường là Tobin’s Q. Việc xây dựng các biến kiểm soát cũng tập trung vào làm rõ đặc tính công ty qua các biến quy mô vốn, cấu trúc vốn, thời gian hoạt động liên tục phù hợp với đặc thù các công ty niêm yết tại Việt Nam có quy mô vốn khác nhau, cách thức sử dụng nợ khác nhau tùy theo ngành nghề hoạt động của công ty, đặc biệt là tính liên tục cũng khá quan trọng đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán còn non trẻ như Việt Nam.
  14. 5 CHƯƠNG 2: LƯỢC KHẢO LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẶC TÍNH HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ, CẤU TRÚC SỞ HỮU ĐẾN THÀNH QUẢ TÀI CHÍNH CỦA CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN. Trong phần này, luận văn tiến hành lược khảo các lý thuyết về quản trị công ty, trong đó tập trung vào các lý thuyết và kết quả nghiên cứu đã thực hiện trong nước và nước ngoài về mối quan hệ giữa đặc tính hội đồng quản trị, cấu trúc sở hữu và thành quả tài chính của công ty. 2.1. Quản trị công ty (Corporate Governance) Trong nền kinh tế thị trường, khi các công ty ngày càng lớn mạnh và niêm yết tại các thị trường chứng khoán thì một tỷ lệ lớn các cổ đông sẽ nắm giữ cổ phần của công ty. Khi đó sẽ xuất hiện vấn đề “đại diện”, theo như Berle và Means (1932) đã trình bày, khi các công ty niêm yết phát triển và cổ đông của công ty trở nên đa dạng, sự tách biệt giữa cổ đông – chủ sở hữu và đại diện của họ - thành viên hội đồng quản trị cũng lớn thêm, quyền lực được chuyển nhiều hơn sang các thành viên hội đồng quản trị và đôi khi sẽ bị họ lạm dụng. Khi đó làm thế nào để những người đại diện hành động chỉ vì lợi ích của người chủ sở hữu là một vấn đề nan giải. Bên cạnh đó, khi các cổ đông lớn nắm giữ quyền kiểm soát công ty dù không sở hữu 100% vốn thì nếu họ hành xử ngược lại lợi ích của công ty, bản thân họ chỉ phải gánh chịu thiệt hại theo tỉ lệ phần trăm vốn sở hữu. Vấn đề này tồn tại và phát triển cùng các công ty cổ phần ở Hoa Kỳ trong suốt những năm 1920s. Đến những năm 1930s, các công ty cổ phần ở Hoa Kỳ bắt đầu được đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ của các qui định trong đó các nhà quản lý chuyên nghiệp, trong đó chủ yếu là Giám đốc điều hành (Chief Executive Officer - CEO), chịu sự kiểm soát của Hội đồng Quản trị, với các thành viên được lựa chọn hầu như không chịu bất kỳ ảnh hưởng nào từ phía cổ đông. Hệ thống này tồn tại cho đến thập niên 1970s, khi mà vấn đề “đại diện” trở nên gay gắt với sự xuất hiện của lý thuyết đại diện (agency theory) do Jensen và Meckling (1976) đặt nền móng và phát triển trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp. Lý thuyết đại diện đã chỉ rõ: thành viên hội đồng quản trị vì cố gắng tối đa hóa lợi ích của mình mà đưa ra các quyết định gây
  15. 6 tổn hại cho các cổ đông. Động lực của các nhà quản lý gắn kết quá mức với lợi nhuận trong ngắn hạn. Ngoài ra, các nhà quản lý còn bị thôi thúc tập trung vào giá cổ phiếu để tìm kiếm khoản tiền lớn trong trường hợp giá cổ phiếu tăng. Điều này dù làm tăng tinh thần doanh nhân của các nhà quản lý và mang lại chút ít hiệu quả cho công ty, nhưng cũng dẫn tới hệ quả là một số công ty đã có cách hành xử không tốt với người công nhân làm thuê, với môi trường, với khách hàng… Mặt khác, sự liên kết giữa các CEO và các ngân hàng đầu tư đã dẫn tới tình trạng làm giá và thao túng giá cổ phiếu tràn lan trên thị trường chứng khoán giai đoạn cuối thập niên 1990. Chính vì vậy, một mô hình kiểm soát có thể thay thế cho mô hình “tối đa giá trị cổ đông” (shareholders value maximization) đã được tìm kiếm kể từ đó. Trong bối cảnh đó, các quốc gia, tổ chức trên toàn thế giới đã bắt đầu giới thiệu một loạt các văn bản pháp quy và hướng dẫn như là những tập hợp các chuẩn mực quy định hành vi và cơ cấu của hội đồng quản trị của công ty trong việc thực hiện giám sát và vai trò giám sát (Alvaro, 2002). Các bộ quy tắc về quản trị công ty (corporate governance – viết tắt là CG) này được ban hành khắp nơi trên toàn cầu, có thể dẫn chứng như các bộ quy tắc UK Cadbury Code (1992), South Africa King Report (1994), OECD Principles of Corporate Governance (1999, 2001); Russian CG Code, (2002), US Sarbanes-Oxley Act (2002), Nigeria SEC Codes (2009). Mặc dù, các bộ quy tắc được ban hành tại các vùng khác nhau của thế giới với điều kiện cụ thể, đặc thù về văn hóa kinh doanh và môi trường chung của công ty, nhưng các bộ quy tắc này chia sẻ những điểm tương đồng phổ biến về sự cần thiết gắn kết lợi ích của các bên (bên cổ đông và bên quản lý) trong công ty.Cho đến ngày nay, quản trị công ty được xem là một khái niệm lâu đời như các định chế công ty (Bob Tricker, 2009) và được định nghĩa rất phong phú tùy theo góc nhìn của các tác giả, ví dụ: Theo Cadbury (1992) thì “ Quản trị công ty là một quy trình mà theo đó công ty được điều khiển, định hướng và kiểm soát”. Theo OECD (2001) thì “Quản trị công ty đề cập đến các thể chế tư và công, bao gồm luật lệ, quy định và các thể chế đại chúng khác, cùng nhau quản trị mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường, giữa một bên là các giám đốc công
  16. 7 ty và những người chủ công ty, với một bên là những người đầu tư nguồn lực vào công ty”. Theo Bob Monks và Nel Minow (2001) thì “Quản trị công ty là mối quan hệ giữa rất nhiều bên tham gia vào quá trình xác định định hướng và hoạt động của công ty. Những người tham gia trước hết gồm các cổ đông, ban điều hành và hội đồng quản trị”. Trong các cách tiếp cận để định nghĩa về quản trị công ty, hướng tiếp cận được xem là toàn diện nhất là cách tiếp cận bao quát được mọi yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc thực thi quyền lực trong các tập đoàn (Clarke, 2004; Bob Tricker, 2009). Với cách tiếp cận đó, quản trị công ty được định nghĩa “là cách thức cai quản các thực thể công ty, là việc thực thi quyền lực trên các thực thể công ty” (Clarke, 2004; Bob Tricker, 2009). Luận văn này sử dụng định nghĩa mang tính toàn diện trên. Cho đến những năm cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, khi mà thế giới kinh doanh phải đối diện với nhiều khó khăn, khủng hoảng (khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á 1997, khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn 2008 và sau đó là cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới kéo dải cho đến nay…), người ta đã thức tỉnh trước nhu cầu bức thiết về một cơ chế quản trị công ty tốt khi thấy rằng trong 50 năm qua, vai trò và chức năng của quyền sở hữu của công ty, hội đồng quản trị công ty và cơ quan điều hành quản lý đã thay đổi xa hơn những gì được nhận ra. Những bằng chứng nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy các công ty được xếp loại quản trị công ty kém hiệu quả đã mang lại lợi ích cho cổ đông thấp hơn so với các công ty được xếp loại quản trị công ty hiệu quả (Alexander von Nandelstadh và Matts Rosenberg, 2003). Chính vì vậy, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của loại hình công ty cổ phần trên thế giới và những vụ sụp đổ trong những năm cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21 của những công ty cổ phần khổng lồ nổi tiếng một thời như Enron, Lehman Brothers, WorldCom…, quản trị công ty dần dà trở nên một trong những lĩnh vực khoa học kinh tế quan trọng nhất, được nghiên cứu và áp dụng ngày càng rộng rãi để cải thiện thành quả hoạt động của các công ty (Aamir Khan và Sajid Hussain Awan, 2012), trong đó có thành quả tài chính, đặc biệt là các công ty niêm yết trên các thị trường chứng khoán ở các quốc gia.
  17. 8 Khái niệm quản trị công ty tại Việt Nam bắt đầu được ứng dụng rộng rãi kể từ khi Quyết định số 12 của Bộ tài chính ban hành ngày 13/3/2007 về việc ban hành quy chế quản trị công ty cho các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán. Kể từ đó, khái niệm những nguyên tắc lý thuyết cũng như thực tiễn quản trị công ty tại Việt Nam không ngừng được đánh giá và cải thiện. Báo cáo thẻ điểm quản trị công ty đã trình bày về những điểm phát hiện về các công ty niêm yết. "Nhận thức của cổ đông, thành viên hội đồng quản trị và công ty về tính phức tạp của quản trị công ty vẫn còn ở giai đoạn sơ khai. Khảo sát từng khía cạnh trong 5 lĩnh vực cơ bản của quản trị công ty cho thấy đã có sự hiểu biết căn bản, nhưng các chính sách, quy trình và thực tiễn quản trị công ty vẫn chưa đạt được đến mức yêu cầu theo thông lệ tốt nhất" (Tổ chức tài chính quốc tế IFC, Báo cáo thẻ điểm quản trị công ty năm 2009 – trang 71). Các công ty áp dụng điều lệ mẫu một cách rập khuôn, chưa có sự điều chỉnh cho phù hợp với đặc thù từng công ty, các công ty chưa nhận thức quy định của pháp luật về quản trị công ty là những quy định tối thiểu, tùy theo đặc thù của mình các công ty cần phải điều chỉnh thêm để tăng thêm lợi ích cho công ty và các cổ đông. Cổ đông công ty có đầy đủ quyền căn bản đối với hoạt động công ty cũng như trách nhiệm của hội đồng quản trị, tuy nhiên các cổ đông chưa sử dụng hết quyền của mình trong việc yêu cầu thông tin đầy đủ rõ ràng và kịp thời hơn. Các thông tin liên quan đến kiểm toán độc lập, kiểm soát nội bộ, hệ thống quản trị rủi ro của công ty, đánh giá, giám sát lãnh đạo công ty cũng cần được cải thiện hơn, các thông tin này cần được cung cấp cho cổ đông đầy đủ, kịp thời cho cổ đông. Thực trạng thành phần hội đồng quản trị của các công ty đa phần không có thành viên độc lập, do đó việc đóng góp quan điểm độc lập và kỹ năng chuyên môn từ bên ngoài cho công ty bị hạn chế; mặt khác các công ty chưa phân biệt thành viên hội đồng quản trị độc lập và thành viên hội đồng quản trị không điều hành. Cơ chế hoạt động và vai trò của ban kiểm soát cũng cần nâng cao tính minh bạch, cơ chế phối hợp giữa kiểm toán độc lập và ban kiểm soát cũng cần được khuyến khích chặt chẽ hơn, đặc biệt cổ đông đang chuyển vai trò lựa chọn công ty kiểm toán của mình cho hội đồng quản trị, mà theo thông lệ của quản trị công ty cổ đông nên lựa chọn công ty kiểm toán tại đại hội cổ
  18. 9 đông. Chất lượng quản trị công ty có mối liên hệ với tính đa dạng của hội đồng quản trị. Các công ty có số lượng thành viên hội đồng quản trị trung bình là 6,2 người, điểm quản trị công ty cao nhất thuộc về các công ty có số lượng thành viên hội đồng quản trị nhiều hơn là 6,8 người. Về tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị là nữ và thành viên hội đồng quản trị độc lập cũng có mối quan hệ tích cực đối với hiệu quả quản trị công ty tương tư năm 2011, các công ty có điểm quản trị công ty cao đều có số lượng thành viên hội đồng quản trị độc lập và nữ cao hơn các công ty khác. Về tỷ lệ nợ và quản trị công ty, kết quả khảo sát không tìm thấy mối liên hệ này. Tỷ lệ nợ phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, quy mô, vòng đời, chiến lược mà công ty theo đuổi, do đó không có bằng chứng nào về chất lượng quản trị công ty có ảnh hưởng bởi tỷ lệ nợ. Tóm lại, bức tranh về quản trị công ty tại Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn sơ khai và cần phải tiếp tục hoàn thiện. Việc hoàn thiện chất lượng quản trị công ty phải xuất phát từ những yếu tố nền tảng mà các quy chuẩn trên thế giới đang đặt mục tiêu hướng đến, xuất phát từ mục đích nâng cao chất lượng quản trị công ty chính là tối ưu hóa kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Công tác hoàn thiện này phải xuất phát từ tất cả các thành viên trong hội đồng quản trị, ban điều hành, ban kiểm soát, các cổ đông cũng như các bên liên quan đến công ty. Các cơ chế kiểm soát, quản trị rủi ro cũng cần nhanh chóng được hoàn thiện, trong đó cần tăng cường hơn nữa tính đa dạng của hội đồng quản trị, vai trò của các thành viên hội đồng quản trị độc lập nhằm phát huy vai trò độc lập cũng như tiếp thu kinh nghiệm, kiến thức mới, khách quan vào hoạt động quản trị công ty. 2.2. Đặc tính hội đồng quản trị và thành quả tài chính của công ty Một khi quản trị công ty được đặt ra như một lĩnh vực có tính quan trọng ngày một cao thì việc xem xét những đặc tính của hội đồng quản trị là vấn đề có tác động đến thành quả của công ty. Theo The Conference Board, một tổ chức nghiên cứu độc lập có trụ sở đặt tại New York hàng năm đều tiến hành phân tích thành phần, kết cấu của hội đồng quản trị và năng lực chuyên môn của giám đốc đối với các doanh nghiệp
  19. 10 được niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ, việc thiết lập cấu trúc, thành phần của hội đồng quản trị có liên quan đến hiệu quả của kiến trúc kiểm soát. Khi xem xét đặc tính của hội đồng quản trị, người ta chú trọng phân tích thành phần, quy mô, sự đa dạng và sự kiêm nhiệm của chủ tịch hội đồng quản trị. Luật doanh nghiệp của hầu hết các nước đều không phân biệt tính pháp lý giữa các thành viên hội đồng quản trị, tất cả thành viên hội đồng quản trị đều có vai trò và trách nhiệm tương tự nhau. Theo Bob Tricker (2009) thì cần phân biệt rõ khái niệm một thành viên hội đồng quản trị tham gia điều hành là thành viên của hội đồng quản trị cũng đồng thời là giám đốc điều hành của công ty; ngược lại một thành viên hội đồng quản trị không tham gia điều hành là người không nắm giữ bất kỳ vị trí điều hành nào trong công ty. Trong những năm gần đây, người ta đã đúc kết được sự phân biệt sâu hơn giữa những thành viên hội đồng quản trị không tham gia điều hành hoàn toàn độc lập với công ty với những người tuy không tham gia điều hành nhưng vẫn có những mối quan hệ khác với công ty. Thành viên hội đồng quản trị không tham gia điều hành là người mà ngoài quan hệ là thành viên hội đồng quản trị không có một mối quan hệ nào với công ty có thể ảnh hưởng hoặc được coi là có thể gây ảnh hưởng lên việc đưa ra các phán quyết độc lập, khách quan của họ, ngoài việc đạt được các tiêu chuẩn về sự độc lập, thành viên hội đồng quản trị không tham gia điều hành cần phải có khả năng suy nghĩ độc lập, đưa ra quan điểm của mình và nếu cần thiết phải cứng rắn. Trong khi đó, thành viên không tham gia điều hành có quan hệ với công ty là người tuy không phải là thành viên ban điều hành nhưng lại có một số quan hệ nào đó với công ty. Mối quan hệ đó có thể là vì thành viên đó là một giám đốc điều hành đã về hưu của công ty, họ hàng thân thích của chủ tịch hay tổng giám đốc, do cổ đông lớn chỉ định, một đối tác tài chính lớn, hay thậm chí là một chuyên gia cấp cao đã về hưu của công ty kiểm toán độc lập. Có thể có nhiều lý do để bổ nhiệm một người với những kinh nghiệm hay mối quan hệ vào hội đồng quản trị, nhưng cần phải coi họ là những người có quan hệ với công ty chứ không phải là thành viên độc lập. Kết quả nghiên cứu của Brickley và cộng sự (1994) tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập có quan hệ tích cực đến phản ứng của thị trường
  20. 11 chứng khoán. Nghiên cứu của Kyereboah-Coleman and Biekpe (2005) tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập với thành quả của các MFIs tại Ghana. Tuy nhiên, theo Forsberg (1989) thì lại không tìm thấy mối quan hệ nào giữa hai yếu tố này; Hermalin & Weisbach (1991) and Bhagat & Black (2002) cũng tìm thấy mối quan hệ không đáng kể giữa thành phần hội đồng quản trị và hiệu quả hoạt động. Yemack (1996) cũng chỉ ra rằng tỷ lệ thành viên độc lập không có ảnh hưởng đến thành quả hoạt động của công ty và Agrawal & Knoeber (1996) cũng đề nghị rằng việc mở rộng hội đồng quản trị vì nhiều lý do khác nhau dẫn đến có nhiều thành viên độc lập hơn cũng không giúp gia tăng thành quả của doanh nghiệp. Sự đa dạng trong thành phần hội đồng quản trị cũng là một trong những yếu tố gây nhiều tranh cãi trong các nghiên cứu trước đây về quan hệ của hội đồng quản trị đến thành quả hoạt động của công ty. Có hai cách để trình bày về sự đa dạng của hội đồng quản trị, hoặc theo cách quan sát được hoặc nhận thức (không quan sát được). Tuổi, giới tính, dân tộc là các đặc tính thuộc nhóm quan sát được; kỹ năng, kinh nghiệm, trình độ thuộc nhóm nhận thức. Tuy nhiên, không có phương pháp đánh giá duy nhất về tính đa dạng của hội đồng quản trị. Đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Carter và cộng sự (2003), Erhardt và cộng sự (2003) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa tính đa dạng về giới tính, chủng tộc và thành quả tài chính của công ty. Theo Watson và cộng sự (1998) tính đa dạng của hội đồng quản trị giúp gia tăng đổi mới và sáng tạo do đó tạo ra lợi thế cạnh tranh của công ty. Simons và cộng sự (1999) cho rằng cả hai trình độ học vấn và nhận thức của hội đồng quản trị có ảnh hưởng tích cực đến thành quả của tổ chức. Mặt khác tính đa dạng của hội đồng quản trị có thể giải thích thêm cho lý thuyết hành vi của công ty và lý thuyết tín hiệu. Dựa trên lý thuyết hành vi, hội đồng quản trị đa dạng có thể cung cấp thông tin toàn diện hơn và có thể đưa ra quyết định nhanh chóng (Cyert & March, 1963). Amason (1996) tìm thấy những hội đồng không đồng nhất (đa dạng) sẽ ra quyết định có chất lượng cao hơn những hội đồng đồng nhất vì độ rộng thông tin trong hội đồng không đồng nhất cao hơn so với hội đồng đồng nhất. Tuy nhiên, cũng có một vài nghiên cứu cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa tính đa dạng của hội đồng quản trị và hiệu quả tài chính của
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2